Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

NGHIÊN cứu HOẠT ĐỘNG SINH kế và THU NHẬP của NGƯỜI dân tại xã núa NGAM – HUYỆN điện BIÊN – TỈNH điện BIÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (814.26 KB, 79 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
o0o
VÌ THỊ NGHIÊN
NGHIÊN CỨU HOẠT ĐỘNG SINH KẾ VÀ THU NHẬP CỦA NGƯỜI DÂN
TẠI XÃ NÚA NGAM – HUYỆN ĐIỆN BIÊN – TỈNH ĐIỆN BIÊN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Khuyến nông
Lớp : K43 - KN
Khoa : KT & PTNT
Khoá học : 2011 – 2015
Giảng viên hướng dẫn : ThS. Trần Thị Ngọc
Thái Nguyên - 2015
i
LỜI CAM ĐOAN
Đề tài tốt nghiệp: “Nghiên cứu hoạt động sinh kế và thu nhập của
người dân tại xã Núa Ngam – huyện Điện Biên – tỉnh Điện Biên” là công
trình nghiên cứu của bản thân tôi, đề tài đã sử dụng thông tin từ nhiều nguồn
khác nhau, các thông tin có sẵn đã được trích rõ nguồn gốc.
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu đã đưa trong đề tài
này là trung thực và chưa được sử dụng trong bất cứ một công trình nghiên
cứu khoa học nào khác. Các số liệu trích dẫn trong đề tài đều đã được ghi rõ
nguồn gốc.
Thái Nguyên, tháng 05 năm 2015
XÁC NHẬN CỦA GVHD Người viết cam đoan
ThS. Trần Thị Ngọc Vì Thị Nghiên
XÁC NHẬN CỦA GV CHẤM PHẢN BIỆN
(ký, họ và tên)
ii
LỜI CẢM ƠN


Khóa luận tốt nghiệp là thành quả trong suốt quá trình học tập và rèn
luyện của mỗi sinh viên tại giảng đường Đại học, cùng với quãng thời gian
thực tập nghiên cứu tại cơ sở, đó là sự kết hợp giữa lý thuyết và thực hành,
giữa những gì được tiếp thu từ thầy cô, sách vở và thực tiễn tại cơ sở trong
suốt quãng thời gian thực tập.
Bằng cả tấm lòng biết ơn sâu sắc, em xin chân thành cám ơn các thầy
cô giáo, đặc biệt là cô giáo Th.S Trần Thị Ngọc đã tận tình hướng dẫn, giúp
đỡ tạo mọi điều kiện cho em trong suốt quá trình thực tập để em hoàn thành
khóa luận tốt nghiệp của mình.
Em xin chân thành cám ơn Ban giám hiệu trường Đại học Nông Lâm
Thái Nguyên nói chung và Khoa Kinh tế & Phát triển nông thôn nói riêng và
UBND xã Núa Ngam - huyện Điện Biên - tỉnh Điện Biên đã tạo mọi điều kiện
giúp đỡ cho em trong suốt quá trình thực tập.
Do thời gian có hạn cũng như năng lực bản thân còn nhiều hạn chế nên
trong khóa luận không thể tránh khỏi những sai sót. Em kính mong nhận được
sự giúp đỡ, góp ý của các thầy cô giáo cùng toàn thể các bạn để khóa luận của
em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, tháng 5 năm 2015
Sinh viên
Vì Thị Nghiên
iii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 3.1. Số hộ điều tra tại 6 thôn xã Núa Ngam 24
Bảng 4.1. Hiện trạng sử dụng đất đai của xã Núa Ngam qua 3 năm 29
Bảng 4.2. Diện tích cây trồng nông nghiệp của xã Núa Ngam năm 2014 32
Bảng 4.3. Kết quả sản xuất ngành chăn nuôi năm 2014 33
Bảng 4.4. Tình hình dân số và lao động xã Núa Ngam năm 2014 37
Bảng 4.5. Thông tin chung về chủ hộ được điều tra 41

Bảng 4.6. Thông tin các hộ điều tra theo thôn và nhóm hộ 42
Bảng 4.7. Diện tích đất canh tác theo thôn và nhóm hộ 43
Bảng 4.8. Diện tích đất rừng theo thôn và nhóm hộ 44
Bảng 4.9. Diện tích đất thuê mướn trong 12 tháng theo thôn và nhóm hộ 45
Bảng 4.10. Diện tích cây trồng chính qua các năm 46
Bảng 4.11. Diện tích lúa bình quân theo thôn và nhóm hộ 48
Bảng 4.12. Diện tích ngô bình quân theo thôn và nhóm hộ 49
Bảng 4.13. Diện tích sắn bình quân theo thôn và nhóm hộ 50
Bảng 4.14. Tình hình sử dụng lúa làm thức ăn và cho chăn nuôi 51
Bảng 4.15. Tình hình sử dụng cây ngô làm thức ăn và cho chăn nuôi 53
Bảng 4.16. Số đầu vật nuôi tại các thôn tiến hành nghiên cứu 54
Bảng 4.17. Thu nhập bình quân từ nông nghiệp theo thôn và nhóm hộ 56
Bảng 4.18. Bình quân thu nhập từ trồng trọt 58
Bảng 4.19. Bình quân thu nhập từ chăn nuôi 59
iv
DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang
Hình 2.1: Phân tích khung sinh kế của nông dân 12
Hình 2.2: Tài sản của người dân 14
v
DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT TRONG KHÓA LUẬN
STT
Chữ viết tắt
Nghĩa
1
BQ
Bình quân
2
CBKN
Cán bộ khuyến nông

3
CC
Cơ cấu
4
DT
Diện tích
5
ĐVT
Đơn vị tính
6
SL
Sản lượng
7
SK
Sinh kế
8
TB
Trung bình
9
TLSX
Tư liệu sản xuất
10
UBND
Ủy ban nhân dân
vi
MỤC LỤC
Trang
PHẦN 1. ĐẶT VẤN ĐỀ 1
1.1.Tính cấp thiết của đề tài 1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu 2

1.2.1. Mục tiêu tổng quát: 2
1.2.2. Mục tiêu cụ thể…………………………………………………………… 2
1.3. Ý nghĩa của đề tài 3
1.3.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu 3
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn 3
PHẦN 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU 4
2.1. Cơ sở lý luận của đề tài 4
2.1.1. Khái niệm hộ 4
2.1.2. Hộ nông dân 5
2.1.3. Kinh tế hộ nông dân 7
2.1.4. Phân loại hộ nông dân 8
2.1.5. Khái niệm sinh kế nông hộ và những yếu tố ảnh hưởng tới sinh kế nông hộ 10
2.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài 17
2.2.1. Các quan điểm về sinh kế 17
2.2.2. Một số nghiên cứu về sinh kế 18
PHẦN 3. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 21
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 21
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu 21
3.1.2. Phạm vi nghiên cứu 21
3.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 21
3.2.1. Địa điểm nghiên cứu 21
3.2.2. Thời gian nghiên cứu 21
3.4. Nội dung nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu 21
vii
3.4.1. Nội dung nghiên cứu 21
3.4.2. Phương pháp nghiên cứu 22
PHẦN 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 25
4.1. Điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội xã Núa Ngam 25
4.1.1. Điều kiện tự nhiên 25
4.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội 31

4.1.3. Những thuận lợi và khó khăn của xã Núa Ngam 39
4.2. Thực trạng hoạt động sinh kế của người dân tại xã Núa Ngam 41
4.2.1. Một số thông tin chung về nông hộ tại xã 41
4.2.2. Diện tích đất canh tác của hộ và đất rừng 43
4.2.3. Hoạt động sản xuất trồng trọt của nông hộ 46
4.2.4. Tình hình sử dụng cây lương thực chính 51
4.2.5. Hoạt động chăn nuôi của hộ 54
4.3. Thu nhập từ các hoạt động sinh kế của người dân địa phương 56
4.3.1. Thu nhập của các hộ nông dân 56
4.3.2.Thu nhập từ trồng trọt và chăn nuôi 57
4.4. Đề xuất giải pháp sinh kế bền vững nhằm nâng cao đời sống của người dân
địa phương 60
4.4.1. Giải pháp chung 60
4.4.2. Giải pháp cụ thể để phát triển sinh kế đối với xã Núa Ngam 61
PHẦN 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 64
5.1 Kết luận 64
5.2. Kiến nghị 65
TÀI LIỆU THAM KHẢO 68
PHỤ LỤC………………………………………………………………………69
1
PHẦN 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1.Tính cấp thiết của đề tài
Nước ta là một nước nông nghiệp có 66,4% dân số đang sống ở nông
thôn và gần 70% lao động trong lĩnh vực nông nghiệp [16]. Khu vực nông
thôn có khoảng 13 triệu hộ, trong đó có khoảng 11 triệu hộ chuyên sản xuất
nông nghiệp [3]. Là quốc gia đang phát triển với hầu hết dân số sinh sống ở
nông thôn, việc phát triển kinh tế hộ nông dân là giải pháp quan trọng để có
thể xóa đói giảm nghèo, đảm bảo sinh kế bền vững ở nước ta. Trong quá trình
đổi mới chuyển sang cơ chế thị trường ở nước ta, sinh kế bền vững đang là

mối quan tâm đặt lên hàng đầu trong phát triển kinh tế hộ nông dân. Bởi nó là
điều kiện cần thiết cho quá trình phát triển, nâng cao đời sống của con người.
Việc lựa chọn phương thức mưu sinh đối với các hộ nông dân khu vực
đồng bằng đã khó, đối với người nông dân ở khu vực miền núi càng khó khăn
hơn. Do đó, vấn đề đảm bảo nguồn sinh kế lâu dài cho hộ nông dân miền núi
luôn được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm. Đây là việc làm gắn liền với
mục tiêu xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã hội của các vùng dân tộc
thiểu số trên đất nước ta. Chỉ có trên cơ sở đó mới khắc phục được tính tự
cấp, tự túc, thúc đẩy trao đổi hàng hóa và phân công lao động xã hội, hình
thành, mở rộng và hoàn thiện các loại thị trường, nâng cao mức sống, mức thu
nhập cũng như chất lượng sống của dân cư nông thôn ở miền núi.
Núa Ngam là xã vùng ngoài của huyện Điện Biên, cách trung tâm
huyện lỵ Pú Tửu khoảng 20km, là địa bàn sinh sống của hơn 3 nghìn người
dân, với 5 thành phần dân tộc trong đó chủ yếu là đồng bào các dân tộc thiểu
số. Trong những năm đổi mới vừa qua, sự cải thiện điều kiện kinh tế - xã hội
đã thúc đẩy kinh tế của người nông dân ở xã Núa Ngam có những bước tiến
2
mới. Tuy nhiên, các hộ nông dân tại xã Núa Ngam hiện nay vẫn gặp rất nhiều
khó khăn cản trở trong quá trình phát triển như tập quán sản xuất lạc hậu,
thiếu vốn, giao thông đi lại khó khăn, hạn chế về trình độ học vấn, nhận thức,
năng lực sản xuất nên luôn luôn luẩn quẩn trong vòng nghèo đói. Do vậy, vấn
đề đặt ra hiện nay để cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống và giảm
nghèo bền vững cho người dân ở Núa Ngam là phải nâng cao năng lực cho
người dân địa phương trong tiếp cận và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn
sinh kế.
Trước yêu cầu đó, việc nghiên cứu, lý giải một cách đầy đủ có cơ sở lý
luận và thực tiễn vấn đề lựa chọn các hoạt động sinh kế của người dân cũng
như tìm hiểu các nhân tố hỗ trợ và cản trở nông dân tiếp cận các nguồn vốn
sinh kế để đưa ra các giải pháp phù hợp với thực tiễn của địa phương, tạo điều
kiện thuận lợi thúc đẩy các hoạt động sinh kế của người dân phát triển nhanh

và giảm nghèo được bền vững là yêu cầu cấp thiết.
Xuất phát từ tình hình đó, tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên cứu
hoạt động sinh kế và thu nhập của người dân tại xã Núa Ngam – huyện
Điện Biên – tỉnh Điện Biên”.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu tổng quát:
Tìm hiểu, phân tích các hoạt động sinh kế cuả người dân tại xã Núa
Ngam. Qua đó xem xét và rút ra những phương thức, tập quán trong lao động
sản xuất của người dân nhằm tìm ra một số giải pháp khả thi cho chiến lược
sinh kế bền vững phù hợp với điều kiện của người dân tại địa phương.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể:
- Đánh giá điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội xã Núa Ngam.
- Phân tích thực trạng hoạt động sinh kế nông nghiệp và thu nhập của
người nông dân tại xã Núa Ngam.
3
- Đề xuất các giải pháp phát triển các hoạt động sinh kế và tăng thu
nhập cho cộng đồng địa phương.
1.3. Ý nghĩa của đề tài
1.3.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu
- Giúp sinh viên củng cố lại kiến thức lý thuyết đã được học trên lớp.
- Giúp sinh viên va chạm với thực tế, nâng cao năng lực, rèn luyện kỹ năng
và trang bị kiến thức thực tiễn phục vụ cho quá trình công tác sau khi ra trường.
- Là tài liệu cho Nhà trường, Khoa và là tài liệu tham khảo cho các sinh
viên học khóa sau.
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Xác định các hoạt động sinh kế chủ yếu của người dân tại xã Núa
Ngam, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên, đóng góp về cơ cấu thu nhập của các
hoạt động sinh kế nông nghiệp và phi nông nghiệp; đóng góp về thu nhập của
các hoạt động sinh kế nông nghiệp: trồng trọt, chăn nuôi,… để từ đó có các
giải pháp phù hợp cho từng hoạt động sinh kế cụ thể.

- Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể là cơ sở để có những định
hướng, giải pháp phát triển chiến lược cải thiện sinh kế, nhằm góp phần xóa
đói giảm nghèo cho người dân địa phương.
4
PHẦN 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở lý luận của đề tài
2.1.1. Khái niệm hộ
Hộ đã có từ lâu đời, cho đến nay nó vẫn tồn tại và phát triển. Trải qua mỗi
thời kỳ kinh tế khác nhau, hộ và kinh tế hộ được biểu hiện dưới nhiều hình thức
khác nhau song vẫn có bản chất chung đó là “Sự hoạt động sản xuất kinh doanh
của các thành viên trong gia đình cố gắng làm sao tạo ra nhiều của cải vật chất để
nuôi sống và tăng thêm tích luỹ cho gia đình và xã hội” [12].
Qua nghiên cứu cho thấy, có nhiều quan niệm của các nhà khoa học về hộ:
- Theo Weberster – từ điển kinh tế năm 1990: Hộ là những người cùng
sống chung dưới một mái nhà, cùng ăn chung và có chung một ngân quỹ [1].
- Theo Martin năm 1988: Hộ là đơn vị cơ bản liên quan đến sản xuất,
tái sản xuất, đến tiêu dùng và các hoạt động khác [1].
- Theo Raul, năm 1989: Hộ là những người có cùng chung huyết tộc,
có quan hệ mật thiết với nhau trong quá trình sáng tạo ra sản phẩm để bảo
tồn chính bản thân mình và cộng đồng [1].
- Theo Megê năm 1989: Hộ là một nhóm người cùng chung huyết tộc
hoặc không cùng chung huyết tộc ở chung trong một mái nhà và ăn chung
một mâm cơm [1].
- Theo các tác giả nhóm nhân chủng học (1982 – 1985): Hộ là đơn vị
đảm bảo quá trình tái sản xuất lao động tiếp theo trong qua quá trình tổ chức
nguồn thu nhập nhằm chi tiêu cho cá nhân và đầu tư vào sản xuất [1].
Như vậy, các cá nhân và các tổ chức khi nhìn nhận và quan niệm về
hộ không giống nhau. Tuy nhiên trong đó cũng có những nét chung để phân
biệt về hộ, đó là:

5
+ Chung hay không cùng chung huyết tộc (huyết thống và quan hệ
hôn nhân).
+ Cùng chung sống dưới một mái nhà
+ Cùng chung một nguồn thu nhập (ngân quỹ)
+ Cùng ăn chung
+ Cùng tiến hành sản xuất
Đây mới chủ yếu nêu lên những khía cạnh về khái niệm hộ tiêu biểu
nhất, mạnh khía cạnh này hay khía cạnh khác hoặc tổng hợp khái quát chung
nhưng vẫn còn có chỗ chưa đồng nhất. Tuy nhiên, từ các quan niệm trên ta có
thể hiểu về hộ như sau:
- Trước hết, hộ là một tập hợp chủ yếu và phổ biến của những thành viên có
chung huyết thống, tuy vậy cũng có cá biệt trường hợp thành viên của hộ không
phải cùng chung huyết thống (con nuôi, người tình nguyện và được sự đồng ý của
các thành viên trong hộ công nhận cùng chung hoạt động kinh tế lâu dài ).
- Hộ nhất thiết là một đơn vị kinh tế (chủ thể kinh tế), có nguồn lao
động và phân công lao động chung; có vốn và chương trình, kế hoạch sản
xuất kinh doanh chung, là đơn vị vừa sản xuất vừa tiêu dùng, có ngân quỹ
chung và được phân phối lợi ích theo thoả thuận có tính chất gia đình. Hộ
không phải là một thành phần kinh tế đồng nhất, mà hộ có thể thuộc thành
phần kinh tế cá thể, tư nhân, tập thể, Nhà nước
- Hộ không đồng nhất với gia đình mặc dù cùng chung huyết thống bởi
vì hộ là một đơn vị kinh tế riêng, còn gia đình có thể không phải là một đơn vị
kinh tế (ví dụ gia đình nhiều thế hệ cùng chung huyết thống, cùng chung một
mái nhà nhưng nguồn sinh sống và ngân quỹ lại độc lập với nhau,…) [12].
2.1.2. Hộ nông dân
Về hộ nông dân, theo Ellis năm 1988: “Hộ nông dân là hộ có phương tiện
kiếm sống từ ruộng đất, sử dụng chủ yếu lao động gia đình vào sản xuất, luôn
6
nằm trong một hệ thống kinh tế rộng lớn, nhưng về cơ bản được đặc trưng bởi

sự tham gia từng phần vào thị trường với mức độ hoàn hảo không cao” [1].
Ở nước ta, có nhiều tác giả đề cập đến khái niệm hộ nông dân. Theo nhà
khoa học Lê Đình Thắng (năm 1993) cho rằng: “Nông hộ là tế bào kinh tế xã
hội, là hình thức kinh tế cơ sở trong nông nghiệp và nông thôn”. Đào Thế
Tuấn (1997) cho rằng: “Hộ nông dân là những hộ chủ yếu hoạt động nông
nghiệp theo nghĩa rộng, bao gồm cả nghề rừng, nghề cá và hoạt động phi
nông nghiệp ở nông thôn”. Còn theo nhà khoa học Nguyễn Sinh Cúc, trong
phân tích điều tra nông thôn năm 2001 cho rằng: “Hộ nông nghiệp là những
hộ có toàn bộ hoặc 50% số lao động thường xuyên tham gia trực tiếp hoặc
gián tiếp các hoạt động trồng trọt, chăn nuôi, dịch vụ nông nghiệp (làm đất,
thuỷ nông, giống cây trồng, bảo vệ thực vật, ) và thông thường nguồn sống
chính của hộ dựa vào nông nghiệp” [12].
Từ những khái niệm trên đây về hộ nông dân của các tác giả có thể hiểu
như sau:
- Hộ nông dân là những hộ sống ở nông thôn, có ngành nghề sản xuất
chính là nông nghiệp, nguồn thu nhập và sinh sống chủ yếu bằng nghề nông.
Ngoài hoạt động nông nghiệp, hộ nông dân còn tham gia các hoạt động phi
nông nghiệp (như tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ ) ở các mức độ
khác nhau.
- Hộ nông dân là một đơn vị kinh tế cơ sở, vừa là một đơn vị sản xuất
vừa là một đơn vị tiêu dùng. Như vậy, hộ nông dân không thể là một đơn vị
kinh tế độc lập tuyệt đối và toàn năng, mà còn phải phụ thuộc vào các hệ
thống kinh tế lớn hơn của nền kinh tế quốc dân. Khi trình độ phát triển lên
mức cao của công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thị trường, xã hội càng mở rộng
và đi vào chiều sâu, thì các hộ nông dân càng phụ thuộc nhiều hơn vào các hệ
7
thống kinh tế rộng lớn không chỉ trong phạm vi một vùng, một nước. Điều
này càng có ý nghĩa đối với các hộ nông dân nước ta trong tình hình hiện nay.
2.1.3. Kinh tế hộ nông dân
Khái niệm gốc để phân tích kinh tế gia đình là sự cân bằng lao động -

tiêu dùng giữa sự thoả mãn các nhu cầu của gia đình và sự nặng nhọc của lao
động. Sản lượng chung của hộ gia đình hàng năm trừ đi chi phí sẽ là sản
lượng thuần mà gia đình dùng để tiêu dùng, đầu tư sản xuất và tiết kiệm. Mỗi
hộ nông dân cố gắng đạt được một thoả mãn nhu cầu thiết yếu bằng cách tạo
một sự cân bằng giữa mức độ thoả mãn nhu cầu của gia đình với mức độ nặng
nhọc của lao động. Sự cân bằng này thay đổi theo thời gian, theo cân bằng
sinh học, do tỷ lệ giữa người tiêu dùng và người lao động quyết định [12].
J.Harris (1982) trong bài giới thiệu cho cuốn sách “Phát triển nông thôn” đã
phân loại các công trình nghiên cứu về nông thôn, nông dân, nông nghiệp ra
ba xu hướng chính, đó là xu hướng tiếp cận hệ thống, mô hình ra quyết định
và tiếp cận cấu trúc lịch sử.
Vấn đề được tranh luận chủ yếu là, trong quá trình phát triển sản xuất
hàng hoá, xã hội nông thôn phân hoá thành tư bản nông nghiệp, người làm
thuê nông nghiệp hay là người nông dân sản xuất nhỏ, có đất đai, tư liệu sản
xuất kinh doanh bằng lao động gia đình vẫn tồn tại vì có được nông sản rẻ
hơn các nông trại tư bản chủ nghĩa.
Nghiên cứu sự phát triển của nền kinh tế nông dân ở các nước đang
phát triển gần đây Georgescu - Roegen (1960) cho thấy, nông trại nhỏ dùng
lao động cho đến lúc thu nhập ròng xuống đến số không và chủ yếu nhằm
tăng sản lượng của mộ Dandekar (1970) cho rằng có hai kiểu nông dân, một
kiểu sản xuất hàng hoá, chỉ đầu tư lao động đến lúc lãi bằng tiền lương và một
kiểu tự túc, chủ yếu đầu tư lao động nhằm tăng sản lượng đủ sống.
8
Nhiều công trình nghiên cứu (Vergopoulos - 1978), Taussig - 1978 cho
thấy nông trại nhỏ gia đình hiệu quả hơn nông trại lớn tư bản chủ nghĩa, và
chính hình thức sản xuất này có lợi cho chủ nghĩa tư bản hơn vì khai thác
được cao nhất thặng dư lao động ở nông thôn và giữ được giá nông sản thấp.
Hayami và Kikuchi (1981) nghiên cứu sự thay đổi của kinh tế nông thôn
Đông Nam Á và thấy rằng, áp lực dân số trên ruộng đất ngày càng tăng, lãi do
đầu tư thêm lao động ngày càng giảm mặc dù có cải tiến kỹ thuật, nhưng giá

ruộng đất (địa tô) ngày càng tăng.
Năm 1989, Lipton cho rằng trong khoa học xã hội về phát triển nông
thôn hiện nay, phổ biến ba cách tiếp cận, đó là cách tiếp cận macxit phân tích
(Roemer - 1985); tiếp cận cổ điển mới (Krueger, 1974) và tiếp cận hàng hoá
tập thể (Olson, 1982). Ba tiếp cận trên về mặt lý luận, trong thực tiễn đều
thuộc về quan hệ giữa nhà nước và nông dân. Mối quan hệ đó, thường theo
các hướng là tăng thặng dư kinh tế của nông thôn; chuyển thặng dư từ ngành
này sang ngành khác; rút thặng dư và thúc đẩy việc luân chuyển. Nhìn chung
bất cứ một quá trình phát triển nào cũng phải tăng thặng dư, quá trình này cần
sự tác động của Nhà nước.
Tóm lại, có thể thấy kinh tế nông hộ là một hình thức cơ bản và tự chủ
trong nông nghiệp. Nó được hình thành và phát triển một cách khách quan,
lâu dài, dựa trên sự tư hữu các yếu tố sản xuất, là loại hình kinh tế có hiệu
quả, phù hợp với sản xuất nông nghiệp, thích ứng, tồn tại và phát triển trong
mọi chế độ kinh tế xã hội.
2.1.4. Phân loại hộ nông dân
- Căn cứ vào mục tiêu và cơ chế hoạt động gồm có:
+ Hộ nông dân hoàn toàn tự cấp không có phản ứng với thị trường.
Loại hộ này có mục tiêu là tối đa hoá lợi ích, đó là việc sản xuất các sản phẩm
cần thiết để tiêu dùng trong gia đình. Để có đủ sản phẩm, lao động trong nông
9
hộ phải hoạt động cật lực và đó cũng được coi như một lợi ích, để có thể tự
cấp tự túc cho sinh hoạt, sự hoạt động của họ phụ thuộc vào:
- Khả năng mở rộng diện tích đất đai.
- Có thị trường lao động để họ mua nhằm lấy lãi.
- Có thị trường lao động để họ bán sức lao động để có thu nhập.
- Có thị trường sản phẩm để trao đổi nhằm đáp ứng nhu cầu của mình.
+ Hộ nông dân sản xuất hàng hoá chủ yếu: loại hộ này có mục tiêu là
tối đa hoá lợi nhuận được biểu hiện rõ rệt và họ có phản ứng gay gắt với thị
trường vốn, ruộng đất, lao động.

- Theo tính chất của ngành sản xuất hộ gồm có:
+ Hộ thuần nông: là loại hộ chỉ thuần tuý sản xuất nông nghiệp.
+ Hộ chuyên nông: là loại hộ chuyên làm các ngành nghề như cơ khí,
mộc nề, rèn, sản xuất nguyên vật liệu xây dựng, vận tải, thủ công mỹ nghệ,
dệt, may, làm dịch vụ kỹ thuật cho nông nghiệp.
+ Hộ kiêm nông: là loại hộ vừa làm nông nghiệp vừa làm nghề tiểu thủ
công nghiệp, nhưng thu từ nông nghiệp là chính.
+ Hộ buôn bán: ở nơi đông dân cư, có quầy hàng hoặc buôn bán ở chợ.
Các loại hộ trên không ổn định mà có thể thay đổi khi điều kiện cho
phép, vì vậy sản xuất công nghiệp nông thôn, phát triển cơ cấu hạ tầng sản
xuất và xã hội ở nông thôn, mở rộng mạng lưới thương mại và dịch vụ,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn để chuyển hộ độc canh
thuần nông sang đa ngành hoặc chuyên môn hoá. Từ đó làm cho lao động
nông nghiệp giảm, thu hút lao động dư thừa ở nông thôn hoặc làm cho đối
tượng phi nông nghiệp tăng lên [1].
- Căn cứ vào mức thu nhập của nông hộ:
+ Hộ giàu
+ Hộ khá
10
+ Hộ Trung bình
+ Hộ nghèo
+ Hộ đói
Sự phân biệt này dựa vào quy định chung của cả nước hoặc quy định của địa
phương. Trong khóa luận này để đơn giản cho việc điều tra, tôi tiến hành như sau:
+ Nhóm hộ nghèo và cận nghèo: Tại thời điểm tiến hành điều tra nếu
những hộ đã được cấp sổ nghèo và cận nghèo tại thời điểm năm 2014 thì
không tiến hành phân loại lại nhóm hộ.
+ Phân loại hộ theo tiêu chí nghèo, cận nghèo và trung bình, được xếp
hạng theo tiêu chí chuẩn nghèo quốc gia 2011.
2.1.5. Khái niệm sinh kế nông hộ và những yếu tố ảnh hưởng tới sinh kế nông hộ

* Khái niệm sinh kế:
Tập hợp tất cả các nguồn lực và khả năng mà con người có được, kết
hợp với những quyết định và hoạt động mà họ thực thi nhằm để kiếm sống
cũng như để đạt được các mục tiêu và ước nguyện của họ.
Các nguồn lực mà con người có được bao gồm: (1) Vốn con người; (2)
Vốn tự nhiên; (3) Vốn tài chính; (4) Vốn xã hội; (5) Vốn vật chất.
Sinh kế của nông hộ là hoạt động kiếm sống của con người, được thể
hiện qua hai lĩnh vực chính là nông nghiệp và phi nông nghiệp.
Hoạt động nông nghiệp bao gồm: (1) Trồng trọt: lúa, ngô, khoai, sắn,
lạc, cây ăn quả, rau màu,… (2) Chăn nuôi: lợn, gà, trâu, bò,… và (3) Lâm
nghiệp: trồng cây keo, bạch đàn, tre, trồng rừng,…
Hoạt động phi nông nghiệp ở nông thôn bao gồm các dịch vụ, buôn
bán, làm thuê và các ngành nghề khác.
Như vậy, trong phạm vi khóa luận này, sinh kế của người dân nông
thôn được hiểu là các hoạt động sản xuất nông nghiệp để nuôi sống cho chính
gia đình họ. Vì vậy, xây dựng kế hoạch chiến lược cải thiện sinh kế chính là
11
việc xây dựng các thí nghiệm trình diễn hiện trường để góp phần cải thiện
sinh kế địa phương. Qua đó, góp phần phát triển kinh tế và xóa đói giảm
nghèo cho người dân.
 Sự bền vững và khung sinh kế bền vững
Thuật ngữ “sinh kế bền vững” được sử dụng đầu tiên như là một khái
niệm phát triển vào những năm đầu 1990. Tác giả Chambers và Conway (1992)
định nghĩa về sinh kế bền vững như sau: Sinh kế bền vững bao gồm con
người, năng lực và kế sinh nhai, gồm có lương thực, thu nhập và tài sản của
họ. Ba khía cạnh tài sản là tài nguyên, dự trữ, và tài sản vô hình như dư nợ và
cơ hội. Sinh kế bền vững khi nó bao gồm hoặc mở rộng tài sản địa phương và
toàn cầu mà chúng phụ thuộc vào lợi ích ròng tác động đến sinh kế khác. Sinh
kế bền vững về mặt xã hội khi nó có thể chống chịu hoặc hồi sinh từ những
thay đổi lớn và có thể cung cấp cho thế hệ tương lai [3].

Bền vững không có nghĩa sẽ không có gì thay đổi, mà là có khả năng
thích nghi theo thời gian. Tính bền vững là một trong những nguyên tắc cơ
bản của phương pháp sinh kế bền vững.
Một sinh kế được cho là bền vững khi nó phát huy được tiềm năng của
con người để từ đó sản xuất và duy trì phương tiện kiếm sống của họ.Nó phải
có khả năng đương đầu và vượt qua áp lực cũng như các thay đổi bất ngờ.
Sinh kế bền vững không được khai thác hoặc gây bất lợi cho môi
trường hoặc cho các sinh kế khác ở hiện tại và tương lai. Trên thực tế thì nó
nên thúc đẩy sự hòa hợp giữa chúng và mang lại những điều tốt đẹp cho
tương lai (Scoones, 1998) [2].
Sinh kế bền vững, nếu hiểu theo nghĩa này, phải hội tụ đủ những
nguyên tắc sau: Lấy con người làm trung tâm, dễ tiếp cận, có sự tham gia của
người dân, xây dựng dựa trên sức mạnh con người và đối phó với các khả
12
năng dễ bị tổn thương, tổng thể, thực hiện ở nhiều cấp, trong mối quan hệ với
đối tác, bền vững và năng động.
Nguồn: DFID (2003) [13]
Hình 2.1: Phân tích khung sinh kế của nông dân
Và sinh kế bền vững là:
- Sinh kế của một cá nhân, một hộ gia đình, một cộng đồng được xem là bền
vững khi cá nhân, hộ gia đình, cộng đồng đó có thể vượt qua những biến động trong
cuộc sống do thiên tai, dịch bệnh, hoặc khủng hoảng kinh tế gây ra.
- Phát triển hơn nguồn tài sản hiện tại mà không làm ảnh hưởng đến
nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Tự
nhiên
Tài chính

hội
Vật chất

Con người
Bối cảnh
dễ tổn
thương
- Xu
hướng
- Thời vụ
- Chấn
động
(trong tự
nhiên và
môi
trường,
thị
trường,
chính trị,
chiến
tranh…)
Chính sách,
tiến trình và
cơ cấu
- Ở các cấp
khác nhau của
Chính phủ, luật
pháp, chính
sách công, các
động lực, các
qui tắc
-Chính sách và
thái độ đối với

khu vực tư
nhân
- Các thiết chế
công dân,
chính trị và
kinh tế (thị
trường, văn
hoá).
Các chiến
lược SK
- Các tác
nhân xã hội
(nam, nữ, hộ
gia đình,
cộng đồng…)
- Các cơ sở
tài nguyên
thiên nhiên
- Cơ sở thị
trường
- Đa dạng
- Sinh tồn
hoặc tính bền
vững.
Các kết
quả SK
- Thu nhập
nhiều hơn
- Cuộc sống
đầy đủ hơn

- Giảm khả
năng tổn
thương
- An ninh
lương thực
được cải thiện
- Công bằng
xã hội được
cải thiện
- Tăng tính
bền vững của
tài nguyên
thiên nhiên
-Giá trị không
sử dụng của
tự nhiên được
bảo vệ.
Các tài sản sinh kế
kkêkế
Tự
nhiên
Tài chính

hội
Vật chất
Con người
13
- Chiến lược tiếp cận phát triển cộng đồng đặt con người làm trung tâm
của hoạt động phát triển thông qua việc tìm hiểu những vấn đề về kinh tế - xã
hội và quản lý các nguồn tài nguyên dựa trên nền tảng sự phát triển của loài

người. Cụ thể:
+ Bắt đầu bằng việc phân tích các chiến lược sinh kế của người dân,
tìm hiểu xem chiến lược đó thay đổi như thế nào qua thời gian.
+ Lôi cuốn người dân tham gia ở mức độ cao nhất, tôn trọng ý kiến của
họ, đồng thời đưa ra các hoạt động nhằm hỗ trợ người dân đạt được mục đích
phát triển sinh kế của mình.
+ Phân biệt các nhóm khác nhau chịu ảnh hưởng của các chương trình
phát triển và xác định các yếu tố khác nhau chịu ảnh hưởng đến sự tham gia
của họ vào các chương trình đó.
+ Nêu bật tác động của chính sách và cơ cấu thể chế đối với các hộ gia
đình và cộng đồng.
+ Nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tác động đến chính sách và cơ cấu
thể chế nói trên nhằm hỗ trợ cho việc giải quyết các vấn đề của người nghèo.
* Những yếu tố ảnh hưởng tới sinh kế nông hộ
- Chiều hướng gia tăng hoặc giảm sút:
• Xu hướng gia tăng của dân số
• Xu hướng suy thoái của nguồn lực tự nhiên, đặc biệt là rừng tự nhiên
• Xu hướng hoà nhập kinh tế
- Sốc
• Vấn đề bệnh tật ở người
• Mùa màng thất bát do thiên tai và biến động thời tiết, và dịch bệnh
cây trồng vật nuôi
- Tính mùa vụ:
• Giá cả biến động theo mùa vụ
• Sự cung cầu mang tính mùa vụ.
14
 Những tài sản sinh kế
Tiếp cận những sinh kế thì cần tập trung trước hết và đầu tiên với con
người. Nó cố gắng đạt được sự hiểu biết chính xác và thực tế về sức mạnh của
con người (tài sản hoặc tài sản vốn con người) và cách họ cố gắng biến đổi

chúng thành kết quả sinh kế hữu ích.
Nguồn: DFID (2003) [13]
Hình 2.2: Tài sản của người dân
Khung sinh kế xác định năm loại tài sản trung tâm mà dựa vào đó tạo ra
những sinh kế:
- Nguồn vốn con người (Human capital)
- Nguồn vốn xã hội (Social capital)
- Nguồn vốn tự nhiên (Natural capital)
- Nguồn vốn vật chất/vật thể (Physical capital)
- Nguồn vốn tài chính (Financial capital)
Nguồn vốn con người
Nguồn
vốn tự
nhiên
Nguồn vốn
tài chính
Nguồn vốn
vật chất
Nguồn vốn
xã hội
15
Đặc điểm của mô hình năm loại tài sản:
Hình dạng ngũ giác diễn tả khả năng tiếp cận của người dân với các
loại tài sản. Tâm điểm là nơi không tiếp cận được với loại tài sản nào. Các
điểm nằm trên chu vi là tiếp cận tối đa với các loại tài sản.
Những ngũ giác có hình dạng khác nhau có thể được vẽ cho cộng đồng
khác nhau hoặc cho những nhóm xã hội khác nhau trong cộng đồng đó.
Một tài sản riêng lẻ có thể tạo ra nhiều lợi ích. Nếu một người có thể
tiếp cận chắc chắn với đất đai (tài sản tự nhiên), họ cũng có thể có được
nguồn tài chính vì họ có thể sử dụng đất đai không chỉ cho những hoạt động

sản xuất trực tiếp mà còn cho thuê. Tương tự như vậy, vật nuôi (tài sản hữu
hình), có thể tạo ra nguồn vỗn xã hội (uy tín và sự liên hệ với cộng đồng) cho
người sở hữu chúng…
Phẩm chất tài sản thay đổi thường xuyên vì vậy ngũ giác cũng thay đổi
liên tục theo thời gian.
 Mối quan hệ trong khung
Tài sản và bối cảnh dễ bị tổn thương: Tài sản có thể vừa bị phá hủy vừa
được tạo ra thông qua các biến động của hoàn cảnh.
Tài sản và sự tái cấu trúc và thay đổi quy trình thể chế: Thể chế, chính
sách và sự chuyển dịch cơ cấu, quy trình sản xuất có ảnh hưởng sâu sắc đến
khả năng tiếp cận tài sản.
Tạo ra tài sản: Chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cơ bản (nguồn
vốn hữu hình) hoặc phát minh kỹ thuật (nguồn vốn con người) hoặc sự tồn tại
của những thể chế địa phương làm mạnh lên nguồn vốn xã hội.
Xác định cách tiếp cận tài sản: quyền sở hữu, những thể chế điều chỉnh
cách tiếp cận đối với những nguồn tài nguyên phổ biến.
Ảnh hưởng tỉ lệ tích lũy tài sản: ví dụ, chính sách thuế ảnh hưởng đến
doanh thu của những chiến lược sinh kế,…
16
Tuy nhiên, đây không phải là mối quan hệ đơn giản, những cá nhân và
những nhóm cũng ảnh hưởng lên sự tái cấu trúc và thay đổi quy trình thể chế.
Nói chung, tài sản càng được cung ứng cho người dân thì họ sẽ sử dụng càng
nhiều. Vì vậy, một cách để đạt được sự trao quyền có thể là hỗ trợ cho người
dân xây dựng những tài sản của họ.
Tài sản và những chiến lược sinh kế: những ai có nhiều tài sản có
khuynh hướng sử dụng nhiều lựa chọn lớn hơn và khả năng chuyển đổi giữa
nhiều chiến lược để đảm bao sinh kế của họ.
Tài sản và những kết quả sinh kế: Khả năng người dân thoát nghèo phụ
thuộc chủ yếu vào khả năng tiếp cận của họ đối với những tài sản. Những tài
sản khác nhau cần để đạt được những kết quả sinh kế khác nhau.

Ví dụ:
Thu nhập nông hộ phụ thuộc vào đầu tư các yếu tố sản xuất chính như:
diện tích đất đang sử dụng, số lao động trong gia đình, giá trị của tài sản cố
định ngoài đất đai, có điều kiện tiếp cận thủy lợi dễ dàng và áp dụng giống lúa
mới. Tất cả các yếu tố trên đóng góp vào gia tăng năng suất đất đai và thu
nhập của nông hộ. Sự gia tăng năng suất nông nghiệp có thể gián tiếp ảnh
hưởng lên lĩnh vực phi nông nghiệp bằng sự gia tăng thặng dư từ lúa gạo và
như vậy tạo ra cơ hội việc làm trong lĩnh vực chế biến ở nông thôn, thương
mại và các hoạt động vận chuyển. Từ đó, có thể đóng góp trực tiếp làm thu
nhập nông nghiệp lớn hơn.Sự phát triển tài nguyên nhân lực tùy thuộc vào
trình độ của hộ, có thể góp phần làm tăng năng suất lao động các hoạt động
phi nông nghiệp, từ đó thu nhập nông hộ gia tăng. Giáo dục cũng tạo cơ hội
nghề nghiệp cho thành phần lao động gia đình thủ công, năng suất thấp (chủ
yếu trong lĩnh vực nông nghiệp và các hoạt động xây dựng) chuyển sang các
hoạt động ngoài nông nghiệp như: thương mại và dịch vụ. Tình trạng cơ sở hạ
tầng cũng đóng góp tích cực vào thu nhập thông qua giá cả của đầu vào, đầu
17
ra trong lĩnh vực thương mại và qua việc gia tăng cơ hội làm tăng thu nhập
trong lĩnh vực phi nông nghiệp ở nông thôn. Ngoài nguồn vốn tiết kiệm của
gia đình, tiếp cận tín dụng làm tăng thêm vốn cũng làm tăng thêm thu nhập
của hộ.
Cơ cấu hay cấu trúc thu nhập sinh kế (tỷ lệ phần trăm của thu nhập
sinh kế) của nông hộ là sự đóng góp được lượng hóa theo phần trăm thu nhập
của sinh kế đó đối với tổng thu nhập nông hộ. Cụ thể đóng góp về thu nhập
của một nông hộ chủ yếu là thu nhập từ nông nghiệp và một phần đóng góp từ
phi nông nghiệp. Trong thu nhập về nông nghiệp thì đóng góp chính là thu
nhập từ trồng trọt và thu nhập từ chăn nuôi, ngoài ra còn đóng góp của thu
nhập từ lâm nghiệp, thu nhập từ thủy sản,… Nền nông nghiệp nước ta hiện
nay đóng góp chính vẫn là thu nhập từ trồng trọt, Đảng và Nhà nước ta đặt ra
mục tiêu giảm tỷ trọng thu nhập từ trồng trọt, tăng tỷ trọng thu nhập từ chăn

nuôi để thay đổi và chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp. Do đó, việc
phân tích được đóng góp của thu nhập đối với các hoạt động sinh kế để thấy
được hiện trạng sinh kế nông hộ, từ đó đưa ra giải pháp phát triển sinh kế bền
vững, nâng cao chất lượng cuộc sống của nông hộ, góp phần vào sự phát triển
chung của đất nước, có một ý nghĩa quan trọng, đó cũng là một trong những
điểm mới trong cách tiếp cận phân tích hoạt động sinh kế mà khóa luận này
đã đem lại.
2.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài
2.2.1. Các quan điểm về sinh kế
Sinh kế là một đề tài được nhiều nơi trên thế giới quan tâm, đặc biệt
trong bối cảnh hiện nay người nông dân chịu sự tác động lớn từ công nghiệp
hóa – hiện đại hóa, sự tác động của các khu công nghiệp, sự chênh lệch giàu
nghèo, hội nhập kinh tế, sự biến đổi khí hậu và nhiều yếu tố khác.

×