Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

Nghiên cứu đặc điểm hình thái, chức năng và thể lực của sinh viên hệ cao đẳng sau một học kỳ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (731.03 KB, 42 trang )

Xem thêm tài liệu tại: thethaohangngay.net
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỂ DỤC THỂ THAO BẮC NINH
BÙI VĂN ĐIỀN
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI, CHỨC NĂNG VÀ THỂ LỰC
CỦA SINH VIÊN HỆ CAO ĐẲNG SAU MỘT HỌC KỲ
Ngành: GIÁO DỤC THỂ CHẤT
Mã số: 521.40206
LUẬN VĂN CỬ NHÂN THỂ DỤC THỂ THAO
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. Đàm Trung Kiên
BẮC NINH - 2011
Xem thêm tài liệu tại: thethaohangngay.net
NHẬN XÉT CỦA NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………


……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
Xem thêm tài liệu tại: thethaohangngay.net
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả trong đề tài là trung thực và
chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào.
Tác giả luận văn
Bùi Văn Điền
Xem thêm tài liệu tại: thethaohangngay.net
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Vận động viên : VĐV
Huấn luyện viên : HLV
Thể dục thể thao : TDTT
Huyến áp : HA
Tần số nhịp tim: TSNT
Xem thêm tài liệu tại: thethaohangngay.net
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ, HÌNH VẼ
TT Tên bảng, biểu đồ, hình vẽ Trang

MỤC LỤC
Xem thêm tài liệu tại: thethaohangngay.net
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: Tổng quan các vấn đề nghiên cứu
1.1.
1.2.
MỞ ĐẦU.

Sức khỏe là tài sản quý giá nhất của mỗi cá nhân, xã hội, vì đó chính là
hành trang để đi vào cuộc sống. Chăm sóc và nâng cao sức khỏe là trách nhiệm,
Xem thêm tài liệu tại: thethaohangngay.net
là nghĩa vụ của mỗi người dân và toàn xã hội, vì thế đây là vấn đề quan trọng
trong chiến lược xây dựng và phát huy nhân tố con người ở nước ta. Sức khỏe là
tiền đề để con người phát triển trí tuệ, tiếp thu kiến thức, kỹ năng kỹ xảo vận
động trong cuộc sống. Nhân loại đã bước vào thế kỷ XXI, một thiên niên kỷ
mới, trong đó nền kinh tế tri thức là chủ đạo, những thành tựu của cuộc cách
mạng khoa học công nghệ đang được ứng dụng một cách triệt để vào tất cả các
lĩnh vực của đời sống. Vì vậy vai trò sức khỏe của con người lại càng quan
trọng. Hòa cùng với xu thế chung của thời đại, Việt Nam đã và đang bước vào
thời kỳ mới, sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước đặt ra những
yêu cầu gay gắt về phát triển nguồn nhân lực. Toàn Đảng, toàn dân ta đang ra
sức bắt tay vào công cuộc xây dựng đất nước để nhanh chóng hòa nhập với các
nước trong khu vực và trên thế giới. Để làm được điều đó hơn bao giờ hết cần
phải có những con người khỏe mạnh, phát triển toàn diện về thể chất và tinh
thần. Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của việc phát triển thể chất trong
sự nghiệp xây dựng con người mới Xã hội chủ nghĩa, Nghị quyết Ban chấp hành
Trung ương Đảng lần thứ II khóa VIII nêu rõ: “Muốn tiến hành công nghiệp
hóa, hiện đại hóa thắng lợi phải phát triển giáo dục, đào tạo, phát huy nguồn lực
con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh chóng và bền vững”.
Đảng ta khẳng định con người vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển
của xã hội. “Chiến lược con người” là một trong những chiến lược quan trọng
của Đảng và nhà nước ta. Nhận thức đó có ý nghĩa quan trọng về lý luận và thực
tiễn thể hiện tính nhân bản trong chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước
ta. Sự phát triển kinh tế đặt con người vào vị trí trung tâm. Thống nhất tăng
trưởng kinh tế với công bằng và tiến bộ xã hội. Mục tiêu của chính sách xã hội
thống nhất với mục tiêu phát triển kinh tế đều nhằm phát huy sức mạnh nhân tố
con người và vì con người. Đảng ta đã khẳng định: “Nguồn nhân lực lớn nhất,
quý báu nhất của chúng ta là tiềm lực con người Việt Nam”.

Để thực hiện được mục tiêu đề ra Đảng và Nhà nước ta luôn đặc biệt quan
tâm chăm sóc sức khỏe nhân dân nhằm phát triển chất lượng nguồn nhân lực.
Xem thờm ti liu ti: thethaohangngay.net
Bng nhng chớnh sỏch ỳng n ca ng v Nh nc cựng vi s i lờn ca
nn kinh t t nc, th lc v tm vúc ngi Vit Nam cú nhng bc phỏt
trin khỏ trong nhng nm gn õy. Tuy nhiờn, so vi cỏc tiờu chun ca quc
t, th lc v tm vúc ngi Vit Nam cũn thua kộm nhiu nc trong khu vc.
Tỡnh trng ny nu chm khc phc s nh hng n s nghip cụng nghip
hoỏ, hin i hoỏ v quỏ trỡnh hi nhp kinh t quc t.
Sinh viờn cỏc trng i hc, cao ng l lc lng lao ng trớ thc
trong tng lai gn ca t nc. Lc lng ny úng vai trũ quan trng trong
s nghip i mi, cụng nghip hoỏ, hin i húa t nc. Trỡnh phỏt trin
th cht ca i tng ny khụng ch l vn nũi ging m cũn l vn chm
lo bi dng mt lc lng lao ng quan trng. Vỡ vy trong nhiu nm qua,
chm lo chun b th cht cho ton dõn núi chung v cho i tng ny núi riờng
l mt trong nhng mi quan tõm hng u ca ng v Nh nc ta. S quan
tõm ú th hin trờn ch trng ng li v c trờn cỏc bin phỏp thc t.
Chun b th cht cho i tng ny l trỏch nhim ca ton xó hi, trong ú hai
ngnh th dc th thao v Giỏo dc o to úng vai trũ trc tip quan trng. Do
tớnh cht v tm quan trng nờu trờn, nc ta cỏc nh khoa hc ó cú mt s
cụng trỡnh nghiờn cu vi mc ớch thu thp nhng thụng tin v thc trng th
cht, sc khe v th lc cho sinh viờn nh: V c Thu v cng s nm 1989
Lờ Vn Lm, V c Thu, Nguyn Trng Hi, V Bớch Hu, Nguyn Thỏi
Sinh, Vnh v cng s . . . Nm 2000 - 2002, trong chng trỡnh iu tra th
cht ngi Vit Nam t 6 n 60 tui ca Vin khoa hc th dc th thao vn
ny ó c nghiờn cu mt cỏch khỏ quy mụ. Tuy nhiờn, vi trỡnh ca mt
sinh viờn quan tõm n s phỏt trin th cht ca sinh viờn, c bit l ca h
Cao ng khúa u tiờn ca trng i hc TDTT Bc Ninh.
Xut phỏt t nhng lý do trờn chỳng tụi tin hnh nghiờn cu ti:
"Nghiên cứu đặc điểm hình thái, chức năng và thể lực của sinh viên hệ

cao đẳng sau một học kỳ".
* Mc ớch nghiờn cu:
Xem thêm tài liệu tại: thethaohangngay.net
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này với mục đích đánh giá mức độ
phát triển thể chất của sinh viên hệ Cao Đẳng trường Đại học TDTT Bắc Ninh.
Thông qua sự biến đổi các chỉ số về hình thái chức năng và thể lực sau một học
kỳ tập luyện số liệu nghiên cứu đựơc làm cơ sở dữ liệu, tài liệu cho công tác
nghiên cứu và giảng dạy.
* Mục tiêu nghiên cứu:
Để giải quyết mục đích nghiên cứu chúng tôi đã sử dụng 2 mục tiêu nghiên
cứu sau:
Mục tiêu 1: Lựa chọn chỉ tiêu và đánh giá thực trạng hình thái, chức năng và thể
lực của sinh viên cao đẳng Trường Đại Học TDTT Bắc Ninh.
Mục tiêu 2: Đặc điểm chỉ tiêu của sinh viên hệ cao đẳng.
* Giả thuyết khoa học:
Đề tài đặt ra giả thuyết hình thái, chức năng, thể lực rất cần cho hoạt động
thể chất trong trường Đại học TDTT Bắc Ninh. Thể chất của hệ Cao đẳng khác
biệt hoàn toàn so với hệ Đại học nên việc học tập sẽ gặp nhiều khó khăn hơn.
Kết quả nghiên cứu sẽ làm sáng tỏ vấn đề là Thể chất của 2 hệ Cao đẳng và Đại
học có sự tương đồng và yếu tố hình thái, chức năng, thể lực của hệ Cao đẳng
thuộc mức phát triển phù hợp với tiêu chuẩn phát triển thể chất người Việt Nam
và đáp ứng được yêu cầu đào tạo của nhà trường.
* Đối tượng nghiên cứu: Là các chỉ tiêu về hình thái chức năng, thể lực
của sinh viên nam, nữ hệ Cao đẳng trường đại học TDTT Bắc Ninh.
* Phạm vi nghiên cứu: 30 sinh viên nam, 15 sinh viên nữ lớp Điền kinh
hệ Cao đẳng và 30 sinh viên nam, 15 sinh viên nữ lớp Điền kinh 46 (khoa sư
phạm thể dục) hệ Đại học.
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC THỂ CHẤT CHO SINH VIÊN
1.1.1 Các khái niệm

Thể chất
Xem thêm tài liệu tại: thethaohangngay.net
Theo Nôvicốp A.Đ, Matveep L.P: “Thể chất là thuật ngữ chỉ chất lượng
của cơ thể con người. Đó là những đặc trưng về hình thái và chức năng của cơ
thể được thay đổi và phát triển theo từng giai đoạn và các thời kỳ kế tiếp nhau
theo qui luật sinh học. Thể chất được hình thành và phát triển đo bẩm sinh di
truyền và những điều kiện sống tác động”.
Theo Nguyễn Toán, Phạm Danh Tốn: “Thể chất chỉ chất lượng thân thể
con người. Đó là những đặc trưng tương đối ổn định về hình thái và chức năng
của cơ thể được hình thành và phát triển do bẩm sinh di truyền và điều kiện sống
(bao gồm cả giáo dục, rèn luyện)”. Các tác giả cho rằng: thể chất bao gồm hình
thái (thể hình), chức năng và năng lực vận động.
Hình thái là cấu trúc, hình dáng bên ngoài của cơ thể. Trong Thể dục thể
thao có khoảng 50 chỉ số hình thái được nghiên cứu (những chỉ số hình thái
thông dụng như: chiều cao đứng, chiều cao ngồi, cân nặng, vòng ngực, vòng đùi,
vòng bụng, vòng cánh tay…).
Chức năng là khả năng hoạt động của các hệ thống, cơ quan trong cơ thể:
thần kinh, tuần hoàn, hô hấp, vận động …
Năng lực vận động bao gồm thể lực và các kỹ năng vận động cơ bản như
đi, chạy, nhảy…
Phát triển thể chất
Theo Nôvicốp A.Đ, Matveep L.P: “Phát triển thể chất của con người là
quá trình biến đổi các tính chất hình thái và chức năng tự nhiên của cơ thể con
người trong suốt cả cuộc sống cá nhân của nó”.
Phát triển thể chất biểu hiện qua các chỉ số hình thái như: kích thước trong
không gian và trọng lượng cơ thể, còn sự phát triển về chức năng thể hiện ở sự
biến đổi các khả năng chức phận của cơ thể theo các thời kỳ và các giai đoạn
phát triển theo lứa tuổi của nó, sự biến đổi này thể hiện qua các tố chất thể lực
như: Sức nhanh, sức mạnh, sức bền, khéo léo, mềm dẻo. Sự biến đổi năng lực
hoạt động của hệ hô hấp, hệ tuần hoàn, hệ bài tiết, hệ thần kinh, tâm lý và ý chí .

. . phát triển thể chất tuân theo các quy luật tự nhiên, trong các quy luật đó có
Xem thêm tài liệu tại: thethaohangngay.net
quy luật tác động lẫn nhau của các xu hướng phát triển di truyền và các xu
hướng bị điều kiện sống tác động; quy luật xác định lẫn nhau của các biến đổi
cấu trúc và chức năng; các thời kỳ theo lứa tuổi phát triển từ từ và thay thế nhau
(các thời kỳ phát triển nhanh được thay thế bằng các thời kỳ ổn định tương đối
về cấu trúc và chức năng, sau đó đến các thời kỳ biến đổi sút kém) . . .
Tuy nhiên theo Matveep L.P phát triển thể chất của con người còn phụ
thuộc vào các điều kiện sống và hoạt động của con người (điều kiện phân phối
và sử dụng sản phẩm vật chất, giáo dục, lao động, sinh hoạt …) và do đó sự
“phát triển thể chất của con người là do xã hội tác động và tác động ở mức độ
quyết định”.
Tổng hợp quan điểm của nhiều tác giả cho thấy, phát triển thể chất của
con người là quá trình biến đổi các yếu tố thể chất và tinh thần, quá trình này
diễn ra trong suốt cuộc đời của một cá thể theo hai giai đoạn cơ bản là giai đoạn
phát triển thuận chiều (dương tính) và phát triển ngược chiều (âm tính hay giai
đoạn suy thoái), phát triển thể chất phụ thuộc vào tổng hòa các yếu tố tự nhiên
và xã hội.
Phát triển thể chất là một quá trình diễn ra liên tục trong suốt cuộc đời
một cá thể. Những biến đổi về hình thái, chức năng và tố chất vận động là những
yếu tố cơ bản để đánh giá sự phát triển thể chất. Phát triển thể chất là một quá
trình chịu sự tác động của tổng hợp các yếu tố tự nhiên – xã hội. Các yếu tố xã
hội đóng vai trò tác động trực tiếp và quyết định sự phát triển thể chất của cơ thể
con người.
Từ những luận điểm trên rõ ràng, phát triển thể chất chịu ảnh hưởng của
nhiều yếu tố và có thể ghép chúng vào các nhóm. Nói cách khác, phát triển thể
chất có thể nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau như: Tự nhiên (bẩm sinh và
di truyền, điều kiện địa lý, khí hậu, thời tiết), xã hội (điều kiện kinh tế, giáo dục,
giáo dục thể chất, lao động, vệ sinh, sinh hoạt . . .). Các chỉ tiêu nghiên cứu để
đánh giá phát triển thể chất cũng rất đa dạng như: các chỉ tiêu về hình thái (chiều

cao đứng, cân nặng, chỉ số BMI, chỉ số Quetelet), các chỉ tiêu chức năng (công
Xem thêm tài liệu tại: thethaohangngay.net
năng tim, dung tích sống, Test tepping), các chỉ tiêu về tố chất vận động (bật xa
tại chỗ, chạy 30m XPC, dẻo gập thân, chạy con thoi 4 x 10m, chạy 5 phút tùy
sức . . .).
Giáo dục thể chất
Thuật ngữ giáo dục thể chất có từ lâu trong ngôn ngữ nhiều nước. Ở nước
ta, do bắt nguồn từ gốc Hán – Việt nên cũng có người gọi tắt giáo dục thể chất là
thể dục theo nghĩa tương đối hẹp. Vì theo nghĩa rộng của từ Hán – Việt cũ, thể
dục còn có nghĩa là thể dục thể thao.
Thông thường, người ta coi giáo dục thể chất là một bộ phận của thể
dục thể thao. Nhưng chính xác hơn, đó còn là một trong những hình thức hoạt
động cơ bản có định hướng rõ của thể dục thể thao trong xã hội, một quá trình
có tổ chức truyền thụ và tiếp thu những giá trị của thể dục thể thao trong hệ
thống giáo dục – giáo dưỡng chung (chủ yếu trong nhà trường) [34, 28].
Theo Nguyễn Toán và Phạm Danh Tốn: “Giáo dục thể chất là một loại
hình giáo dục mà nội dung chuyên biệt là dạy học vận động (động tác) và phát
triển có chủ định các tố chất vận động của con người”. Từ quan niệm trên ta có
thể coi phát triển thể chất là một phần hệ quả của giáo dục thể chất. Quá trình
phát triển thể chất có thể chỉ là bẩm sinh tự nhiên (sự phát triển thể chất tự nhiên
của trẻ khi đang lớn) hoặc còn có thêm tác động có chủ đích, hợp lý của giáo
dục thể chất mang lại.
Giáo dưỡng thể chất
Theo P.Ph.Lexgaphơtơ (1837 – 1909), nhà bác học Nga nổi tiếng, nhà sư
phạm, nhà hoạt động xã hội, người sáng lập học thuyết giáo dưỡng thể chất, bản
chất của giáo dưỡng thể chất là làm sao để học, tách riêng các cử động ra và so
sánh chúng với nhau, điều khiển có ý thức các cử động đó và thích nghi với các
trở ngại, đồng thời khắc phục các trở ngại đó sao cho khéo léo và kiên trì nhất.
Hoàn thiện thể chất
Xem thêm tài liệu tại: thethaohangngay.net

Theo Aulic: “Hoàn thiện thể chất là tổng hợp các ý niệm về phát triển thể
chất cân đối ở mức độ hợp lý và về trình độ huấn luyện thể lực toàn diện của con
người”.
Sức khỏe
Theo tổ chức y tế thế giới (WHO), sức khỏe được hiểu là trạng thái hài
hòa về thể chất, tinh thần xã hội, mà không chỉ nghĩa là không có bệnh hay
thương tật, cho phép mỗi người thích ứng nhanh chóng với các biến đổi của môi
trường, giữ được lâu dài khả năng lao động và lao động có kết quả.
Thể lực
Thể lực là sức lực của cơ thể, biểu hiện qua các tố chất thể lực. Tố chất
thể lực là những mặt riêng biệt về khả năng vận động của con người. Bao gồm:
nhanh, mạnh, bền, khéo léo và mềm dẻo. Tố chất thể lực thường được thể hiện
trong khi làm động tác và phụ thuộc vào cấu trúc của động tác. Ngoài ra, việc
thể hiện các tố chất còn phụ thuộc trạng thái người tập và điều kiện thực hiện.
Các tố chất như sức mạnh, sức nhanh, sức bền và mềm dẻo là những yếu
tố mang tính năng lượng (vì phụ thuộc chủ yếu vào việc cung cấp năng lượng)
còn khả năng phối hợp vận động (khéo léo) là một yếu tố mang tính thần kinh –
cơ (vì chủ yếu liên quan đến sự điều khiển của hệ thần kinh – cơ). Hai thuật ngữ
tố chất thể lực và tố chất vận động tương đồng về nghĩa vì cùng phản ảnh những
nhân tố, những mặt tương đối khác nhau của thể lực con người. Tuy nhiên, khi
nói tố chất vận động là muốn nhấn mạnh mặt điều khiển động tác của hệ thần
kinh trung ương. Khi nói tố chất thể lực là muốn nhấn mạnh đến đặc trưng sinh
học của cơ thể.
Trình độ thể lực là mức độ phát triển của các tố chất của con người. Đó là sự
tích lũy của những biến đổi thích nghi về mặt sinh học (chức năng và hình thái)
diễn ra trong cơ thể dưới tác động của tập luyện và biểu hiện ở năng lực hoạt động
cao hay thấp. Những biến đổi này diễn ra theo hai hướng có liên quan đến nhau.
Một là, sự tăng cường các khả năng chức phận và năng lực hoạt động tiềm tàng của
các cơ quan trong cơ thể trên cơ sở những biến đối về cấu trúc và sinh hoá. Hai là,
Xem thêm tài liệu tại: thethaohangngay.net

sự hoàn thiện khả năng điều hòa hoạt động của các cơ quan và các hệ thống thần
kinh trung ương.
Thể lực được phân biệt thành thể lực chung và thể lực chuyên môn. Thể
lực chung không mang tính chuyên môn hoá và là nền tảng để phát triển thể lực
chuyên môn.
Trình độ thể lực chung là năng lực tổng hòa mức độ của các tố chất thể
lực. Trong việc nghiên cứu đánh giá trình độ thể lực chung các nhà khoa học
thường sử dụng các test đánh giá mức độ phát triển các tố chất vận động. Các
test được dùng để đánh giá thể lực chung rất đa dạng, đặc điểm chung là kỹ
thuật thực hiện dễ.
1.1.2 Quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước về công tác giáo dục thể
chất trong trường học.
Sự nghiệp thể dục thể thao chăm lo sức khỏe cho nhân dân ở nước ta được
xây dựng và phát triển trong chế độ mới hơn 60 năm qua. Được Đảng, Nhà nước
và Chủ Tịch Hồ Chí Minh quan tâm lãnh đạo, chăm sóc và đầu tư phát triển, thể
dục thể thao chăm lo sức khỏe cho nhân dân là một bộ phận quan trọng của sự
nghiệp cách mạng và ngày càng trở thành phong trào quần chúng sâu rộng.
Trong từng giai đoạn cách mạng, theo yêu cầu nhiệm vụ và tình hình cụ
thể, Đảng luôn có những chỉ thị, nghị quyết lãnh đạo kịp thời, đề ra những chủ
trương nhằm đẩy mạnh phong trào TDTT chăm lo sức khỏe cho nhân dân. Hàng
loạt các chỉ thị về công tác TDTT được Đảng ban hành như Chỉ thị 106/CT-TƯ
ngày 2/10/1958, Chỉ thị 181/CT-TƯ ngày 31/01/1960, Chỉ thị 180/CT-TƯ ngày
26/8/1970 và chỉ thị 227/CT-TƯ ngày 18/11/1975 đều nhấn mạnh đến vai trò
TDTT như một công tác cách mạng, trong đó nhiệm vụ chủ yếu là chăm sóc sực
khỏe, tăng cường thể chất cho nhân dân, nhất là thanh thiếu niên, học sinh – sinh
viên.
Trong Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ VIII
(khóa III) tháng 06/1991 có ghi rõ “Bắt đầu đưa việc dạy thể dục và một số môn
Xem thêm tài liệu tại: thethaohangngay.net
thể thao cần thiết vào chương trình học tập của các trường phổ thông chuyên

nghiệp và các trường đại học” .
Sau 20 năm thực hiện chỉ thị 227/CT-TƯ ngày 18/11/1975, Ban Bí thư
Trung ương Đảng đã ra chỉ thị 36/CT-TƯ ngày 24/03/1994 nhấn mạnh “… thực
hiện giáo dục thể chất trong tất cả các trường học, làm cho việc tập luyện TDTT
trở thành nếp sống hằng ngày của hầu hết học sinh, sinh viên, thanh niên, chiến
sĩ, các lực lượng vũ trang, cán bộ, công nhân viên chức và một bộ phận nhân
dân”. Gần đây, Thường vụ Bộ Chính trị (Khóa VIII) đã ra thông tư 03 về tăng
cường lãnh dạo công tác TDTT, một lần nữa nhắc nhở thực hiện tốt công tác
giáo dục thể chất.
Luật giáo dục quy định: “Nhà nước coi trọng thể dục thể thao trường học,
nhằm phát triển và hoàn thiện thể chất cho tầng lớp thanh thiếu niên, nhi đồng.
Giáo dục thể chất là nội dung bắt buộc đối với học sinh, sinh viên, được thực
hiện trong hệ thống giáo dục quốc dân, từ mầm non đến đại học”.
Chương III, Pháp lệnh thể dục thể thao quy định: “Thể dục thể thao trường
học bao gồm giáo dục thể chất và hoạt động ngoại khóa cho người học. Giáo dục
thể chất trong trường học là chế độ giáo dục thể chất bắt buộc, nhằm nâng cao sức
khỏe, phát triển thể chất, góp phần hình thành và bồi dưỡng nhân cách, đáp ứng
yêu cầu giáo dục toàn diện cho người học. Nhà nước khuyến khích thể dục thể
thao ngoại khóa trong nhà trường”.
Ngày 7/3/1996 Thủ Tướng chính phủ ra chỉ thị 113/TTg về việc xây dựng
và quy hoạch phát triển ngành thể dục thể thao, về giáo dục thể chất trường học
có đoạn viết: “Bộ giáo dục đào tạo cần coi trọng việc giáo dục thể chất trong nhà
trường, cải tiến nội dung giảng dạy thể dục thể thao nội khóa, ngoại khóa, quy
định về tiêu chuẩn rèn luyện thên thể cho học sinh các cấp học, các quy chế bắt
buộc đối với nhà trường”.
Bộ giáo dục và đào tạo, cơ quan quản lý Nhà nước về giáo dục, trên tinh
thần các Nghị quyết, chỉ thị của Đảng và Nhà nước về công tác giáo dục thể chất
trong trường học đã kịp thời ban hành các văn bản để thi hành như trong quy chế
Xem thêm tài liệu tại: thethaohangngay.net
giáo dục thể chất và thể thao trường học có viết “Cải tiến chương trình giảng

dạy, tiêu chuẩn rèn luyện thân thể, đào tạo giáo viên thể dục thể thao cho trường
học các cấp, tạo những điều kiện cần thiết về cơ sở vật chất để thực hiện chế độ
giáo dục thể chất bắt buộc ở tất cả các trường học”.
Bộ Giáo dục và Đào tạo ra Thông tư số 11/TT-GD-ĐT ngày 01/08/1994,
hướng dẫn thực hiện chỉ thị 36/CT-TƯ về công tác TDTT trong giai đoạn mới
đối với ngành mình và đã chỉ rõ:” . . . cải tiến tiêu chuẩn rèn luyện thân thể và
nội dung chương trình giảng dạy TDTT cho học sinh – sinh viên. Đào tạo và bồi
dưỡng giáo viên TDTT cho trường học các cấp – Tạo những điều kiện cần thiết
về cơ sở vật chất và kinh phí để thực hiện việc dạy và học thể dục bắt buộc ở tất
cả các trường học . . .”.
Ngoài ra, Bộ Giáo dục và Đào tạo và Tổng cục TDTT đã có Thông tư số
04/93/GD-ĐT/TDDD ngày 17/04/1993 về việc đẩy mạnh và nâng cao chất
lượng giáo dục thể chất cho học sinh – sinh viên đã nêu: “Trong quá trình phát
triển và đào tạo, giáo dục thể chất là nội dung, biện pháp quan trọng góp phần
đào tạo thanh thiếu niên Việt Nam phát triển hài hòa về trí tuệ, thể chất, tinh
thần và đạo đức; đồng thời xây dựng nhà trường thành những cơ sở phong trào
TDTT quần chúng của học sinh – sinh viên”.
Tóm lại, Bác Hồ, Đảng và Nhà nước ta coi sức khỏe của nhân dân nhất là
của thanh thiếu niên là tài sản của đất nước, do vậy chăm lo sức khỏe của mọi
người dân là trách nhiệm chung của các cấp ủy đảng, các cấp chính quyền, của
toàn xã hội.
1.1.3 Tình hình sức khỏe, thể chất sinh viên nước ta
Chăm lo cho thế hệ trẻ về mọi mặt, là trách nhiệm của toàn xã hội, nhằm
đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực tương lai cho đất nước. Sự chăm lo về
nhiều mặt, trong đó có mặt quan trọng và tất yếu là chăm lo về sức khỏe và thể
lực, bởi vì sự cường tráng về thể chất, không những là nhu cầu của bản thân con
người, mà còn là vốn quý để tạo ra những tài sản vật chất và tinh thần cho xã
hội.
Xem thêm tài liệu tại: thethaohangngay.net
Ý thức được điều này, các nước tiên tiến trên thế giới, đặc biệt là các

nước có nền công nghiệp phát triển, vấn đề giáo dục thể chất toàn dân được Nhà
nước đặc biệt quan tâm. Ở nước ta cũng vậy, Nhà nước đưa vấn đề giáo dục thể
chất là quốc sách và duy trì giáo dục thể chất đại học bắt buộc đối với sinh viên.
Theo tài liệu của các nhà chuyên môn, hiện nay sức khỏe, thể chất của
sinh viên trong các trường Đại học đã khá hơn nhiều so với các kết quả điều tra
trước nay. Điều này được chứng minh qua các công trình nghiên cứu của các tác
giả trong nước như sau:
- Theo nhóm tác giả Lê Văn Lẫm, Vũ Đức Thu, Nguyễn Trọng Hải và Vũ
Bích Huệ, trong cuốn “Thực trạng phát triển thể chất của học sinh, sinh viên
trước thềm thế kỷ XXI” đã nhận xét: sinh viên nước ta đến năm 1998, ở lứa tuổi
18 – 22, có chiều cao ở nam là 165.16cm, ở nữ là 154.81cm. So với năm 1996,
của các tác giả trong cuốn “Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa”, thì chiều cao của sinh viên cùng lứa tuổi ở nam là 163.97cm –
164.97cm, ở nữ sinh viên là 153.2cm – 153.8cm.
- Theo nhóm tác giả Hoàng Công Dân, Dương Nghiệp Chí trong bài viết:
“Thực trạng thể chất người Việt Nam từ 6 -60 tuổi ở đầu thế kỷ 21” qua điều tra
thể chất người Việt Nam trên phạm vi toàn quốc nhóm tác giả nhận định: chỉ số
phát triển chiều cao, cân nặng của người Việt Nam từ 6 – 60 tuổi, nếu so sánh
những số liệu với HSSHVN năm 1975 thì, sau hơn 25 năm; nam 20 tuổi trung
bình cao lên được 6cm, nặng lên được 8 kg (năm 2001 chiều cao trung bình
165.14 ± 5.62cm, cân nặng 53.19 ± 6.02 kg; năm 1975 chiều cao 159 cm, cân
nặng 45 kg). So sánh với các số liệu của Bộ Y Tế khi nghiên cứu giá trị sinh học
người Việt Nam bình thường thập kỷ 90 của thế kỷ 20 thì chiều cao nam tuổi 20
– 24 là 163.72cm, chiều cao của nữ là 153 cm.
Chỉ số công năng tim (liên quan đến chức năng tim mạch), chỉ số
Quetelet, BMI ở mọi lứa tuổi của ta so với chuan quốc tế đều chỉ xếp vào loại
dưới trung bình và trung bình.
Xem thêm tài liệu tại: thethaohangngay.net
Kết quả đánh giá phát triển các chỉ tiêu tố chất thể lực cho thấy sinh viên
hiện nay trình độ thể lực chung tốt hơn trước đây: Nằm sấp co duỗi tay ở nữ sinh

viên (1998), đạt từ 8 – 13 lần, cao hơn hẳn năm 1993; lúc đó nữ sinh viên chỉ đạt
từ 4 – 7 lần.
Theo Nghiêm Xuân Thúc (1998), Đánh giá thực trạng thể lực sinh viên
trường Đại học Bách khoa Hà Nội theo tiêu chuẩn rèn luyện thân thể của Bộ
giáo dục và đào tạo đã đưa ra kết luận: số sinh viên dạt tiêu chuẩn đánh giá sức
mạnh rất cao: bật xa ở nam đạt 92%, nữ đạt 91.1%, ở nam co tay xà đơn đạt
72.5%; nằm sấp co duỗi tay nữ đạt 70%.
Qua các số liệu trên cho thấy, thể chất của sinh viên nước ta gần đây có sự
gia tăng so với các năm trước. Điều này, đã phản ánh thực tế đời sống kinh tế ổn
định và các điều kiện được cải thiện của đất nước và quá trình giáo dục thể chất
đúng hướng ở trong các trường Đại học, cao đẳng. Tuy vậy, người Việt Nam
vốn đã thấp bé lại trãi qua nhiều năm chiến tranh, do đó thể chất dù có gia tăng
trong những năm gần đây, thì vẫn thấp hơn các nước trong khu vực cùng lứa
tuổi.
Tóm lại: Từ việc phân tích, so sánh tình hình sức khỏe, thể chất của sinh
viên nước ta, chúng tôi rút ra nhận xét sau:
- Sức khỏe, thể chất của sinh viên nước ta tuy có tiến bộ hơn trước, song
vẫn ở mức thấp, chưa đạt yêu cầu đặt ra, đặt biệt trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay.
- Năng lực thể lực của sinh viên ở dạng tiềm ẩn, chưa có biện pháp thích
hợp để phát huy sự nỗ lực thể chất, nhằm nâng cao trình độ thể lực chung cho
họ.
1.1.4 Các yếu tố xác định thể chất của sinh viên.
Từ khái niệm ở mục 1.1.1 cho thấy: thể chất của sinh viên là một khái
niệm đa nhân tố, được cấu thành bởi nhiều yếu tố trong mối quan hệ thống nhất
Xem thêm tài liệu tại: thethaohangngay.net
với nhau. Cấu trúc này phụ thuộc vào đặc điểm phát triển thể chất của từng cá
thể. Đó là một quá trình hình thành, biến đổi tuần tự theo qui luật trong cuộc đời
của từng người về hình thái, chức năng và cả những tố chất thể lực và năng lực
vận động.

Từ quan điểm tra cho thấy thể chất của sinh viên được xác định bằng ba
yếu tố cơ bản: Hình thái, chức năng sinh lý và chức năng vận động.
Yếu tố hình thái: Hình thái phản ánh cấu trúc cơ thể, được xác định bởi
trình độ phát triển, những giá trị tuyệt đối về nhân trắc và tỷ lệ của những chỉ số
đó.
Mặt khác, khả năng vận động của con người phụ thuộc vào đặc điểm về
thể hình:
Chiều cao và khối lượng cơ thể.
Tỷ lệ của cơ thể – tỷ lệ các kích thước từng phần của cơ thể (mình, chân,
tay).
Đặc điểm về cấu trúc.
Các tỷ lệ và kích thước cơ thể ở mọi người cơ bản là khác nhau, không
bằng nhau cả về khả năng vận động. Ở cùng một trình độ thể lực, những người có
khối lượng cơ thể lớn sẽ có sức mạnh cơ lớn hơn. Trong khi đó sức mạnh cơ
tương đối (tính trên 1 kg khối lượng cơ thể) giảm đi khi các kích thước cơ thể
tăng lên. Khi đi độ dài bước và tần số bước phụ thuộc nhiều vào kích thước cơ
thể, mà trước hết là vào độ dài chân.
Các chỉ tiêu hình thái chịu sự chi phối của nhiều gien. Yếu tố môi trường
cũng có ảnh hưởng, nhưng chủ yếu là yếu tố di truyền quyết định, tùy mức độ có
khác nhau ở từng chỉ tiêu và từng giới tính. Trong các chỉ tiêu thể hình, diện tích
phổi, vòng ngực, vòng cánh tay, vòng đùi và trọng lượng cơ thể có độ di truyền
thấp chịu ảnh hưởng nhiều của môi trường, các chỉ số khác đều có độ di truyền
cao.
Chỉ tiêu chiều cao có độ di truyền rất cao (nam 75%, nữ 92%), độ di
truyền phụ thuộc vào chủng tộc, gia tộc. Điều đó, cho thấy ngoài yếu tố rèn
Xem thêm tài liệu tại: thethaohangngay.net
luyện mỗi người còn được thừa hưởng một phần thể lực nhờ di truyền từ thế hệ
trước đó. Ở một chừng mực nhất định, yếu tố hình thái đặc trưng, phù hợp cho
từng tố chất thể lực phát triển. Hình thái phát triển cân đối, cho phép các tố chất
thể lực phát triển đồng đều. Ngược lại, hình thái cơ thể phát triển sai lệch sẽ dẫn

đến tố chất thể lực phát triển không đồng đều, không cân đối. Dễ dàng nhận thấy
dạng hình thái phát triển mạnh phía thân trên, tạo ưu thế cho hai tay và vai; dạng
hình thái phát triển mạnh phía thân dưới, tạo ưu thế cho hai chân . . .Ở độ tuổi
đang phát triển, chỉ tiêu chiều cao thường tỷ lệ thuận với cân nặng và một số chỉ
tiêu về tố chất thể lực khác.
Cân nặng là chỉ tiêu có độ di truyền thấp (nam 68%, nữ 42%). Cân
nặng phản ánh mức độ phát triển các tổ chức trong cơ thể, trong đó trọng lượng
cơ bắp giữ vai trò chủ đạo.
Yếu tố chức năng sinh lý:
Các yếu tố chức năng sinh lý qui định khả năng hoạt động thể lực của cơ
thể. Nguyễn Ngọc Cừ cho rằng: “. . .khả năng hoạt động thể lực là biểu hiện tập
trung của năng lực hoạt động của tất cả các cơ quan trong cơ thể con người,
phản ánh khả năng thích nghi của các cơ quan trong cơ thể với lượng vận động”.
Khả năng chức phận của các cơ quan trong cơ thể là năng lực tiềm ẩn của mỗi
con người, được phát triển, hoàn thiện nhờ quá trình giáo dục, rèn luyện và bộc
lộ ra bên ngoài bằng tố chất thể lực và năng lực vận động.
Lưu Quang Hiệp cho rằng: “Những biến đổi thích nghi diễn ra bên trong
cơ thể, dưới tác động của lượng vận động, nhờ hoàn thiện sự điều khiển và phối
hợp vận động giữa các hệ chức năng, trên cơ sở biến đổi sâu sắc về cấu trúc,
chức phận và sinh hóa bên trong cơ thể”. Mức độ thích nghi của cơ thể với các
hoạt động vận động cụ thể nào đó trong quá trình giáo dục thể chất sẽ thúc đẩy
quá trình phát triển, hoàn thiện thể lực và tạo nên trình độ thể lực.
Các thông số đánh giá chức năng của cơ thể con người thường dùng là:
huyết áp, mạch đập, công năng tim, dung tích sống, test PWC170, test Haward,
test Rombeger . . .
Xem thêm tài liệu tại: thethaohangngay.net
Yếu tố chức năng vận động:
Chức năng vận động được thực hiện bởi sự điều khiển hoạt động của
nhiều cơ quan và hệ thống cơ quan trong cơ thể. Mức độ đạt được trong hoạt
động vận động phụ thuộc vào cấu tạo và chức năng cũng như sự hoàn thiện của

chúng. Trong quá trình giáo dục thể chất và huấn luyện thể thao, phát triển các
tố chất thể lực cũng chính là phát triển và hoàn thiện các cơ quan trong cơ thể và
ngược lại sự hoàn thiện các cơ quan trong cơ thể lại là tiền đề để các tố chất thể
lực phát huy mạnh mẽ.
Như vậy, yếu tố chức năng vận động là biểu hiện của khả năng hoạt động
vận động cụ thể của con người, khả năng hoạt động vận động được hình thành
và phát triển thông qua con đường tập luyện.
Chức năng vận động được biểu hiện qua năng lực vận động và các tố chất
thể lực như: sức nhanh, sức mạnh, sức bền, mềm dẻo và khả năng phối hợp vận
động (khéo léo).
Các chỉ tiêu đánh giá năng lực vận động thường được sử dụng:
- Các chỉ tiêu đánh giá sức mạnh: Bật xa tại chỗ, bật cao tại chỗ, kéo tay
xà đơn, lực bóp tay, nằm sấp chống đẩy . . .
- Các chỉ tiêu đánh giá sức nhanh: chạy 30m XPC, chạy 30m tốc độ cao,
chạy 60m, chạy 80m, chạy 100m, chạy tại chỗ, nhảy dây trong 30 giây. .
- Các chỉ tiêu đánh giá sức bền: chạy 5 phút tùy sức, chạy 500m, chạy
800m, chạy 1.500m, chạy 3.000m, chạy 12 phút (test Cooper) . . .
- Các chỉ tiêu đánh giá độ mềm dẻo: dẻo gập thân, xoặc ngang, xoặc dọc,
dẻo vai . . .
- Các chỉ tiêu đánh giá khả năng phối hợp vận động (khéo léo): di chuyển
nhặt bóng, chạy con thoi 4 x 10m, chạy con thoi 8 x 8m, chạy lượn vòng, chạy
zích – zắc . . .
1.2 ĐẶC ĐIỂM SINH LÝ VÀ PHÁT TRIỂN THỂ CHẤT LỨA TUỔI 1.2.1
Đặc điểm giải phẩu sinh lý lứa tuổi 19 – 22
Xem thêm tài liệu tại: thethaohangngay.net
Cơ thể con người từ lúc sinh ra cho đến khoảng 25 tuổi phát triển theo
hướng đi lên, sau đó chậm dần và suy giảm theo quy luật sinh học. Từ đó sự
thích nghi của các hệ thống cơ quan trong cơ thể con người đối với những điều
kiện sống mới và thay đổi của môi trường cũng trở nên khó khăn.
Ở lứa tuổi 19 – 22 về cơ bản các hệ thống cơ quan quan trọng và thể chất

của con người đã hoàn thiện. Lứa tuổi này xương và khớp bắt đầu ổn định, từ 20
– 25 tuổi xương có thể cốt hoá hoàn toàn và không thể phát triển thêm nữa. Ở
lứa tuổi này chiều cao có thể tăng thêm vài cm, do sự phát triển của các tổ chức
sụn đệm giữa các khớp xương. Các tổ chức sụn đệm này dần dần xẹp lại sau tuổi
40 và cũng làm cho chiều cao cơ thể giảm đi vài cm. Mặt khác, cơ thể lại phát
triển mạnh theo bề ngang và tăng trọng lượng cơ thể. Nếu được tập luyện thể
dục thể thao thường xuyên thì mức độ linh hoạt của các khớp xương có thể thay
đổi. Song khả năng giải phẩu sinh lý của khớp phải là yếu tố quyết định khi lựa
chọn động tác trong tập luyện thể dục thể thao.
Ở lứa tuổi từ 19 – 22 cơ bắp đã phát triển, tạo điều kiện thuận lợi để tập
luyện phát triển sức mạnh và sức bền. Cơ thể con người có năng lực hoạt động
cao. Tập luyện thể dục thể thao có hệ thống, khoa học sẽ làm tăng lực co cơ
chính là nhờ tăng số lượng tiết diện ngang cũng như tăng độ đàn hồi của cơ.
Các khả năng sinh học của cơ thể trưởng thành cho phép tập luyện tất cả
các môn thể thao và ở lứa tuổi này có thể đạt được những thành tích xuất sắc
trong các môn thể thao mang tính nghệ thuật (thể dục dụng cụ, thể dục nghệ
thuật), cũng như trong bơi lội và các môn thể thao tốc độ. Những môn thể thao
sức mạnh, sức bền thì thành tích cao nhất lại đạt vào lứa tuổi 25 – 30. Tóm lại có
thể nói rằng ở lứa tuổi từ 21 đến 30 là lứa tuổi thuận lợi để đạt được thành tích
cao trong hầu hết các môn thể thao nếu được đào tạo cơ bản và có khoa học.
Ở lứa tuổi 19 – 22 là lứa tuổi trưởng thành nên hệ thống các cơ quan chức
năng của cơ thể đã hoàn thiện. khích thước não và hành tuỷ đã phát triển hoàn
thiện đạt mức của người trưởng thành. Hoạt động phân tích tổng hợp của võ não
và tư duy trừu tượng đã hình thành tốt.
Xem thêm tài liệu tại: thethaohangngay.net
Trong quãng đời con người, tần số mạch đập không giống nhau, tần số
mạch đập giảm theo lứa tuổi và đến 20 tuổi mạch đập mới bắt đầu ổn định. Thể
tích phút của dòng máu tính trên 1 kg trọng lượng (thể tích phút tương đối) giảm
dần theo lứa tuổi và ở người lớn là 60ml. Mặt khác lứa tuổi có ảnh hưởng nhất
định đến thể tích tâm thu và thể tích phút tối đa. Tuổi càng lớn thì thể tích tâm

thu và thể tích phút càng cao. Thể tích tâm thu tối đa ở người lớn là 120 – 140
ml và trong hoạt động căng thẳng thể tích phút là 24 – 281 l/phút. Huyết áp phụ
thuộc nhiều vào trương lực thành mạch và huyết áp cũng tăng dần theo lứa tuổi,
ở lứa tuổi nhỏ huyết áp chưa ổn định, tuy nhiên sự thay đổi không rỏ, sau 16 tuổi
huyết áp bắt đầu ổn định.
Đặc điểm sinh lý lứa tuổi ảnh hưỡng rõ rệt đến chức năng hô hấp. Trong
quá trình trưởng thành của cơ thể có sự thay đổi về độ dài của chu kỳ hô hấp, tỷ
lệ thở ra - hít vào, thay đổi độ sâu và tần số hô hấp . . . Một trong những chỉ số
quan trọng nhất của cơ quan hô hấp là thông khí phổi tối đa, chỉ số này cũng
tăng theo lứa tuổi. Dung tích sống cũng như thông khí phổi tối đa ở các người
tập luyện thường xuyên đều cao hơn ở các em không tập luyện thể dục thể thao
cùng lứa tuổi. Dung tích sống thay đổi phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó có
yếu tố rèn luyện. Sự hoàn thiện của dung tích sống xảy ra muộn, kéo dài đến lứa
tuổi 24 – 25. Lứa tuổi 19 – 22 là lứa tuổi thuận lợi để phát triển chức năng hô
hấp.
Tóm lại: lứa tuổi 19 – 22 là lứa tuổi trưởng thành, là lứa tuổi bắt đầu “làm
người lớn”. Các đặc điểm sinh lý – giải phẩu nói chung là của người trưởng
thành. Tuy nhiên, do lứa tuổi 19 – 22 thuộc thời kỳ đầu lứa tuổi thanh niên nên
cần phải đặc biệt chú ý cụ thể là:
- Phải tiếp tục giáo dục thể chất một cách khoa học để nâng cao thể chất, góp
phần hoàn thiện các chức năng cơ quan và các cơ quan trong cơ thể.
- Phát triển đầy đủ các tố chất thể lực, làm tiền đề phát triển thể lực chung
rộng rãi và phát triển thể lực chuyên môn cần thiết sau này cho sinh viên.
1.2.2 Đặc điểm phát triển tố chất thể lực lứa tuổi 19 – 22
Xem thêm tài liệu tại: thethaohangngay.net
Con người mới sinh ra có khả năng vận động rất hạn chế về số lượng và
mức độ phức tạp của động tác. Hầu hết các hoạt động vận động của con người
có được là nhờ được rèn luyện trong quá trình sống. Trong quá trình rèn luyện,
các kỹ năng kỹ xảo mới được hình thành, các kỹ năng thừa hưởng nhờ bẩm sinh
di truyền cũng được củng cố. Nhờ tập luyện, con người dần dần lĩnh hội được

các động tác đơn lẻ hoặc các hành động toàn vẹn. Về mặt sinh lý vận động, quá
trình hình thành các kỹ năng vận động là một quá trình phức tạp, gắn liền với
quá trình hình thành và củng cố các phản xạ có điều kiện, song quá trình này lại
liên quan chặt chẽ với sự phát triển các tố chất thể lực.
Trong hoạt động TDTT, cơ chế sinh lý của các tố chất thể lực rất đa dạng
và phức tạp, hiệu quả phụ thuộc vào công suất hoạt động, cơ cấu động tác, thời
gian dùng sức, sự hiểu biết . . .Khả năng hoạt động thể lực có thể biểu hiện ở
nhiều khía cạnh khác nhau, các mặt khác nhau của khả năng hoạt động thể lực
đó được gọi là tố chất vận động (tố chất thể lực). Có 5 tố chất thể lực cơ bản là
sức nhanh, mạnh, bền, độ dẻo, khả năng phối hợp vận động.
Các tố chất thể lực có liên quan chặt chẽ với kỹ năng vận động. Sự hình
thành kỹ năng vận động, phụ thuộc nhiều vào mức độ phát triển các tố chất thể
lực và ngược lại, trong quá trình hình thành kỹ năng vận động, các tố chất thể
lực cũng được hoàn thiện thêm. Trong giáo dục thể chất, việc dạy học động tác
(quá trình giáo dưỡng), cũng góp phần nâng cao các tố chất thể lực và ngược lại
trong khi tập các bài tập thể lực (giáo dục các tố chất thể lực) tuy việc nâng cao
các tố chất thể lực chiếm ưu thế, song cả kỹ năng vận động, khả năng hình thành
động tác, khả năng phối hợp vận động cũng được hình thành. Mức độ phát triển
các tố chất thể lực phụ thuộc vào trạng thái cấu tạo và chức năng của nhiều cơ
quan. Quá trình tập luyện để hoàn thiện kỹ năng, kỹ xảo vận động và nâng cao
các tố chất thể lực, cũng chính là quá trình phát triển và hoàn thiện các cơ quan
trong cơ thể. Đây là hai mặt của một quá trình phát triển và hoàn thiện các cơ
quan trong cơ thể. Đây là hai mặt của một quá trình mà công tác chuẩn bị thể lực
phải hướng tới để điều khiển các quá trình đó.
Xem thêm tài liệu tại: thethaohangngay.net
Cơ thể con người từ lúc sinh ra cho đến khoảng 25 tuổi phát triển theo
hướng đi lên, sau đó chậm dần và suy giảm theo quy luật sinh học. Từ đó sự
thích nghi của các hệ thống cơ quan trong cơ thể con người đối với những điều
kiện sống mới và thay đổi của môi trường cũng trở nên khó khăn.
Ở lứa tuổi 18 – 25 về cơ bản các hệ thống cơ quan quan trọng và thể chất

của con người đã hoàn thiện. Lứa tuổi này xương và khớp bắt đầu ổn định, từ 20
– 25 tuổi xương có thể cốt hoá hoàn toàn và không thể phát triển thêm nữa. Ở
lứa tuổi này chiều cao có thể tăng thêm vài cm, do sự phát triển của các tổ chức
sụn đệm giữa các khớp xương. Các tổ chức sụn đệm này dần dần xẹp lại sau tuổi
40 và cũng làm cho chiều cao cơ thể giảm đi vài cm. Mặt khác, cơ thể lại phát
triển mạnh theo bề ngang và tăng trọng lượng cơ thể. Nếu được tập luyện thể
dục thể thao thường xuyên thì mức độ linh hoạt của các khớp xương có thể thay
đổi. Song khả năng giải phẩu sinh lý của khớp phải là yếu tố quyết định khi lựa
chọn động tác trong tập luyện thể dục thể thao.
Ở lứa tuổi từ 18 – 25 cơ bắp đã phát triển, tạo điều kiện thuận lợi để tập
luyện phát triển sức mạnh và sức bền. Cơ thể con người có năng lực hoạt động
cao. Tập luyện thể dục thể thao có hệ thống, khoa học sẽ làm tăng lực co cơ
chính là nhờ tăng số lượng tiết diện ngang cũng như tăng độ đàn hồi của cơ.
Các khả năng sinh học của cơ thể trưởng thành cho phép tập luyện tất cả
các môn thể thao và ở lứa tuổi này có thể đạt được những thành tích xuất sắc
trong các môn thể thao mang tính nghệ thuật (thể dục dụng cụ, thể dục nghệ
thuật), cũng như trong bơi lội và các môn thể thao tốc độ. Những môn thể thao
sức mạnh, sức bền thì thành tích cao nhất lại đạt vào lứa tuổi 25 – 30. Tóm lại có
thể nói rằng ở lứa tuổi từ 21 đến 30 là lứa tuổi thuận lợi để đạt được thành tích
cao trong hầu hết các môn thể thao nếu được đào tạo có khoa học.
Trong quá trình giáo dục thể chất cho sinh viên, giáo dục các tố chất thể
lực luôn được coi là vấn đề quan trọng, vì vậy việc phát triển các tố chất thể lực
một cách toàn diện là nhiệm vụ bắt buộc đối với những người làm công tác thể
dục thể thao quần chúng. Các tố chất thể lực của con người (sức nhanh, sức

×