Tải bản đầy đủ (.pdf) (131 trang)

Yếu tố tự truyện trong văn xuôi đoàn lê

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (838.5 KB, 131 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2





BÙI THỊ THU






YẾU TỐ TỰ TRUYỆN
TRONG VĂN XUÔI ĐOÀN LÊ




LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM







HÀ NỘI - 2014































BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2





BÙI THỊ THU






YẾU TỐ TỰ TRUYỆN
TRONG VĂN XUÔI ĐOÀN LÊ



Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã ngành:60 22 01 20


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Lê Trà My






HÀ NỘI - 2014



LỜI CẢM ƠN

Trước hết, tôi xin bày tỏ lời tri ân chân thành và sâu sắc nhất của mình
tới TS. Lê Trà My – người thầy đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình
nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô giáo trong Khoa Ngữ
văn, các thầy cô giáo trong Phòng Sau Đại học – Trường Đại học Sư phạm Hà
Nội 2 đã truyền thụ cho tôi những tri thức quý báu để tôi thực hiện đề tài.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến nhà văn Đoàn Lê đã tạo
điều kiện cho tôi được gặp gỡ, tiếp xúc và khai thác tài liệu. Những chia sẻ
của nhà văn là nguồn tài liệu vô cùng quý báu và thiết thực để tôi thực hiện đề
tài.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè đã không ngừng
động viên, khích lệ trong suốt thời gian tôi học tập, nghiên cứu và hoàn thành
luận văn này.

Hà Nội, tháng 12 năm 2014
Học viên

Bùi Thị Thu


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các dữ
liệu và kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng ai khác công bố
trong bất kỳ công trình nào.
Tác giả luận văn


Bùi Thị Thu




















MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 12
4. Nhiệm vụ nghiên cứu và đóng góp của luận văn 12
5. Phương pháp nghiên cứu 13

NỘI DUNG
Chương 1. NHÀ VĂN ĐOÀN LÊ VÀ VẤN ĐỀ YẾU TỐ TỰ TRUYỆN 15
TRONG VĂN HỌC 15
1.1. Đời tư nhà văn và tính tự truyện trong văn học 15
1.1.1. Đời tư – chất liệu của sự sáng tạo 15
1.1.2. Sự phóng chiếu của cái tôi trong sáng tác 17
1.2. Yếu tố tự truyện trong các thể loại văn học 20
1.2.1. Yếu tố tự truyện trong các thể loại trữ tình 22
1.2.2 Yếu tố tự truyện trong các thể loại tự sự 23
1.2.2.1. Hồi ký tự truyện 25
1.2.2.2 Tiểu thuyết có khuynh hướng tự truyện. 27
1.2.2.3 Truyện ngắn có yếu tố tự truyện 31
1.3. Chất liệu đời tư và văn xuôi Đoàn Lê 33
1.3.1. Các chặng đường sáng tác văn xuôi của Đoàn Lê 33
1.3.2. Quan niệm sáng tác 35
1.3.3. Chất liệu đời tư và tính tự truyện trong văn xuôi Đoàn Lê 37
Tiểu kết chương 1: 39
Chương 2. CHẤT LIỆU ĐỜI TƯ VÀ CÁC ĐỀ TÀI VĂN HỌC TRONG
VĂN XUÔI ĐOÀN LÊ 41

2.1. Bi kịch gia đình 41
2.1.1. Bi kịch dòng họ, thân phận 42
2.1.2. Bi kịch tình yêu hôn nhân 45
2.2. Chuyện nghề 50
2.2.1. Câu chuyện về điện ảnh 50
2.2.2. Câu chuyện về hội họa 52
2.2.3. Câu chuyện về đồng nghiệp 54
2.3. Chuyện đời 56
2.3.1. Câu chuyện về người thân 56
2.3.2. Câu chuyện xóm làng ngõ phố 65

Tiểu kết chương 2: 74
Chương 3. CHẤT LIỆU ĐỜI TƯ VÀ MÔ HÌNH THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT
TRONG VĂN XUÔI ĐOÀN LÊ 75
3.1. Không gian nghệ thuật 75
3.1.1. Không gian xóm Chùa 76
3.1.2. Không gian xóm Núi 81
3.1.3. Không gian đời sống gia đình 83
3.1.4. Các không gian khác 85
3.2. Thời gian nghệ thuật 87
3.2.1. Thời gian thực tại 89
3.2.2. Thời gian hồi ức 91
3.3. Nhân vật 93
3.3.1. Thế giới nhân vật và kiểu nhân vật nữ 94
3.3.1.1. Nhân vật nữ với bi kịch đời sống 95
3.3.1.2. Nhân vật nữ - những con người người hi sinh, chịu đựng 99
3.3.1.3. Nhân vật nữ với tình mẫu tử 101
3.3.1.4. Nhân vật nữ với ý thức phản kháng 103

3.3.2. Nhân vật được khai thác ở chiều sâu nội tâm 106
Tiểu kết chương 3 111
KẾT LUẬN 112
THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 115
PHỤ LỤC 119


1


MỞ ĐẦU


1. Lí do chọn đề tài
1.1. Trong lịch sử xã hội loài người, sự phát triển ý thức cá nhân là dấu
hiệu của sự phát triển ý thức con người về vai trò chủ thể của mình trong mối
quan hệ với tự nhiên, với xã hội, với bản thân. Trong văn học, sự vận động và
phát triển của một nền văn học được thể hiện ở trình độ chiếm lĩnh con người,
sự khám phá và lí giải về đời sống cá nhân, về cá tính là một vấn đề có giá trị
vô cùng quan trọng.
Trước đây, văn học thường nói đến những vấn đề chung mang tính chất
cộng đồng, dân tộc. Nếu nói đến cái tôi thì cái tôi ấy cũng phải gắn với cái ta
chung của quốc gia, dân tộc, không có chỗ cho cái tôi cá nhân theo đúng
nghĩa của nó xuất hiện một cách trực diện. Con người cá nhân được nói đến
trong văn học nằm trong quan niệm chung về con người lúc đó còn sơ lược,
một chiều. Theo thời gian, cùng với sự phát triển của đời sống xã hội, việc nói
về cái tôi cùng sự khẳng định về cái tôi cá nhân ngày càng được bộc lộ rõ nét
và trở thành nhu cầu, khát vọng của con người.
Đặc biệt, từ sau đổi mới, nhu cầu “tự thú”, nhu cầu “công bố” phần bí
ẩn thực sự của mỗi cá nhân con người nhằm làm sáng tỏ “tôi” đã trở thành
một trào lưu trong đời sống hiện đại. Vì thế ta không ngạc nhiên khi các nhà
văn lần lượt cho ra đời những tác phẩm ngược thời gian viết về đời sống riêng
tư của từng cá nhân. Trong mỗi tác phẩm đều mang bóng dáng đời tư của tác
giả hay nói cách khác là mang yếu tố tự truyện. Do độ lùi thời gian cùng với
sự can thiệp trực tiếp, có dụng ý của cái “tôi” người viết, chân dung tác giả
trong tự truyện có độ lệch nhất định so với cuộc đời thật của nhà văn. Chính
sự cách biệt giữa thời gian viết và thời gian được nói tới đã ngăn trở việc
người viết nhìn lại cuộc đời của bản thân mình như một chỉnh thể duy nhất. Ở

2


tác phẩm văn học mang yếu tố tự truyện, các sự kiện tiểu sử, đời tư của nhà

văn chỉ đóng vai trò cơ sở của sáng tạo nghệ thuật, là chất liệu hiện thực được
tác giả sử dụng với nỗ lực tiếp cận trạng thái tinh thần thời đại cũng như hiện
thực tinh tế của tâm hồn con người.
Sự bùng nổ cùng sức hút thẩm mĩ của tự truyện được minh chứng bằng
hàng loạt truyện dài, tiểu thuyết có tiếng vang nhất định: Thƣợng đế thì cƣời
(Nguyễn Khải), Một mình một ngựa (Ma Văn Kháng), Gia đình bé mọn
(Dạ Ngân), Chuyện kể năm 2000 (Bùi Ngọc Tấn), Miền thơ ấu (Vũ Thư
Hiên), Tuổi thơ im lặng (Duy Khán), Khúc đồng dao lấm láp (Kao Sơn),
Đƣờng về với mẹ Chữ (Vi Hồng), Tiền định (Đoàn Lê).
Hòa trong xu thế khai thác cái tôi bản thể đó, những trang văn của
Đoàn Lê cũng tạo được dấu ấn, vị thế riêng bởi nhiều va đập, đắng đót với cõi
mình, cõi người. Trong hành trình văn xuôi của mình, Đoàn Lê tỏ ra là một
cây bút giàu trải nghiệm. Tính tự truyện trong văn xuôi Đoàn Lê không chỉ
xuất hiện trong tiểu thuyết mà còn ở hàng loạt các truyện ngắn. Do vậy, văn
xuôi của Đoàn Lê là mảnh đất khá màu mỡ để chúng tôi có thể khai thác theo
hướng này.
1.2. Đoàn Lê là một trong những gương mặt nữ ít nhiều thể hiện phong
cách nghệ thuật của mình trên văn đàn sau 1975, nhất là thập niên cuối thế kỷ
XX và những năm gần đây. Đoàn Lê bén duyên với nghề viết từ khá sớm,
năm 16 tuổi đã có những bài thơ được đăng báo. Sau này, người ta biết đến
tên Đoàn Lê là một người phụ nữ đa tài, từ thơ, điện ảnh, hội họa đến văn
xuôi, lĩnh vực nào bà cũng có thành tựu, nhất là trong sáng tác văn xuôi. Văn
xuôi Đoàn Lê không làm người đọc “choáng” vì không gian ngột ngạt, chật
hẹp và triền miên trong tâm tưởng như Phạm Thị Hoài, không tạo sự hấp dẫn
ở tình huống lạ qua giọng điệu “tưng tửng” như Phan Thị Vàng Anh. Trên
những trang viết, tác giả đã thể hiện chân thực cái tôi cảm xúc của chính

3



mình. Những hệ lụy đời riêng đã được bà vận dụng một cách khéo léo trong
văn chương và đằng sau đó là cả những nỗi đau âm ỉ của người phụ nữ.
1.3. Trước nay xem xét yếu tố tự truyện người ta thường nói đến tiểu
thuyết – một thể loại có sức phản ánh rộng rãi cũng như thể hiện được tối đa
yếu tố đời tư của người viết trong tác phẩm. Tuy nhiên trong quá trình tìm
hiểu, chúng tôi nhận thấy truyện ngắn Đoàn Lê cũng thể hiện yếu tố đời tư
của người viết ở nhiều mức độ khác nhau. Ở cả hai mảng tiểu thuyết và truyện
ngắn, chất liệu đời sống thực tế của nhà văn được bộc lộ rõ nét. Những chi tiết
mang yếu tố tự truyện trở thành cơ sở cho sự sáng tạo nghệ thuật độc đáo của
nhà văn.
Xuất phát từ thực tế này, chúng tôi nghiên cứu Yếu tố tự truyện trong
văn xuôi Đoàn Lê để thấy rõ hơn con người cá nhân nhà văn trong tác phẩm
mang tính tự truyện của mình. Qua đó, đề tài giúp người đọc thấy được con
người cá nhân của nhà văn thể hiện trong tác phẩm như thế nào, đồng thời
khẳng định đóng góp của Đoàn Lê với nền văn xuôi hiện đại.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Tự truyện và yếu tố tự truyện
Vấn đề tự truyện cũng như tác phẩm văn học mang yếu tố tự truyện từ
khá lâu đã được giới nghiên cứu và phê bình văn học chú ý và ngày càng có
nhiều công trình mới được ra đời. Cho đến nay, khá nhiều nhà nghiên cứu đi
vào tìm hiểu thuật ngữ tự truyện. Trước hết phải kể đến Phillipe Lejeune với
công trình Quy ƣớc tự truyện (1975). Theo ông, “Tự truyện là một dạng văn
xuôi tự sự do một người có thật ngược dòng thời gian kể lại đời mình, nhấn
mạnh tới cuộc sống cá nhân, đặc biệt là lịch sử hình thành nhân cách”[35].
Như vậy, trong tác phẩm tự truyện tác giả, người kể chuyện và nhân vật chính
phải là một và tự truyện thường được sử dụng ở ngôi thứ nhất.

4



Các tác giả trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học (Lại Nguyên Ân
chủ biên) cũng cho rằng: “Tự truyện là tác phẩm tự sự thường được viết bằng
văn xuôi trong đó tác giả tự kể và miêu tả cuộc đời của bản thân mình” [10]
Theo quan niệm này, một tác phẩm tự truyện là bức tranh của cái tôi thuần
túy. Tác giả, người kể chuyện và nhân vật chính là một, ngoài ra không có sự
xuất hiện của cá nhân khác.
Trái với quan điểm trên, nhà nghiên cứu Trần Đình Sử khi tìm hiểu về
tự truyện đã khẳng định như sau: “Trong tác phẩm tự truyện, đời tư của nhà
văn chỉ là chất liệu hiện thực được tác giả sử dụng với những mục đích khác
nhau…tự truyện có thể bao quát hầu hết các phương diện của đời sống: đời
tư, thế sự và sử thi…” [39]. Như vậy, cái tôi của người viết không phải là cái
chiếm toàn bộ những thông tin được đưa ra trong tác phẩm. Từ chất liệu có
thật trong cuộc sống, nhà văn xây dựng nên những bức tranh cuộc sống khác
nhau, thể hiện một tư tưởng nào đó. Nhưng qua những bức tranh đó, người
đọc vẫn thấy được bóng dáng con người tác giả.
Nguyễn Thị Bình khi tìm hiểu về “cái tôi” trong tiểu thuyết mang tính
tự truyện, nhận xét: “Cái tôi của người viết hiện lên rất sắc nét qua cảm hứng
nhận thức, đánh giá lại những gì đã trải qua bằng điểm nhìn hiện tại. Những
chi tiết tự truyện, thái độ chủ quan của người trần thuật chứa đựng nhu cầu
khẳng định giá trị của kinh nghiệm cá nhân”[33].
Trong cuốn Triết học và văn chương, Đặng Phùng Quân khẳng định
“Tự truyện là một thứ tiểu thuyết mà trí tưởng tượng được thỏa mãn bởi vì nó
thật sự là tiểu thuyết của một thứ ngoại tại, một chất liệu luôn luôn khai triển,
tăng gấp bội, mang theo ý chí không cùng…”[37]. Quan điểm này lại cho rằng
tự truyện là một dạng của tiểu thuyết, tức là cái “phi hư cấu” bị thu nhỏ lại,
nhường chỗ cho cái “hư cấu”.

5



Ngoài ra còn có các luận án, luận văn nghiên cứu về tự truyện và yếu tố
tự truyện trong giai đoạn, tác phẩm văn học cụ thể nhưng chủ yếu nghiên cứu
về tiểu thuyết. Có thể kể đến Luận án Tiến sĩ của Đỗ Hải Ninh Khuynh
hướng tự truyện trong văn học Việt Nam đương đại. Trong công trình này
tác giả khẳng định tầm quan trọng của hướng nghiên cứu tự truyện: “Vấn đề
tự truyện là vấn đề có ý nghĩa đối với văn học đương đại bởi nó gắn với cái
tôi của tác giả - sự khẳng định cái tôi cá nhân mạnh mẽ trong thời đại bùng
nổ công nghệ thông tin, sự tương tác và dung nạp lẫn nhau giữa các thể loại.
Cùng với quá trình đổi mới, yếu tố tự truyện xuất hiện ngày càng nhiều thể
hiện nhu cầu được bộc lộ cái tôi, ý thức phản tỉnh và khuynh hướng nhận thức
lại thực tại của dòng văn học tự vấn”[28]. Cũng trong công trình này người
viết đã trình bày những quan điểm, vấn đề cơ bản xoay quanh vấn đề tự
truyện. Tác giả Nguyễn Thị Minh Thu trong Luận văn Thạc sĩ Tiểu thuyết tự
truyện Việt Nam đương đại từ góc nhìn thể loại cũng nhấn mạnh chất liệu
của thể loại này là cái tôi và chỉ ra mối quan hệ giữa cái tôi tự thuật và cái tôi
hư cấu: “Tiểu thuyết tự truyện lấy chất liệu từ hiện thực cuộc đời của người
kể chuyện thì tất nhiên sự hư cấu sáng tạo sẽ dựa trên chất liệu hiện thực
cuộc đời tác giả, cái tôi tác giả”[46]. Công trình Tiểu thuyết tự truyện Việt
Nam giai đoạn 1930 – 1945 của Vũ Thị Thùy Dung đã tìm hiểu lịch sử phát
triển của thể loại và chỉ ra những đặc điểm của tiểu thuyết tự truyện như sau:
“Tiểu thuyết tự truyện chủ yếu mang tính chất hướng nội. Người kể chuyện
xưng tôi coi như đồng nhất với nhà tiểu thuyết, chủ yếu kể chuyện cá nhân
mình, kể chuyện đời mình, phơi bày những cái riêng tư, cái thật lẫn lộn với
cái hư cấu. Thông qua tiểu thuyết tự truyện, người đọc nhận ra bức chân
dung tinh thần tự họa của nhà văn đồng thời thấy được dấu ấn sáng tạo của
người nghệ sĩ”[11]. Luận văn cũng chỉ ra hình tượng nhân vật chính là cái tôi
tác giả, quan điểm trần thuật “bên cạnh cách thức trần thuật ngôi thứ nhất,
trong các tiểu thuyết tự truyện còn xuất hiện cách thức trần thuật nhập vai”.

6



Tác giả Trần Thị Xuân Hợp trong Luận văn Thạc sĩ Yếu tố tự truyện trong
tiểu thuyết Nguyễn Khải thời kỳ đổi mới khai thác yếu tố tự truyện trên các
phương diện cốt truyện, hệ thống nhân vật, giọng điệu, quan điểm trần thuật
dựa trên các khái niệm cơ bản về tự truyện.
Nhìn chung, những công trình nghiên cứu nói trên phần lớn nhìn nhận
tự truyện là một thể loại hay tự truyện luôn gắn với tiểu thuyết, thậm chí là
tiểu thuyết. Cũng dựa trên những cơ sở lí thuyết về tự truyện đó chúng tôi
nghiên cứu về “yếu tố tự truyện”, tức là tìm hiểu các chi tiết thuộc về con
người cá nhân tác giả tham dự vào tác phẩm văn học chứ không khai thác tự
truyện trên phương diện thể loại.
2.2. Nghiên cứu về văn xuôi Đoàn Lê
Đoàn Lê là cây bút có dấu ấn nhất định trên văn đàn hôm nay, và đặc
biệt gần đây sáng tác của Đoàn Lê được khá nhiều bạn đọc quan tâm. Trong
quá trình tìm hiểu về nữ văn sĩ này, đến nay chúng tôi thu thập được một số
bài viết về bà, những ý kiến đánh giá, phê bình về sáng tác của bà trên những
diễn đàn văn học, tạp chí hay buổi giới thiệu sách. Ở đây, chúng tôi xin điểm
lại một số nhận định tiêu biểu như sau:
Trước tiên là một số bài viết, nhận định về chân dung nhà văn và tất cả
sự nghiệp của bà. Bài Nhà văn Đoàn Lê: tình riêng bỏ chợ tình người đa đoan
trên trang đã chỉ ra cuộc đời và tài năng nhiều mặt của
Đoàn Lê. Bài viết Nữ sĩ Đoàn Lê - Trời vẫn không nín gió trên trang
đã lược thuật đầy đủ cuộc đời Đoàn Lê từ khi bà chọn vào
lớp diễn viên điện ảnh cho đến nay lúc về hưu trở lại mảnh đất mình đã sinh
ra. Tác giả đã tỏ ra tinh tế khi nói rẳng: “…với những người thuộc giới văn
nghệ sĩ như chị, lại đủ các yếu tố tài tử giai nhân (…) thì rõ ràng đời sống nội
tâm của chị hẳn sẽ phong phú và ăm ắp những sáng tạo dư đủ để chị cảm thấy
cuộc sống luôn tươi mới và khác lạ”.


7


Ở một bài viết khác, nhà văn Hồ Anh Thái cũng đã kể lại khá cụ thể
những bước đi cũng như năm tháng gian khổ với những câu chuyện buồn vui
trong cuộc đời Đoàn Lê. Và ông nhận thấy ở trong con người của nữ sĩ vẻ
“dịu dàng nhưng bướng bỉnh, thanh mảnh nhưng đầy nghị lực” [44].
Bên cạnh đó cần phải kể đến những bài viết về các sáng tác của bà. Vũ
Quốc Văn có bài Đoàn Lê một nữ sĩ đa tài in trên báo Cửa Biển mang đến
với độc giả một chân dung Đoàn Lê như một người nghệ sĩ “đa năng” nhưng
thành công hơn cả vẫn là nghề viết. Tác giả bài viết cho rằng: “Chị Đoàn Lê
chưa phải là nhà văn thuộc hàng kiện tướng viết nhiều, in nhiều trong làng
văn Việt, nhưng tôi nghĩ chị là một người may mắn gặt hái được nhiều niềm
vui trong các nhà văn đương đại thời đổi mới. Bởi cứ mỗi lần chị có thêm một
tác phẩm đến với bạn đọc là y như rằng người ta không chỉ hào hứng đón
nhận mà còn nhớ luôn, mến luôn tác giả nữa” [51]. Dương Tường cũng đã có
bài viết nhận xét về chất văn Đoàn Lê nhân dịp nhà văn ra tập truyện ngắn
…Và sex “…Đọc Đoàn Lê, cái đọng lại là một dư vị ngấm nghía đến làm ta
mất ngủ. Sự chân thật của nhà văn là phép màu biến cái riêng tư thành chân
lí phổ quát” [50].
Truyện ngắn là một thể loại mà Đoàn Lê từng yêu thích từ lâu. Có lần
nhà văn tâm sự: “Tôi đặc biệt rất thích viết truyện ngắn. Chỉ những gì không
thể viết ngắn được thì tôi đành chịu. Truyện ngắn là sự tinh lọc của ngôn ngữ
nên đòi hỏi phải công phu, không thể đùa được. Khi viết tôi quan tâm đến số
phận con người… Cái kết trong truyện ngắn là cực kì quan trọng, nếu bỏ nó
đi coi như truyện không còn nữa. Còn như đón nhận của người đọc với tác
phẩm thì bao giờ cũng là điều bí ẩn, ít ra là đối với tôi”[30]. Các học giả, nhà
phê bình cũng dành những nhận xét, đánh giá ưu ái cho những truyện ngắn
của nữ nhà văn. Trên trang web của tập đoàn Tân tạo có đăng bài viết bình
luận về tập truyện ngắn Người khách đêm giao thừa: “Tập truyện ngắn


8


Người khách đêm giao thừa vẻn vẹn 12 truyện ngắn – 12 lần tâm linh tác giả
run lên dưới cái rét của cuộc đời. Những khoảnh khắc tận cùng của một ngày
giây cuối, một lần cuối và một con đường đứng bơ vơ rồi đổ bóng xuống lòng
nhân thế. Từng trang văn xuôi xông lên mùi cát bụi, mùi nước mắt, mùi mồ
hôi nghe thật gần gũi thân quen” [16;5].
Trong bài viết Đoàn Lê – chị tôi nhà văn Hồ Anh Thái đã có những ý
kiến đánh giá rất tinh sắc về một số phương diện nghệ thuật trong truyện ngắn
của Đoàn Lê: “Với ngôn ngữ dịu dàng nền nã, hóm hỉnh, hài hước một cách
nhẹ nhàng, chị viết về vấn đề thời cuộc ở cái làng ven đô thị trong hàng loạt
các tác phẩm gắn với tên xóm Chùa: Đất xóm Chùa, Nghĩa địa xóm Chùa,
Người đẹp xóm Chùa, Giường đôi xóm Chùa. Tuy là chuyện xóm Chùa nhưng
Đoàn Lê đã tìm tòi và sử dụng rất nhiều kỹ thuật viết, chính thế mạnh này đã
lôi cuốn người đọc” [44]. Cũng trong bài viết này, tác giả còn đề cập đến
nghệ thuật sử dụng yếu tố kì ảo trong hai truyện Nghĩa địa xóm Chùa và Lên
ruồi của Đoàn Lê: “Cả nghĩa địa xóm Chùa và Lên ruồi đều nằm trong mạch
truyện có yếu tố kì ảo của Đoàn Lê. Nhưng ngay cả trong nhưng ngay cả
trong những truyện kì ảo nhất của bà thì cái thực vẫn lấn cái ảo cái ảo chỉ
làm lạ hóa, chỉ làm thay đổi một góc nhìn hiện thực chứ không phải là yếu tố
xoay chuyển và quyết định hiện thực nghệ thuật” [44]. Cũng nói về nghệ thuật
viết truyện có yếu tố kỳ ảo, nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Tú khi cho in trên tạp
chí tác phẩm mới truyện ngắn Nghĩa địa xóm Chùa của Đoàn Lê đã bày tỏ
cảm xúc mãnh liệt của mình như sau: “Hay Đoàn Lê nghi có mầm bệnh trong
người, chỉ có người ốm mới dám viết những truyện khủng khiếp như vậy.”
Cùng chia sẻ với cảm nhận ấy, tác giả Mai Ngọc cảm nhận thêm: “Truyện
ngắn này có phong cách rất mới, nhân vật trong truyện là những người đã
chết. Chết nhưng vẫn sống trong thế giới riêng, song song với thế giới của

những người sống. Ở đây những người chết nhìn, nghe ngóng và phê phán
chuyện của người sống y hệt như khi họ còn sinh thời” [31].

9


Tiểu thuyết là một phần thành công trong sự nghiệp lao động văn học
nghệ thuật “đa năng” của Đoàn Lê nhưng phải đến khi những thiên truyện
ngắn, tập truyện ngắn đặc sắc của bà xuất hiện trên văn đàn mới mang lại
niềm vinh quang hạnh phúc nhất trong đời văn của bà. “Truyện ngắn đã dựng
khắc, xác lập tên tuổi, đẳng cấp tên tuổi văn chương của Đoàn Lê. Đoàn Lê
được nhiều người biết đến là một người đa tài, đa danh nhưng hơn hết sáng
tác văn chương và chỉ danh xưng Nhà văn mới là tiêu biểu nhất, mới là cách
suy tôn, xướng gọi đúng nhất về chị.” [51] Đó cũng là sự đánh giá xứng đáng
giá trị nghệ thuật của các tác phẩm văn chương mà nữ sĩ đã cống hiến cho văn
học nước nhà. Đặc biệt, truyện ngắn của Đoàn Lê đã được xuất bản ở nước
ngoài và được độc giả hào hứng đón nhận. Nhà văn Mĩ Wayne Karlin viết
trong lời giới thiệu tập The Cemetery of Chua Village and Other Stories
(Nghĩa địa xóm Chùa và những truyện khác): “Đoàn Lê đã cho họ thấy
được một số chân lí của chính cuộc đời họ và cuộc đời chúng ta. Và làm như
vậy một cách can đảm và điêu luyện, bà đã lật một góc mới trong văn học
hiện đại Việt Nam”[53].
Tạp chí Nghiệp đoàn Xuất bản ở Mỹ năm 2005 đã nhận xét rất tinh tế
về phong cách sáng tác Đoàn Lê và giá trị tập truyện ngắn Trinh tiết xóm
Chùa: “Đoàn Lê được nghi nhận ở phong cách đa dạng và sức sáng tạo tươi
mới. Với giới học giả Mỹ, những truyện ngắn này cho một cái nhìn vào bên
trong văn hóa Việt Nam sau đổi mới. Với người đọc nói chung, đây là những
tác phẩm bao quát và đầy nhân văn về những đề tài như lòng tham, hôn nhân,
li dị, tuổi già: đó là những tác phẩm về quyền con người, khảo sát tất cả
những gì tinh tế, bí ẩn của lòng người…” [4;17].

Tạp chí Kirkus Reviews thì đặc biệt chú ý đến bút pháp và giọng điệu
khi nhận xét về những truyện ngắn của Đoàn Lê: “Mười truyện mang màu
sắc Gogol trong một bản dịch tiếng Anh đầu tiên của Đoàn Lê, nhà văn Việt

10


Nam, kiêm diễn viên, đạo diễn và họa sĩ… Thảng hoặc Đoàn Lê có xu hướng
ngụ ngôn kiểu Kapfka, như trong Lên ruồi, nói về một nghệ sĩ nhà lộn, có
tuổi, li dị vợ, muốn xin cấp một căn hộ nhưng bị biến thành một con ruồi, và
thế là thoát được mãi mãi vấn đề nhà cửa và cả phụ nữ. Ở chỗ khác, những
truyện ngắn lại đạt tới giọng điệu riêng tư, thấm thía như trong Giường đôi
xóm Chùa về người vợ nằm trên giường với người chồng đang ngủ trong khi
chị quyết định chia tay người chồng 28 năm chung sống trước khi người
chồng bỏ chị… Đây là truyện ngắn đặc sắc” [43].
Bên cạnh những thành công nhất định trong thể loại truyện ngắn như đã
nói ở trên, thì tiểu thuyết của Đoàn Lê cũng được giới văn sĩ và độc giả đánh
giá cao. Tiểu thuyết Cuốn gia phả để lại đạt giả thưởng của Hội nhà văn, nhà
văn Hồ Anh Thái đã bày tỏ nhận xét của mình: “Mãi cho đến đầu năm 1988,
đọc cuốn tiểu thuyết mới xuất bản của chị, Cuốn gia phả để lại, càng đọc mới
càng ngớ ra, như là lâu nay mình hiểu sai về một con người. Cuốn sách
chứng tỏ một tay nghề tiểu thuyết chững chạc. Tổ chức ngăn nắp các đường
dây nhân vật, khéo léo lách qua cái mê cung nhân vật chằng chịt ấy để tới
được cái đích của mình. Nhân vật của chị không chỉ là những số phận cá thể
sinh động, mà là cả một dòng họ. Chẳng dễ dàng gì mà làm cho cái nhân vật
– tập thể này ra hồn ra vía một nhân vật, gây ấn tượng là nhân vật có số phận
và khúc quanh phát triển số phận khá phức tạp. Một điều đáng kể nữa ở Cuốn
gia phả để lại là ngôn ngữ, một thứ ngôn ngữ dịu dàng nền nã mà hóm hỉnh,
được tiếp tục ở những tác phẩm sau này của Đoàn Lê, nhưng không có điều
kiện phát huy trong tác phẩm điện ảnh” [44].

Năm 2010, cuốn tiểu thuyết Tiền định ra đời đã nhận được sự hoan
nghênh của độc giả. Lê Minh Khuê cũng đã đánh giá: “Vừa là tự truyện, vừa
là hư cấu, cuốn sách không có khám phá gì về phong cách. Tác giả kể chuyện
nhẩn nha và hấp dẫn. Nhưng cái đáng để ta quan tâm: nhà văn viết cho độc

11


giả đọc. Với những sự kiện đầy ắp, Đoàn Lê cung cấp cho người yêu sách văn
học cái cảm xúc trong sáng của một người viết tinh tế, chú ý đến những rung
động nhỏ của sự sống…Đoàn Lê đã đến với người đọc thật giản dị. Trên
những chất liệu thực, tác giả đã thổi vào đó trí tưởng tượng để câu chuyện
như thực, lại như giấc mơ về cuộc đời đa truân của người đàn bà”[5;315].
Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh trong bài Đọc tiểu thuyết Tiền định của nhà
văn Đoàn Lê đã khẳng định bước tiến mới trong cách viết của Tiền định so
với những sáng tác trước đây: “Sang đến Tiền định, ta thấy tác giả đã tiến lên
một bước hoàn toàn mới. Điều hoan nghênh đầu tiên là tác giả đã vượt lên
chính mình. Nếu như ở cuốn trước tác giả thiên về miêu tả sự việc thì sang
cuốn này tác giả thiên về tâm trạng và số phận nhân vật. Nội dung cuốn sách
mới này cũng rộng rãi, khái quát hơn. Nhất là cách viết của tác giả, có nhiều
đổi mới” [23].
Gần đây, văn xuôi của Đoàn Lê cũng trở thành đối tượng nghiên cứu
của một số luận văn. Có thể kể đến công trình Đặc điểm truyện ngắn Đoàn
Lê của Vương Thị Bích Hà. Luận văn đã đề cập đến hai khía cạnh nổi bật là
cảm hứng chủ đạo và thế giới nhân vật trong truyện ngắn Đoàn Lê. Năm
2010, tác giả Vũ Thúy Hằng với công trình Thế giới nghệ thuật trong truyện
ngắn Đoàn Lê cũng khai thác truyện ngắn Đoàn Lê trên các phương diện cảm
hứng nghệ thuật, thế giới nhân vật, các phương diện nghệ thuật cơ bản như:
cốt truyện, không – thời gian nghệ thuật, ngôn ngữ nghệ thuật, giọng điệu
nghệ thuật… Qua đó góp phần khẳng định vai trò, đóng góp về sự cách tân

nghệ thuật của Đoàn Lê đối với văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới. Gần đây
nhất, năm 2013 Luận văn Nghệ thuật tự sự trong văn xuôi Đoàn Lê của
Nguyễn Thị Khánh Minh đã dựa vào lý thuyết tự sự học tìm hiểu văn xuôi
Đoàn Lê trên các khía cạnh nổi bật như không – thời gian tự sự, các cấp độ tự
sự và người kể chuyện trong văn xuôi Đoàn Lê.

12


Sự tổng hợp trên cho thấy mỗi công trình có một hướng nghiên cứu,
tiếp cận khác nhau. Đến nay, chưa có một công trình mang tính quy mô
nghiên cứu chuyên sâu vào văn xuôi Đoàn Lê trên phương diện yếu tố tự
truyện. Tuy nhiên, các bài viết, bài nghiên cứu trên là cơ sở để chúng tôi đi
sâu tìm hiểu về yếu tố tự truyện trong văn xuôi Đoàn Lê một cách toàn diện
và có hệ thống. Với hướng tiếp cận này chúng tôi hi vọng sẽ góp tiếng nói của
mình vào việc khẳng định tài năng, cống hiến của Đoàn Lê với nền văn học
Việt Nam đương đại.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Để đáp ứng được yêu cầu đặt ra là nghiên cứu Yếu tố tự truyện trong
văn xuôi Đoàn Lê, luận văn tập trung khảo sát trên các tập truyện ngắn và tiểu
thuyết sau:
Tập truyện ngắn:
- Thành hoàng làng sổ xố (Nxb Phụ nữ, 1990)
- Nghĩa địa xóm Chùa (Nxb Hội nhà văn,1999)
- Trinh tiết xóm Chùa (Nxb Hội nhà văn, 2005)
- Người khách đêm giao thừa (Nxb Phụ nữ, 2007)
- …Và sex (Nxb Phụ nữ)
- Đoàn Lê – tác phẩm chọn lọc (Nxb Phụ nữ, 2011)
Tiểu thuyết:
- Cuốn gia phả để lại (Nxb Hội nhà văn, 1988)

- Tiền định (Nxb Hội nhà văn, 2010)
- Nhật ký người đã tự sát (Bản thảo)
4. Nhiệm vụ nghiên cứu và đóng góp của luận văn
Trước tiên, để làm rõ vấn đề yếu tố tự truyện trong văn học, trong
chương 1 chúng tôi tìm hiểu mối quan hệ giữa yếu tố đời tư và tính tự truyện
trong văn học nói chung và sự phóng chiếu của cái tôi cá nhân trong quá trình

13


sáng tạo. Cũng trong chương này, luận văn nghiên cứu về nhà văn Đoàn Lê
với các chặng đường sáng tác, quan niệm sáng tác và chất liệu đời tư trong
sáng tác của nhà văn.
Chương 2 của luận văn khảo sát chất liệu đời tư của nhà văn thể hiện
qua các đề tài văn học. Đó là những dấu ấn của đời sống gia đình, nghề
nghiệp, đời sống xã hôi mà nhà văn đã trải nghiệm làm nên thứ chất liệu đặc
biệt trong sáng tác của bà.
Cuối cùng, ở chương 3 chúng tôi khai thác các mô hình thế giới nghệ
thuật trong sáng tác của Đoàn Lê. Phần này luận văn tập trung làm rõ các kiểu
không gian – thời gian tiêu biểu góp phần làm nên tính tự truyện và cách thể
hiện nhân vật trong văn xuôi Đoàn Lê.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp hệ thống
Phương pháp hệ thống giúp cho việc nghiên cứu hệ thống các tác phẩm
văn xuôi Đoàn Lê mang tính chỉnh thể, khoa học, tránh sa vào nghiên cứu đơn
lẻ dẫn đến những kết luận mang tính chủ quan, phiến diện. Hơn hết, việc vận
dụng phương pháp này còn giúp chúng tôi nhìn thấy sự vận động trong sáng
tác văn xuôi Đoàn Lê và sự vận động của văn xuôi Việt Nam thời kỳ đổi mới.
5.2. Phương pháp phân tích tác phẩm
Đây là phương pháp cơ bản, là cơ sở cho việc nhận định, đánh giá,

được sử dụng thường xuyên trong quá trình nghiên cứu. Phương pháp này
giúp người viết khám phá được những đặc sắc của tác phẩm trên hai phương
diện nội dung và nghệ thuật, từ đó góp phần soi sáng các luận điểm trong luận
văn. Tuy nhiên, phương pháp này chỉ sử dụng để phân tích một số tác phẩm
tiêu biểu để làm sáng tỏ các luận điểm được nêu ra.
5.3. Phương pháp tiểu sử
Đây là phương pháp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong nghiên cứu
văn học nói chung và trong việc nghiên cứu về yếu tố tự truyện nói riêng.

14


Phương pháp tiểu sử giúp người nghiên cứu có sự đối sánh giữa cuộc đời thực
của nhà văn với con người nhà văn trong tác phẩm.
Thông qua những yếu tố về cuộc đời của tác giả chúng tôi tìm hiểu mối
quan hệ giữa tác giả và thế giới nghệ thuật trong tác phẩm, qua đó làm nổi bật
yếu tố tự truyện trong văn xuôi Đoàn Lê.
5.4. Phương pháp so sánh
Đây là phương pháp có tính chất bổ trợ nhằm làm rõ nét đặc trưng khu
biệt của văn xuôi Đoàn Lê trong tương quan với các cây bút cùng thời.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, thư mục tham khảo, luận văn triển khai
trên cơ sở ba chương chính gồm:
Chương 1: Nhà văn Đoàn Lê và vấn đề yếu tố tự truyện trong văn học
Chương 2: Chất liệu đời tư và các đề tài văn học trong văn xuôi Đoàn Lê
Chương 3: Chất liệu đời tư và mô hình thế giới nghệ thuật trong văn
xuôi Đoàn Lê

15



NỘI DUNG
Chƣơng 1
NHÀ VĂN ĐOÀN LÊ VÀ VẤN ĐỀ YẾU TỐ TỰ TRUYỆN
TRONG VĂN HỌC

1.1. Đời tƣ nhà văn và tính tự truyện trong văn học
1.1.1. Đời tư – chất liệu của sự sáng tạo
Chất liệu là một trong những yếu tố cơ bản trong sáng tạo nghệ thuật
nói chung và trong sáng tác văn học nói riêng. Trong lĩnh vực nghệ thuật bất
kỳ, chúng ta sẽ không thể tạo ra được bất cứ công trình nghệ thuật nào nếu
không dựa trên một chất liệu cụ thể, đồng thời khi nghiên cứu một loại hình
nghệ thuật nào đó người ta không thể bỏ qua yếu tố chất liệu. Bởi đây là “yếu
tố vật liệu, vật chất hàng đầu và cốt yếu nhất được dùng để làm nên tác phẩm
nghệ thuật, tức là để thực hiện dự đồ sáng tác của nghệ sĩ… Trong quá trình
sáng tác, những chất liệu này hiện diện cùng với phẩm chất thẩm mĩ của
chúng” [17]. Các nhà nghiên cứu theo quan điểm Mĩ học chất liệu cũng cho
rằng: “Thơ ca không phải là một ngoại lệ trong quy luật chung cho tất cả các
nghệ thuật, sáng tạo nghệ thuật, được xác định trong quan hệ với chất liệu là
sự khắc phục nó” [47].
Bàn về chất liệu trong sáng tạo, có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau
nhưng “chất liệu” mà chúng tôi nói đến ở đây là dữ liệu đời sống để nhà văn
nhào nặn, bồi đắp thành tác phẩm nghệ thuật, là bóng dáng tác giả trong tác
phẩm văn học. Bất kì nhà văn nào khi đặt bút sáng tạo cũng để lại trong tác
phẩm dấu ấn cái tôi cá nhân. Đó có thể là dấu ấn về đời tư, tâm trạng, cảm
xúc hay cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ. Không phải ngẫu nhiên mà người
ta luôn khẳng định “văn học phản ánh hiện thực” hay “văn chương phải là sự
thực ở đời”. Đó là những lời nhận định phần nào nói lên được bản chất của

16



văn học. Văn học bắt nguồn từ đời sống, phản ánh đời sống, bày tỏ một quan
điểm, một lập trường đối với đời sống.
Như vậy, hiện thực được phản ánh trong văn học mang tính tự truyện là
những chi tiết liên quan đến đời tư của nhà văn. Có ý kiến cho rằng việc sử
dụng yếu tố đời tư tham gia vào tác phẩm văn học có phải anh ta đang nghèo
nàn về vốn sống, do vậy mà không thể đi quá xa cái tôi và hiểu biết về bản
thân mình để quan tâm tới lịch sử hay những vấn đề trọng đại của xã hội.
Ngược lại nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên nêu ý kiến: “Nếu hiểu theo nghĩa
rộng, tác phẩm nào cũng có bóng dáng tự truyện. Khi nhà văn lấy đời mình
làm chất liệu, một mặt anh ta muốn bày ra trò chơi, anh ta muốn người đọc
phải tham dự và giải mã trò chơi ấy. Như vậy theo một kiểu nào đó tự truyện
cũng là một cách câu độc giả khá hiệu qủa”. Có thể thấy, việc sử dụng chất
liệu đời tư trong sáng tác văn học đã trở nên khá phổ biến. Nó vừa thỏa mãn
nhu cầu nhận thức lại dấu ấn trong cuộc đời người viết, vừa thỏa mãn nhu cầu
giãi bày, chia sẻ với độc giả. Tuy nhiên, ở mỗi tác phẩm chất liệu đời tư xuất
hiện với mức độ đậm nhạt khác nhau. Thông thường, trong tiểu thuyết các
yếu tố đời tư xuất hiện với mật độ dày đặc hơn so với truyện ngắn.
Trong tác phẩm văn học mang tính tự truyện, chất liệu đời tư được thể
hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau. Chất liệu được nhà văn lựa chọn, nhào nặn
thành tác phẩm chính là câu chuyện tác giả kể để thông qua đó nhà văn gửi
gắm tư tưởng, tình cảm của mình đến người đọc. “Câu chuyện trong tác phẩm
chính là một cốt truyện được trình bày theo cách nào đó… Thực tế, câu
chuyện không bao gồm những yếu tố khác với những chất liệu của cốt truyện
và văn bản, mà là những chất liệu này được nhìn từ một góc độ cụ thể, đặc
biệt” [41;82]. “Cốt truyện là một chuỗi các sự kiện được cấu trúc theo một
nguyên tắc nhất định, nói cách khác là logic của sự kiện. Những yếu tố cấu
thành nên cốt truyện gồm có sự kiện, nhân vật, thời gian, không gian” [41;81].


17


Theo logic đó chúng ta có thể thấy ngay các yếu tố của chất liệu sẽ bao gồm
sự kiện, nhân vật, thời gian, không gian.
Con người được miêu tả trong tác phẩm văn học có thể là những con
người có thật gắn liền với sự việc có thật mà tác giả miêu tả trong sáng tác
của mình. Nhà văn dùng chính con người mình và cuộc đời mình làm chất
liệu sáng tác. Nhân vật người kể truyện trong tác phẩm mang tính tự truyện có
thể là chính tác giả với những sự kiện có thật xảy ra trong cuộc đời của chính
họ. Cũng có thể đó là những hình mẫu có thật ngoài đời khi đưa vào tác phẩm
được sáng tạo và hư cấu thêm. Chức năng cơ bản của nhân vật là khái quát
tính cách con người và thể hiện quan niệm nghệ thuật, lý tưởng thẩm mĩ của
nhà văn về con người. Vì vậy mà chất liệu con người có vai trò vô cùng quan
trọng trong sáng tạo nghệ thuật. Nhân vật cùng với các sự kiện xảy ra bao giờ
cũng gắn liền với một thời gian và một địa điểm cụ thể. Thời gian chính là
tiến trình thay đổi, phát triển của các sự kiện mà khi đi vào tác phẩm tác giả
có thể đảo ngược, tỉnh lược, kéo dài… Địa điểm là nơi xảy ra các sự kiện có
thể cụ thể, tường minh, cũng có thể người đọc phải tự tưởng tượng.
Như vậy, chúng ta thấy chất liệu của nghệ thuật nói chung và văn học
nói riêng chính là những dữ liệu trong hiện thực cuộc sống. Từ “những điều
trông thấy”, những trải nghiệm, cảm xúc đầy sinh động của bản thân, người
viết nhào nặn, sáng tạo thành nội dung tác phẩm văn học mà qua đó độc giả
thấy được tư tưởng, phong cách của mỗi nhà văn.
1.1.2. Sự phóng chiếu của cái tôi trong sáng tác
Như đã nói ở trên, chất liệu là một yếu tố cơ bản không thể thiếu trong
sáng tác văn học, không có chất liệu thì không có tác phẩm văn học. Lấy hiện
thực làm chất liệu sáng tác, với tác phẩm văn học mang tính tự truyện thì hiện
thực ấy là hiện thực từ chính cuộc đời tác giả. Hay nói cách khác, chất liệu
của văn học mang tính tự truyện đó chính là “cái tôi”, là đời tư, là cuộc đời

thực của nhà văn được nhà văn lấy làm đối tượng miêu tả chính.

18


Nhưng tác phẩm văn học không phải là bản tiểu sử về cuộc đời của tác
giả. Thông thường, nhà văn sẽ chọn một hay một vài quãng đời nào đó hoặc
chỉ là một vài sự kiện để lại cho mình những ấn tượng sâu sắc nhất để làm
sống lại một lần nữa đoạn đời đã qua của mình. Tuy nhiên, vấn đề cần nói đến
ở đây là “cái tôi” được thể hiện như thế nào trong sáng tác, hay nói cách khác
là quan hệ giữa cái tôi của đời sống thực tế và cái tôi trong thế giới nghệ
thuật. Sự kiện, nhân vật, không gian, thời gian trong quan hệ với cái tôi tác
giả như thế nào? Điều đó có nghĩa là chất liệu của văn học mang tính tự
truyện trước hết là hiện thực cuộc đời tác giả, là “cái tôi” của người nghệ sĩ,
“cái tôi” ấy được hư cấu nghệ thuật làm cho cái sự thật và cái hư cấu hòa trộn
vào nhau làm cho người đọc khó mà xác định được đâu là thật đâu là hư cấu,
kích thích sự tò mò, hứng thú ở người đọc. Cái tôi được nhà văn tái hiện trong
tác phẩm nghệ thuật là cái tôi mang mang tính khái quát hóa. Trong khi viết,
nhà văn đứng lùi ra xa mình, quan sát mình như một đối tượng khách quan,
đồng thời ở đó còn có sự tham gia của yếu tố tiềm thức, vô thức của trí tưởng
tượng. Như vậy, cái tôi từ một nguyên mẫu thực tế đã trở thành nhân vật văn
học. Nhà văn vừa khôi phục những hồi ức về cuộc đời của chính mình và
những người quanh mình, đồng thời cũng văn học hóa những kí ức đó, tái tạo
nó trong cả vô thức và ý thức. Vì thế nếu tự truyện nguyên chất, nhân vật
dường như làm một bản cam kết, một “thỏa thuận ngầm” với người đọc về
tính xác thực của câu chuyện, về nhân vật tôi trong truyện cũng chính là “tôi”
ngoài đời thì trong văn học mang tính tự truyện bản cam kết này không đặt ra
với mọi bạn đọc và mang tính nửa vời. Không đặt ra với mọi bạn đọc nghĩa là
người đọc có thể tiếp nhận các tác phẩm mà không cần phải chú ý đối chiếu
xem xét cái tôi trong tác phẩm là ai, có tồn tại thực sự hay không, sự kiện,

không gian, thời gian có gắn với cái tôi hay không. Sự ứng chiếu chỉ được đặt
ra với những ai biết được và có nhu cầu tìm hiểu tác giả của “tôi” trong tác

×