Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Vận dụng quan điểm sư phạm tương tác trong dạy học môn tự nhiên xã hội ở tiểu học (LV01262)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 113 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2




NGUYỄN THỊ HỒNG CHUYÊN






VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM SƢ PHẠM TƢƠNG TÁC
TRONG DẠY HỌC MÔN TỰ NHIÊN - XÃ HỘI
Ở TIỂU HỌC






LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC








HÀ NỘI, 2014

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2




NGUYỄN THỊ HỒNG CHUYÊN





VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM SƢ PHẠM TƢƠNG TÁC
TRONG DẠY HỌC MÔN TỰ NHIÊN - XÃ HỘI
Ở TIỂU HỌC

Chuyên ngành: Khoa học giáo dục
Mã số: 60140101



LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
TS. PHẠM QUANG TIỆP







HÀ NỘI - 2014

LỜI CẢM ƠN

Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô giáo trường Đại học
Sư phạm Hà Nội 2, các thầy cô khoa Giáo dục Tiểu học đã tận tình truyền thụ
cho em những kiến thức, các phương pháp giảng dạy ở Tiểu học giúp cho
việc nghiên cứu, tiếp thu kiến thức, trau dồi chuyên môn nghiệp vụ sư phạm
của bản thân em để đạt được kết quả như mong muốn.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên Phạm Quang Tiệp đã
tận tình giúp đỡ, hướng dẫn cung cấp những kiến thức, những kinh nghiệm
quý báu, động viên, khích lệ em hoàn thành đề tài này.
Đồng thời em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới tập thể cán bộ
giảng viên khoa Giáo dục Tiểu học trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, cùng
toàn thể bạn bè, gia đình, đồng nghiệp đã tạo điều kiện thuận lợi cho em hoàn
thành khóa luận tốt nghiệp này.
Do thời gian nghiên cứu còn nhiều hạn chế nên khó tránh khỏi những
thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý, chỉ bảo của các thầy cô giáo và
các bạn đồng nghiệp để khóa luận này được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.

Hà Nội, tháng năm 2014
Tác giả luận văn




Nguyễn Thị Hồng Chuyên


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan khóa luận này không trùng với kết quả của một công
trình nghiên cứu nào khác đã được công bố. Tất cả các nguồn số liệu và kết
quả nghiên cứu trong luận án này là trung thực.

Hà Nội, tháng năm 2014
Tác giả luận văn



Nguyễn Thị Hồng Chuyên
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Mục đích nghiên cứu 4
3. Nhiệm vụ nghiên cứu 4
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4
4.1 Đối tượng nghiên cứu: 4
4.2 Phạm vi nghiên cứu: 4
5. Phƣơng pháp nghiên cứu 5
5.1 Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận 5
5.2 Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn 5
5.3 Các phương pháp nghiên cứu khác 5
6. Giả thuyết khoa học 5
NỘI DUNG 6
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM SƢ

PHẠM TƢƠNG TÁC TRONG DẠY HỌC MÔN TỰ NHIÊN - XÃ HỘI Ở
TIỂU HỌC 6
1.1 Tổng quan vấn đề nghiên cứu 6
1.2 Quan điểm dạy học sƣ phạm tƣơng tác 8
1.2.1 Khái niệm 8
1.2.2 Các thành tố trong cấu trúc của hoạt động dạy học 10
1.2.3 Cơ sở khoa học của quan điểm sư phạm tương tác 12
1.2.4 Đặc trưng của quan điểm sư phạm tương tác 17
1.3 Môn Tự nhiên - Xã hội ở Tiểu học 21
1.3.1 Mục tiêu dạy học môn Tự nhiên – Xã hội lớp 1, 2, 3 ở tiểu học 21
1.3.2 Cấu trúc nội dung môn Tự nhiên – Xã hội lớp 1, 2, 3 ở tiểu học 21
1.3.3 Đặc điểm của môn Tự nhiên - Xã hội lớp 1, 2, 3 ở tiểu học 24
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 26
Chƣơng 2: CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA VIỆC VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM
SƢ PHẠM TƢƠNG TÁC TRONG DẠY HỌC MÔN TỰ NHIÊN - XÃ HỘI
Ở TIỂU HỌC 28
2.1 Đặc điểm của hoạt động dạy môn Tự nhiên - Xã hội ở Tiểu học 28
2.1.1 Học sinh tiểu học trong học tập môn Tự nhiên - Xã hội 28
2.1.2 Giáo viên tiểu học trong dạy học môn Tự nhiên - Xã hội 31
2.1.3 Môi trường dạy học môn Tự nhiên - Xã hội 31
2.2 Thực trạng vận dụng quan điểm sƣ phạm tƣơng tác trong dạy học
môn Tự nhiên - Xã hội ở tiểu học 32
2.2.1 Mục đích điều tra 32
2.2.2 Đối tượng điều tra 32
2.2.3 Nội dung điều tra 33
2.2.4 Tiến hành điều tra 33
2.2.5 Kết quả điều tra 33
2.3 Những thuận lợi và khó khăn để vận dụng quan điểm sƣ phạm
tƣơng tác trong dạy học môn Tự nhiên - Xã hội ở Tiểu học 37
2.3.1 Thuận lợi 37

2.3.2 Khó khăn 39
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 42
Chƣơng 3: BIỆN PHÁP VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM SƢ PHẠM TƢƠNG
TÁC TRONG DẠY HỌC MÔN TỰ NHIÊN XÃ HỘI Ở TIỂU HỌC 44
3.1 Nguyên tắc đề xuất biện pháp vận dụng quan điểm sƣ phạm tƣơng
tác trong dạy học môn Tự nhiên - Xã hội 44
3.1.1 Đả m bả o vai trò trung tâm của học sinh trong các mối quan hệ
tương tác 44
3.1.2 Phát huy cao độ mối quan hệ tương tác giữa học sinh – giáo viên –
môi trường 45
3.1.3 Đảm bảo phù hợp với đặc điểm tâm lí lứa tuổi của học sinh tiểu học 46
3.1.4 Nguyên tắ c đả m bảo phù hợp với điều kiện thực tiễn dạy học ở tiểu
học hiện nay 47
3.1.5 Nguyên tắ c đả m bả o phù hợp với đặc trưng của môn Tự nhiên – Xã
hội ở tiểu học 48
3.2 Một số biện pháp vận dụng quan điểm sƣ phạm tƣơng tác trong
dạy học môn Tự nhiên - Xã hội ở tiểu học 48
3.2.1 Nhóm biện pháp thiết kế dạy học môn Tự nhiên - Xã hội theo quan
điểm sư phạm tương tác 49
3.2.2 Nhóm biện pháp tăng cường tương tác trên lớp học trong dạy học
môn Tự nhiên - Xã hội 66
3.2.3 Nhóm biện pháp đánh giá dạy học môn Tự nhiên - Xã hội theo
quan điểm sư phạm tương tác 76
3.3 Thực nghiệm sƣ phạm 84
3.3.1 Mục đích thực nghiệm 84
3.3.2 Đối tượng thực nghiệm và địa bàn thực nghiệm 85
3.3.3 Nội dung thực nghiệm 85
3.3.4 Công tác chuẩn bị 86
3.3.5 Tiến hành thực nghiệm 86
3.3.6 Tiêu chí đánh giá hiệu quả vận dụng QĐSPTT 86

3.3.7 Kết quả thực nghiệm 87
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 96
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 98
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO 100
PHỤ LỤC 104
BẢNG KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Viết tắt Viết đầy đủ
GV Giáo viên
HS Học sinh
PPDH Phương pháp dạy học
QĐSPTT Quan điểm sư phạm tương tác
SGK Sách giáo khoa
TN1 Thực nghiệm 1
TN2 Thực nghiệm 2
TN - XH Tự nhiên và Xã hội


1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Đất nước ta đang trên đà phát triển và đổi mới từng ngày trên mọi lĩnh
vực: kinh tế, văn hóa, khoa học kĩ thuật Để hội nhập với xu thế phát triển của
thời đại, Đảng ta đã vạch ra phương hướng chiến lược: Giáo dục và đào tạo là
quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế - xã hội. Thực hiện chủ
trương đúng đắn đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã và đang phát triển đổi mới
đồng bộ giáo dục và đào tạo trong đó có đổi mới chương trình dạy học các cấp
nói chung, chương trình tiểu học nói riêng.
Đáp ứng yêu cầu phát triển của nền giáo dục nước nhà, giáo dục cấp tiểu
học đã được thực hiện đổi mới sách giáo khoa và nội dung chương trình dạy

học ở các lớp, các môn trong đó có môn Tự nhiên - Xã hội.
Điều 24 Luật giáo dục ghi rõ: “ Giáo dục tiểu học phải đảm bảo cho
học sinh hiểu biết đơn giản, cần thiết về tự nhiên, xã hội và con người. Môn
Tự nhiên và Xã hội là một trong những môn học có vị trí quan trọng ở trường
tiểu học. Mục tiêu môn học này là giúp các em học sinh có những hiểu biết cơ
bản, ban đầu về các sự vật, hiện tượng, mối quan hệ giữa chúng trong tự nhiên
và xã hội con người. Qua đó phát triển năng lực tư duy, lòng ham hiểu biết
khoa học góp phần hình thành nhân cách cho các em. Việc nâng cao chất
lượng dạy học môn Tự nhiên và Xã hội là vấn đề có ý nghĩa quan trọng.
Hòa cùng với công cuộc đổi mới mạnh mẽ về phương pháp, hình thức
tổ chức dạy học trên toàn ngành, môn Tự nhiên – Xã hội cũng có những bước
chuyển mình, từng bước vận dụng thay đổi linh hoạt các phương pháp dạy
học nhằm tích cực hóa các hoạt động của học sinh, phát huy tính chủ động
sáng tạo của học sinh trong quá trình lĩnh hội tri thức, hình thành phương
pháp và nhu cầu tự học, tự giải quyết, tự phát hiện các tình huống có vấn đề
đặt ra trong bài học. Từ đó, chiếm lĩnh nội dung mới của bài học, môn học.

2
Dạy học là con đường quan trọng để nâng cao trình độ hiểu biết và phát
triển nhân cách của mỗi cá nhân. Mặc dù người thầy giữ vai trò hết sức quan
trọng trong định hướng dạy học và chuyển giao tri thức, kĩ năng cho người
học, nhưng phải làm sao trong mỗi tiết học cho học sinh được suy nghĩ
nhiều hơn, thảo luận nhiều hơn, hoạt động nhiều hơn. Hơn nữa, đổi mới
phương pháp giáo dục phải nhấn mạnh tương tác, hỗ trợ, cùng nhau hợp tác
đi vào con đường tiếp thu, lĩnh hội các tri thức, kĩ năng, thái độ thành vốn
sống, ăn nhập vào vốn kinh nghiệm bản thân, tạo nên một tiềm năng và tiếp
đó thành nhân cách, thành năng lực hoạt động của từng người. Vì vậy việc
đổi mới phương pháp dạy học để đáp ứng mục tiêu giáo dục hiện nay là
nhiệm vụ cần thiết.
Hiện nay ở nước ta việc đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy

tính tích cực, chủ động, độc lập, sáng tạo của môn Tự nhiên - Xã hội vẫn đang
được quan tâm và đầu tư. Môn học này tạo điều kiện thuân lợi cho việc đổi
mới phát huy tính tích cực của học sinh. Bởi nó là phân môn có vị trí quan
trọng, là môn học gần gũi với các em học sinh. Do vậy muốn cho giờ học đạt
hiệu quả thì giáo viên phải thay đổi các hình thức dạy học, lựa chọn kết hợp
các phương pháp dạy học truyền thống và hiện đại để nâng cao chất lượng giờ
dạy. Tuy nhiên dạy học môn học này vẫn gặp nhiều khó khăn trong giảng
dạy. Môn Tự nhiên và Xã hội là môn tích hợp nhận thức của khoa học tự
nhiên và khoa học xã hội. Vì vậy phương pháp học phải thể hiện được tính
tích cực, chủ động học tập của học sinh. Song trong thực tế, người giáo viên
chưa coi trọng môn học này. Đặc biệt là thiếu đồ dùng dạy học của môn trầm
trọng. Tình trạng dạy chay còn phổ biến. Một số giáo viên không thấy được
rằng dạy học theo hướng tích cực tức là tăng cường hoạt động học tập của cá
nhân, tập thể, kích thích động cơ bên trong của người học làm cho người học
tích cực, chủ động, tự tin phát triển khả năng suy lí, óc phê phán ra kiến thức

3
mới. Do vậy học sinh rơi vào thế thụ động trong học tập. Quan điểm sư phạm
tương tác (QĐSPTT) là một hướng đáp ứng được những yêu cầu này. Đó là
một hướng dạy học đề cao vai trò tương tác giữa người học với người học,
người học và người dạy, người học và môi trường. Bộ ba người học, người
dạy và môi trường tập hợp các tác nhân chính tham gia vào quá trình học tập.
Dạy học dựa vào tương tác là chiến lược dạy học coi trọng tính tích
cực, năng động của người học. Việc dạy và học được thực hiện dựa trên sự
tác động qua lại giữa các thành tố của quá trình dạy học (các tương tác sư
phạm), trong đó quan trọng nhất là sự tác động giữa người học với người dạy,
bạn học và môi trường dạy học. Chính nhờ vào sự tác động qua lại ấy mà
giảm bớt đi đáng kể tính một chiều, tính thụ động của người học và vai trò
của mỗi thành tố trong quá trình dạy học được nâng lên xứng tầm với vị trí
của nó.

Trong quá trình dạy học hiện đại, quan hệ tương tác hết sức được xem
trọng. Xét ở góc độ nào đó, nó phải được nhìn nhận như một nguyên tắc then
chốt của dạy học hiện đại. Tức là cho dù đối tượng dạy học là ai, nội dung dạy
học là gì, thì để dạy và học tốt được đều cần phải có sự tương tác tích cực
giữa người học với các thành tố khác.
Xuất phát từ thực tế giảng dạy của GV và học tập của HS về vấn đề này
vẫn còn bộc lộ nhiều khó khăn, đa số GV chưa xác định được phương pháp
dạy học hiệu quả môn học này. Việc vận dụng QĐSPTT hợp lý vào dạy học
nội dung này sẽ khắc phục được những khó khăn và đáp ứng được mục tiêu
dạy học góp phần giúp học sinh chủ động nắm được kiến thức, tự học tự phát
hiện ra vấn đề.



4
Từ những lí do trên, tôi đã quyết định tìm hiểu nghiên cứu đề tài: “Vận
dụng quan điểm sư phạm tương tác trong dạy học môn Tự nhiên - Xã hội ở
Tiểu học”, nhằm mục đích tìm hiểu và đề xuất một số biện pháp thiết kế dạy
học môn Tự nhiên – Xã hội nâng cao chất lượng học tập.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất biện pháp vận dụng quan điểm sư phạm tương tác dạy học môn
Tự nhiên - Xã hội ở Tiểu học nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học
môn Tự nhiên - Xã hội, góp phần đổi mới phương pháp dạy học ở tiểu học
hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xây dựng cơ sở lí luận và thực tiễn của việc vận dụng quan điểm sư
phạm tương tác trong dạy học môn Tự nhiên và xã hội ở tiểu học.
- Đề xuất một số biện pháp để vận dụng quan điểm sư phạm tương tác
trong dạy học môn Tự nhiên và xã hội ở tiểu học.
- Thực nghiệm sư phạm nhằm kiểm tra tính hiệu quả của các biện pháp

đề xuất.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu:
Việc vận dụng quan điểm sư phạm tương tác trong dạy học môn Tự
nhiên và Xã hội ở tiểu học.
4.2 Phạm vi nghiên cứu:
Giới hạn về nội dung: Đề tài chỉ nghiên cứu vận dụng quan điểm sư phạm
tương tác trong chủ đề thuộc môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1, 2, 3 ở tiểu học.
Giới hạn về địa bàn nghiên cứu: Đề tài tiến hành điều tra thực trạng dạy
học môn Tự nhiên và Xã hội theo quan điểm sư phạm tương tác tại 5 trường
Tiểu học ở 3 tỉnh là Hà Nội, Hà Nam, Vĩnh Phúc; tiến hành thực nghiệm tại 2
trường Tiểu học thuộc địa bàn Hà Nội.

5
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1 Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
- Phân tích tư liệu lý luận trong và ngoài nước để tìm hiểu tình hình
nghiên cứu có liên quan.
- Phương pháp lịch sử và logic nhằm xây dựng quan niệm của đề tài và
những quan điểm lý luận cơ bản của vấn đề nghiên cứu.
5.2 Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra, quan sát và phỏng vấn, bảng hỏi nhằm khảo sát
thực trạng dạy học môn Tự nhiên và Xã hội, thực trạng vận dụng quan điểm
sư phạm tương tác trong dạy học ở tiểu học.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm để đánh giá thực trạng đổi mới
PPDH, thực trạng dạy học môn Tự nhiên và Xã hội của giáo viên tiểu học.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm nhằm kiểm tra tính khả thi của
các biện pháp vận dụng quan điểm sư phạm tương tác để dạy học môn Tự
nhiên và Xã hội ở tiểu học được đề xuất trong đề tài.
5.3 Các phương pháp nghiên cứu khác

- Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia về thực trạng dạy học môn Tự
nhiên và Xã hội ở tiểu học và việc vận dụng quan điểm sư phạm tương tác
trong dạy học môn học này.
- Xử lý số liệu và đánh giá bằng thống kê toán học.
6. Giả thuyết khoa học
Thực tiễn cho thấy chất lượng dạy học môn Tự nhiên – Xã hội ở tiểu
học hiện nay chưa thực sự tốt. Nguyên nhân của thực trạng này một phần là
do thiếu tính tương tác giữa người học với giáo viên, người học với môi
trường dạy học. Bên cạnh đó, giáo viên tiểu học chưa có biện pháp hợp lí để
gia tăng các mối quan hệ tương tác trong quá trình dạy học. Chính vì vậy nếu
xây dựng được các biện pháp vận dụng hợp lí quan điểm sư phạm tương tác
trong dạy học môn Tự nhiên - Xã hội ở tiểu học thì có thể nâng cao được chất
lượng và hiệu quả dạy học môn học này ở trường tiểu học.

6
NỘI DUNG
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM
SƢ PHẠM TƢƠNG TÁC TRONG DẠY HỌC MÔN TỰ NHIÊN - XÃ HỘI
Ở TIỂU HỌC

1.1 Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Nghiên cứu về quan hệ tương tác giữa các yếu tố của hoạt động dạy và
học đã được đề cập từ rất sớm trong lịch sử giáo dục nhân loại. Khổng Tử
(551 – 479 TCN ) đã nói: “ Thầy giáo chỉ giúp học trò cái mấu chốt nhất, còn
mọi vấn đề khác học trò phải từ đó mà tìm ra…”. Còn Xôcơrát (469TCN) thì
cho rằng: “ Cần phải để cho người học tự suy nghĩ, tự tìm tòi; cần phải giúp
người học tự phát hiện thấy sai lầm của mình và tự khắc phục những sai lầm
đó” [23]. Như vậy cả hai tác giả đã tỏ thái độ hết sức trân trọng đối với người
thầy giáo và đề cao vai trò tích cực, chủ động trong học tập của người học khi
mô tả hoạt động dạy học.

Trải qua các thời kì lịch sử tư tưởng giáo dục đó tiếp tục được khẳng định
và phát triển, với sự tham gia của các nhà giáo dục: J.A. Cômenxki, J.Rútxô,
J.H.Petxtalozi, A.Disteverg…Đặc biệt, cuộc canh tân giáo dục mạnh mẽ trong
những năm cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20 đã mở ra nhiều hướng mới dạy học tập
trung vào hoạt động của người học và khai thác môi trường dạy học.
Đi tiên phong trong phong trào vận động cải cách giáo dục là nhà giáo
dục Mỹ John Deway (1916 - 1938). Với tư tưởng giáo dục đề cao vai trò của
người học “Lấy người học là trung tâm” ông chủ chương xây dựng “nhà
trường hoạt động” “dạy học qua việc làm”. Tư tưởng giáo dục của ông đã
hình thành một phong trào giáo dục hiện đại trên khắp thế giới đặc biệt là ở
các nước Âu và Mỹ [22].

7
Các nhà giáo dục Xô Viết N.V.Savin [42], T.A.Ilina [38], B.P.Êxipốp
[35], M.A.Đanhilốp [34]; Iu.K.Babunski [29] và không ít nhà giáo dục Việt
Nam như: Đặng Thành Hưng, Đặng Vũ Hoạt, Nguyễn Kỳ, Nguyễn Ngọc
Bảo, Hà Thị Đức, Thái Duy Tuyên…đã đánh giá tính chất nhiều nhân tố trong
quá trình dạy học (cấu trúc ba nhân tố: dạy - nội dung - học), khẳng định mối
quan hệ qua lại giữa hai yếu tố dạy và học. Tuy nhiên vẫn chưa bao quát hết
chức năng cấu trúc của từng yếu tố, chưa nêu rõ được cơ chế tác động qua lại
giữa các yếu tố hoạt động dạy học nên chưa có tác dụng phát huy hết tính tích
cực, chủ động của học sinh trong quá trình dạy học.
Đến những năm 70 của TK XX nhóm tác giả Guy Brouseau, Claude
Comiti…tại viện đào tạo giáo viên (IUFM) ở Pháp đưa thêm yếu tố môi
trường trong cấu trúc hoạt động dạy học và dạy học gồm bốn yếu tố: người
học - người dạy - nội dung - môi trường. Yếu tố môi trường ở đây là ngữ cảnh
người dạy tạo ra cho người học chiếm lĩnh nội dung dạy học…Kết quả nghiên
cứu của nhóm tác giả đã chỉ ra rằng cơ chế của sự tác động qua lại giữa các
yếu tố thuộc cấu trúc hoạt động dạy học đặt cơ sở cho những hoạt động sư
phạm, thúc đẩy hoạt động học của người học đến mức cao nhất [31].

Gần đây nhất là những công trình nghiên cứu của hai tác giả Jean-
Marc Denomme và Made leine Roy với tác phẩm “ Tiến tới một phương pháp
sư phạm tương tác” [32] đã đề cập tới một trường phái sư phạm học tương tác
cùng với nền tảng lí luận của nó. Trong nghiên cứu của mình những nhà lí
luận dạy học đã khẳng định yếu tố môi trường trong cấu trúc quá trình dạy
học, theo đó hệ thống dạy học tối thiểu là sự tương tác của: thầy giáo - học trò
- môi trường đối với tri thức. Như vậy trong quá trình dạy học giáo viên
không tác động trực tiếp đến học sinh mà thông qua một yếu tố trung gian đó
là tri thức. Trong quá trình dạy học, học sinh là chủ thể hoạt động, còn kiến
thức là đối tượng. Yếu tố môi trường theo nhóm tác giả này không phải là yếu

8
tố tĩnh, bất động mà là một thành tố thuộc cấu trúc hoạt động dạy học, môi
trường không chỉ ảnh hưởng đến người học mà quan trọng hơn là người học
phải thích nghi được với môi trường. Quan điểm này đưa ra được các phương
tiện, công cụ để kích thích hứng thú tình huống dạy học được lựa chọn kĩ
lưỡng, đặc biệt là cách thức ra tăng sự tương tác, hợp tác giữa dạy và học
trong môi trường dạy học để mang lại sự thành công nhiều nhất cho người
học. Qua đây ta thấy các tác giả đã xác nhận các yếu tố cơ bản (hạt nhân) của
quan điểm sư phạm tương tác là dạy - học - môi trường, chức năng của từng
yếu tố và làm rõ các yếu tố trong quá trình dạy học. Tác giả đã thành công
trong việc mô tả yếu tố môi trường một cách cụ thể và trực quan, thực tế quan
điểm sư phạm tương tác đã được nhiều nước trên Thế giới và Việt Nam quan
tâm, ứng dụng.
Nghiên cứu về quan điểm dạy học sư phạm này đã có tác giả Việt Nam
nghiên cứu: Phan Thị Thanh Hồng môn Tiếng Việt ở tiểu học Tuy nhiên
chưa có một tác giả nào nghiên cứu về bộ môn Tự nhiên – Xã hội. Vì vậy tôi
đã nghiên cứu quan điểm sư phạm tương tác trong dạy học môn Tự nhiên –
Xã hội làm đề tài nghiên cứu của mình.
1.2 Quan điểm dạy học sƣ phạm tƣơng tác

1.2.1 Khái niệm
Theo “Đại từ điển Tiếng Việt”, “Tương tác’’ được hiểu như sau:
“Tương tác là tác động qua lại lẫn nhau” [28, 1769]. Khái niệm này xem
tương tác dưới góc độ chung nhất. Nghĩa là, tương tác là quá trình dạy và quá
trình học dựa trên sự tác động, ảnh hưởng lẫn nhau giữa giáo viên và học sinh
nhằm tạo sự trao đổi và biến đổi giữa các yếu tố đó.
Tương tác trong dạy học được Thrmond (2003) định nghĩa như sau:
“Tương tác là những cam kết của người học trước nội dung bạn học, người dạy
và các phương tiện công nghệ sử dụng trong chương trình dạy học. Những

9
tương tác theo đúng nghĩa của nó giữa người học – người học, người học –
người dạy và với công nghệ sẽ tạo ra sự trao đổi lẫn nhau về thông tin. Sự trao
đổi này nhằm mở rộng sự phát triển tri thức trong môi trường học tập” [39, 2].
Theo Wagner: “Tương tác trong dạy học là tình huống trong đó đưa
đến nhiệm vụ của người học đối với môi trường dạy học là học tập. Thực hiện
nhiệm vụ này giúp người học có được những phản hồi để điều chỉnh hành vi
của mình phù hợp với mục tiêu giáo dục. Các tương tác trong dạy học cần
thỏa mãn hai mục đích: kích thích và điều chỉnh người học nhằm đạt được kết
quả theo mục tiêu học tập của họ” [43, tr.6 - 29].
Theo hai tác giả Jean Marc Denomme và Madeleine (1998) Sư phạm
tương tác là cách tiếp cận về hoạt động dạy học giữa ba tác nhân là người dạy,
người học và môi trường.
Tiếp cận hoạt động dạy học theo quan điểm sư phạm tương tác không
chỉ dừng lại ở việc xác định đúng, đủ các yếu tố cơ bản, hạt nhân của cấu trúc
hoạt động dạy học, xác định đúng chức năng riêng biệt của từng yếu tố và
quan hệ giữa chúng mà chủ yếu là làm rõ tác động tương hỗ giữa các yếu tố
tạo thành một tập hợp liên kết chặt chẽ [25].
Như vậy quan điểm sư phạm tương tác là quan điểm dạy học tập trung
trước hết vào người học, xem người học là người “thợ chính” của quá trình

dạy học. Mọi can thiệp sư phạm đều xuất phát từ nhu cầu, tiềm năng và trách
nhiệm của người học đối với quá trình học tập của bản thân. Người dạy trong
quan điểm sư phạm tương tác là người hướng dẫn người học cách học, tạo ra
những điều kiện thuận lợi để người học thực hiện phương pháp học của mình.
Môi trường là yếu tố ảnh hưởng đến cả người dạy và người học, tuy nhiên ở
một mức độ nào đó thì người dạy và người học cũng có những tác động
ngược trở lại đối với môi trường. Quan điểm sư phạm tương tác được xây

10
dựng cơ bản dựa trên các tác nhân người dạy – người học – môi trường và các
thao tác tương tác với nó.
1.2.2 Các thành tố trong cấu trúc của hoạt động dạy học
Ngƣời học (Estudiant): Khái niệm người học dùng để chỉ tất cả những
người có tham gia (thực hiện) hoạt động học. “Người học là người thợ chính
của quá trình đào tạo” [32, tr.22], người chịu trách nhiệm đến cùng về việc
học. Là người mà với năng lực cá nhân tham gia vào quá trình học để kiến tạo
tri thức mới, rèn luyện kĩ năng và hình thành thái độ. Bởi vậy, người học phải
dùng tất cả các năng lực cá nhân của mình để tìm cách học và tìm cách hiểu
tri thức để chiếm lĩnh nó.
Với tư cách là một tác nhân theo quan điểm sư phạm tương tác, người
học trước hết là người đi học mà không phải là người được dạy; trong quá
trình nhận thức, người học phải dựa trên chính tiềm năng của mình, khai thác
những kinh nghiệm, những tri thức đã được tích lũy để tiếp cận, khám phá tri
thức. Nhờ vào sự hứng thú, người học tham gia tích cực và biết tiếp tục quá
trình học bằng cách đặt ra nhiệm vụ học tập cho chính bản thân mình và phải
hoàn thành nó. Đồng thời người học phải tham gia vào dự án học tập của tập
thể, hoàn thành nhiệm vụ của tập thể giao phó, chia sẻ giúp đỡ, đóng góp ý
kiến để tập thể hoàn thành tốt nhiệm vụ đặt ra.
Ngƣời dạy (Enseignant): Người dạy là người được đào tạo, huấn luyện
với những chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm nhất định để có đủ phẩm chất,

năng lực thực hiện chức năng của mình. Người dạy là người tổ chức, hướng
dẫn và điều khiển người học học. Người dạy chỉ cho người học mục tiêu mà
họ phải đạt được, sắp xếp nội dung, lựa chọn phương pháp dạy học và xây
dựng môi trường cởi mở, làm cho người học hứng thú học và đưa họ tới đích.
Theo quan điểm sư phạm tương tác người dạy không đóng vai trò là

11
“cái máy bơm đơn giản bơm tri thức vào đầu học sinh”, chức năng chính của
người dạy là giúp người học học và hiểu, làm nảy sinh tri thức của người học
theo nội dung và phương pháp hướng dẫn của người dạy. Người dạy cần tạo
cơ hội cho người học được hoạt động, được bày tỏ, được thực hiện và tự
khẳng định được mình, tránh sự áp đặt thông tin một chiều.
Môi trƣờng (Environnemnt): Môi trường là toàn bộ các yếu tố các điều
kiện xung quanh ảnh hưởng đến con người. Môi trường trong quan điểm sư
phạm tương tác là môi trường lớp học được tạo bởi sự hội nhập của các yếu tố
bên ngoài và yếu tố bên trong ảnh hưởng đến con người. Hoạt động dạy của
người dạy và hoạt động học của người học diễn ra trong không gian, thời gian
xác định và chịu ảnh hưởng rất nhiều của môi trường. Tất cả các yếu tố bên
trong cũng như yếu tố bên ngoài; tạo thành môi trường của người dạy và
người học. Tác nhân này đóng một vai trò có ý nghĩa vì nó ảnh hưởng cả việc
dạy và việc học. Trong quan điểm sư phạm tương tác môi trường bao gồm:
môi trường bên trong và môi trường bên ngoài.
Môi trường bên trong: Chỉ các mối quan hệ nội tại bên trong của người
dạy, người học như: tiềm năng trí tuệ, những xúc cảm, những giá trị của cá
nhân, vốn sống, giá trị đạo đức, phong cách dạy và học, nhân cách…
Môi trường bên ngoài: Chỉ các yếu tố bên ngoài người học, người dạy
như môi trường (không gian vật chất và tâm lí, thời gian, ánh sáng…), người
dạy (hình thức bên ngoài đời sống nội tâm, kĩ năng giao tiếp…) ảnh hưởng tới
người học. Người học đặc biệt là tập thể học sinh với không khí học tập thi
đua của lớp ảnh hưởng tới người dạy, nhà trường, tính di truyền tập tính của

cha mẹ, những giá trị truyền thống, sự quan tâm của bố mẹ, xã hội, chế độ
chính trị, hệ thống định hướng, chính sách kinh tế - xã hội…
Theo QĐSPTT, các yếu tố bên ngoài dễ nhận biết, tạo nên hoàn cảnh
để việc dạy học được diễn ra. Còn các yếu tố bên trong thường khó nhận ra vì
chúng ẩn chứa giá trị tinh thần, trí tuệ…của người dạy và người học.


12
1.2.3 Cơ sở khoa học của quan điểm sư phạm tương tác
 Cơ sở tâm lí học
- Tâm lí học hoạt động
Tâm lí học khẳng định: “ Hoạt động là quy luật chung nhất của tâm lý
học người. Hoạt động là tính tích cực từ bên trong (tâm lý) và bên ngoài (có ý
thức ); hoạt động gắn liền chặt chẽ với nhận thức và ý trí, dựa hẳn vào chúng và
không thể xảy ra được nếu thiếu chúng’’ [6, tr.44]. Hoạt động sinh ra từ nhu
cầu nhưng lại được điều chỉnh bởi mục tiêu mà chủ thể nhận thức được.
Hoạt động có hai đặc trưng bản chất đó là tính có chủ thể (gọi tắt là tính
chủ thể) và tính có đối tượng (gọi tắt là tính đối tượng). Tính chủ thể và tính
đối tượng trong hoạt động thâm nhập vào nhau, tương tác với nhau, sinh
thành ra nhau và tạo sự phát triển của hoạt động. Con người muốn tồn tại
không chỉ cần thích nghi với ngoại giới một cách sinh vật (trực tiếp) mà còn
phải chiếm lĩnh lấy thế giới bên ngoài đó, biến chúng thành học vấn của riêng
mình. Quá trình lĩnh hội nền văn hóa nhân loại của mỗi người thực chất là quá
trình hình thành, phát triển và hoàn thiện nhân cách ở họ (người học).
Giáo dục (dạy học) có chức năng vĩ đại là giúp người học chiếm lĩnh
nền văn hóa nhân loại, tạo nên cấu trúc mới, hình thành, phát triển và hoàn
thiện nhân cách để xứng đáng là người công dân bình đẳng trong xã hội. Quá
trình dạy học gồm hai quá trình bộ phận là quá trình dạy – hoạt động người
dạy và quá trình học – hoạt động người học. Trong hoạt động dạy thì chủ thể
là giáo viên và đối tượng của người dạy là sự phát triển tâm lý của người học.

Trong hoạt động học thì đối tượng là “vấn đề học tập” hay “bài học” mà
người học cần chiếm lĩnh và chủ thể là người học. Người học hoạt động vươn
tới chiếm lĩnh “ vấn đề bài học” hay “ bài học” mà người học cần chiếm lĩnh
và chủ thể là người học. Theo lý thuyết hoạt động thì việc hình thành hoạt
động phải trải qua các giai đoạn sau [13, tr.110]:

13
- Hình thành động cơ học tập mà động cơ đó được hiện thân ở chính
đối tượng của hoạt động học – “vấn đề học tập”
- Hình thành mục tiêu học
- Hình thành các hành động học
Như vậy, nếu người dạy trong phương pháp sư phạm của mình tác
động tới các giai đoạn của hoạt động học, tạo điều kiện thúc đẩy người học
hành động nhiều hơn, vận động nhiều hơn…sẽ giúp người học tích cực, chủ
động hoạt động để chiếm lĩnh tri thức, thực hiện tốt hoạt động học đem lại
hiệu quả cao trong học tập.
 Cơ sở giáo dục học
Theo QĐSPTT, người dạy với vai trò là người hướng dẫn, xác định
kiến thức mới cần phải thu lượm, người học với vai trò là người thợ chính của
việc học, họ cố gắng để gặt hái được tri thức được quy định bởi chương trình
môn học. Trong suốt quá trình học, người dạy lo lắng quan tâm đánh giá bước
đi của người học và đánh giá kết quả của người học với mục đích thu thập
những thông tin phản hồi từ người học để đưa ra những điều chỉnh đúng đắn
hoặc thực hiện một việc học khác. Vì vậy, việc xây dựng kế hoạch đối với
người dạy có nghĩa là vạch ra những mục tiêu học và đánh giá kết quả của
người học. Người dạy trong QĐSPTT là người lập kế hoạch và là người
hướng dẫn. Người dạy có trách nhiệm xác định mục tiêu phải đạt và đánh giá
người học có đạt được hay không. Trên cơ sở giáo dục học, QĐSPTT vận
động vào quá trình tổ chức dạy học cho thấy việc xác định kế hoạch dạy, chỉ
rõ vai trò của mục tiêu học, làm sáng tỏ các biện pháp và công cụ, xem xét

tầm quan trọng của đánh giá là hết sức quan trọng và cần thiết.
 Cơ sở sinh lí học
Về mặt sinh học, người ta cho rằng quá trình dạy học về bản chất là quá
trình hình thành các phản xạ có điều kiện. Giống như những động vật khác,
con người sinh ra đã có sẵn một kiến thức làm cơ sở cho hành động, được
điều khiển bởi những phản xạ không điều kiện (bẩm sinh, di truyền).

14
Quá trình học là quá trình hình thành các hành vi, các tác động phản xạ
có điều kiện, tác nhân kích thích là những hệ quả của các hành vi đó. Cơ chế
học là cơ chế hình thành các hành vi tác nhân phản xạ có điều kiện trong môi
trường sống của chủ thể. Trên cơ sở sinh học, QĐSPTT đặc biệt quan tâm đến
bộ máy – cơ sở sinh học của hoạt động học, đó cũng là cơ sở cho những tác
động sư phạm của người dạy khi điều khiển hoạt động học của người học. Bộ
máy học được mô tả bởi sơ đồ sau:
Hệ thống thần kinh, nơi đối tượng tri thức được thiết lập, bao gồm hai
bộ phận: hệ thống thần kinh trung ương, hệ thống thần kinh ngoại biên. Hệ
thống thần kinh ngoại biên được cấu thành từ hai bộ phận: 5 giác quan và các
nơron thần kinh. Chính hệ thống thần kinh thiết lập sự tiếp xúc với thế giới
bên ngoài. Các giác quan lấy thông tin ngoài chủ thể và truyền vào não qua
các nơron trung gian. Hệ thống thần kinh trung ương được hình thành từ ba
chồng đặt lên nhau, biểu thị ba thời kỳ phát triển của nó: thời kỳ cổ nhất được
gọi là vỏ não nguyên thủy (archicoritex), thời kỳ thứ hai gọi là vỏ não cổ
(paleocortex) và thời kỳ mới nhất gọi là não người (neocortex). Như vậy, hệ
thống thần kinh trung ương trải qua quá trình tiến hóa của các thời kỳ khác
nhau từ bò sát, thời kỳ động vật có vú đến não người.
Những thông tin trong quá trình học của người học được năm giác quan
của bộ máy học tiếp nhận, các thông tin này được các nơron ẩn đi và cảm
ứng năng lượng. Nơron chuyển năng lượng theo hai hướng: ngoại vi vào não
và ngược lại. Những thông tin nhận được thông qua việc truyền vào não sẽ

được phân tích thành các thành phần khác nhau của cảm giác và của các sợi
nhánh của hai nơron (hiện tượng dị diệt). Nơron thần kinh cũng thông qua
các khớp nối các sợi nhánh của hai nơ ron gặp nhau, không để cho mọi
thông tin đều được đi qua, nó sàng lọc chỉ cho những thông tin (dưới dạng
năng lượng) có ích vào não (hiện tượng tương đồng). Nhờ chức năng mang

15
đến và mang đi, di diệt và tương đồng, các nơron thần kinh đã giúp cá thể
làm chủ được các kích thích và tạo thành những phản ứng cùng với những
kích thích cần phản ứng.
Khoa học thần kinh xác định có sự phân hóa chức năng của bán cầu
não phải và bán cầu não trái về việc học và trí nhớ. Bán cầu não phải chú ý
đến cái tổng thể, tích hợp các yếu tố lại trong cấu trúc hay trong quan hệ, xử
lý thông tin một cách đồng thời bằng phép loại suy và biểu hiện thông tin
bằng hình ảnh trong không gian. Bán cầu não trái thiên về phân tích, chú ý
đến yếu tố, xử lý thông tin theo từng chuỗi thời gian và quy về các yếu tố
bằng lời.
Tính năng động của não người trong việc học không thể thu hẹp lại duy
nhất ở những chức năng đồng nhất và chức năng không đồng nhất, được phân
một cách riêng rẽ cho bán cầu phải và bán cầu trái. Nhưng nếu các chức năng
này hoạt động một cách hoàn toàn độc lập với nhau thì không có tri thức, kiến
thức mới nào có thể ra đời được. Nhất thiết là hai bán cầu phải bổ xung lẫn
nhau và tạo nên một sự cân đối giữa chúng, chỉ có sự tương hỗ này mới có thể
nảy nở một đối tượng tri thức mới. Qua đó có thể rút ra ý nghĩa trong thực
hành sư phạm: trong quá trình dạy học cần kích thích được cả hai bán cầu
não trái và phải của người học, đặc biệt là kích thích một trong hai bán cầu
để người học phát triển tốt khả năng hoạt động trí tuệ nào đó.
Bộ máy học dựa trên hệ thống thần kinh nhưng quá trình học diễn ra
qua môi giới của một cảnh được khởi động bởi các kích thích, các kích thích
này kích thích các giác quan; các tri giác qua môi giới tiềm năng hành động

đạt tới thể vành (limbique); thể vành này đánh giá sự cần thiết tiếp tục học và
nếu đánh giá là tích cực, có hứng thú; bán cầu phải của não nhận các thông
tin; trạng thái thứ ba xuất hiện khi đạt tới ngưỡng các dữ liệu; trong giai đoạn
cuối cùng của bán cầu trái thừa nhận giải pháp được đưa ra [24, tr.60 – 61].

16
Bộ máy học có vai trò rất lớn đối với quá trình học tập và tiếp nhận những
kiến thức mới. Để nâng cao hơn nữa hiệu quả trong dạy học, các nhà giáo dục
đã vận dụng sáng tạo bộ máy học vào quá trình dạy học, đó là ưu điểm vượt
trội của QĐSPTT.
Vai trò của các giác quan đối với người học: Nhờ vào các giác quan
mà người học thu lượm tiếp nhận thông tin cho kiến thức mới và cần sử dụng
thường xuyên các giác quan của mình để sử dụng tốt hơn tiềm năng đã thu
được. Không có một giác quan nào là không quan trọng đối với việc học. Các
giác quan kích thích bộ nhớ làm việc, làm xuất hiện ở bộ nhớ một loạt các dữ
liệu tạo nên mối liên hệ với việc học mới. Việc sử dụng gia tăng các giác quan
làm thuận lợi cho việc tiếp nhận vào bộ nhớ và giúp cho phát triển bộ nhớ
[32, tr.64 - 65].
Vai trò của các giác quan đối với người dạy: Người dạy điều chỉnh
phương pháp tiến hành sư phạm của mình theo đường đi bình thường mà
người học chọn trong quá trình học của mình. Người học cần sử dụng các
giác quan, người dạy cần hướng dẫn chu đáo người học; giúp đỡ người học
trong thao tác này. Chính vì vậy, người dạy sẽ cố gắng “đập” vào các giác
quan của người học hoặc gợi ý hoặc khơi dậy ở người học nhớ về kinh
nghiệm đã qua. Nếu người dạy kích thích được nhiều các giác quan thì sẽ làm
phong phú các kinh nghiệm, các dấu ấn ở người học. Nếu tất cả người học
đều được tác động vào các giác quan thì họ sẽ hứng thú và nâng cao được
hiệu quả học tập.
Như vậy, QĐSPTT có cơ sở vững chắc là dựa trên sự phát triển của
ngành khoa học thần kinh và được ứng dụng vào giáo dục.




17
1.2.4 Đặc trưng của quan điểm sư phạm tương tác
QĐSPTT trong dạy học có các đặc trưng cơ bản sau:
- Quá trình dạy học tập trung vào ngƣời học
Trong dạy học, người học – đối tượng của hoạt động dạy, đồng thời là
chủ thể của hoạt động học được cuốn hút vào các hoạt động học tập do giáo
viên tổ chức và chỉ đạo. Từ đó nắm được kiến thức, kĩ năng mới nhằm bộc lộ
và phát huy tiềm năng sáng tạo. Trong dạy học cần chú trọng rèn luyện cho
học sinh phương pháp tự học, khơi dạy nội lực vốn có của mỗi người, và sự
nỗ lực tự học, trách nhiệm, hứng thú, chủ động của học sinh trong học tập
nhằm đạt được kết quả cao.
Theo QĐSPTT, trong dạy học, người học là người thợ chính của
phương pháp học, người quyết định thực hiện mục tiêu học, quyết định sự
phát triển nhân cách bản thân. Vì vậy mọi yếu tố trong dạy học xét cho cùng
là phải xuất phát từ người học, vì người học và phải khơi dạy, duy trì tính tích
cực của người học trong suốt quá trình học.
Trong dạy học sự hứng thú của học sinh được thể hiện ở sự tập trung,
cố gắng trong học tập và sự nỗ lực khắc phục khó khăn, trở ngại để chủ động
giải quyết các nhiệm vụ đặt ra. Muốn được như vậy, thì tình huống đó, vấn đề
đó phải là đối tượng mà họ quan tâm, đam mê nhằm vượt qua thử thách, khó
khăn để chinh phục vượt qua chính mình để đạt được mục đích đề ra.
Quá trình tham gia tích cực của người học vào quá trình học chính là sự
thể hiện vai trò người thợ chính của phương pháp học đem đến sự thay đổi,
phát triển trong nhân cách người học [32, tr.27]. QĐSPTT cho rằng vấn đề
trước hết là chính người học phải tự ý thức và mong muốn được tham gia tích
cực vào phương pháp học của mình, một thử thách của chính mình mà thử
thách đó dựa trên cơ sở nhu cầu, sở thích thu lượm kiến thức hay sự thỏa mãn

một lợi ích nào đó của cá nhân họ. Đồng thời, dự án đó của họ phải nằm trong

×