Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

tiểu luận về tội trộm cắp tài sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (338.34 KB, 67 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Nhìn lại hai mươi năm đổi mới kể từ năm 1986, chúng ta đã đạt được
những thành tựu to lớn, toàn diện và có ý nghĩa lịch sử trên cả hai mặt lí luận và
thực tiễn. “Cùng với việc đẩy mạnh phát triển kinh tế, Đảng ta chủ trương giải
quyết tốt các vấn đề xã hội, coi đây là một hướng chiến lược thể hiện bản chất
ưu việt của chế độ ta. Thực hiện các chính sách xã hội hướng vào phát triển và
lành mạnh hoá xã hội, thể hiện công bằng trong phân phối, tạo động lực mạnh
mẽ để phát triển sản xuất, thực hiện bình đẳng trong quan hệ xã hội, khuyến
khích nhân dân làm giàu hợp pháp” [1, tr.33]. Bên cạnh những thành tựu to lớn
đã đạt được, chúng ta vẫn còn những yếu kém và khuyết điểm, không ít vấn đề
bức xúc nảy sinh chưa được giải quyết, đặc biệt “trong những năm qua tình
hình tội phạm diễn biến phức tạp, nhiều vụ án xảy ra với tính chất, hậu quả rất
nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng” [10, tr.1].
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Nhà nước ta có nhiệm vụ bảo
vệ quyền lợi ích hợp pháp của Nhà nước cũng như của nhân dân. Với vai trò là
nền tảng kinh tế xã hội của quốc gia, chế độ sở hữu là một trong những vấn đề
trọng yếu được Nhà nước bảo vệ bằng mọi biện pháp trong đó biện pháp pháp lý
hình sự thể hiện kiên quyết nhất ý chí quyền lực Nhà nước trong xử lý các hành
vi xâm phạm tới chế độ sở hữu. Trong số các tội xâm phạm sở hữu, tội trộm cắp
tài sản là tội xâm phạm trực tiếp tới quyền sở hữu tài sản, nó xảy ra khá phổ
biến. Ở mỗi giai đoạn phát triển, Nhà nước đều có những quy định về tội trộm
cắp tài sản và biện pháp xử lý nhằm đấu tranh loại bỏ tội phạm khỏi đời sống xã
hội. Những năm gần đây tội trộm cắp tài sản diễn biến phức tạp gây hậu quả
ngày càng nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội. Riêng
“thành phố Hà Nội trong năm 2006 đã thụ lý xét xử 1555 vụ trộm cắp tài sản,
2016 bị cáo, chiếm 26,9%, gây thiệt hại 17.362.096.769 đồng” [10, tr.4]. Nhờ
sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan bảo vệ pháp luật, hoạt động xét xử của
ngành toà án từng bước được nâng cao, số lượng các bản án bị huỷ đã giảm,
song bên cạnh đó vẫn còn nhiều tồn tại khuyết điểm mà một trong những
nguyên nhân là các cơ quan bảo vệ pháp luật không đánh giá đúng bản chất của
hành vi phạm tội dẫn đến xác định sai tội danh, hoặc xử oan hoặc bỏ lọt tội


phạm. Để khắc phục tình trạng trên thì vấn đề cốt lõi đầu tiên là phải nắm vững
các quy định pháp luật về tội phạm, nhận thức đúng bản chất của hành vi phạm
tội từ đó có đường lối xử lý đúng đắn đảm bảo sự công bằng, nghiêm minh của
pháp luật. Nhận thức được điều đó, tác giả đã mạnh dạn chọn đề tài: “Tội trộm
cắp tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 - Những
vấn đề lí luận và thực tiễn” làm khoá luận tốt nghiệp cho mình với hy vọng
giúp có được cái nhìn toàn diện, đúng đắn về tội trộm cắp tài sản.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về tội trộm cắp tài sản, trước hết phải
kể đến Giáo trình Luật hình sự của Trường Đại học Luật Hà Nội, Trường Đại
học Quốc Gia Hà Nội, Bình luận khoa học BLHS phần Các tội xâm phạm sở
hữu đã phân tích các dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản, tiếp đó là các
công trình nghiên cứu cá nhân như tác giả Vũ Thiện Kim với “Trách nhiệm
hình sự đối với các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, tài sản của công
dân”, tác giả Thân Như Thành với luận văn thạc sĩ luật học “Đấu tranh phòng
chống tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội”, tác giả Nguyễn
Ngọc Chí với “Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu” cùng
nhiều công trình nghiên cứu khác. Song các công trình nghiên cứu đó hoặc là về
các tội xâm phạm sở hữu nói chung hoặc là nghiêng về mặt đấu tranh phòng
chống tội phạm, chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về tội trộm cắp
tài sản. Khoá luận này đã đi sâu tìm hiểu toàn diện về tội trộm cắp tài sản, tìm ra
những dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội phạm, những vấn đề cơ bản về TNHS
của người phạm tội, đồng thời phát hiện những điểm bất hợp lý trong các quy
định đó, đưa ra ý kiến cá nhân nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về tội trộm
cắp tài sản.
Để đạt được mục tiêu đề ra, trong quá trình nghiên cứu tác giả đã sử dụng
phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và phương pháp so
sánh. Nghiên cứu tội trộm cắp tài sản trong sự vận động nội tại phát triển của nó,
trong mối quan hệ với các quy định khác của luật hình sự như: chế định đồng
phạm, chế định các giai đoạn thực hiện tội phạm Tác giả cũng đã nghiên cứu
tội trộm cắp tài sản qua các giai đoạn để thấy được sự phát triển của các quy

định về tội trộm cắp tài sản, đồng thời có so sánh quy định pháp luật về tội trộm
cắp tài sản với các quy định khác của BLHS để thấy được những điểm hợp lý và
chưa hợp lý trong các quy định đó.
Khoá luận có ý nghĩa về mặt lý luận cũng như thực tiễn, những kết quả
nghiên cứu của khoá luận có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác
nghiên cứu khoa học pháp luật hình sự, đồng thời có thể phục vụ thiết thực cho
công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.
Để nghiên cứu toàn diện về tội trộm cắp tài sản, ngoài phần mở đầu, kết
luận và danh mục tài liệu tham khảo, tác giả đã chia khoá luận làm hai chương.
Đây là công trình nghiên cứu khoa học đầu tiên của tác giả, trong quá
trình nghiên cứu không tránh khỏi những thiếu sót, với tinh thần học hỏi cầu tiến
tác giả rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô và các bạn. Qua đây, tác
giả muốn bày tỏ sự cảm ơn chân thành đến thầy giáo hướng dẫn đã giúp đỡ tác
giả, cảm ơn bạn bè đã luôn ủng hộ để tác giả có thể hoàn thành tốt khoá luận
này.
Xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG I
LỊCH SỬ LẬP PHÁP HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI TRỘM CẮP
TÀI SẢN TỪ NĂM 1945 ĐẾN NAY VÀ DẤU HIỆU PHÁP LÝ
CỦA TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999
1. Lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản từ năm 1945
đến nay
Tội trộm cắp tài sản là một trong những tội phạm xuất hiện từ rất sớm và
khá phổ biến. Từ khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà ra đời, để bảo vệ tài sản là nền tảng vật chất của xã hội, ở
mỗi giai đoạn Nhà nước đều ban hành các quy định về tội trộm cắp tài sản nhằm
đấu tranh loại bỏ tội phạm khỏi đời sống xã hội.
1.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến trước khi ban hành
Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985

Cách mạng thành công, Nhà nước mới được thành lập phải đối phó với
thù trong giặc ngoài và hoàn cảnh kinh tế, văn hoá, xã hội của đất nước còn khó
khăn, để giải quyết các vụ án hình sự Nhà nước đã ban hành Sắc lệnh số 47- SL
ngày 10-10-1946 tạm thời giữ lại các luật lệ tại miền Bắc, Trung, Nam Bộ cho
đến khi ban hành các văn bản pháp luật thống nhất trong toàn quốc. Để bảo vệ
chính quyền mới, Sắc lệnh số 47 quy định: “Những điều khoản trong các luật lệ
cũ được tạm thời giữ lại do sắc lệnh này chỉ được thi hành khi nào không trái
với nguyên tắc độc lập của Nhà nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hoà”.
Sắc lệnh số 47 được ban hành kịp thời đã hạn chế tới mức thấp nhất sự xáo trộn
trong đời sống và quan hệ thường nhật của nhân dân, góp phần ổn định xã hội.
Trong giai đoạn này Nhà nước cũng đã ban hành một số Sắc lệnh quy định về
tội trộm cắp tài sản như: Sắc lệnh số 12 ngày 12-3-1949 quy định trừng trị các
hành vi trộm cắp vật dụng nhà binh trong thời bình và thời kì chiến tranh; Sắc
lệnh số 267 ngày 15-6-1958 trừng trị những âm mưu và hành động phá hoại tài
sản của Nhà nước, của hợp tác xã và của nhân dân, làm cản trở việc thực hiện
chính sách kế hoạch của Nhà nước về xây dựng kinh tế và văn hoá. Điều 2 Sắc
lệnh 267 quy định: “Người phạm các tội trộm cắp, lãng phí, làm hỏng, huỷ
hoại, cướp bóc tài sản của Nhà nước, của hợp tác xã, của nhân dân với mục
đích phá hoại sẽ bị xử phạt từ năm năm đến hai mươi năm tù”. Sắc lệnh này
nghiêm trị những người phạm tội vì mục đích phá hoại tài sản của Nhà nước,
của hợp tác xã, của nhân dân hoặc vì mục đích phá hoại mà làm cản trở đến việc
thực hiện kế hoạch chính sách của Nhà nước về kinh tế, văn hóa.
Ngoài các Sắc lệnh trên, ở giai đoạn này phải kể đến sự ra đời của hai bản
Pháp lệnh năm 1970 đó là Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN
và Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân được Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 21-10-1970. Pháp lệnh quy định: “Tài sản
xã hội chủ nghĩa bao gồm tài sản thuộc quyền sở hữu của Nhà nước (tức sở hữu
toàn dân), và tài sản thuộc sở hữu của hợp tác xã và các tổ chức hợp pháp khác
(tức sở hữu của tập thể)”; “tài sản của công dân gồm: của cải do sức lao động
của công dân làm ra, của cải thu nhập một cách hợp pháp hoặc để dành được

như tiền bạc, xe cộ, nhà cửa và những đồ dùng riêng khác”.
Điều 7 Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN quy định tội
trộm cắp tài sản XHCN như sau:
“1. Kẻ nào trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa thì bị phạt tù từ sáu tháng
đến năm năm. 2. Phạm tội trong những trường hợp sau đây: a. Có tính chất
chuyên nghiệp hoặc tái phạm nguy hiểm; b. Có tổ chức; c. Có móc ngoặc; d.
Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; e. Trộm cắp tài sản với số lượng lớn hoặc
tài sản có giá trị đặc biệt; f. Dùng tài sản trộm cắp được vào việc kinh doanh,
bóc lột, đầu cơ, hoặc vào những việc phạm tội khác thì bị phạt tù từ ba tháng
đến hai năm. 3. Phạm tội trong trường hợp số tài sản bị xâm phạm rất lớn hoặc
có nhiều tình tiết nghiêm trọng hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị
phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc bị xử tử hình”.
Trong thời kì này, Nhà nước cũng chú trọng bảo vệ tài sản riêng của công
dân, Điều 6 Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân quy
định tội trộm cắp tài sản riêng của công dân như sau: “1. Kẻ nào trộm cắp tài
sản riêng của công dân thì bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm. 2. Phạm tội thuộc
những trường hợp sau: a. Có tính chất chuyên nghiệp hoặc tái phạm nguy hiểm;
b. Có tổ chức; c. Dùng thủ đoạn xảo quyệt; d. Gây hậu quả nghiêm trọng đến
đời sống của người bị thiệt hại hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác, thì bị phạt
tù từ hai năm đến mười năm. 3. Phạm tội trong trường hợp gây hậu quả đặc
biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm” [6, tr.713].
Hai bản Pháp lệnh trên thể hiện nguyên tắc cơ bản của Nhà nước ta là:
kiên quyết bảo vệ tài sản XHCN, coi tài sản XHCN là thiêng liêng và bất khả
xâm phạm; quán triệt nguyên tắc: Nhà nước bảo hộ tài sản riêng của công dân,
chống mọi hành vi xâm phạm, bất kì ai có hành vi xâm phạm đến tài sản của
Nhà nước và tài sản riêng của công dân đều phải được phát hiện kịp thời và xử
lý nghiêm minh. Đồng thời Pháp lệnh cũng thể hiện nguyên tắc xử lý người
phạm tội là: nghiêm trị bọn lưu manh chuyên nghiệp, bọn tái phạm, bọn phạm
tội có tổ chức, bọn lợi dụng chức vụ quyền hạn để phạm tội, xử lý nhẹ hoặc
miễn hình phạt cho những người tự thú, thật thà hối cải, tố giác đồng bọn hoặc

tự nguyện bồi thường thiệt hại đã gây ra. Hai bản pháp lệnh đã xây dựng hai cấu
thành tội phạm hoàn chỉnh về tội trộm cắp tài sản đó là tội trộm cắp tài sản
XHCN và tội trộm cắp tài sản riêng của công dân, đã quy định cụ thể và tập
trung các tình tiết tăng nặng định khung trong điều luật, có các khung hình phạt
tương ứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm, góp phần phân hoá
TNHS người phạm tội.
Ở giai đoạn này, những văn bản pháp luật quy định về tội trộm cắp tài sản
còn tản mạn, riêng lẻ nhưng nó phù hợp với hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ, tuy
nhiên vẫn còn sự phân biệt giữa tội trộm cắp tài sản XHCN và tội trộm cắp tài
sản của công dân.
1.2. Tội trộm cắp tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm
1985
Từ những văn bản tản mạn riêng lẻ, BLHS năm 1985 được Quốc hội khoá
VII thông qua ngày 27-6-1985, thể hiện dưới hình thức bộ luật - một hình thức
lập pháp cao, đã trình bày có hệ thống, toàn diện phần chung cũng như phần các
tội phạm có tính bao quát về tất cả các hành vi nguy hiểm cho xã hội có tác dụng
bảo vệ thành quả cách mạng, an ninh quốc gia, trật tự xã hội, quyền và lợi ích
hợp pháp khác của công dân. BLHS 1985 về các tội xâm phạm sở hữu rất tiêu
biểu cho thời kì quá độ xây dựng nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, theo đó chỉ
có hai loại hành vi xâm phạm sở hữu là hành vi xâm phạm sở hữu XHCN và
hành vi xâm phạm sở hữu của công dân quy định ở hai chương: Các tội xâm
phạm sở hữu XHCN và Các tội xâm phạm sở hữu của công dân.
Điều 132 BLHS 1985 quy định tội trộm cắp tài sản XHCN như sau:
“1. Người nào trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa thì bị phạt cải tạo không
giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm. 2. Phạm tội
thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ ba năm đến mười hai
năm: a. Có tổ chức hoặc có tính chất chuyên nghiệp; b. Dùng thủ đoạn xảo
quyệt, nguy hiểm; c. Hành hung để tẩu thoát; d. Chiếm đoạt tài sản có giá trị
lớn; đ. Tái phạm nguy hiểm. 3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm
trọng thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử

hình”.
Điều 155 BLHS 1985 quy định tội trộm cắp tài sản của công dân như sau:
“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác thì bị phạt cải tạo không
giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến một năm. 2. Phạm tội
thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ hai năm đến mười
năm: a. Có tổ chức hoặc có tính chất chuyên nghiệp; b. Dùng thủ đoạn xảo
quyệt, nguy hiểm, hành hung để tẩu thoát; c. Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn
hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác; d. Tái phạm nguy hiểm. 3. Phạm tội trong
trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến hai mươi năm”.
BLHS 1985 đã trở thành một cơ sở pháp lý quan trọng trong việc xử lý
người phạm tội, song vẫn còn sự phân biệt giữa tội trộm cắp tài sản XHCN và
tội trộm cắp tài sản của công dân, theo đó người phạm tội trộm cắp tài sản
XHCN bị xử lý nghiêm khắc hơn người phạm tội trộm cắp tài sản của công dân,
điều đó thể hiện đường lối xử lý của Nhà nước ta đối với người phạm tội trộm
cắp tài sản. Qua bốn lần sửa đổi bổ sung, BLHS 1985 không còn là một chỉnh
thể thống nhất cần có một BLHS mới thay thế, vì vậy BLHS 1999 đã ra đời thay
thế BLHS 1985 trên cơ sở có kế thừa và phát triển cho phù hợp với điều kiện xã
hội.
1.3. Tội trộm cắp tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm
1999
Với chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo
định hướng XHCN, các thành phần kinh tế bình đẳng trước pháp luật đòi hỏi
phải xem xét rà soát lại một cách toàn diện các tội phạm về kinh tế, về sở hữu để
có những sửa đổi bổ sung thích hợp cả về mặt dấu hiệu pháp lý cũng như chính
sách xử lý nhằm đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm
trong giai đoạn mới. Ngày 21-12-1999 Quốc hội khoá X đã thông qua BLHS
của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999 (Bộ luật có hiệu lực từ
ngày 1-7-2000). Bộ luật có quy định rất cụ thể về nhóm tội xâm phạm sở hữu
nói chung và tội trộm cắp tài sản nói riêng. Điều 138 BLHS 1999 quy định tội
trộm cắp tài sản như sau:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ năm trăm
nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng
nhưng gây hậu quả nghiêm trọng, hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi
chiếm đoạt, hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt chưa được xoá án tích mà còn vi
phạm thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc bị phạt tù từ sáu
tháng đến ba năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị
phạt tù từ hai năm đến bảy năm: a. Có tổ chức; b. Có tính chất chuyên nghiệp;
c. Tái phạm nguy hiểm; d. Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; đ. Hành hung
để tẩu thoát; e. Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới
hai trăm triệu đồng; g. Gây hậu quả nghiêm trọng. 3. Phạm tội thuộc một trong
các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm: a. Chiếm
đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng; b.
Gây hậu quả rất nghiêm trọng. 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau
đây thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân: a.
Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên; b. Gây hậu quả
đặc biệt nghiêm trọng. 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu
đồng đến dưới năm mươi triệu đồng”.
Đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu nói chung và tội trộm cắp tài sản nói
riêng, BLHS 1999 đã có những thay đổi đáng kể so với BLHS 1985 khi chỉ xây
dựng một chương: Các tội xâm phạm sở hữu, bao quát tất cả các hình thức sở
hữu đã được BLDS quy định, bảo đảm vị trí bình đẳng của các thành phần kinh
tế đồng thời vẫn thể hiện được sự đề cao vai trò của sở hữu Nhà nước khi quy
định hành vi “xâm phạm sở hữu của Nhà nước” là một tình tiết tăng nặng
TNHS tại Điều 48 BLHS [22, tr.25]. Đối với tội trộm cắp tài sản, BLHS 1999
không còn quy định thành hai tội trộm cắp tài sản XHCN và tội trộm cắp tài sản
của công dân mà quy định thống nhất thành tội trộm cắp tài sản, vấn đề định
lượng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là tình tiết định tội và định khung hình phạt là
những điểm thay đổi cơ bản của BLHS 1999 so với BLHS 1985.
2. Dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản theo quy định của Bộ luật hình
sự Việt Nam năm 1999

Ở mỗi giai đoạn lập pháp hình sự, Nhà nước đều ban hành các quy định
về tội trộm cắp tài sản và đường lối xử lý người phạm tội, song các văn bản
pháp luật đều không đưa ra khái niệm về tội trộm cắp tài sản, như vậy cần tìm
hiểu thế nào là tội trộm cắp tài sản.
Theo từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam, trộm cắp tài sản
được hiểu là “hành vi lén lút bí mật đối với người quản lý tài sản để chiếm đoạt
tài sản”. Cũng có cách hiểu trộm cắp tài sản là “hành vi lén lút chiếm đoạt tài
sản của người khác” [11, tr.196]. Như vậy trộm cắp tài sản là hành vi chiếm
đoạt tài sản, tính chất của hành vi là lén lút bí mật và đối tượng là tài sản đang
có người quản lý.
Trên cơ sở khái niệm tội phạm được quy định tại Điều 8 BLHS: “Tội
phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do
người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý ”, có
thể đưa ra khái niệm về tội trộm cắp tài sản như sau: Tội trộm cắp tài sản là
hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác, do người có năng lực trách
nhiệm hình sự thực hiện với lỗi cố ý, xâm phạm tới quyền sở hữu tài sản được
pháp luật bảo vệ.
Trên đây là khái niệm chung nhất về tội trộm cắp tài sản, để hiểu được
tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội trộm cắp tài sản cần nghiên cứu về các
dấu hiệu pháp lý của nó. Tội phạm là thể thống nhất của bốn yếu tố: khách thể,
mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể. Tội trộm cắp tài sản cũng bao gồm bốn
yếu tố cơ bản trên, trước hết cần nghiên cứu về khách thể của tội phạm.
2.1. Khách thể của tội trộm cắp tài sản
Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ
và bị tội phạm xâm hại. Bất kì tội phạm nào cũng đều xâm hại đến một hoặc một
số quan hệ xã hội nhất định được luật hình sự bảo vệ bằng cách gây thiệt hại
hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội đó. Những đối tượng được
xác định cần bảo vệ bởi các quy phạm pháp luật hình sự bao gồm: “Độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, chế độ chính trị, chế độ kinh
tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, quyền lợi ích hợp

pháp của tổ chức, tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các
quyền lợi ích hợp pháp khác của công dân, những lĩnh vực khác của trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa” (Điều 8 BLHS). Tội trộm cắp tài sản thuộc nhóm
tội xâm phạm sở hữu, khách thể của tội trộm cắp tài sản là quan hệ sở hữu tài
sản. “Sở hữu”, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin là tổng thể các quan hệ
xã hội phát sinh trong quá trình sản xuất và phân phối của cải vật chất giữa con
người với nhau trong xã hội. Quan hệ sở hữu tài sản là quan hệ xã hội trong đó
quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản được pháp luật tôn trọng và bảo vệ.
Pháp luật dân sự Việt Nam quy định một người được coi là chủ sở hữu tài sản
khi người đó có đầy đủ ba quyền năng: quyền chiếm hữu là quyền quản lý, chi
phối tài sản; quyền sử dụng là quyền khai thác các lợi ích vật chất và tinh thần từ
tài sản; quyền định đoạt là quyền quyết định số phận của tài sản như bán, cho
thuê Khi có hành vi trộm cắp tài sản (hành vi chiếm đoạt tài sản) làm cho chủ
sở hữu tài sản không có khả năng thực hiện được các quyền năng đó của mình
trên thực tế, nghĩa là quyền sở hữu tài sản của họ bị xâm phạm.
Đối với hành vi trộm cắp tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của chủ tài
sản thì khách thể của tội trộm cắp tài sản là quan hệ sở hữu tài sản, vậy đối với
những tài sản không thuộc quyền sở hữu hợp pháp của chủ tài sản như: tài sản
do chiếm hữu bất hợp pháp, tài sản do phạm tội mà có thì những tài sản mà
người bị chiếm đoạt có được không được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Luật
hình sự đã khẳng định khách thể của tội phạm phải là quan hệ xã hội được luật
hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại, vì vậy trong trường hợp này khách thể
của tội trộm cắp tài sản không phải là quan hệ sở hữu tài sản. Hành vi phạm tội
trộm cắp tài sản là hành vi nguy hiểm cho xã hội bị pháp luật nghiêm cấm, bị xã
hội lên án, nó ảnh hưởng đến tình hình trật tự, an toàn xã hội. Do đó, trong
trường hợp này khách thể của tội trộm cắp tài sản là quan hệ xã hội liên quan
đến trật tự an toàn xã hội. Nếu cho rằng khách thể của tội trộm cắp tài sản chỉ là
quan hệ sở hữu tài sản thì trường hợp trên sẽ không cấu thành tội phạm, điều
này bất hợp lý và dẫn đến bỏ lọt tội phạm khi hành vi trộm cắp tài sản hợp pháp
thì phạm tội còn hành vi trộm cắp tài sản bất hợp pháp thì không phạm tội. Vì

vậy khi có hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác, dù tài sản đó có thuộc
quyền sở hữu hợp pháp của chủ tài sản hay không thì vẫn là trộm cắp tài sản.
Khi nghiên cứu khách thể của tội phạm không thể không tìm hiểu đối
tượng tác động của tội phạm vì mỗi tội phạm đều xâm hại tới khách thể nhất
định thông qua việc tác động đến một đối tượng cụ thể. Là quan hệ xã hội nên
khách thể của tội phạm được cấu thành bởi ba bộ phận là chủ thể của quan hệ xã
hội (con người), đối tượng của quan hệ xã hội (các vật, hiện tượng tồn tại khách
quan), nội dung của quan hệ xã hội (sự hoạt động bình thường của các chủ thể).
Khách thể của tội phạm không tách rời các bộ phận cấu thành, vì vậy khi xâm
hại tới khách thể thì hành vi phạm tội phải tác động đến các bộ phận cấu thành
nên khách thể làm biến đổi tình trạng bình thường của các bộ phận đó. Các bộ
phận cấu thành nên khách thể bị hành vi phạm tội tác động nhằm gây thiệt hại
hoặc đe dọa gây thiệt hại cho khách thể bảo vệ của luật hình sự gọi là đối tượng
tác động của tội phạm. Đối với tội trộm cắp tài sản, hành vi phạm tội là hành vi
chiếm đoạt tài sản của người khác, đó là sự dịch chuyển một cách trái pháp luật
tài sản của người khác thành tài sản của mình làm biến đổi tình trạng bình
thường của tài sản. Vì vậy đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản là tài sản,
nhưng không phải mọi tài sản đều có thể trở thành đối tượng tác động của tội
trộm cắp tài sản, để trở thành đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản thì tài
sản đó phải có những đặc điểm nhất định. Trước hết tài sản đó phải là tài sản của
người khác, đang có sự quản lý. Hành vi lấy đi tài sản của mình, do mình quản
lý hoặc tài sản không còn nằm trong sự quản lý của chủ tài sản như tài sản bị bỏ
quên, đánh rơi, tài sản vô chủ, hoặc tài sản mà chủ sở hữu đã từ bỏ quyền sở hữu
thì không phải là hành vi trộm cắp tài sản mà có thể cấu thành tội khác như tội
chiếm giữ trái phép tài sản (Điều 141 BLHS). Tài sản là đối tượng tác động của
tội trộm cắp tài sản phải được thể hiện dưới dạng vật chất cụ thể có giá trị và giá
trị sử dụng, Điều 163 BLDS 2005 quy định: “Tài sản gồm vật, tiền, giấy tờ có
giá và các quyền tài sản”.
“Vật” có thể trở thành đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản nếu nó
nằm trong sự chiếm hữu của con người, “tiền” bao gồm tiền Việt Nam và tiền

nước ngoài đang được lưu hành trên thị trường, “giấy tờ có giá” gồm hai loại là
giấy tờ có giá ghi danh có ghi tên chủ sở hữu và giấy tờ có giá vô danh không
ghi tên chủ sở hữu, ai nắm giữ nó thì có quyền sở hữu nó, vì vậy chỉ có giấy tờ
có giá vô danh mới có thể trở thành đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản
vì khi lấy nó người phạm tội mới thực hiện được quyền của chủ sở hữu, còn với
giấy tờ có giá ghi danh chỉ có chủ sở hữu mới có thể thực hiện được quyền sở
hữu của mình nó không thể bị dịch chuyển một cách trái phép bởi hành vi chiếm
đoạt. Đối với tài sản là “quyền tài sản” như quyền đòi nợ , nó tồn tại dưới
dạng vô hình không nhìn thấy sờ thấy nó gắn liền với một chủ thể nhất định,
trình tự xác lập thực hiện quyền sở hữu đối với tài sản đó tuân theo quy định
pháp luật và không thể bị dịch chuyển trái phép bởi hành vi chiếm đoạt nên
“quyền tài sản” cũng không phải là đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản.
Tài sản là đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản phải tồn tại dưới
dạng một động sản theo quy định của BLDS. Những tài sản thuộc loại bất động
sản có tính chất vật lý cố định không di dời được như đất đai, nhà cửa không
là đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản. Tuy nhiên có một số tài sản nếu
tách riêng thì nó là động sản nhưng luật dân sự quy định là bất động sản do công
dụng của nó như cánh cửa gắn liền với ngôi nhà, cây cối trồng trên đất vẫn có
thể là đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản. Cần lưu ý là, đối với tài sản
đặc thù pháp luật có quy định riêng như: tàu bay, tàu thuỷ, vũ khí quân dụng,
phương tiện kĩ thuật quân sự, đất đai, chiến lợi phẩm không thể là đối tượng
tác động của tội trộm cắp tài sản dù nó có bị hành vi phạm tội xâm hại tới, mà
nó sẽ là đối tượng tác động của các tội phạm khác như tội chiếm đoạt tàu bay,
tàu thuỷ (Điều 221 BLHS), tội chiếm đoạt vũ khí quân dụng phương tiện kĩ
thuật quân sự (Điều 230 BLHS)
Nghiên cứu đối tượng tác động của tội phạm có ý nghĩa quan trọng vì
thực tiễn chỉ ra rằng một trong những nguyên nhân dẫn đến việc xử lý chưa
đúng người đúng tội là do chưa xác định đúng đối tượng tác động của tội phạm,
còn nhầm lẫn giữa đối tượng tác động của tội này với đối tượng tác động của tội
khác. Vì vậy để đấu tranh phòng chống tội phạm có hiệu quả thì phải xác định

đúng đối tượng tác động của tội phạm.
Để tìm hiểu về những biểu hiện bên ngoài của tội trộm cắp tài sản cần
nghiên cứu mặt khách quan của tội phạm với những dấu hiệu pháp lý của nó.
2.2. Mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản
Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện ra bên ngoài của tội
phạm bao gồm: Hành vi (khách quan) nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm
cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả nguy
hiểm; cũng như những biểu hiện bên ngoài khác liên quan đến việc thực hiện tội
phạm như: công cụ phương tiện, địa điểm, thời gian phạm tội
Biểu hiện thứ nhất thuộc mặt khách quan của tội phạm là hành vi phạm
tội. BLHS quy định tội phạm phải được thể hiện bằng hành vi, theo đó hành vi
khách quan của tội phạm là những biểu hiện của con người ra bên ngoài thế giới
khách quan được ý thức kiểm soát và ý chí điều khiển, có tính nguy hiểm cho xã
hội và được quy định trong BLHS. Theo cách hiểu truyền thống từ xưa đến nay
cũng như thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm, hành vi khách quan của tội
trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác. “Chiếm
đoạt” dưới góc độ pháp lý là việc cố ý chuyển dịch một cách trái pháp luật tài
sản của người khác thành tài sản của mình, làm cho chủ tài sản không có khả
năng thực hiện được quyền chủ sở hữu đối với tài sản đó trên thực tế mặc dù về
mặt pháp lý không làm cho chủ sở hữu mất đi quyền sở hữu tài sản của mình.
Hành vi chiếm đoạt trong tội trộm cắp tài sản phải có tính chất lén lút (được
thực hiện bằng thủ đoạn lén lút). “Lén lút” được hiểu là hành vi cố ý giấu diếm,
vụng trộm không để lộ ra do có ý gian [15, tr.467]. “Lén lút” chiếm đoạt tài sản
trong tội trộm cắp tài sản là hành vi của một người cố ý thực hiện một việc làm
bất minh, vụng trộm, giấu diếm không để lộ ra cho người khác biết nhằm chiếm
đoạt tài sản của người khác, nó có đặc điểm khách quan là “lén lút” và ý thức
chủ quan của người phạm tội cũng là “lén lút”. Hành vi chiếm đoạt được coi là
“lén lút” nếu được thực hiện bằng hình thức có khả năng không cho phép chủ
tài sản biết khi hành vi này xảy ra, ví dụ: lợi dụng lúc chủ nhà đi vắng, người
phạm tội đã đột nhập vào nhà lấy trộm tài sản; ý thức chủ quan của người phạm

tội là “lén lút” nếu khi thực hiện hành vi chiếm đoạt người này có ý thức che
giấu hành vi mình đang thực hiện. Việc che giấu này chỉ đòi hỏi với chủ tài sản
còn với những người khác người phạm tội có thể “lén lút” hoặc công khai thực
hiện hành vi phạm tội. Trong thực tế, hành vi “lén lút” chiếm đoạt tài sản có thể
được thực hiện dưới những hình thức khác nhau: có thể người phạm tội thực
hiện hành vi chiếm đoạt một cách giấu diếm vụng trộm, che giấu toàn bộ sự việc
phạm tội, ví dụ: Nguyễn Thị H là người giúp việc cho gia đình anh N. Nhân lúc
chủ nhà đi vắng H đã lấy trộm tài sản nhà anh N rồi bỏ đi; có thể người phạm tội
thực hiện hành vi chiếm đoạt công khai, trắng trợn không có ý che đậy giấu
diếm hành vi phạm tội, họ chỉ che giấu hành vi phạm tội với chủ tài sản: hoặc là
công khai sự vi phạm pháp luật cuả hành vi phạm tội như: người phạm tội ngang
nhiên móc trộm ví của chủ tài sản ngay trước sự chứng kiến của những người
xung quanh nhân lúc chủ tài sản không để ý, hoặc là công khai thực hiện hành vi
chiếm đoạt nhưng bản chất chiếm đoạt đã được che đậy, ví dụ: người phạm tội
đóng giả là nhân viên chở hàng của công ty đã ngang nhiên chở hàng ra khỏi
công ty trước sự chứng kiến của các nhân viên trong công ty.
Như vậy, dù là hành vi chiếm đoạt được thực hiện công khai hay giấu
diếm thì đều có chung bản chất là “lén lút” chiếm đoạt đối với chủ tài sản.
Trường hợp hành vi chiếm đoạt được thực hiện công khai trước mắt những
người không có trách nhiệm đối với tài sản hoặc không hiểu bản chất của hành
vi thì vẫn là trộm cắp tài sản. Thực tiễn đấu tranh phòng chống tội trộm cắp tài
sản cho thấy, tuy người khác có mặt tại nơi xảy ra hành vi trộm cắp tài sản
nhưng họ không hiểu đó là hành vi trộm cắp tài sản, không biết đó là người trộm
cắp hay chủ tài sản nên không để ý đến việc lấy tài sản đi nơi khác. Hiện tượng
này xảy ra phổ biến vì người có mặt tại nơi xảy ra hành vi trộm cắp tài sản
tưởng rằng người trộm cắp là khách quen hoặc chủ tài sản, do đó người phạm tội
chỉ có ý thức che giấu hành vi phạm tội của mình với chủ tài sản chứ không có ý
thức che giấu đối với những người khác.
Trên đây đã đề cập đến hành vi trộm cắp tài sản, đó là hành vi “lén lút”
chiếm đoạt tài sản đối với chủ tài sản, chủ tài sản có thể là chủ sở hữu tài sản

hoặc người có trách nhiệm đối với tài sản (gọi là người quản lý tài sản). Chủ sở
hữu tài sản theo quy định của pháp luật dân sự là người có đầy đủ ba quyền
năng: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản, những quyền
năng này được pháp luật ghi nhận bảo vệ và không bị giới hạn, gián đoạn. Đối
với người quản lý tài sản, trước hết “quản lý” được hiểu là trông coi giữ gìn
theo những yêu cầu nhất định (Theo Từ điển tiếng Việt - Viện ngôn ngữ học,
Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2003). Như vậy, người quản lý tài sản là người đang
nắm giữ, trông coi, bảo vệ tài sản nhưng không phải chủ sở hữu và không có
quyền định đoạt tài sản đó; người quản lý tài sản có thể là người trực tiếp quản
lý tài sản khi tài sản đang nằm trong sự chi phối trực tiếp của họ hoặc là người
quản lý gián tiếp khi họ không trực tiếp nắm giữ tài sản nhưng do tính chất công
việc nên họ có trách nhiệm trông coi bảo vệ tài sản (ví dụ: tiền của cơ quan do
thủ quỹ trực tiếp quản lý nhưng hết giờ làm việc bảo vệ có trách nhiệm trông coi
số tài sản đó) hoặc khi tài sản đó là của cơ quan nhà nước nhưng để ở nơi công
cộng phục vụ sinh hoạt chung như: công tơ điện do người trông coi trạm biến áp
quản lý nhưng được đặt ở các cột điện bên đường. Người quản lý tài sản cũng có
thể là người quản lý trong trường hợp bình thường khi được chủ sở hữu giao
quản lý tài sản thông qua hợp đồng trông giữ tài sản, hoặc là người quản lý tài
sản trong trường hợp đặc biệt khi có sự kiện pháp lý xảy ra sẽ phát sinh trách
nhiệm quản lý tài sản (thực tế thường là trường hợp người đó tự nguyện đứng ra
trông coi quản lý tài sản cho chủ sở hữu, ví dụ: khi chủ nhà đi vắng thì nhà bị
cháy, hàng xóm đã dập đám cháy và bảo vệ tài sản cho chủ nhà chờ khi chủ nhà
về sẽ giao lại tài sản, hoặc khi chủ sở hữu không có điều kiện bảo vệ tài sản của
mình, ví dụ: A và B đang đi xe trên đường thì bị tai nạn, A ngất đi còn B vẫn
tỉnh táo, khi đó phát sinh trách nhiệm quản lý tài sản của B đối với tài sản của
A).
Trong những trường hợp trên, bất kể đó là chủ sở hữu hay người quản lý
tài sản, người quản lý trực tiếp hay gián tiếp, người quản lý trong trường hợp
bình thường hay trường hợp đặc biệt thì người phạm tội muốn chiếm đoạt tài sản
đều phải “lén lút” với những người này.

Nghiên cứu tính chất của hành vi chiếm đoạt tài sản có ý nghĩa quan
trọng, giúp phân biệt tội trộm cắp tài sản với một số tội phạm khác nhất là tội
công nhiên chiếm đoạt tài sản, ví dụ sau đây sẽ làm sáng tỏ vấn đề trên: A và B
đang cùng nhau đi trên đường thì bị tai nạn giao thông, A bị thương nặng nên
ngất đi, B bị thương nhưng vẫn tỉnh táo, lúc này phát sinh trách nhiệm quản lý
tài sản của B. Người phạm tội muốn trộm cắp tài sản thì phải “lén lút” với B,
nếu lợi dụng tình trạng B bị thương không có điều kiện để bảo vệ tài sản mà
người phạm tội công khai lấy tài sản trước mặt B thì là công nhiên chiếm đoạt
tài sản. Còn đối với trường hợp cả A và B bị thương đều ngất đi không có ai
đứng ra bảo vệ tài sản cho họ mà người phạm tội công khai lấy tài sản trước sự
chứng kiến của những người xung quanh thì vẫn là trộm cắp tài sản, người phạm
tội vẫn “lén lút” đối với chủ tài sản là A và B khi thực hiện hành vi chiếm đoạt
[20, tr.26].
Nội dung biểu hiện thứ hai thuộc mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản
là hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Hậu quả nguy hiểm của tội phạm
là thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho những quan hệ xã hội là khách thể
bảo vệ của luật hình sự, được thể hiện thông qua sự biến đổi tình trạng bình
thường của các bộ phận cấu thành nên khách thể (đối tượng tác động của tội
phạm). Bất kì tội phạm nào cũng có thể gây ra những hậu quả nguy hiểm cho xã
hội nhưng dấu hiệu hậu quả của tội phạm không được phản ánh trong tất cả các
cấu thành tội phạm. Dấu hiệu này chỉ được mô tả khi hành vi chỉ có tính nguy
hiểm cho xã hội nếu đã gây ra hậu quả nhất định cho xã hội. Tính chất và mức
độ của hậu quả được xác định bởi tính chất và mức độ biến đổi tình trạng bình
thường của đối tượng tác động của tội phạm. Với những tội phạm mà dấu hiệu
hậu quả nguy hiểm được phản ánh trong cấu thành tội phạm thì tội phạm đó sẽ
có cấu thành vật chất.
Đối với tội trộm cắp tài sản, hậu quả nguy hiểm cho xã hội thể hiện qua
sự biến đổi tình trạng bình thường của tài sản được gọi là thiệt hại về tài sản, thể
hiện dưới dạng tài sản bị chiếm đoạt. Trong cấu thành tội trộm cắp tài sản, hậu
quả của tội phạm là tài sản bị chiếm đoạt có giá trị ở mức nhất định (từ năm

trăm nghìn đồng trở lên- trong trường hợp thông thường), dựa vào mức giá trị
tài sản bị chiếm đoạt điều luật đã phân chia thành các khung hình phạt tương
ứng với các mức độ hậu quả đó.
Nội dung biểu hiện thứ ba thuộc mặt khách quan của tội phạm là mối
quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Theo nguyên
tắc của luật hình sự Việt Nam: một người chỉ phải chịu TNHS về hậu quả nguy
hiểm cho xã hội do chính hành vi của họ gây ra, tức là giữa hành vi phạm tội và
hậu quả có mối quan hệ nhân quả với nhau. Luật hình sự Việt Nam không quy
định thế nào là mối quan hệ nhân quả, nhưng dựa vào cặp phạm trù nhân - quả
của phép biện chứng duy vật có thể xác định được mối quan hệ nhân quả đó là
hành vi nguy hiểm cho xã hội phải có trước, là nguyên nhân gây nên hậu quả
nguy hiểm cho xã hội; đồng thời hậu quả đó chính là kết quả của hành vi nguy
hiểm cho xã hội. Đối với tội trộm cắp tài sản, hậu quả thiệt hại về tài sản (mất tài
sản) chính là kết quả của hành vi trộm cắp tài sản.
Khi nghiên cứu mặt khách quan của tội phạm không thể không tìm hiểu
về mặt chủ quan của tội phạm bởi lẽ tội phạm là sự thống nhất giữa mặt khách
quan và mặt chủ quan, giữa những biểu hiện bên ngoài và hoạt động tâm lý bên
trong.
2.3. Mặt chủ quan của tội trộm cắp tài sản
Mặt chủ quan của tội phạm là những diễn biến tâm lý bên trong của tội
phạm bao gồm: lỗi của người phạm tội, mục đích phạm tội, động cơ phạm tội;
trong đó lỗi là yếu tố được phản ánh trong tất cả các cấu thành tội phạm.
Điều 8 BLHS quy định: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được
quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực
hiện một cách cố ý hoặc vô ý ”. Nguyên tắc lỗi là nguyên tắc cơ bản trong luật
hình sự Việt Nam, một người chỉ phải chịu TNHS về hành vi nguy hiểm cho xã
hội khi họ có lỗi trong khi thực hiện hành vi đó. Người thực hiện hành vi bị coi
là có lỗi nếu họ có sự tự do lựa chọn thực hiện hành vi đó trong khi họ có đủ
điều kiện lựa chọn xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội. Do vậy, lỗi được
hiểu là thái độ tâm lý của người phạm tội đối với hành vi và hậu quả nguy hiểm

cho xã hội, được thực hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý.
Về mặt hình thức, lỗi gồm hai yếu tố cấu thành là yếu tố lý trí (thể hiện
khả năng nhận thức của chủ thể) và yếu tố ý chí (thể hiện khả năng điều khiển
hành vi của chủ thể). Căn cứ vào đặc điểm cấu trúc tâm lý của hai yếu tố đó
người ta chia lỗi thành hai loại là lỗi cố ý và lỗi vô ý. Lỗi cố ý là trường hợp
người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình nguy hiểm cho xã hội, thấy trước
hậu quả của hành vi và mong muốn hậu quả xảy ra (lỗi cố ý trực tiếp), hoặc thấy
trước hậu quả có thể xảy ra tuy không mong muốn nhưng có ý thức để mặc hậu
quả xảy ra (lỗi cố ý gián tiếp); lỗi vô ý là trường hợp người phạm tội do cẩu thả
mà không thấy trước khả năng gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội mặc dù phải
thấy trước và có thể thấy trước (lỗi vô ý do cẩu thả), hoặc tuy thấy trước hành vi
của mình có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả
không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được (lỗi vô ý vì quá tự tin). Đối với tội
trộm cắp tài sản, lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp. Về mặt lý trí, người
phạm tội nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy
trước hậu quả nguy hiểm có thể xảy ra; về mặt ý chí: người phạm tội mong
muốn hậu quả xảy ra, mong muốn chiếm đoạt được tài sản, hậu quả này người
phạm tội đã thấy trước và nó hoàn toàn phù hợp với mục đích của người phạm
tội. Việc xác định nhận thức chủ quan của người phạm tội để xác định lỗi của họ
là rất quan trọng: nếu người phạm tội biết rõ tài sản bị chiếm đoạt đang có người
quản lý thì sẽ phạm tội trộm cắp tài sản, còn nếu họ thực sự có sai lầm cho rằng
tài sản đó là của mình (ví dụ như cầm nhầm tài sản ) hoặc tài sản đó không có
chủ thì sẽ không phạm tội trộm cắp tài sản. Trong thực tế có trường hợp một
người đã lầm tưởng tài sản của người khác là tài sản của mình nên lấy đi, trường
hợp này không phạm tội trộm cắp tài sản, ví dụ: cơ quan yêu cầu các cán bộ phải
mặc đồng phục, khi có người cởi áo để trong phòng làm việc người này tưởng
đó là áo của mình nên đã lấy đi Nhưng nếu sau đó người này biết đó không
phải là tài sản của mình mà lấy đi, giữ lại hoặc tự ý định đoạt tài sản thì phải coi
đó là hành vi trộm cắp tài sản. Như vậy, khi người phạm tội thực hiện hành vi
trộm cắp tài sản, họ biết rõ tài sản đó là của người khác mà vẫn chiếm đoạt. Đối

với việc xác định ý thức chủ quan của người phạm tội trong trường hợp “xâm
phạm tài sản của Nhà nước” được quy định là tình tiết tăng nặng TNHS còn có
nhiều quan điểm khác nhau, có quan điểm cho rằng việc áp dụng tình tiết tăng
nặng đó phụ thuộc vào ý thức chủ quan của người phạm tội, nếu họ biết rõ tài
sản đó là của Nhà nước mà vẫn chiếm đoạt thì áp dụng tình tiết tăng nặng đó,
còn nếu họ không thể biết hoặc thực sự có sai lầm cho rằng tài sản đó là của
công dân thì không áp dụng tình tiết tăng nặng đó, có quan điểm cho rằng cứ có
hành vi “xâm phạm tài sản của Nhà nước” là áp dụng tình tiết tăng nặng không
cần xác định ý thức chủ quan của người phạm tội. Theo tác giả, việc xác định ý
thức chủ quan của người phạm tội trong trường hợp này là điều cần thiết, nếu
người phạm tội biết rõ tài sản đó là của Nhà nước mà vẫn chiếm đoạt thì áp
dụng tình tiết tăng nặng “xâm phạm tài sản của Nhà nước”, nếu người phạm tội
không thể biết tài sản đó là của Nhà nước hoặc họ thực sự có sai lầm cho rằng
tài sản đó không phải của Nhà nước thì không áp dụng tình tiết tăng nặng đó,
còn trong trường hợp khi chiếm đoạt người phạm tội không cần biết tài sản đó là
của Nhà nước hay của công dân thì nếu tài sản đó là của Nhà nước sẽ áp dụng
tình tiết tăng nặng “xâm phạm tài sản của Nhà nước”, nếu tài sản đó không phải
là tài sản của Nhà nước thì không áp dụng tình tiết tăng nặng đó, với cách hiểu
như vậy sẽ hợp lý hơn đồng thời có tác dụng răn đe những người biết rõ tài sản
đó là của Nhà nước, có ý nghĩa quan trọng đối với xã hội mà vẫn chiếm đoạt.
Biểu hiện thứ hai thuộc mặt chủ quan của tội trộm cắp tài sản là mục đích
phạm tội. Mục đích phạm tội được hiểu là kết quả mà người phạm tội hướng tới,
nhằm đạt được khi thực hiện tội phạm. Mục đích của người phạm tội trộm cắp
tài sản là mục đích chiếm đoạt. Người phạm tội mong muốn chiếm đoạt được tài
sản của người khác biến nó thành tài sản của mình. Hành vi trộm cắp tài sản là
hành vi chiếm đoạt tài sản, hành vi này đã thể hiện được mục đích của người
phạm tội, tuy nó không được nhà làm luật quy định trong cấu thành tội phạm
nhưng nó là dấu hiệu bắt buộc, mục đích này luôn được đặt ra trước khi người
phạm tội thực hiện tội phạm. Ngoài ra còn phải kể đến động cơ phạm tội, đó là
động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện tội phạm. Động cơ phạm

tội trong tội trộm cắp tài sản là động cơ vụ lợi, nhưng đó không phải là dấu hiệu
bắt buộc trong cấu thành tội trộm cắp tài sản.
Để tìm hiểu toàn diện về tội trộm cắp tài sản, cần tìm hiểu về độ tuổi và
năng lực TNHS của người thực hiện hành vi phạm tội.
2.4. Chủ thể của tội trộm cắp tài sản
Theo quy định của BLHS: “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật
hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự ” (Điều 2 BLHS) và “Tội
phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự do
người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện ” (Điều 8 BLHS), có thể thấy
theo luật hình sự Việt Nam, chủ thể của tội phạm chỉ có thể là con người cụ thể
đã thực hiện hành vi phạm tội được quy định trong BLHS. Chủ thể của tội phạm
theo luật hình sự Việt Nam phải là cá nhân, nhưng không phải ai cũng có thể trở
thành chủ thể của tội phạm. Tội phạm theo luật hình sự Việt Nam phải có tính
có lỗi, do vậy chỉ những người có lỗi trong khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho
xã hội mới có thể là chủ thể của tội phạm, đó là người có năng lực TNHS và đạt
độ tuổi luật định. Năng lực TNHS là khả năng nhận thức và điều khiển hành vi
của mình theo đòi hỏi của xã hội, người có năng lực TNHS là người khi thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức được tính chất nguy
hiểm cho xã hội và có khả năng điều khiển được hành vi đó, do đó chỉ những
người có năng lực TNHS mới có thể trở thành chủ thể của tội phạm. Luật hình
sự Việt Nam không quy định thế nào là người có năng lực TNHS mà chỉ quy
định những trường hợp được coi là không có năng lực TNHS và tuổi chịu
TNHS, theo đó một người khi đạt độ tuổi luật định và không thuộc trường hợp
không có năng lực TNHS thì đương nhiên được coi là người có năng lực TNHS.
Điều12 BLHS quy định: “Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách
nhiệm hình sự về mọi tội phạm, người từ đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 16 tuổi phải
chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng”.
Khoản 3 Điều 8 BLHS quy định: “Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm
gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với

tội ấy là đến mười lăm năm tù, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây
nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với
tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình”.
Ngoài hai dấu hiệu năng lực TNHS và tuổi chịu TNHS, một số tội còn đòi
hỏi chủ thể phải có những dấu hiệu đặc biệt gọi là chủ thể đặc biệt của tội phạm.
Đối với tội trộm cắp tài sản, chủ thể của tội phạm là chủ thể bình thường, đó là
người có năng lực TNHS và đạt độ tuổi luật định. Theo đó, người từ đủ 14 tuổi
nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu TNHS về tội trộm cắp tài sản theo khoản 3, 4
Điều138 BLHS; người từ đủ 16 tuổi phải chịu TNHS về tội trộm cắp tài sản
trong mọi trường hợp phạm tội.
Như vậy, chủ thể của tội trộm cắp tài sản là người từ đủ 14 tuổi trở lên, có
năng lực TNHS đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản được quy định tại Điều
138 BLHS.
3. Đồng phạm và các giai đoạn thực hiện tội trộm cắp tài sản
3.1. Đồng phạm trộm cắp tài sản
Tội phạm nói chung cũng như tội trộm cắp tài sản nói riêng không chỉ
thực hiện bởi một người mà có thể được thực hiện bởi nhiều người mà giữa họ
đã có sự thống nhất ý chí cùng thực hiện một tội phạm, trường hợp phạm tội đặc
biệt này trong khoa học luật hình sự gọi là đồng phạm.
“Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một
tội phạm” (Điều 20 BLHS), do đó đồng phạm trộm cắp tài sản là trường hợp có
hai người trở lên cố ý cùng thực hiện tội trộm cắp tài sản. Từ khái niệm trên có
thể rút ra một số dấu hiệu về đồng phạm trộm cắp tài sản như sau:
Thứ nhất, dấu hiệu về mặt khách quan: đồng phạm trộm cắp tài sản phải
có từ hai người trở lên và những người này có đủ điều kiện là chủ thể của tội
phạm (từ đủ 14 tuổi trở lên và không thuộc trường hợp không có năng lực
TNHS), ví dụ: A 17 tuổi và B 19 tuổi đã cùng nhau thực hiện hành vi trộm cắp
tài sản có giá trị 10 triệu đồng; dấu hiệu thứ hai là những người đồng phạm đó
cùng thực hiện tội trộm cắp tài sản.
Họ có thể tham gia thực hiện tội trộm cắp tài sản với một trong các hành

vi sau: hành vi thực hành tội trộm cắp tài sản, người có hành vi này gọi là người
thực hành; hành vi tổ chức việc thực hiện tội trộm cắp tài sản, người có hành vi
này gọi là người tổ chức; hành vi xúi giục người khác thực hiện tội trộm cắp tài
sản, người có hành vi này là người xúi giục; hành vi giúp người khác thực hiện
tội trộm cắp tài sản, người có hành vi này là người giúp sức, ví dụ: A có ý định
trộm cắp tài sản nên bàn với B và nhờ B đánh hộ chìa khoá để mở cửa vào nhà
người khác trộm cắp tài sản. Trong trường hợp này A và B là đồng phạm trộm
cắp tài sản, A là người thực hành còn B là người giúp sức.
Thứ hai, dấu hiệu về mặt chủ quan: trước hết lỗi của những người đồng
phạm trộm cắp tài sản là lỗi cố ý, mỗi người đồng phạm không chỉ cố ý với hành
vi của mình mà còn biết và mong muốn sự cố ý tham gia của những người đồng
phạm khác (về lý trí, mỗi người đồng phạm biết hành vi của mình là nguy hiểm
cho xã hội và đều biết những người khác cũng có hành vi nguy hiểm cùng với
mình, mỗi người đồng phạm còn thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội do
hành vi của mình gây ra và hậu quả chung của tội phạm mà họ tham gia thực
hiện; về ý chí: những người đồng phạm cùng mong muốn có hoạt động chung và
cùng mong muốn hậu quả xảy ra); mục đích của những người đồng phạm khi
thực hiện tội trộm cắp tài sản là mục đích chiếm đoạt tài sản.
Trong thực tế, đồng phạm trộm cắp tài sản được thể hiện dưới những hình
thức khác nhau như đồng phạm có thông mưu trước và đồng phạm không có
thông mưu trước, đồng phạm giản đơn và phạm tội có tổ chức trong đó phạm tội
trộm cắp tài sản có tổ chức là hình thức đồng phạm rất phổ biến, gây thiệt hại
lớn cho xã hội. Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm mà giữa những
người đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ với nhau, có phân công nhiệm vụ cụ
thể, phân hoá vai trò rõ ràng, có sự chuẩn bị chu đáo cho việc thực hiện tội phạm
cũng như che giấu tội phạm do đó có khả năng cho phép thực hiện tội phạm
trong thời gian dài, liên tục gây hậu quả rất lớn, đặc biệt lớn cho xã hội. Ở hình
thức đồng phạm này, những người đồng phạm có sự thống nhất ý chí, quyết tâm
thực hiện tội phạm cao, ý chí thực hiện tội phạm đến cùng và không có trường
hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội.

Hiện nay, xuất hiện rất nhiều các băng, ổ nhóm chuyên trộm cắp tài sản
có người tổ chức lên kế hoạch cho việc thực hiện tội phạm gây thiệt hại lớn cho
xã hội, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự xã hội, ví dụ vụ án Trần Văn
A và Hoàng Văn B thường trú tại Hà Nội đã thành lập băng nhóm chuyên trộm
cắp tài sản là máy vi tính với địa bàn hoạt động chủ yếu là phường Tân Mai và
Hoàng Văn Thụ, chúng đã phân công cho đàn em điều tra nghiên cứu kĩ mục
tiêu, lên kế hoạch chu đáo cho việc thực hiện tội pham vì vậy chỉ trong khoảng
thời gian ngắn chúng đã liên tiếp thực hiện được nhiều vụ trộm cắp máy tính với
tổng trị giá tài sản lên đến vài trăm triệu đồng.
Chính vì tính nguy hiểm cao hơn của hình thức đồng phạm này so với
hình thức đồng phạm thông thường nên điều luật quy định tình tiết “phạm tội có
tổ chức” là tình tiết định khung tăng nặng.
Đối với đồng phạm trộm cắp tài sản, không chỉ có đồng phạm hành động
mà còn có đồng phạm không hành động, đó là trường hợp những người đồng
phạm trộm cắp tài sản không hành động phạm tội, ví dụ: A đã thoả thuận với B
là bảo vệ của cơ quan không khoá cửa kho để đến đêm A vào kho lấy trộm tài
sản của cơ quan. Trong trường hợp này A và B là đồng phạm trộm cắp tài sản, A
là người thực hành còn B là người giúp sức (không hành động phạm tội).
3.2. Các giai đoạn thực hiện tội trộm cắp tài sản
Tội phạm không phải lúc nào cũng được thực hiện đến cùng mà có thể
được thực hiện ở những mức độ khác nhau do nhiều nguyên nhân, trong khoa
học luật hình sự gọi là các giai đoạn thực hiện tội phạm.
Nghiên cứu các giai đoạn thực hiện tội phạm giúp xác định đúng TNHS
của người phạm tội, ở mỗi giai đoạn phạm tội BLHS có quy định khác nhau về
TNHS của người phạm tội. Để nghiên cứu tội trộm cắp tài sản một cách toàn
diện, cần nghiên cứu về các giai đoạn thực hiện tội trộm cắp tài sản.
Theo đó, các giai đoạn thực hiện tội phạm là các mức độ thực hiện tội
phạm cố ý bao gồm chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn
thành.
3.2.1. Chuẩn bị phạm tội trộm cắp tài sản

Chuẩn bị phạm tội là giai đoạn người phạm tội có hành vi tạo ra những
điều kiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm nhưng chưa bắt đầu thực hiện tội
phạm. Thời điểm sớm nhất của giai đoạn này là khi người phạm tội bắt đầu có
hành vi tạo ra những điều kiện vật chất hay tinh thần giúp cho việc thực hiện tội
phạm có thể xảy ra hoặc xảy ra thuận lợi hơn, thời điểm muộn nhất của giai
đoạn này là trước khi người phạm tội bắt đầu thực hiện hành vi phạm tội được
phản ánh trong cấu thành tội phạm. Tất cả những hành vi được thực hiện trong
giai đoạn này đều chưa trực tiếp làm biến đổi tình trạng bình thường của tài sản
là đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản để gây thiệt hại cho quan hệ sở
hữu là khách thể của tội phạm. Hành vi chuẩn bị phạm tội trộm cắp tài sản có
thể là những hành vi sau: hành vi chuẩn bị công cụ phương tiện phạm tội (ví dụ
như người phạm tội đã chuẩn bị sẵn kìm để cậy cửa đột nhập vào nhà người
khác lấy trộm tài sản), hành vi chuẩn bị kế hoạch, thăm dò địa điểm phạm tội
hay thăm dò làm quen nạn nhân, người bị hại (ví dụ: người phạm tội đóng giả là
khách lạ qua đường làm quen chủ nhà và xin ngủ nhờ qua đêm với ý định nửa
đêm chờ chủ nhà ngủ say sẽ lấy trộm tài sản). Ở giai đoạn này người phạm tội
chưa có hành vi chiếm đoạt tài sản nên họ chỉ phải chịu TNHS về tội trộm cắp
tài sản rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng (theo quy định tại Điều 17
BLHS).
Đối với tội trộm cắp tài sản có thể không có giai đoạn chuẩn bị phạm tội
mà nhiều trường hợp người phạm tội lợi dụng sơ hở, chủ quan của chủ tài sản
nên nảy sinh ý định trộm cắp chứ họ không có sự chuẩn bị từ trước cho việc
thực hiện tội phạm, ví dụ: A đang đi chơi về thì nhìn thấy có chiếc xe đạp dựng
ngoài cổng nên đã dắt chiếc xe đó đi
3.2.2. Phạm tội trộm cắp tài sản chưa đạt
Phạm tội chưa đạt là giai đoạn cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực
hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội.
Người phạm tội đã bắt đầu thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản được mô
tả trong cấu thành tội phạm nhưng đã không thực hiện được đến cùng, hành vi
phạm tội chưa thoả mãn hết các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của cấu thành

tội phạm, có thể người phạm tội mới thực hiện được hành vi đi liền trước hành
vi khách quan như người phạm tội đang mở khoá định đột nhập vào nhà lấy
trộm tài sản thì bị chủ nhà phát hiện, hoặc người phạm tội đã thực hiện hành vi
chiếm đoạt tài sản nhưng chưa thực hiện được đến cùng chưa gây thiệt hại tài
sản, ví dụ: người phạm tội đang giấu tài sản vừa chiếm đoạt được thì bị chủ tài
sản phát hiện thu giữ , ở đây người phạm tội không thực hiện được tội phạm
đến cùng là do nguyên nhân ngoài ý muốn chứ bản thân người phạm tội muốn
thực hiện tội phạm đến cùng nhằm chiếm đoạt được tài sản, do đó họ phải chịu
TNHS về tội phạm đó (theo quy định tại Điều 18 BLHS).

×