Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Cấu trúc quần xã ve giáp (acari oribatida) ở hệ sinh thái đất trảng cỏ cây bụi ven rừng, thuộc rừng quốc gia cúc phương, tỉnh ninh bình (LV01298)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.46 MB, 78 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2




NGUYỄN THỊ XUÂN



CẤU TRÚC QUẦN XÃ VE GIÁP
(ACARI: ORIBATIDA) Ở HỆ SINH THÁI
ĐẤT TRẢNG CỎ CÂY BỤI VEN RỪNG,
THUỘC VƢỜN QUỐC GIA CÚC PHƢƠNG


Chuyên ngành: Sinh thái học
Mã số: 60 42 01 20

LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC
Người hướng dẫn khoa học: GS.TSKH. VŨ QUANG MẠNH







HÀ NỘI, 2014

LỜI CẢM ƠN



Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến GS.TSKH Vũ Quang Mạnh,
người thầy hướng dẫn đã tận tình chỉ bảo và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho
tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu của TS. Đào Duy Trinh,
NCS. Lại Thu Hiền, cùng các anh chị, bạn bè trong nhóm nghiên cứu. Trân
trọng cảm ơn sự hỗ trợ và tạo điều kiện của các cán bộ bộ môn Động vật học.
Ban chủ nhiệm khoa Sinh- KTNN, phòng sau đại học trường ĐHSP Hà Nội 2
Cuối cùng tôi xin bày tỏ lòng tri ân chân thành tới gia đình, bạn bè
trong khóa học 16- sinh thái học, SHTN đã luôn giúp đỡ, động viên và khích
lệ để tôi vượt qua nhiều khó khăn ban đầu, hoàn thành bản luận văn này.
Hà Nội, ngày … tháng… năm 2014
Tác giả luận văn


Nguyễn Thị Xuân










LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn
này là trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác.
Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này

đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ
nguồn gốc.
Hà Nội, ngày …tháng… năm 2014
Tác giả luận văn


Nguyễn Thị Xuân










DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Kí hiệu viết tắt
C% Độ phổ biến
D% Độ ưu thế
H’ Chỉ số đa dạng loài
I-1 Tầng đất mặt 0-10 cm
I-2 Tầng đất sâu 11-20 cm
I-3 Tầng đất sâu 21-30 cm
J’ Chỉ số đồng đều
Chữ viết tắt
HST Hệ sinh thái
k Mùa khô
KVNC Khu vực nghiên cứu

m Mùa mưa
MĐTB Mật độ trung bình quần thể
VQG Vườn quốc gia
TCCB Trảng cỏ cây bụi







MỤC LỤC

Trang
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Danh mục các kí hiệu, các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các hình vẽ, đồ thị
MỞ ĐẦU
1
1. Tính cấp thiết của đề tài
1
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
3
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
3
4. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
4
5. Đối tượng nghiên cứu

4
6. Đóng góp mới
4
NỘI DUNG
5
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
5
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
5
1.2. Tổng quan tài liệu.
6
CHƢƠNG 2. ĐỊA ĐIỂM, THỜI GIAN, ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN
VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
17
2.1. Địa điểm, thời gian nghiên cứu và số lượng mẫu
17
2.2. Đặc điểm tự nhiên của VQG Cúc Phương, tỉnh Ninh Bình
17
2.3. Tài nguyên thực vật và động vật
19
2.4. Dụng cụ nghiên cứu
19
2.5. Phương pháp nghiên cứu
20
CHƢƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
25
3.1. Đa dạng thành phần loài Oribatida ở vùng nghiên cứu
25
3.1.1. Danh sách thành phần loài Oribatida ở vùng nghiên cứu
25

3.1.2. Đặc điểm phân bố của Oribatida theo tầng và theo mùa ở
vùng nghiên cứu
31
3.1.3. Bàn luận và nhận xét
32
3.2. Cấu trúc quần xã Oribatida ở hệ sinh thái trảng cỏ cây bụi, thuộc
vườn quốc gia Cúc Phương, tỉnh Ninh Bình
33
3.2.1. Biến đổi cấu trúc quần xã Oribatida theo tầng thẳng đứng
trong hệ sinh thái đất ở khu vực nghiên cứu
33
3.2.2. Cấu trúc quần xã Oribatida theo mùa ở khu vực nghiên cứu
40
3.2.3. Bàn luận và nhận xét
45
3.3. Bước đầu đánh giá vai trò chỉ thị sinh học của quần xã Oribatida
46
3.3.1 Cơ sở khoa học của việc sử dụng quần xã Oribatida như yếu
tố chỉ thị sinh học
46
3.3.2. Vai trò chỉ thị sinh học của quần xã Oribatida trong môi
trường đất ở khu vực nghiên cứu
47
3.3.3. Bàn luận và nhận xét
52
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
53
TÀI LIỆU THAM KHẢO
55


DANH MỤC CÁC BẢNG


Trang
Bảng 2.1: Thống kê số lượng mẫu thu được tại VQG Cúc Phương
17
Bảng 3.1: Danh sách loài Oribatida ở khu vực nghiên cứu
25
Bảng 3.2: Thành phần các họ Oribatida ở hệ sinh thái trảng cỏ cây
bụi, thuộc vườn quốc gia Cúc Phương

29
Bảng 3.3: Sự phân bố các bậc taxon của Oribatida theo mùa nghiên
cứu

30
Bảng 3.4: Bảng giá trị các chỉ số định lượng của quần xã Oribatida
theo tầng sâu thẳng đứng ở HST đất ở khu vực nghiên cứu

34
Bảng 3.5: Một số chỉ số định lượng của Oribatida theo tầng sâu thẳng
đứng trong hệ sinh thái đất và theo mùa ở KVNC

37
Bảng 3.6: Các loài Oribatida ưu thế trong các tầng sâu thẳng đứng
trong hệ sinh thái đất ở khu vực nghiên cứu

39
Bảng 3.7: Các loài Oribatida phổ biến trong các tầng sâu thẳng đứng
ở khu vực nghiên cứu


39
Bảng 3.8: Các loài Oribatida ưu thế theo mùa ở khu vực nghiên cứu
43
Bảng 3.9: Các loài Oribatida phổ biến theo mùa ở khu vực nghiên
cứu

44

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, BIỂU ĐỒ

Trang
Hình 2.1: Sơ đồ cấu trúc cơ thể của Oribatida
21
Biểu đồ 3.1: Số lượng loài Oribatida theo tầng sâu thẳng đứng
trong hệ sinh thái đất ở khu vực nghiên cứu
35
Biểu đồ 3.2: Chỉ số đa dạng loài H’ và chỉ số đồng đều J’theo chiều
sâu thẳng đứng trong HST đất ở khu vực nghiên cứu.
36
Biểu đồ 3.3: Số lượng loài Oribatida theo mùa
40
Biểu đồ 3.4: Mật độ trung bình Oribatida theo mùa
41
Biểu đồ 3.5: Độ đa dạng loài H’ theo mùa
41
Biểu đồ 3.6: Độ đồng đều J’ theo mùa
42
Biểu đồ 3.7: Sự thay đổi giá trị các chỉ số mật độ trung bình, độ đa
dạng loài H’ và độ đồng đều J’ của Oribatida trong

khu vực nghiên cứu
49
Biểu đồ 3.8: Cấu trúc ưu thế Oribatida ở tầng sâu thẳng đứng
50
Biểu đồ 3.9: Loài ưu thế theo mùa ở tầng đất 0-10 cm
51
Biểu đồ 3.10: Loài ưu thế theo mùa ở tầng đất 11-20 cm
51
Biểu đồ 3.11: Loài ưu thế theo mùa ở tầng đất 21-30 cm
52


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Vườn quốc gia (VQG) Cúc phương (hay rừng Cúc Phương) là một khu
bảo tồn thiên nhiên, khu rừng đặc dụng nằm trên địa phận ranh giới của 3 khu
vực: Tây bắc, đồng bằng Sông Hồng và bắc trung Bộ thuộc 3 tỉnh là: Ninh
Bình, Hoà Bình và Thanh Hoá. VQG này có hệ động thực vật phong phú và
đa dạng mang những đặc trưng của rừng mưa nhiệt đới. Do đó, VQG Cúc
Phương đã thu hút được rất nhiều sự quan tâm của các nhà khoa học, của
khách thăm quan du lịch trong nước cũng như khách nước ngoài. Cho nên,
hàng năm đã có một lượng lớn du khách đã đến với Cúc Phương, vì vậy cũng
phần nào có những tác động đến môi trường xung quanh dồng thời tác ảnh
hưởng đến đời sống của các sinh vật trong rừng. Bên cạnh đó là việc quá tập
trung vào khai thác du lịch của Ban quản lý Vườn dẫn đến làm giảm hiệu quả
của việc bảo tồn đa dạng sinh học nói chung và nhóm động vật đất Chân khớp
bé nói riêng.
Động vật đất đóng vai trò quan trọng trong quá trình hình thành đất,

tính chất đất, tạo dòng chu chuyển vật chất liên tục. Vì chúng có số lượng lớn,
chiếm khoảng 90% tổng sinh lượng động vật cạn. Trong hệ động vật, bộ Ve
giáp (Oribatida) thuộc phân lớp Ve bét (Acari), lớp động vật Hình nhện
(Arachnida); Phân ngành Có kìm (Chelicerata); trong ngành Chân khớp
(Arthropoda). Nhóm ve bét đa dạng và phong phú sống trong môi trường đất
và các môi trường sống liên quan với hệ sinh thái đất như: thảm lá rừng, xác
vụn thực vật, vỏ cây gỗ, đất treo, thảm rêu bám trên thân cây và trong tán lá
cây xanh. Nhóm Ve giáp là nhóm động vật rất nhạy cảm với những biến đổi
của yếu tố khí hậu, tính chất đất nên chúng có ý nghĩa quan trọng trong việc
chỉ thị tính chất đất.
2
Trong quần xã sinh vật đất, Ve bét do có kích thước cơ thể nhỏ 0,1-0,2
đến 1,0-2,0 mm, nên cùng với các nhóm Ve bét khác: Rết tơ (Chilopoda:
Symphyla) và các nhóm côn trùng bậc thấp như Bọ nhảy, Đuôi nguyên thủy,
Hai đuôi và Ba đuôi (Insecta: Aptergota: Collembola, Protura, Dipplura và
Thysanura) được xếp chung vào nhóm động vật Chân khớp bé
(Microathropoda) [24].
Ve giáp luôn chiếm khoảng 50% trong tổng số Chân khớp bé, chúng
tham gia tích cực vào mọi chu trình tự nhiên, vào các quá trình sinh học của
đất, quá trình vận chuyển năng lượng và vật chất, quá trình làm sạch đất khỏi
bị ô nhiễm các chất thải (hữu cơ và hóa học), chất phóng xạ. Chúng làm gia
tăng độ màu mỡ của đất thông qua các hoạt động sống của mình [18]. Đồng
thời, chúng lại rất nhạy cảm với môi trường sống về đặc điểm đất, hàm lượng
mùn khoáng N, P, K trong đất, độ pH, nhiệt độ, đặc điểm cấu tạo đất, thổ
nhưỡng Vì thế, Ve giáp có ý nghĩa quan trọng trong việc chỉ thị tính chất lý,
hóa của đất; chỉ thị sinh học môi trường đất và các diễn thế của hệ sinh thái.
Các chỉ thị sinh học có thể được sử dụng trong đánh giá sinh thái, đặc biệt là
trường hợp của nhóm quần thể chỉ thị điều kiện khu vực cần được bảo tồn.
Nghiên cứu đánh giá đặc điểm, sự tiến triển của quá trình cải tạo đất làm cơ sở
khoa học cho việc quản lý, khai thác thế mạnh về du lịch ở Rừng Cúc Phương

cũng như bảo vệ và phát triển bền vững nguồn tài nguyên môi trường đất.
Nhóm Ve giáp có vỏ cơ thể cứng, mật độ cá thể lớn và tương đối ổn
định, thành phần loài phong phú, vùng phân bố rộng, dễ dàng thu bắt nên
chúng là đối tượng nghiên cứu sinh thái, động vật và phân vùng địa lí. Bên
cạnh đó chúng có khả năng di chuyển nhanh và có số lượng lớn nên chúng là
nhóm phân tán và lan truyền nhiều nguồn bệnh và giun sán kí sinh. Ve giáp
đã có trên 60 loài là vật chủ trung gian của Sán dây họ Anoplocephadae kí
sinh và gây bệnh cho gia súc.
3
Nhóm Ve giáp là nhóm động vật có tính ổn định và bền vững, thậm chí
ngay cả khi có những biến động xảy ra trong hệ sinh thái. Nên chúng được
chú ý nghiên cứu để làm vật chỉ thị tính đất, để đánh giá vai trò tác động của
con người nên các hệ sinh thái.
Vì những lí do trên chúng tôi đã chọn đề tài nghiên cứu “Cấu trúc
quần xã Ve giáp (Acari: Oribatida) ở hệ sinh thái đất Trảng cỏ cây bụi ven
rừng, thuộc Vườn Quốc gia Cúc Phương”.
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của để tài
2.1. Ý nghĩa khoa học
Đề tài bổ sung dẫn liệu về đa dạng sinh học của quần xã Oribatida ở hệ
sinh thái (HST) đất rừng VQG Cúc Phương.
Đề tài cung cấp dẫn liệu về đặc điểm phân bố và đặc trưng định lượng
của quần xã Oribatida ở rừng VQG Cúc Phương. Cấu trúc quần xã Oribatida
về đặc điểm phân bố và mật độ quần thể ở HST đất rừng VQG Cúc Phương
được nghiên cứu và phân tích đồng bộ theo 2 mùa (mùa mưa và mùa khô) và
theo 3 tầng sâu thẳng đứng trong HST đất rừng ở khu vựa nghiên cứu gồm:
độ sâu 0-10cm, 11-20cm và 21-30 với kích thước của mỗi mẫu thu là
5x5x10cm.
2.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài bổ sung tư liệu về thành phần loài Oribatida, góp phần bổ sung
tài nguyên đa dạng đa dạng động vật đất của Việt Nam.

Góp phần đánh gía về sự ảnh hưởng của một số yếu tố tự nhiên đến cấu
trúc quần xã Oribatida ở khu vực nghiên cứu.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Điều tra tài nguyên đa dạng về nhóm động vật Ve giáp, đặc điểm phân
bố của quần xã Ve giáp (Acari: Oribatida) ở hệ sinh thái đất Trảng cỏ cây bụi
ven rừng và bước đầu đánh giá vai trò chỉ thị sinh học điều kiện tự nhiên môi
trường của chúng.
4
4. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
1. Nghiên cứu đa dạng thành phần loài và mô tả ban đầu đặc điểm hình
thái qua bộ ảnh hiển vi, mật độ của quần xã Oribatida ở vùng nghiên cứu
2. Khảo sát biến đổi cấu trúc của quần xã Oribatida theo tầng thẳng
đứng và theo hai mùa khô và mưa.
3. Bước đầu đánh giá vai trò của quần xã Oribatida như yếu tố sinh học
chỉ thị biến đổi điều kiện tự nhiên và khí hậu ở vùng nghiên cứu.
5. Đối tượng nghiên cứu
Các loài thuộc bộ Ve giáp (Acari: Oribatida), phân lớp Ve bét (Acari),
lớp Hình nhện (Arachnida), phân ngành Chân khớp có kìm (Chelicerata),
ngành Chân khớp (Arthropoda), của Giới Động vật (Animalia).
6. Đóng góp mới của đề tài
Cung cấp dẫn liệu về đa dạng sinh học, cấu trúc quần xã Oribatida về đặc
điểm phân bố, mật độ quần thể và thành phần loài ở sinh cảnh trảng cỏ cây
bụi trong VQG Cúc Phương, góp phần đánh giá tài nguyên động vật đất của Việt
Nam.




5
NỘI DUNG

CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
Ve giáp luôn chiếm khoảng trên 50% trong tổng số chân khớp bé.
Chúng tham gia tích cực vào mọi chu trình tự nhiên, vào các quá trình sinh
học của đất, quá trình vận chuyển năng lượng và vật chất. Chúng tham gia
làm tăng độ màu mỡ của đất thông qua các hoạt động sống của mình …
Trong hơn 30 năm qua, cho đến năm 2000 các kết quả nghiên cứu hàng
năm của các chuyên gia trên thế giới, đặc biệt là các kết quả liên quan đến
khu hệ và phân bố của Ve Giáp đã được bảo tàng lịch sử tự nhiên Groltiz,
CHLB Đức giới thiệu trong 31 số của ấn phẩm quốc tế Bibliographia:
Oribatologica. Từ năm 2001 ấn phẩm chuyên ngành này được mang tên mới
là Acari: Bibliographia Acaologica: Oribatida …
Các nghiên cứu về Oribatida ở Việt Nam được bắt đầu từ những năm
60 và do các tác giả nước ngoài thực hiện, sau đó được mở rộng từ những
năm 80 của thế kỉ trước, trong khuôn khổ các đề tài nghiên cứu thuộc
“chương trình nghiên cứu cơ bản trong khoa học sự sống”. Trên cơ sở đó đã
hình thành một bộ sưu tập khá phong phú về dữ liệu Oribatida ở Việt Nam.
Với những thông tin trên cho thấy, việc nghiên cứu phân tích sự thay
đổi các đặc trưng định lượng của Oribatida (số lượng loài, mật độ, chỉ số đa
dạng H’, chỉ số đồng đều J’) theo mùa và theo độ sâu của đất được áp dụng ở
VQG Cúc Phương làm cơ sở khoa học chỉ ra những tác động tích cực cũng
như tiêu cực của các nhân tố môi trường, con người đến hệ sinh vật đất.
1.2. Tổng quan tài liệu
1.2.1. Tình hình nghiên cứu Oribatida trên thế giới
Vai trò và hoạt động của các nhóm sinh vật sống trong đất từ lâu đã
được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Con người đã biết đến vai trò phân hủy
6
xác mùn, phân giải chất hữu cơ và luân chuyển vật chất của nhiều nhóm sinh
vật.
Nghiên cứu về Ve Giáp trên thế giới bắt đầu từ rất sớm. Từ cuối thế kỷ

XIX, các nhà khoa học nghiên cứu về sinh vật đất đã bắt đầu quan tâm và tiến
hành tìm hiểu, hàng loạt các công trình nghiên cứu về các nhóm sinh vật đất
được thực hiện và công bố. Đầu tiên, phải lần lượt kể đến các công trình
nghiên cứu các nhóm sinh vật đất của các nhà khao học như: công trình
nghiên cứu của H.Post (1862), B.Hasen (1877, 1882) về giun đất, công trình
nghiên cứu của P.Muller ( 1879, 1882) về vai trò phân hủy xác vụn thực vật
nhờ động vật [20].
Đầu thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu đồng thời mở rộng nghiên cứu
đồng bộ hầu hết các nhóm sinh vật sống trong đất, bắt đầu có các công trình
nghiên cứu về Chân khớp bé trong đó có Ve giáp.
Năm 1905, nhà khoa học người Italia, A.berlese đã phát hiện ra
phương pháp dùng hệ thống phễu lọc để phân tích động vật Chân khớp bé
trong đất [20].
Năm 1917, phương pháp này đã được A.tullgren cải tiến và hoàn thiện
hơn. Tiếp theo đó, hệ thống phân loại Ve giáp cùng với các quan hệ tiến hóa
của chúng với các nhóm Ve bét khác được xây dựng và sắp xếp theo hệ thống
của các tác giả: Willimann (1931), Grandjean (1953), Sellnick (1960),
Ghilarov và Krivolutusky (1975), J.Balogh (1988, 1990, 1992) là nhưng
chuyên gia nghiên cứu hệ thống học Ve giáp hiện được chấp nhận rộng rãi
trên thế giới [23].
Năm 1992, trong công trình nghiên cứu của mình: “The Oribatid
Genera of the World” hai tác giả J.Balogh và P.Balogh đã hệ thống toàn bộ
các loài Ve giáp hiện đã dược phát hiện và công bố trên toàn thế giới [40].
7
Cho đến năm 2000, các kết quả nghiên cứu hàng năm của các chuyên
gia chuyên ngành trên thế giới về Ve giáp, đặc điểm khu hệ và phân bố của
Ve giáp đã được bảo tàng lịch sử tự nhiên Gorlitz, Cộng hòa liên bang Đức
giới thiệu trong 31ấn phẩm quốc tế Bibliographia: Oribatologica. Từ năm
2001, ấn phẩm chuyên ngành này được mang tên mới là Acari: Bibliogrphia
Acarologica Oribatida [23].

Về hệ thống phân loại Ve giáp, hiện nay trên thế giới vẫn còn chưa
thống nhất. Theo hệ thống phân loại thông thường, thì Ve bét thuộc bộ Ve
bét(Acari) bao gồm tất cả các nhóm Ve bét khác nhau, nằm trong lớp chân
khớp Hình nhện (Arachnida). Một hệ thống khác lại tách Ve bét thành nhóm
phân loại bậc cao hơn, là 1 phân lớp Ve bét hay thậm chí là một lớp chân
khớp Hình ve bét (Acarimorpha), thuộc phân ngành chân khớp có kìm
(Chelicerata). Hệ thống sắp xếp thứ ba có quan điểm cho rằng, không nhất
thiết các nhóm Ve bét phải gộp chung vào một bộ (Michael, 1988; willmann,
1931; Baker, Wharton, 1952; Grandjean, 1954; Sellnick, 1960; Balogh, 1961,
1972; Woolley, 1971, 1988; Nguyễn Kim Bằng, 1971; Ghiarov, Krivolutsky,
1975; Ghilarov, 1977, 1978; Đoàn Văn Thụ, Phan Trọng Cung, 1985; Norton,
1990; J.Balogh và P.Balogh, 1992; J.Aoki, 1999; Phan Trọng Cung, Đoàn
Văn Thụ, 2001; Woas, 1990; Weigmann, 2006) [Vũ Quang Mạnh].
Ở khu vực Đông Nam Á, trước năm 1945, đã có 1 số công trình nghiên
cứu về động vật đất trong đó có Ve giáp như Berlese (1913) và Sellnick
(1925) nghiên cứu ở Indonexia. Năm 1975 trở lại đây, xuất hiện hàng loạt các
công trình nghiên cứu của các tác giả như: j.Aoki 1967, ở Thái Lan:
S.Mahunka, 1968 tại Indonexia; Balogh và S.Mahunka 1974 tại Malaixia;
năm 1976 tại Hông Kong; LA.Corpus Raos (1979, 1980, 1991, 1992,…) tại
Philippin v.v [Theo Vũ Quang Mạnh].
8
Tóm lại, vị trí phân loại các nhóm ve bét ở taxon bậc cao hiện còn có
những vấn đề đang tranh luận và chưa thống nhất [23]. Tuy nhiên, hệ thống
phân loại của J.Balogh và P.Balogh là được sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới
trong đó có Việt Nam.
Ve giáp là nhóm động vật nhạy cảm với sự thay đổi chất lượng không
khí (Andre, 1976; Weigmann et al., 1991; Weigmann et al., 1992; Steiner,
1995). Theo Steiner, ô nhiễm không khí, đặc biệt trong trường hợp nồng độ
NO
2

tăng cao, đã làm suy giảm độ giàu loài Ve giáp và tạo ra những quần xã
đơn điệu nhiều hơn. Ông cũng lưu ý rằng nhiều loài bị ảnh hưởng mạnh hơn
bởi đặc trưng của vi sinh cảnh hơn là bởi mức độ ô nhiễm và sự thay đổi trong
các cấu trúc quần thể [44].
Cấu trúc quần thể, độ giàu loài và đặc điểm sinh sản của Oribatida
có phản ứng âm tính với liều cao của một số kim loại nặng trong môi trường đô
thị.
Trên thế giới còn có rất nhiều hướng nghiên cứu về Oribatida nữa như,
nghiên cứu về nguồn gốc phát sinh; lịch sử hình thành loài; hướng tiến hóa
của Oribatida; ảnh hưởng của các nhân tố tự nhiên lên mật độ, thành phần loài
Oribatida; vai trò của Oribatida trong sự phân hủy và chu trình dinh dưỡng;
nghiên cứu về quy luật và các yếu tố phát tán Oribatida; nghiên cứu về môi
trường sống Ve giáp; sự đa dạng và phân bố Oribatida trên toàn cầu.
1.2.2. Tình hình nghiên cứu Oribatida ở Việt Nam
Cùng với những bước phát triển trong nghiên cứu về Oribatida trên thế
giới, ở Việt Nam các nghiên cứu trong lĩnh vực này cũng đã đạt được những
hành tựu đáng kể. Nhìn lại lược sử nghiên cứu, có thể chia làm 4 giai đoạn:
Giai đoạn 1: từ năm 1967 đến 1980
Giai đoạn 2: từ năm 1981 đến 1986
Giai đoạn 3: từ năm 1987 đến 2007
9
Giai đoạn 4: từ năm 2008 đến nay
Giai đoạn 1: Tình hình nghiên cứu Oribatida ở Việt Nam từ năm 1967
đến năm 1980
Trước năm 1967, chưa có công trình nào nghiên cứu về Ve giáp ở Việt
Nam. Hai tác giả Balogh J. và Mahunka S., 1967 – (Hungari) đã giới thiệu
khu hệ, danh pháp và đặc điểm phân bố của 33 loài Ve giáp trong đó mô tả 29
loài và 4 giống mới cho khoa học trong tác phẩm: “New oribatids from
Vietnam”. Tiếp theo là nghiên cứu của hai tác giả Balan A.Rajski và
R.Szudrowicz (Balogh J. et al., 1967; Rajski A. et al., 1974) [26]. Mở đầu cho

các nghiên cứu tiếp theo về Oribatida ở Việt Nam.
Trước năm 1975, nghiên cứu về Ve bét nói chung và Oribatida nói
riêng ở Việt Nam chủ yếu là nghiên cứu của các tác giả nước ngoài. Sau năm
1975, các tác giả trong nước bắt đầu có các nghiên cứu độc lập về Oribatida.
Năm 1978, các tác giả Vũ Quang Mạnh và Nguyễn Trí Tiến đã tiến
hành nghiên cứu các nhóm Acarina và Collembola ở đất canh tác thuộc huyện
Từ Liêm, Hà Nội.
Sau đó phải kể đến công trình luận văn cấp I sau đại học của tác giả Vũ
Quang Mạnh, 1980 nghiên cứu thành phần loài, phân bố và biến động số
lượng của các nhóm Ve bét Cryptostigmata, Mesostigmata, Prostigmata
Acarina) và Bọ nhảy Collembola (Insecta) ở một số sinh cảnh Tây Nguyên
và ngoại thành Hà Nội. Qua nghiên cứu này, tác giả chỉ ra rằng ở các sinh
cảnh khác nhau có sự thay đổi về thành phần và số lượng loài Oribatida [5].
Trong giai đoạn này, nhìn chung các nghiên cứu về Oribatida chủ yếu do các
tác giả nước ngoài tiến hành. Các tác giả trong nước bắt đầu đi vào nghiên
cứu về định lượng chung, thành phần loài nhưng chưa nghiên cứu chuyên sâu.
Giai đoạn 2: Tình hình nghiên cứu Oribatida ở Việt Nam từ năm 1981
đến năm 1986
10
Chỉ trong vòng 6 năm, tuy nhiên các nghiên cứu về Oribatida ở Việt
Nam đã có những bước phát triển mới, rõ rệt đồng thời bổ sung đầy đủ hơn
các dẫn liệu so với giai đoạn trước.
Tiêu điểm là công trình của nghiên cứu về nhóm chân khớp bé
(Microathropoda) ở đất Cà Mau (Minh Hải) và Hà Nội (Từ Liêm), năm 1984
của tác giả Vũ Quang Mạnh. Công trình này đã đánh giá về sự khác nhau về
thành phần loài Oribatei và Collembola ở các sinh cảnh: vườn trồng lâu năm,
ruộng rau xanh, đất bờ sông ổn định và sự khác nhau về thành phần loài, số
lượng loài ở lớp đất 0 - 10cm [6].
Luận án Phó tiến sĩ của Vũ Quang Mạnh, 1985 về Oribatida ở các hệ
sinh thái tự nhiên và đất canh tác ở miền Bắc Việt Nam.

Như vậy, trong giai đoạn này các nghiên cứu về Oribatida đã có những
bước phát triển hơn so với giai đoạn trước. Hướng nghiên cứu, phạm vi địa lý
được mở rộng hơn so với nghiên cứu của giai đoạn trước. Tuy nhiên, các
nghiên cứu này vẫn đi sâu về nghiên cứu nhóm chân khớp bé nói chung còn
Ve giáp nói riêng chưa nhiều.
Giai đoạn 3: Tình hình nghiên cứu Oribatida ở Việt Nam từ năm 1987
đến năm 2007
Nghiên cứu đánh giá mật độ, thành phần loài khu hệ Microathropoda ở
đất Cà Mau, Vũ Quang Mạnh (1987), Vũ Quang Mạnh và M.Jeleva (1987) ở
đất rừng Tây Nguyên; vùng đồng bằng ven biển miền Bắc Việt Nam của Vũ
Quang Mạnh và Nguyễn Trí Tiến (1988, 1990). Năm 1990, Vũ Quang Mạnh
đã tổng kết tất cả các công trình nghiên cứu Chân khớp bé ở Việt Nam và đưa
ra danh sách 117 loài Ve giáp đã biết ở Việt Nam cho đến thời điểm đó, cùng
với đặc điểm phân bố của chúng theo vùng địa lý, loại đất và hệ sinh thái (Vũ
Quang Mạnh, 1990) [7].
11
Tiếp đó là rất nhiều công trình nghiên cứu của Vũ Quang Mạnh, Vũ
Quang Mạnh và Nguyễn Trí Tiến, Vũ Quang Mạnh và Cao Văn Thuật, Vũ
Quang Mạnh và Vương Thị Hòa, Vũ Quang Mạnh và Nguyễn Thanh Huyền
nghiên cứu khu hệ Ve giáp ở Việt Nam (1985, 1987, 1988, 1989, 1990a,
1990b, 1993, 1994, 1995, 1996, 1999, 2000, 2003, 2004…).
Năm 1994, trong thông báo khoa học các trường đại học, Vũ Quang
Mạnh đã giới thiệu danh sách 28 loài Ve giáp ở vùng đất ven biển Yên Hưng
(Quảng Ninh), đảo Cát Bà (Hải Phòng) và đồng bằng sông Hồng (Hà Nội) và
tác giả nêu lên mối liên hệ giữa Ve giáp vùng ven biển và vùng đảo so với Ve
giáp trong đất liền (Vũ Quang Mạnh, 1994).
Trong báo cáo khoa học tại Hội nghị Côn trùng học toàn quốc lần thứ
V, tác giả Vũ Quang Mạnh, Nguyễn Xuân Lâm, 2005 đã công bố khu hệ Ve
giáp Việt Nam bao gồm 158 loài, thuộc 46 họ, khu hệ này mang yếu tố Ấn Độ
- Mã Lai và thuộc vùng địa động vật Đông Phương. Tuy nhiên, khu hệ Ve

giáp Việt Nam có tính đặc hữu cao, có tới 76 loài chỉ phát hiện được ở Việt
Nam. Đồng thời, cũng có một số loài mang đặc điểm chung của khu hệ Thái
Lan, Inđônêxia, Malaixia, Philippin, Nhật Bản và các đảo Nam Thái Bình
Dương (Vũ Quang Mạnh và cs., 2005) [12].
Năm 2007, Vũ Quang Mạnh và cs. đã công bố 3 loài Ve giáp thuộc
giống Perxylobates Hammer 1972, hiện có ở Việt Nam [16].
Cũng trong năm 2007, Vũ Quang Mạnh đã giới thiệu hệ thống phân
loại và danh pháp đầy đủ nhất của 150 loài trong khoảng 180 loài Ve giáp đã
biết của khu hệ động vật Việt Nam trong công trình “Động vật chí và Thực
vật chí Việt Nam”, Tập 21 “Ve giáp (Acari: Oribatida) ở Việt Nam”. Tác
phẩm này hiện nay đang được sử dụng phổ biến, rộng rãi trong nghiên cứu và
định loại Oribatida ở các cơ sở khoa học chuyên ngành [13].
12
Những nghiên cứu về cấu trúc quần xã Ve giáp như: đánh giá về đa
dạng quần xã Ve giáp vùng đồi núi Đông Bắc và Bắc Kạn, Vũ Quang Mạnh,
2002 nhận định độ phong phú các loài ở các sinh cảnh khác nhau do tình
trạng cấu trúc của vi sinh cảnh thấp và tính đề kháng sự khô hạn thấp và
nguồn thức ăn kém (Vũ Quang Mạnh, 2002) [9].
Nghiên cứu về cấu trúc quần xã Ve giáp ở VQG Tam Đảo (Vĩnh Phúc),
Vũ Quang Mạnh và cs., 2002 có sự nhận xét cấu trúc quần xã Ve giáp ở hệ sinh
thái đất có liên quan rõ rệt với sự suy giảm gỗ rừng. Nó có thể được xem xét và
đánh giá như một đặc điểm sinh học, chỉ thị quá trình diễn thế của VQG Tam
Đảo nói riêng và của Việt Nam nói chung (Vũ Quang Mạnh và cs., 2002) [10].
Oribatida trong cấu trúc quần xã Acari ở hệ sinh thái VQG Ba Vì, Việt
Nam, Phan Thị Huyền và cs., 2004 đã xác định được mối liên hệ giữa đai cao
khí hậu ảnh hưởng tới cấu trúc quần xã Oribatida.
Các nghiên cứu về Ve giáp như yếu tố chỉ thị sinh học cho môi trường
đất cũng được đề cập. Krivolutsky et al., 1997 nhận định Ve bét là vật chủ
trung gian của các loài sán dây họ Anoplocephailidae. Vũ Quang Mạnh và cs.,
2002 đã đưa dẫn liệu bổ sung về cấu trúc và vai trò quần xã Ve giáp VQG

Tam Đảo, Vĩnh Phúc nhận định có sự thay đổi đặc điểm đa dạng thành phần
loài của quần xã Ve giáp theo chiều thẳng đứng, từ thảm rêu quanh thân cây
và vụn xác thực vật, nằm trên mặt đất từ độ cao 0-100cm, cho đến thảm lá
rừng phủ trên mặt đất, lớp đất mặt 0-10cm và lớp đất sâu 11-20cm ở hệ sinh
thái VQG Tam Đảo. Chỉ số này có thể xem xét như một yếu tố chỉ thị sinh
học ở các diễn thế ở hệ sinh thái rừng Việt Nam (Vũ Quang Mạnh và cs.,
2002). Trong tập 2 “Ve giáp (Acari: Oribatida) ở Việt Nam”, tác giả Vũ
Quang Mạnh đã có những đánh giá rất cao về giá trị nguồn lợi và hiện trạng
Ve giáp ở Việt Nam.
13
Oribatida là nhóm động vật đất nhạy cảm với sự thay đổi của các yếu tố
môi trường đất như: nhiệt độ, độ chua, hàm lượng các chất khoáng và lượng
mùn, đặc điểm cấu tạo cấu trúc quần xã Oribatida có liên quan mật thiết với
những thay đổi của điều kiện môi trường đất.
Nhiều nhóm Ve giáp là nhóm gây hại trực tiếp cho cây trồng hoặc có
vai trò như những vectơ mang truyền vi khuẩn, nguồn bệnh và giun sán kí
sinh trong môi trường này. Vì thế, qua phân tích cấu trúc các quần xã Ve giáp
giúp chúng ta có thể đánh giá và nhận biết được đặc điểm, tính chất của môi
trường đất [13].
Như vậy, các nghiên cứu về khu hệ Oribatida ở Việt Nam không ngừng
phát triển và ngày càng chứng tỏ tính đa dạng cho khu hệ này. Việc nghiên cứu
Oribatida trong giai đoạn này đã có những bước tiến mới và mang lại các giá trị
to lớn cho con người trong các nghiên cứu về vai trò chỉ thị sinh học của chúng.
Giai đoạn 4: Tình hình nghiên cứu Oribatida ở Việt Nam từ năm 2008
đến nay
Vũ Quang Mạnh, 2009 xác định thêm khu hệ Ve giáp ở Việt Nam hiện
đã xác định được có đại diện của 4 giống thuộc họ Lohmanoidae Berlese,
1961. Riêng giống Papillacarus Kunst, 1959 hiện biết ở Việt Nam có 3 loài
(Vũ Quang Mạnh, 2009).
Về nghiên cứu cấu trúc quần xã, tác giả Vũ Quang Mạnh và cộng sự đã

nghiên cứu cấu trúc quần xã chân khớp bé trong đó có Oribatida, về ảnh
hưởng và vai trò của chúng đối với các loại đất và đặc điểm của thảm cây
trồng ở vùng đồng bằng Sông Hồng. Thành phần loài Oribatida xác định được
phong phú ở sinh cảnh bãi cỏ hoang, với 15 loài. Số lượng loài Oribatida
giảm dần từ sinh cảnh RTN và VQN, đều có 9 loài; đến RNT và đất trồng cây
gỗ lâu năm, với 7 loài, thấp nhất ở ruộng lúa cạn, với 2 loài (Vũ Quang Mạnh
và cs., 2008) [16].
14
Trong báo cáo tại hội nghị Techmart tại Tây Nguyên tháng 4/2008, tác
giả Vũ Quang Mạnh và cs. chỉ ra trong cấu trúc quần xã động vật đất thì Ve
giáp chiếm ưu thế, vào khoảng 40-50%, có vai trò quan trọng trong nghiên
cứu hệ sinh thái đất (Vũ Quang Mạnh và cs., 2008) [17].
Luận án Tiến sĩ Sinh học của Đào Duy Trinh, 2011 nghiên cứu về
thành phần và cấu trúc quần xã Ve giáp ở VQG Xuân Sơn (Phú Thọ) đã xác
định được 102 loài và 1 phân loài Oribatida, thuộc 48 giống và 28 họ. Tác giả
cũng chỉ ra những thay đổi về sự phân bố thành phần loài theo đai cao khí hậu
(giảm dần từ 300m đến 1600m), số loài giảm đi khi di chuyển từ mùa khô
sang mùa mưa. Khẳng định rõ yếu tố Ấn Độ - Mã Lai của khu hệ Oribatida
ởVQG Xuân Sơn [21].
Một công trình khác nghiên cứu về Oribatida ở VQG Phong Nha – Kẻ
Bàng (Quảng Bình) của Nguyễn Hải Tiến,Vũ Quang Mạnh. Các tác giả
nghiên cứu về vai trò chỉ thị sinh học của cấu trúc quần xã Ve giáp với sự
thay đổi điều kiện môi trường ở khu vực nghiên cứu. Các tác giả đã ghi nhận:
vào mùa khô ở tầng đất 0-10cm số lượng loài Oribatida giảm theo thứ tự:
RTN trên núi đá vôi > RTN trên núi đất > RNT trên núi đất > RNT trên núi đá
vôi. Vào mùa mưa, số lượng loài giảm theo thứ tự: RTN trên núi đá vôi
>RNT trên núi đất > RTN trên núi đất > RNT trên núi đá vôi. Như vậy,
sốlượng loài Oribatida có sự biến đổi theo từng loại đất, theo độ che phủ của
thực vật và mức độ tác động của con người. Đây là cơ sở sử dụng nhóm động
vật này như một chỉ thị sinh học đối với sự biến đổi môi trường [20].

Trong các công trình được công bố gần đây thì có thể nói công trình có
mức độ chuyên sâu và toàn diện nhất là công trình nghiên cứu về hệ thống địa
động vật Oribatida về hình thái và vai trò trong HST của tác giả Vũ Quang
Mạnh, các kết quả được trình bày trong luận án Tiến sĩ khoa học năm 2013
của tác giả. Trong công trình này ghi nhận 316 loài và 4 phân loài, thuộc 163
15
giống, 60 họ và 2 phân họ. Trong đó, có 111 loài (34,68%) đặc trưng chỉ phát
hiện ở Việt Nam, 155 loài (chiếm 48,44%) lần đầu tiên được phát hiện cho khu
hệ Ve giáp Việt Nam [19].Trong công trình này, tác giả còn nghiên cứu và tổng
kết vai trò phân hủy xác thực vật, cấu trúc quần xã của chúng liên quan đến
việc sử dụng các thành phần hữu cơ và phân bón hóa học khác nhau trong sản
xuất nông nghiệp. Do vậy, những cấu trúc này có thể sử dụng như các chỉ thị
sinh học tiềm năng cho sự phát triển bền vững của HST nông nghiệp.
Tóm lại, trong giai đoạn này các nghiên cứu về Oribatida tiếp tục được
các tác giả đặc biệt là các tác giả trong nước đi sâu và mở rộng nghiên cứu về
các hướng: khu hệ, cấu trúc quần xã,… đặc biệt là vai trò chỉ thị sinh học đối
với sự thay đổi các điều kiện môi trường.

















16
CHƢƠNG 2. ĐỊA ĐIỂM, THỜI GIAN, ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN VÀ
PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Địa điểm, thời gian nghiên cứu và số lƣợng mẫu
2.1.1. Địa điểm
Nghiên cứu của chúng tôi được tiến hành ở vườn Quốc gia Cúc Phương
với sinh cảnh trảng cỏ cây bụi ven rừng
2.1.2. Thời gian nghiên cứu và số lượng mẫu
Trong năm 2013, chúng tôi đã tiến hành 2 đợt nghiên cứu và thu mẫu
ngoài thực địa, tương ứng với 2 mùa đầu mùa mưa và đầu mùa khô.
Đợt 1: tháng 5/2013
Đợt 2: tháng 12/ 2013
Tổng số mẫu định lượng (ĐL) và định tính (ĐT) ở 3 tầng đất tại sinh
cảnh trảng cỏ cây bụi ven rừng thể hiện trong bảng:
Bảng 2.1. Thống kê số lƣợng mẫu tại VQG Cúc Phƣơng
Đất mặt 0-10 cm
Đất sâu 11-20 cm
Đất sâu 21-30 cm
tổng
ĐT
0-10 cm
ĐL
0-10 cm
ĐT
10-20 cm
ĐL

10-20 cm
ĐT
20-30 cm
ĐL
20-30 cm
1 mẫu
x2
5 mẫu
x2
1 mẫu
x2
1 mẫu
x2
5 mẫu
x2
5 mẫu
x2
36 mẫu

2.2. Đặc điểm tự nhiên của VQG Cúc Phƣơng, tỉnh Ninh Bình
2.2.1. Vị trí địa lý và địa hình
Vườn quốc gia Cúc Phương nằm ở phía Tây tỉnh Ninh Bình, cách quốc
lộ 1A 30km và cách thủ đô Hà Nội 120 km về phía Nam. Vườn quốc gia Cúc
Phương nằm ở tận cùng phía Đông Nam của dãy núi đá vôi chạy theo hướng
Tây Bắc - Đông Nam. Đoạn núi đá vôi thuộc Cúc Phương có chiều dài 25 km,
17
rộng 10 km với tọa độ địa lý: Từ 20
0
14
'


đến 20
0
24
'
vĩ độ Bắc; Từ 105
0
29
'
đến
105
0
44
'
kinh độ Đông
Địa hình VQG Cúc Phương bao gồm 2 dãy núi đá vôi chạy song song
và thung lũng giữa hai dãy đó, kéo dài trên 20km theo hướng tây bắc - Đông
Nam, độ cao trung bình so với mặt biển 300 - 400 m, cao nhất là đỉnh Mây Bạc
(648 m).
2.2.2. Khí hậu và thuỷ văn
* Khí hậu
Nhiệt độ trung bình thấp hơn, mùa đông dài và lạnh hơn, mùa hè ngắn
và mát hơn vùng xung quanh.
Cúc Phương có mùa mưa dài hơn và lượng mưa lớn hơn các vùng
xung quanh. Lượng mưa bình quân hàng năm ở đây dao động 1700-2200
mm. Một năm có hai mùa rõ rệt: Mùa mưa nóng từ tháng 5 đến tháng 10,
lượng mưa chiếm 89,1% lượng mưa cả năm, nhiệt độ trung bình trong mùa
nóng 26,4
0
C. Mùa khô lạnh từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, nhiệt độ bình

quân trong mùa khô lạnh 18,6
o
C và lượng mưa chiếm 10,9% lượng mưa cả
năm. Mưa ít cộng với nhiệt độ thấp làm cho khí hậu Cúc Phương tương đối
khắc nghiệt về mùa đông.
* Thuỷ văn
Dưới lòng đất VQG Cúc Phương là địa hình núi đá vôi bị nước ăn mòn
dần, tạo thành những hang động mà trên mặt đất có nhiều lỗ hút lớn nhỏ thu
gom trong rừng sau những trận mưa. Vì vậy trong VQG có nhiều suối cạn, chỉ
có nước tạm thời sau nhưng trận mưa. Vì trong VQG có nhiều con suối cạn,
chỉ có nước tạm thời trong vài giờ trong và sau cơn mưa, hoặc 1 đến 2 ngày
nếu mưa to kéo dài. Trừ sông Bưởi và sông Ngang ở phía tây bắc.
2.2.3. Thổ nhưỡng
Do điều kiện tự nhiên và quá trình phong hóa, VQG Cúc Phương hình
thành 2 nhóm đất chính và mang những đặc tính chung sau:

×