Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

NHẬN xét kết QUẢ điều TRỊ BỆNH NHÂN BỎNG NẶNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (503.29 KB, 6 trang )

Y học thực hành (884) - số 10/2013




77

NHẬN XÉT KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ BỆNH NHÂN BỎNG NẶNG

Nguyễn Viết Lượng,
Nguyễn Thùy Vân

TÓM TẮT
Nghiên cứu hồi cứu trên 746 bệnh án bệnh nhân
bỏng nặng được điều trị tại khoa Hồi sức cấp cứu
trong hai năm 2011, 2012. Bệnh nhân bỏng nặng được
xác định dựa theo phân loại mức độ bỏng của Hội
Bỏng Hoa Kỳ (1984). Nghiên cứu hồi cứu, theo dõi dọc
trên những tiêu chuẩn đã định. Tuỳ theo mục đích
đánh giá, BN nghiên cứu được chia ra làm các nhóm
để so sánh, phân tích rút ra nhận xét. Kết quả: Tỷ lệ
tử vong chung là 24,66%, thời điểm tử vong cao nhất
là từ 4 - 15 ngày sau khi bị bỏng. Số bỏng làm tăng tỷ
lệ tử vong, ở nhóm bệnh nhân có sốc bỏng, tỷ lệ tử
vong là 25,94% so với tỷ lệ tử vong ở nhóm không có
sốc là 16,99%. Các biến chứng xuất hiện làm tăng tỷ lệ
tử vong: rối loạn đông máu nặng (53,90%), suy thận
(84,57%), suy đa tạng (94,63%), nhiễm khuẩn huyết
(47,50%), phế quản, phế viêm (26%), xuất huyết tiêu
hoá (63,64%), sốc nhiễm khuẩn (61,72%). Càng nhiều
biến chứng trên một bệnh nhân thì tỷ lệ tử vong càng


cao. Kết luận: Tỷ lệ tử vong chung là 24,66%. Tỷ lệ tử
vong tăng cao hơn ở nhóm bệnh nhân sốc bỏng và có
biến chứng sau bỏng. Bệnh nhân càng có nhiều biến
chứng thì tỷ lệ tử vong càng cao.
Từ khóa: Tỷ lệ tử vong, sốc bỏng, biến chứng
bỏng.
SUMMARY
The retrospective study was conducted on severe
burn patients within period 2011 - 2012 at ICU -
National Institute of Burns. Serverity burn patients were
classified following the burn degree of ABA(1984).
Patients were devide into small groups belong to
preset criteria, collecting and procesing data to find the
results. Results: The common death ratio is 24.66%,
the time of highest death rate is period from 5 to 15
days after burn. Complications after burn make the
death ratio increase. Death ratio is higher in the patient
group with has more complication and burn shock.
Keywords: death ratio, burn shock, burn
complications.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bỏng là một chấn thương thường gặp cả trong thời
bình và thời chiến. Theo Lê Thế Trung (2003), bỏng
chiếm 5 – 10% chấn thương ngoại khoa trong thời
bình, còn trong chiến tranh, tỷ lệ bỏng khoảng 5 – 10%
tổng số thương binh, khi chiến tranh có sử dụng vũ khí
hạt nhân thì tỷ lệ bỏng tăng lên 70 – 89% tổng số nạn
nhân. Tại Anh, hàng năm có khoảng 140.000 người, ở
Nga có khoảng 170.000 người bị bỏng, tại Pháp, hàng
năm có khoảng 150.000 người bị bỏng, trong đó 7500

bệnh nhân cần được điều trị tại các bệnh viện. Tại Việt
Nam, số lượng bệnh nhân bỏng được thu dung điều trị
cũng không ngừng tăng lên.
Nghiên cứu về biến chứng và nguyên nhân tử vong
là công việc cần thiết, cần tiến hành một cách thường
xuyên, nhằm xác định những đặc điểm diễn biến bệnh
lý, cũng như những biện pháp cứu chữa kịp thời và hiệu
quả trong công tác cứu chữa bệnh nhân bỏng. Bên
cạnh đó, việc đánh giá khả năng cứu sống bệnh nhân
bỏng nặng giúp chúng ta tiên lượng tình trạnh bệnh
nhân tốt hơn, nắm được khả năng cứu chữa và điều trị
hiện tại của cơ sở. Tất cả nhằm mục đích cứu sống
nhiều hơn nữa bệnh nhân bỏng nặng, nâng cao chất
lượng điều trị, giảm biến chứng và di chứng sau bỏng.
Mục tiêu nghiên cứu:
1. Nhận xét kết quả điều trị bệnh nhân bỏng nặng
tại khoa hồi sức cấp cứu Viện Bỏng Quốc gia trong
giai đoạn 2011- 2012.
2. Nhận xét các biến chứng và nguyên nhân tử
vong trên bệnh nhân bỏng nặng.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
Gồm 746 BN bỏng nặng, được điều trị tại khoa Hồi
sức cấp cứu (HSCC) – Viện Bỏng Quốc gia (VBQG),
trong 2 năm: Từ tháng 01 năm 2011 đến tháng 12
năm 2012.
* Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân nghiên cứu:
- Bệnh nhân bỏng nặng được điều trị tại khoa
HSCC (VBQG) từ tháng 01 năm 2011 đến tháng 12
năm 2012.

BN bỏng nặng được xác định dựa theo phân loại
mức độ bỏng của Hội Bỏng Hoa Kỳ (1984):
- Bệnh án được lưu trữ tại thư viện VBQG.
* Tiêu chuẩn loại trừ:
- BN tuy được điều trị tại khoa ĐTTC, nhưng không
nằm trong nhóm bỏng nặng theo tiêu chuẩn kể trên.
- Bệnh án không còn được lưu trữ tại thư viện
VBQG.
2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu hồi cứu, theo dõi dọc trên những tiêu
chuẩn đã định.
Tuỳ theo mục đích đánh giá, BN nghiên cứu được
chia ra làm các nhóm để so sánh, phân tích rút ra
nhận xét.
Số liệu thu thập được tính ra giá trị trung bình hay
tỷ lệ % (biểu thị bằng
X
 SD, với khoảng tin cậy
95%), phân tích bằng chương trình SPSS version 20.0
theo thuật toán 2 hoặc t-student. Giá trị p < 0,05
được coi là có ý nghĩa thống kê.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Đặc điểm bệnh nhân nghiên cứu
Bảng 1. Đặc điểm bệnh nhân nghiên cứu
Đặc điểm Giá trị trung bình Min - Max
Thời gian vào viện (h) 24,67 ± 20,15 1 - 154
Tuổi (năm) 24,61 0,5 - 98
Diện tích bỏng (%) 41,03 12 - 98
Diện bỏng sâu (%) 17,27 0 - 90


Y học thực hành (884) - số 10/2013




78

Bỏng hô hấp (n,%) 326 (43,70)
Bỏng đường tiêu hóa 11 (1,47)
Tỷ lệ nam/nữ 510/236
Diện tích bỏng chung và bỏng sâu trung bình ở
mức khá cao. Bệnh nhân có bỏng hô hấp chiếm tỷ lệ
cao (43,70%). Bệnh nhân nam gặp nhiều hơn BN nữ
trong nghiên cứu của chúng tôi.
Chi tiết đặc điểm BN nghiên cứu theo giới tính,
lứa tuổi
Tỷ lệ BN nam nhiều hơn BN nữ ở tất cả mọi lứa
tuổi.
Bệnh nhân lứa tuổi lao động (16 - 60 tuổi) chiếm
tỷ lệ cao nhất (55,4%).
Tác nhân gây bỏng
- Trẻ em: nhiệt ướt là tác nhân gây bỏng chủ yếu
(78,49%).
- Người lớn và người già: nhiệt khô là tác nhân
gây bỏng hàng đầu (69,73% và 92,59%).
- Bỏng do điện cao thế chiếm một tỷ lệ đáng kể
(12,33%) trong đó chủ yếu ở lứa tuổi lao động.

Biểu đồ 1. Phân bố bệnh nhân theo tác nhân gây bỏng
2. Các biến chứng sau bỏng và mối liên quan

giữa bỏng và các biến chứng. Bảng 2.
Biến chứng (n, %) Số lượng Tỷ lệ %
Sốc bỏng 640/746 85,79
Suy đa tạng 181/746 24,26
Suy thận cấp 162/746 21,72
ARDS 141/746 18,90
Sốc nhiễm khuẩn 128/746 17,16
Nhiễm khuẩn huyết 40/746 5,36
Xuất huyết tiêu hóa 11/746 1,47

Gặp khá nhiều biến chứng nặng trong nhóm bệnh
nhân nghiên cứu, biến chứng gặp nhiều nhất là sốc
bỏng (chiếm 85,79%) trong tổng số bệnh nhân bỏng
được nghiên cứu.
Biến chứng ở bệnh nhân bỏng hô hấp (n =
326)
Ở những BN có bỏng hô hấp, tỷ lệ sốc bỏng gặp
rất cao (93,56%) cao hơn so với tỷ lệ sốc bỏng ở các
BN không có bỏng hô hấp (79,76%) sự khác biệt có ý
nghĩa (p<0,05).
Ở những BN có bỏng hô hấp, tỷ lệ các biến
chứng khác gặp cũng khá cao và cao hơn hẳn nhóm
BN không có bỏng hô hấp, sự khác biệt có ý nghĩa
(p<0,05). Nói cách khác bỏng hô hấp đã làm tăng
nguy cơ của các biến chứng sau bỏng.
Kết quả cấy khuẩn máu (n =746)
Số lượng BN cấy khuẩn máu có mọc vi khuẩn
chiếm tỷ lệ thấp (5,36%) so với tổng số BN được cấy
máu. Hai loại vi khuẩn gây nhiễm khuẩn huyết gặp
nhiều đó là trực khuẩn mủ xanh và tụ cầu vàng.

Các yếu tố liên quan đến sốc nhiễm khuẩn (n =
128)
Chỉ số trung bình của tuổi; diện tích bỏng chung;
diện tích bỏng sâu ở nhóm BN có sốc nhiễm khuẩn
cao hơn so với nhóm BN không có sốc nhiễm khuẩn,
khác biệt có ý nghĩa (p< 0,001). Ở nhóm BN có sốc
nhiễm khuẩn tỷ lệ bỏng hô hấp (60,94 %) cao hơn
hẳn so với nhóm không có sốc nhiễm khuẩn (8,09%),
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,001). Nói cách
khác ở nhóm BN bị bỏng hô hấp, tỷ lệ gặp biến
chứng sốc nhiễm khuẩn cao hơn nhiều so với nhóm
BN không bị bỏng hô hấp.
Các yếu tố liên quan đến biến chứng suy thận
cấp (n = 162)
Chỉ số trung bình của tuổi; diện tích bỏng chung;
diện tích bỏng sâu ở nhóm BN có suy thận cấp cao
hơn hẳn so với nhóm BN không có biến chứng suy
thận cấp, sự khác biệt có ý nghĩa (P<0,001).
Ở nhóm BN có suy thận cấp, tỷ lệ có bỏng hô hấp
(77,16%) cao hơn nhiều so với nhóm BN không có
suy thận cấp (34,42%), sự khác biệt có ý nghĩa
(p<0,001). Nói cách khác, ở nhóm BN bị bỏng hô hấp
tỷ lệ biến chứng suy thận cấp cao hơn so với nhóm
BN không bị bỏng hô hấp.
Nhóm BN có suy thận cấp, chỉ số glucose máu
trung bình cao hơn so với nhóm BN không có suy
thận cấp, sự khác biệt có ý nghĩa (p<0,001).
Các yếu tố liên quan đến hội chứng ARDS (n =
141)
Chỉ số trung bình của: tuổi; diện tích bỏng chung;

diện tích bỏng sâu ở nhóm BN có ARDS cao hơn hẳn
so với nhóm BN không có ARDS, sự khác biệt có ý
nghĩa (P<0,001).
Ở nhóm BN có ARDS, tỷ lệ có bỏng hô hấp
(75,89%) cao hơn nhiều so với nhóm BN không có
ARDS (36,20%), sự khác biệt có ý nghĩa (p<0,001).
Nói cách khác, ở nhóm BN bị bỏng hô hấp tỷ lệ biến
chứng ARDS cao hơn nhiều so với nhóm BN không
bị bỏng hô hấp.
Nhóm BN có ARDS, chỉ số glucose máu trung
bình cao hơn so với nhóm BN không có ARDS, sự
khác biệt có ý nghĩa (p<0,001).
3. Kết quả điều trị và các yếu tố liên quan đến
tử vong


Biểu đồ 2. Kết quả điều trị bệnh nhân bỏng nặng

Có tổng cộng 746 BN bỏng nặng được điều trị tại
khoa Hồi sức cấp cứu, Viện Bỏng Quốc gia trong hai
năm 2011, 2012. Tỷ lệ tử vong chung là 24,66 %.
Bảng 3. Tỷ lệ tử vong theo giới tính
Khỏi Tử vong Kết quả ĐT

Giới
n % n %
Cộng
n (%)
Y học thực hành (884) - số 10/2013





79

Nam 371 72,75 139 27,25 510 (68,36)

Nữ 191 80,93 45 19,07 236 (31,64)

Tổng cộng

562 75,34 184 24,66 746
(100,00)
p P = 0,016 < 0,05
Tỷ lệ tử vong ở nhóm BN nam cao hơn đáng kể
so với nhóm BN nữ, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
(27,25% so với 19,07%; p< 0,05).
Tỷ lệ tử vong theo nhóm tuổi
Tỷ lệ tử vong tăng dần theo nhóm tuổi, từ 8,24%
ở nhóm trẻ em, tăng lên 32,2% ở người lớn và 51,9%
ở người già. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với
p<0,05.
Thời điểm tử vong
Tử vong từ ngày thứ 4 đến ngày thứ 15 sau bỏng
chiếm tỷ lệ cao nhất (50%) trong tổng số bệnh nhân
tử vong.
Bảng 4. Liên quan kết quả điều trị với diện tích
bỏng chung
Kết quả điều trị
Khỏi Tử vong

Diện bỏng
chung
(%DTCT)

Số
BN
n % n %

p
10 - 19% 97 83 85,56 14* 16,44
20 – 29% 133 125 93,98 8 6,02
30 – 39% 175 163 93,14 12 6,86
40 – 49% 110 91 82,72 19 17,28
50 – 59% 67 40 59,70 27 40,30
60 – 69% 50 32 64,00 18 36,00
70 – 79% 44 18 40,90 26 59,10
80 – 89% 34 7 20,58 27 79,42
90 – 100% 36 3 8,33 33 91,67
Cộng 746 562 75,34 184 24,66






< 0,05


Ghi chú: (*) 6 bệnh nhân bỏng tiêu hóa kết hợp bỏng
da nằm trong nhóm này, có 3 bệnh nhân tử vong.

Có sự liên quan giữa diện tích bỏng chung và tỷ lệ
tử vong, bỏng càng rộng thì tỷ lệ tử vong càng cao (p
< 0,01).
Bảng 5. Liên quan kết quả điều trị với diện tích
bỏng sâu
Kết quả điều trị
Khỏi Tử vong
Diện bỏng
sâu
(%DTCT)

Số
BN
n % n %

p
Bỏng nông 149 135 90,60 14 9,40
1 – 9% 165 155 93,93 10 6,07
10 – 19% 172 154 89,53 18 10,47
20 – 29% 86 59 68,60 27 31,40
30 – 39% 56 23 41,07 33 58,93
40 – 49% 46 20 43,47 26 56,53
50 – 59% 36 11 30,55 25 69,45
60 – 69% 17 3 17,64 14 82,36
70 – 79% 11 1 9,09 10 90,91
 80% 8 1(*) 12,50 7 87,50
Bỏng sâu 597 427 71,52 170 28,48
Tổng cộng 746 562 75,34 184 24,66



P<
0,05


Ghi chú: (*) Diện bỏng sâu lớn nhất điều trị khỏi là
80% DTCT.
Nhận xét: Nhóm bệnh nhân bị bỏng sâu có tỷ lệ tử
vong cao hơn đáng kể so với nhóm bệnh nhân không
có bỏng sâu, đồng thời diện bỏng sâu càng lớn thì tỷ
lệ tử vong càng cao (p < 0,01)
Liên quan giữa diện tích bỏng trung bình và
kết quả điều trị
Có mối liên quan chặt chẽ giữa diện tích bỏng chung
và bỏng sâu trung bình giữa nhóm BN tử vong và nhóm
BN được điều trị khỏi. Nói cách khác BN có diện tích
bỏng chung và bỏng sâu càng lớn, tỷ lệ tử vong càng
cao và ngược lại, khác biệt có ý nghĩa (p<0,001).
Liên quan kết quả điều trị với tác nhân gây
bỏng
Bỏng do nhiệt khô có tỷ lệ tử vong cao nhất
(36,30%) sau đó là bỏng hoá chất (vôi tôi nóng -
24,70%).
Liên quan kết quả điều trị với bỏng hô hấp,
bỏng tiêu hóa
Tỷ lệ tử vong ở nhóm BN có bỏng hô hấp kết hợp
(33,13%) cao hơn đáng kể so với nhóm BN chỉ có
bỏng da đơn thuần (10,96%), sự khác biệt có ý nghĩa
(p < 0,05). Tỷ lệ tử vong ở nhóm BN có bỏng đường
tiêu hoá (27,28%) cao hơn tỷ lệ tử vong chung
(24,66%).

Liên quan kết quả điều trị với bệnh kết hợp,
tổn thương kết hợp
Tỷ lệ tử vong ở nhóm BN có bệnh lý kết hợp và
chấn thương kết hợp cao hơn tỷ lệ tử vong ở nhóm
BN không có bệnh lý và chấn thương kết hợp, sự
khác biệt có ý nghĩa (p < 0,05).
Liên quan kết quả điều trị với sốc bỏng
Tỷ lệ tử vong ở nhóm BN có sốc bỏng cao hơn so
với nhóm BN vào viện không có sốc bỏng (25,94% so
với 16,99%), sự khác biệt có ý nghĩa (p < 0,05).
Liên quan kết quả điều trị với biến chứng
nhiễm khuẩn huyết
Tỷ lệ tử vong ở nhóm BN có nhiễm khuẩn huyết
(47,50%) cao hơn nhiều so với tỷ lệ tử vong ở nhóm
BN không có nhiễm khuẩn huyết (23,38%), sự khác
biệt có ý nghĩa (p < 0,05). Trong các BN nhiễm khuẩn
huyết, nhóm BN nhiễm khuẩn huyết trực khuẩn mủ
xanh có tỷ lệ tử vong cao nhất (56,25%).
Bảng 6. Liên quan kết quả điều trị với biến chứng
suy thận cấp
Kết quả điều trị
Khỏi Tử vong Biến chứng
Số
BN
n % n %
p
Có 162 25 15,43

137


84,57
Không

584

537

91,95

47 8,05
Suy
thận
Cộng 746

562

75,34

184

24,66
<
0,05

R 114

22 19,29

92 80,71
I 35 4 11,42


31 88,58
F 10 1 10,00

9 90,00
Mức
độ
suy
thận
L 3 0 0,00 3 100,00

<
0,05
Tỷ lệ tử vong ở nhóm BN có biến chứng suy thận
cấp (84,57%) cao hơn nhiều so với tỷ lệ tử vong ở
nhóm BN không có biến chứng suy thận cấp (8,05%),
khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Mức độ suy
thận cấp càng nặng thì tỷ lệ tử vong càng cao, sự
khác biệt có ý nghĩa (p<0,05)
Liên quan kết quả với biến chứng ARDS
Tỷ lệ tử vong ở nhóm BN có biến chứng ARDS
(85,79%) cao hơn nhiều so với tỷ lệ tử vong ở nhóm
BN không có biến chứng ARDS (9,43%), khác biệt có
ý nghĩa (p<0,05).

Y học thực hành (884) - số 10/2013





80

Liên quan kết quả điều trị với biến chứng sốc
nhiễm khuẩn.
Tỷ lệ tử vong ở nhóm BN có biến chứng sốc
nhiễm khuẩn (61,72%) cao hơn nhiều so với tỷ lệ tử
vong ở nhóm BN không có biến chứng đó (17,00%),
khác biệt có ý nghĩa (p< 0,05).
Bảng 7. Liên quan kết quả điều trị với biến chứng
xuất huyết tiêu hóa
Kết quả điều trị
Khỏi Tử vong
Biến chứng
Số
BN
n % n %
p
Có 11 4 36,36

7 63,64

Không

735 558 75,91

177

24,09

Xuất

huyết
tiêu hóa

Cộng 746 562 75,34

184

24,66

<
0,05

Tỷ lệ tử vong ở nhóm BN bỏng nặng có biến
chứng xuất huyết tiêu hoá (63,64%) cao hơn tỷ lệ tử
vong ở nhóm BN bỏng nặng không có biến chứng
xuất huyết tiêu hoá (24,09%), khác biệt có ý nghĩa
(p<0,05).
Bảng 8. Liên quan kết quả điều trị với biến chứng
suy đa tạng
Kết quả điều trị
Khỏi Tử vong
Biến chứng
Số
BN
n % n %
p
Có 186 10 5,37 176

94,63


Không

560 552 98,57

8 1,43

Suy đa
tạng
Cộng 746 562 75,34

184

24,66


< 0,01

Tỷ lệ tử vong ở nhóm BN bỏng nặng có biến
chứng suy đa tạng là rất cao (94,63%), cao hơn
nhiều so với tỷ lệ tử vong ở nhóm BN bỏng nặng
không có biến chứng suy đa tạng (1,43%), sự khác
biệt có ý nghĩa (p<0,01).
BÀN LUẬN
1. Kết quả điều trị bệnh nhân bỏng nặng
Kết quả điều trị bệnh nhân bỏng phụ thuộc vào
nhiều yếu tố như đặc điểm bệnh nhân, tuổi, giới, diện
bỏng chung, bỏng sâu, các bệnh kết hợp, tổn thương
phối hợp,… cũng như trình độ, trang thiết bị của các
cơ sở y tế. Trên thực tế cũng có nhiều thông báo
khác nhau về kết quả điều trị bệnh nhân bỏng.

Theo Lê Thế Trung (1997, 2003) tỷ lệ tử vong ở
bệnh nhân bỏng tại các bệnh viện đa khoa tỉnh là
1,02 – 3,31%, còn ở tuyến chuyên khoa tỷ lệ tử vong
là 8 – 16%. Theo Phạm Văn Trung và CS (2009), tỷ
lệ tử vong trong các bệnh nhân bỏng được điều trị tại
bệnh viện Việt Tiệp (Hải Phòng) (2003 – 2006) là
2,86%. Tỷ lệ tử vong tại VBQG, năm 1995, theo Trần
Xuân Vận và CS (1996) là 6,5%, còn thời kỳ 2001 –
2003, theo Nguyễn Văn Vân là 5,88%. Theo Phạm
Đăng Nhật ở Bệnh viện Trung Ương Huế, tỷ lệ này là
3,8%. Theo Nguyễn Đăng Doanh và CS, tỷ lệ tử vong
ở bệnh viện Uông Bí trong 10 năm (1986 – 1995) là
8,4%. Hoàng Cao Nhã (2006) cũng thông báo kết
quả tử vong tương tự khi nghiên cứu về tình hình thu
dung và điều trị bỏng tuyến bệnh viện tỉnh thuộc 3
tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ trong 4 năm (2001 –
2004). Theo tác giả Belba và CS, nghiên cứu trên
2337 bệnh nhân (BN) bỏng trong giai đoạn 1998 –
2008 ở Tirana – Albania cho thấy tỷ lệ tử vong là
10,5%. Tác giả Brusselaers và CS nghiên cứu 261
BN bỏng nặng ở Ghana thấy tỷ lệ tử vong chung là
10,7%. Cũng tác giả trên, trong một công trình nghiên
cứu khác thực hiện trên 2326 BN bỏng ở Hungary thì
tỷ lệ tử vong chung chỉ là 1,4%. Tuy nhiên, có một
điều đáng chú ý là các kết quả trên đều tính cho toàn
bộ những BN bỏng, bao gồm cả những BN bỏng nhẹ.
Đối với những bệnh nhân bỏng nặng nói riêng,
theo Chu Anh Tuấn và CS (2008), tỷ lệ tử vong do
bỏng nặng tại VBQG từ 2005 – 2007 là 19,8%. Theo
số liệu của các trung tâm bỏng ở nước ngoài thì tỷ lệ

tử vong do bỏng nặng và rất nặng cũng rất cao: theo
Pruitt B.A và CS (2007), tỷ lệ tử vong ở BN bỏng
nặng tại Hoa Kỳ từ 1994 – 2000 là 24%. Theo Guo F.
và CS (2008), tỷ lệ tử vong ở BN bỏng trên 80% diện
tích cơ thể là 63,3% đến 95,8%. Theo Tyson A.F. và
CS (2012), tỷ lệ này từ 12% đến 35%. So với các
nghiên cứu này thì tỷ lệ tử vong của BN bỏng nặng
tại VBQG từ 1/2011 – 12/2012, theo kết quả nghiên
cứu của chúng tôi là thấp hơn (24,66%). Sở dĩ có sự
khác biệt trên, theo chúng tôi là vì có sự khác nhau
về đặc điểm BN thu dung và điều trị. Khi so sánh với
kết quả điều trị BN bỏng nặng tại VBQG giai đoạn
trước, với các đặc điểm BN là tương đương với
nghiên cứu của chúng tôi thì thấy tỷ lệ cứu sống của
chúng tôi cao hơn rõ rệt (80,2% so với 75,15%), tỷ lệ
tử vong khi có các biến chứng cũng giảm hơn, lần
đầu tiên chúng tôi đã cứu sống được BN có diện
bỏng tới 90%, trong đó có 80% độ sâu, có bỏng
đưòng hô hấp nặng, cho thấy công tác chăm sóc,
theo dõi và điều trị BN bỏng nặng tại VBQG đã ngày
càng tiến bộ.
2. Nhận xét các biến chứng và nguyên nhân tử
vong trên bệnh nhân bỏng nặng.
Sốc bỏng là trạng thái phản ứng toàn thân của cơ
thể khi bị chấn thương bỏng với mức độ tổn thương
da và mô khá lớn. Những nghiên cứu hiện đại về sinh
lý bệnh sốc bỏng cho thấy, sốc bỏng vừa là sốc do
giảm thể tích máu lưu hành, đồng thời là một sốc tế
bào (Lê Thế Trung – 1997). Trong sốc bỏng có sự
hình thành và giải phóng hàng loạt các chất trung gian

hoá học gây tổn hại đến màng và nhân tế bào rất
mạnh, gây suy giảm miễn dịch. Khi bị sốc bỏng nặng
và rất nặng, còn dẫn đến hàng loạt các biến chứng
khác như suy thận, rối loạn đông máu, xuất huyết tiêu
hóa, … làm cho BN có thể tử vong ngay trong giai
đoạn sốc. Trong trường hợp được điều trị thoát sốc,
cơ thể người bị sốc bỏng nặng sức chống đỡ miễn
dịch bị giảm sút, nên bước vào thời kỳ hai của bệnh
bỏng, khi mô hoại tử tan rữa trở thành môi trường
thuận lợi cho các loài vi khuẩn xâm nhập, gây nhiễm
khuẩn huyết. Do đó, có thể khẳng định rằng, sốc bỏng
có vai trò quan trọng liên quan đến kết quả điều trị
bệnh nhân bỏng nặng. Tử vong do sốc không hồi phục
có thể chiếm đến 25%, thậm chí 60,9% số BN tử vong.
Tuy nhiên, hiện nay, do những tiến bộ trong công
tác hồi sức cấp cứu, tỷ lệ bệnh nhân tử vong do sốc
nhược không hồi phục đã giảm xuống nhiều so với
trước. Theo Nguyễn Gia Tiến (2001), trong số 372
BN bị sốc bỏng, sốc không hồi phục là 28 BN
(7,52%), tỷ lệ tử vong do sốc không hồi phục là
Y học thực hành (884) - số 10/2013




81

23,14% (28/121 BN tử vong), còn theo Nguyễn Văn
Vân (2004), trong số 1247 BN sốc bỏng, có 46 BN
(3,86%) bị sốc nhược không hồi phục, tỷ lệ tử vong

do sốc không hồi phục là 15,23% (46/302 BN tử
vong). Kết quả của chúng tôi cũng cho thấy, tỷ lệ BN
tử vong trong số BN có sốc bỏng là 19,8% tương
đương với các tác giả trên.
Mặt khác, sốc bỏng không những có vai trò trực
tiếp gây tử vong do sốc không hồi phục, mà còn ảnh
hưởng đến toàn bộ kết quả điều trị BN bỏng nặng.
Theo Chu Anh Tuấn (2003), tỷ lệ tử vong ở nhóm
những BN nhiễm khuẩn huyết (NKH) có sốc bỏng
nặng là 80,8%, cao hơn so với nhóm BN NKH không
bị sốc bỏng (29,6%) (p < 0,01). Kết quả nghiên cứu
của chúng tôi cũng cho thấy, tỷ lệ tử vong ở những
BN có sốc bỏng là 19,8%, cao hơn so với nhóm BN
không bị sốc bỏng (8,5%) (p < 0 01). Trong số bệnh
nhân tử vong có 93,4% số BN tử vong có sốc bỏng.
Biến chứng xảy ra trong bỏng làm tình trạng bệnh
càng nặng, khi có các biến chứng ở BN bỏng nặng thì
tỷ lệ tử vong rất cao. Điều này biểu hiện rõ trong các
nghiên cứu về tử vong trong bỏng, các tác giả đều
thấy rằng, nguyên nhân tử vong thường là do các biến
chứng. Theo Nguyễn Hữu Tường (1996), các nguyên
nhân tử vong trong bỏng bao gồm: sốc bỏng (25,6%),
NKH (12,4%), suy thận cấp (10%), XHTH (6,5%), suy
hô hấp (14%). Theo Nguyễn Gia Tiến (2001), trong
tổng số BN bỏng bị tử vong thì tỷ lệ tử vong do sốc
bỏng là 23,14%, do XHTH là 12,39%, do suy thận cấp
là 8,26%, do NKH là 4,13%, do suy hô hấp cấp là
4,13%. Tại Trung Quốc, theo Guo F.và CS (2009), tỷ
lệ tử vong do nhiễm khuẩn là 40%, suy đa tạng chiếm
35%, do suy thận: 10%, do sốc: 10%.

Khi xét đến tỷ lệ tử vong theo biến chứng, Nguyễn
Gia Tiến (2001) cho biết, suy thận tử vong 100%, sốc
nhiễm khuẩn: 70,2%, XHTH: 93,75%, NKH: 71,42%.
Theo Nguyễn Văn Vân (2004), tỷ lệ tử vong ở các
nhóm bệnh nhân có biến chứng như sau: suy đa
tạng: 100%, suy thận: 92,45%, xuất huyết tiêu hóa:
56,25%, rối loạn đông máu: 23,07%, NKH: 61,19%.
Theo Cason J.S, Cameron J.S, Lê Minh Phương,…
tỷ lệ tử vong do suy thận là 100%. Theo Chu Anh
Tuấn (2008), tỷ lệ tử vong khi bị suy thận cấp là 3/5
BN (60%), NKH do TKMX: 5/5 BN (100%). Theo
Nguyễn Viết Lượng (2009), tỷ lệ tử vong khi bị XHTH
là 88,9%. Chu Anh Tuấn (2003), Lê Đức Mẫn (2006)
thông báo tỷ lệ tử vong ở những BN NKH bỏng là từ
50,9% - 53,5%. Theo Gallagher J.J. (2007), Pruitt
B.A. (1998), tỷ lệ tử vong do sốc nhiễm khuẩn là 46 –
82%. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng cho
thấy, khi có biến chứng nhiễm khuẩn huyết, tỷ lệ tử
vong là 47,5%, cao hơn rõ rệt những BN không có
biến chứng (16,6%) (p < 0,01), trong đó tỷ lệ tử vong
do nhiễm trực khuẩn mủ xanh là 56,3%; do nhiễm tụ
cầu vàng là 36,8%. Đối với biến chứng NKH, tỷ lệ tử
vong còn phụ thuộc vào loại vi khuẩn gây NKH. Đồng
thời, tỷ lệ tử vong rất cao ở những BN bỏng nặng có
các biến chứng: suy thận (67,5%), suy đa tạng
(72,4%), XHTH (63,6%) tương đương với kết quả
nghiên cứu của các tác giả trên.
Như vậy, để làm giảm tỷ lệ tử vong trong điều trị
BN bỏng nặng, việc dự phòng tích cực và phát hiện,
điều trị sớm các biến chứng có vai trò quan trọng. Khi

đã có các biến chứng thì hy vọng cứu sống BN là thấp.
KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu hồi cứu 746 bệnh án bệnh
nhân bỏng nặng đựoc điều trị tại khoa Điều trị tích
cực – Viện Bỏng Quốc gia từ 01/2011 – 12/2012, cho
phép rút ra một số kết luận sau:
- Số được cứu sống là 562 bệnh nhân (75,34%),
số tử vong là 184 bệnh nhân (24,66%). Đã cứu được
nhiều bệnh nhân có diện tích bỏng chung đến 80%,
diện bỏng sâu đến 50% diện tích cơ thể, đặc biệt, đã
cứu được một bệnh nhân có diện tích bỏng chung là
90%, có 80% độ sâu, bỏng hô hấp nặng. Chưa cứu
sống được các bệnh nhân có diện bỏng chung trên
90%, diện bỏng sâu từ 80% diện tích cơ thể. Thời
điểm tử vong cao nhất là 4 – 15 ngày sau bỏng (50%).
- Diện tích bỏng càng lớn, diện độ sâu càng rộng
thì tỷ lệ tử vong càng cao (p < 0,01). Tỷ lệ tử vong
còn phụ thuộc vào tuổi bệnh nhân, trẻ em tuổi càng
nhỏ, người già thì tỷ lệ tử vong cao hơn rõ rệt (p <
0,05). Sốc bỏng làm tăng tỷ lệ tử vong, tỷ lệ tử vong
ở nhóm bệnh nhân sốc bỏng là 25,94% so với
16,99% ở nhóm bệnh nhân không bị sốc bỏng). Các
biến chứng xuất hiện làm tăng tỷ lệ tử vong: rối loạn
đông máu nặng (53,90%), suy thận (84,57%), suy đa
tạng (94,63%), nhiễm khuẩn huyết (47,50%), xuất
huyết tiêu hoá (63,64%), sốc nhiễm khuẩn (61,72%).
Càng nhiều biến chứng trên một bệnh nhân thì tỷ lệ
tử vong càng cao.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Đăng Doanh và CS (1998), “Một số đặc

điểm dịch tễ học của các trường hợp bỏng tại Bệnh viện
Uông Bí 1986 -1995”, Thông tin y hoc thảm họa và Bỏng
(Tập 1, Số 3/1998), Tr. 52-55.
2. Nguyễn Tiến Dũng (2011), “Nghiên cứu đặc điểm
của bỏng do tai nạn lao động ở miền Bắc Việt Nam”,
Tạp chí Y học thảm họa và Bỏng (2/2011), Tr. 23-31.
3. Nguyễn Tiến Dũng (2012), “Nghiên cứu một số
biến chứng ở bệnh nhân bỏng hô hấp”, Tạp chí Y học
thảm họa và Bỏng (3/2012), Tr. 84-89.
4. Greenhalgh D.G. và CS (2007), “Hội nghị thống
nhất định nghĩa nhiễm khuẩn trong bỏng của hội bỏng
Hoa Kỳ”, Tạp chí Y học thảm họa và Bỏng (4/2009), Tr.
83-87(Bản dịch Tiếng Việt).
5. Nguyễn Tuấn Khanh và CS (2009), “Nghiên cứu
đặc điểm dịch tễ học, chẩn đoán và điều trị bỏng tại
bệnh viện đa khoa Tiền Giang năm 2007”, Tạp chí Y học
thực hành (652+653/2009), Tr. 27-29.
6. Barrow R.E. et al (2007), “History of treatment of
burns”, Total Burn Care, Third Edition, Elsevier Cop.
(2007) David N. Herndon, Chapter 1.
7. Belba M.K. et al (2012), “Epidemiololy and
mortality of burned patients treated in the university
hospital center in Tirana, Albania: An analysis of 2337
cases during the period 1998-2008”, Burns 38 (2012)
155-163.
8. Brusselaers N. et al (2009),
“Evaluation of mortality following

Y học thực hành (884) - số 10/2013





82

TỶ LỆ DỊ TẬT BẨM SINH VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN
Ở HUYỆN PHÙ CÁT - BÌNH ĐỊNH

Trương Quang Đạt, Trần Đức Phấn, Ngô Văn Toàn
Trường Cao đẳng Y tế Bỡnh Định, Trường Đại học Y Hà Nội


TÓM TẮT
Nghiên cứu nhằm xác định tỷ lệ dị tật bẩm sinh ở
huyện Phù Cát - Bình Định và một số yếu tố liên quan
trên 6.600 phụ nữ 15-49 tuổi đã từng mang thai ở 30
thôn thuộc 18 xã, thị trấn của huyện Phù Cát - Bình
Định ở thời điểm tháng 1/2012. Kết quả cho thấy tỷ lệ
mẹ sinh con bị dị tật bẩm sinh là 4,38%. Tỷ lệ con bị
dị tật bẩm sinh trên tổng số con sinh ra là 1,83%.
Trong số 301 con bị dị tật bẩm sinh, nam chiếm
58,14%, nữ chiếm 41,86%. Phân tích theo mô hình
hồi quy logistic đa biến cho thấy: các bà mẹ được
sinh ra trước năm 1972 sinh con dị tật bẩm sinh là
5,56% so với 3,50% ở các bà mẹ được sinh ra từ
năm 1972 trở về sau (OR = 1,52; 95% CI: 1,20 -
1,94); mẹ sống ở khu vực sân bay Phù Cát sinh con
dị tật bẩm sinh là 6,36% so với 4,24% ở mẹ sống ở
các vùng khác (OR = 1,60; 95 CI: 1,06 - 2,40). Mẹ có
học vấn bậc tiểu học sinh con dị tật bẩm sinh là

5,94% (OR = 2,86; 95% CI: 1,31 - 5,89).
Từ khóa: dị tật bẩm sinh, chất độc da cam, thuốc
bảo vệ thực vật.
Summary
THE PROPORTION OF BIRTH DEFECTS AND
SOME RELATED FACTORS IN PHU CAT - BINH
DINH
The study aimed to determine the proportion of
birth defects in Phu Cat - Binh Dinh and some related
factors in 6,600 women aged 15 - 49 who had been
pregnant in 30 villages of 18 communes and town of
Phu Cat - Binh Dinh at the time in 1/2012. Results
showed that the proportion of mothers having children
with birth defects is 4.38% (289 mothers). The
proportion of all children with birth defects is 1.83%
(301 children) in which male is 58.14% and female is
41.86%. Use of multivariate logistic regression model
showed that the odds ratio (OR) for maternal date of
birth before 1972 is 1.52 (95% CI: 1.20 - 1.94). The OR
for mother's residence in Phu Cat airport area is 1.60
(95% CI: 1.06 - 2.40). The OR for mothers having
primary education is 2.86 (95% CI: 1.31 – 5.89).
Keywords: birth defects, Agent Orange,
pesticide.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo Tổ chức Y tế thế giới (TCYTTG), dị tật bẩm
sinh (Birth Defects) là những bất thường về cấu trúc,
chức năng hoặc chuyển hóa có mặt lúc mới sinh. Về
mặt lâm sàng, dị tật bẩm sinh (DTBS) có thể được
phát hiện ngay từ lúc sinh hoặc có thể được chẩn

đoán muộn hơn [0].
Báo cáo toàn cầu về DTBS của Christianson A. D.
và cs (2006) cho biết: mỗi năm ước tính có 7,9 triệu
trẻ em (6% trẻ em được sinh ra trên toàn thế giới) bị
các DTBS nghiêm trọng do di truyền hoặc có nguồn
gốc từ di truyền. Có ít nhất 3,3 triệu trẻ em dưới 5
tuổi chết do DTBS mỗi năm và ước tính có 3,2 triệu
trẻ sống bị tàn tật suốt đời [0].
DTBS là một vấn đề toàn cầu, tuy nhiên số trẻ dị
tật và tỷ lệ DTBS ở các nước có thu nhập trung bình
và thấp là cao hơn ở các nước có thu nhập cao.
Nguyên nhân được đề cập là do nghèo đói, mẹ mắc
các bệnh lý nhiễm virus, nhiễm trùng, ký sinh trùng,
mẹ có thai khi lớn tuổi Trên 94% trẻ em bị các
DTBS nghiêm trọng (95% số trẻ đó tử vong) là ở các
quốc gia có thu nhập thấp hoặc trung bình [0].
Ở Việt Nam, đã có một số nghiên cứu DTBS tại
các vùng dân cư hoặc ở các bệnh viện. Hầu hết các
tần suất DTBS đã công bố đều là các con số thống kê
trên những người đã phơi nhiễm với chất độc hóa học
trong chiến tranh (CĐHHTCT) hay ở bệnh viện; hơn
nữa, nhiều tác giả quan tâm đến sự liên quan giữa
phơi nhiễm chất da cam / dioxin với DTBS; đồng thời
các nghiên cứu này được thực hiện cách đây trên 10
năm, có công trình đã trên 20 năm [0], [0], [0], [0].
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi tiến hành
“Nghiên cứu tỷ lệ dị tật bẩm sinh ở huyện Phù Cát
- Bình Định” với mục tiêu: Mô tả tỷ lệ dị tật bẩm sinh
ở huyện Phù Cát - Bình Định và một số yếu tố liên
quan.

ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu được thực hiện tại huyện Phù Cát -
tỉnh Bình Định vào thời điểm 1/2012. Huyện có 18 xã,
thị trấn, 118 thôn và khu phố. Dân số 189.150 người.
Trừ người dân ở thị trấn Ngô Mây sống bằng buôn
bán nhỏ, nhân viên hành chính, người dân ở các xã
còn lại đều là nông dân trồng lúa hoặc trồng hoa
màu.
1. Đối tượng nghiên cứu
Phụ nữ trong độ tuổi sinh sản (tuổi từ 15 - 49) và
đã từng có thai.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
- Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả phỏng
vấn về tiền sử sinh sản.
- Phương pháp thu thập thông tin: sử dụng
phiếu điều tra theo hộ gia đình bằng cách hỏi đáp
trực tiếp.
- Cỡ mẫu: được tính theo công thức:

Trong đó: p là tỷ lệ mẹ sinh con bị DTBS = 5,82%
[0]. d: sai số tuyệt đối và DE: hệ số thiết kế mẫu = 2.

×