Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

SKKN KINH NGHIỆM KHAI THÁC tốt KÊNH HÌNH TRONG GIẢNG dạy môn LỊCH sử lớp 8 bậc THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.02 MB, 44 trang )

1/ TÊN ĐỀ TÀI:
KINH NGHIỆM KHAI THÁC TỐT KÊNH HÌNH TRONG GIẢNG
DẠY MÔN LỊCH SỬ LỚP 8 BẬC THCS
2/ ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong quá trình dạy học, các nhà giáo dục đều thừa nhận 4 thành tố:
Mục tiêu- Nội dung- Phương pháp dạy học - Thiết bị dạy học là không thể
thiếu trong quá trình dạy học. Mỗi nhân tố đều có mối quan hệ nội tại nhưng
giữa chúng có mối quan hệ mật thiết tác động lẫn nhau, do mối quan hệ đó
chúng thúc đẩy quá trình nhận thức của học sinh. Mối quan hệ này được thể
hiện qua sơ đồ sau:
Mục tiêu dạy học được đặt ra xuất phát từ nhiều yếu tố, để thực hiện
cần có nội dung tương ứng, có phương pháp dạy học và hệ thống thiết bị dạy
học phù hợp.
Nội dung dạy học không chỉ bám sát mục tiêu đã định mà nó được xác
định trên nền tảng phương pháp dạy học và thiết bị dạy học tương ứng.
Phương pháp dạy học phải phù hợp với mục tiêu, nội dung dạy học và
hệ thống thiết bị dạy học cần có, chính nó ảnh hưởng tích cực đến việc hoàn
thành nội dung và thực hiện mục đích dạy học.
Trong những thành tố trên, thiết bị dạy học được các thành tố chi phối
và mặt khác nó có tác động tích cực trong việc thực hiện mục tiêu dạy học.
1
MỤC TIÊU
NỘI DUNG
PPDH
TBDH
Xuất phát từ lý luận đó, chương trình đổi mới giáo dục phổ thông là
một quá trình đổi mới từ mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện, đánh
giá chất lượng giáo dục trong đó việc biên soạn chương trình và sách giáo
khoa mới lần này không chỉ nêu nội dung và thời lượng dạy học mà thực sự là
một kế hoạch hành động sư phạm, kết nối mục tiêu giáo dục với các lĩnh vực
nội dung và phương pháp giáo dục, phương tiện dạy học, tổ chức các hoạt


động dạy học và cách thức đánh giá kết quả học tập của học sinh. Sách giáo
khoa không đơn giản là tài liệu thông báo các kiến thức có sẵn mà là tài liệu
giúp học sinh tự học, tự phát hiện và giải quyết các vấn đề để chiếm lĩnh và
vận dụng kiến thức mới một cách linh hoạt, chủ động và sáng tạo. Các tư liệu
lịch sử đưa vào sách giáo khoa không phải chỉ để minh họa cho bài viết của
tác giả mà nhiều trường hợp là tài liệu để tổ chức hoạt động học tập, mà kết
quả là học sinh có được nhận thức về quá khứ như tác giả sách giáo khoa
mong muốn. Mặt khác, thông qua quá trình hoạt động với các tư liệu lịch sử
trong sách giáo khoa, học sinh được hình thành các kĩ năng học tập, phương
pháp lao động trí óc, sẽ được phát triển các năng lực tự học, tự nghiên cứu.
Vậy làm thế nào để chuyển đổi từ việc sử dụng sách giáo khoa như là một tài
liệu bắt buộc để giáo viên truyền thụ lại nguyên si theo sách sang việc sử
dụng sách giáo khoa có hiệu quả theo yêu cầu đổi mới của chương trình thay
sách? Đây là vấn đề mà hiện nay các giáo viên còn đang gặp nhiều khó khăn
và hạn chế trong thực tế tổ chức các hoạt động dạy học ở các trường phổ
thông. Trên cơ sở vận dụng lý luận vào quá trình thực nghiệm và được sự góp
ý của đồng nghiệp trong tổ chuyên môn, thông qua kết quả đạt được qua quá
trình giảng dạy chương trình thay sách bộ môn Lịch Sử 6,7,8,9 xin được nêu
lên kinh nghiệm giải quyết khó khăn vừa nêu trên qua đề tài: KINH NGHIỆM
KHAI THÁC TỐT KÊNH HÌNH TRONG GIẢNG DẠY MÔN LỊCH SỬ
LỚP 8 BẬC THCS
3/ CƠ SỞ LÝ LUẬN
2
3.1.Muốn đổi mới phương pháp dạy học trong bộ môn lịch sử đặc
biệt là trong lĩnh vực khai thác các kênh hình của sách giáo khoa trước
hết cần phải dựa trên cơ sở đặc trưng cơ bản của bộ môn lịch sử:
-Đặc trưng nổi bật nhất trong 3 đặc trưng của nhận thức lịch sử là con
người không thể tri giác trực tiếp những gì thuộc về quá khứ. Mặt khác, lịch
sử là những sự việc đã diễn ra, là hiện thực trong quá khứ, tồn tại một cách
khách quan, không thể thông qua “phán đoán”, “suy luận”…để biết lịch sử.

Vì vậy, nhiệm vụ đầu tiên, tất yếu của bộ môn lịch sử ở trường phổ thông là
tái tạo lịch sử, tức là cho HS tiếp xúc với những chứng cứ vật chất, những dấu
vết của quá khứ, tạo ra ở HS những hình ảnh cụ thể, sinh động, chính xác về
các sự kiện, hiện tượng lịch sử, những biểu tượng về con người và hoạt động
của con người trong bối cảnh thời gian, không gian xác định với những điều
kiện lịch sử cụ thể. Vậy tái tạo lịch sử bằng phương thức nào? Để tạo ra
những hình ảnh lịch sử cụ thể, bên cạnh lời nói sinh động GV sử dụng các
phương tiện trực quan. Căn cứ vào tài liệu học tập và mục tiêu lĩnh hội, có thể
lựa chọn các phương tiện trực quan khác nhau như:
+Tạo hình ảnh một sự vật cụ thể: dùng hiện vật, tranh, ảnh, phim đèn
chiếu, video
+Tạo biểu tượng về không gian, hoàn cảnh địa lí diễn ra các sự kiện
lịch sử: dùng tranh, ảnh, bản đồ, sa bàn.
+Trình bày diễn biến các sự kiện lịch sử: dùng tranh, ảnh, phim đèn
chiếu, phim màn ảnh rộng, video…
+Tạo biểu tượng về thời gian: dùng sơ đồ, bảng niên biểu…
+Tạo biểu tượng về sự phát triển: dùng sơ đồ, biểu đồ, tranh, ảnh, bảng
so sánh…
So với lời nói của giáo viên, các phương tiện trực quan có ưu thế hơn,
như tạo ra hình ảnh lịch sử cụ thể, sinh động và chính xác hơn, giúp học sinh
thuận lợi hơn trong việc tạo biểu tượng lịch sử. Vì vậy cần quan tâm sử dụng
các phương tiện trực quan kết hợp với lời nói sinh động của giáo viên.
3
3.2.Muốn đổi mới phương pháp dạy học trong bộ môn lịch sử đặc
biệt là trong lĩnh vực khai thác các kênh hình của sách giáo cần phải dựa
vào đặc trưng của các phương pháp dạy học tích cực: Dạy học tăng cường
phát huy tính tự tin, tích cực, chủ động, sáng tạo thông qua tổ chức thực
hiện các hoạt động học tập của HS.
Dạy học thay vì lấy “Dạy” làm trung tâm sang lấy “Học” làm trung
tâm. Trong phương pháp tổ chức, người học – đối tượng của hoạt động “dạy”,

đồng thời là chủ thể của hoạt động “học” – được lôi cuốn vào các hoạt động
học tập do GV tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó tự lực khám phá những điều
mình chưa rõ,chưa có chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức đã
được GV sắp đặt. Được đặt vào những tình huống của đời sống thực tế, người
học trực tiếp quan sát, thảo luận, làm thí nghiệm, giải quyết vấn đề đặt ra theo
cách suy nghĩ của mình, từ đó nắm được kiến thức kĩ năng mới, vừa nắm
được phương pháp “làm ra” kiến thức, kĩ năng đó, không rập theo những
khuôn mẫu sẵn có, được bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo.
Dạy theo cách này, GV không chỉ giản đơn truyền đạt tri thức mà còn
hướng dẫn hành động. Nội dung và phương pháp dạy học phải giúp cho từng
HS biết hành động và tích cực tham gia các chương trình hành động của cộng
đồng, thực hiện thầy chủ đạo, trò chủ động.
“Hoạt động làm cho lớp học ồn ào hơn, nhưng là sự ồn ào có hiệu quả”
4/ CƠ SỞ THỰC TIỄN:
4.1. Thực trạng:
Tài liệu giảng dạy của giáo viên ngoài sách giáo khoa Lịch sử , còn có
SGV và Tư liệu Lịch Sử và Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục Trung
học cơ sở môn Lịch sử (Bộ giáo dục và đào tạo - xuất bản tháng 7 năm 2007)
… các tác giả khi viết sách đã cung cấp cho giáo viên lý luận chung về đổi
mới giáo dục phổ thông, một số vấn đề chung về đổi mới phương pháp dạy
học lịch sử ở trường phổ thông, một số biện pháp nâng cao năng lực giáo viên
dạy học lịch sử ở trường trung học cơ sở. Ngoài ra những lớp bồi dưỡng dạy
chương trình thay sách mới, bồi dưỡng thường xuyên theo chu kì III đã được
4
tổ chức, các hình thức sinh hoạt tổ, nhóm chuyên môn cũng tập trung bàn bạc
về những vấn đề đổi mới PPDH nhiều điển hình tiên tiến về PPDH môn lịch
sử đã xuất hiện trong những hội thi GV giỏi , nhiều tiết học diễn ra sinh động,
hiệu quả theo yêu cầu đổi mới nhưng không mang tính đại trà. Một bộ phận
giáo viên Lịch sử chưa nỗ lực vượt qua kiểu dạy học theo lối mòn trước đây
nên đã chủ yếu dùng phương pháp trình bày miệng, bằng lời nói sinh động,

giàu hình ảnh giáo viên thông qua tường thuật, miêu tả, kể chuyện, nêu đặc
điểm của nhân vật lịch sử …kết hợp với giới thiệu các tranh ảnh, bản đồ, lược
đồ … , sử dụng thêm vài câu hỏi, học sinh nhìn qua loa vào sách giáo khoa và
trả lời, khoảng 10-15 lần như thế là xong tiết học. Bằng phương pháp này, giờ
học lịch sử đã trở thành giờ kể chuyện lịch sử, các sự kiện, hiện tượng lịch sử
được trình bày một cách trừu tượng, qua loa, chưa đạt tới mức độ có thể giúp
học sinh hình dung về quá khứ, các kĩ năng thực hành bộ môn, khả năng quan
sát, suy luận, trình bày các vấn đề lịch sử… của học sinh đã không được chú
trọng theo đúng yêu cầu đổi mới của mục tiêu đào tạo, nội dung chương trình
sách giáo khoa và phương pháp dạy học. Với việc sử dụng đó đồ dùng trực
quan chỉ có giá trị được dùng để minh họa cho lời giảng của giáo viên nên
giá trị sử dụng của đồ dùng trực quan trong quá trình tổ chức hoạt động dạy
học không cao hoặc không cần thiết ( không sử dụng cũng được). Đây chính
là kiểu dạy học “cầm tay chỉ việc” có tính cách “học hộ” và áp đặt, làm cho
người học trở nên thụ động, mất khả năng và hứng thú tìm tòi, sáng tạo.
4.2.Các giải pháp đã sử dụng:
Trong quá trình biên soạn sách giáo khoa, sách giáo viên, các tác giả đã
chú ý lựa chọn danh mục thiết bị và chuẩn bị các thiết bị dạy học theo một số
yêu cầu để có thể phát huy vai trò của đồ dụng dạy học, quá trình khai thác và
sử dụng các kênh hình trong sách giáo khoa của giáo viên đã diễn ra như sau:
a/Sử dụng bản đồ, lược đồ: Việc sử dụng bản đồ, lược đồ giáo khoa
trong quá trình tổ chức các hoạt động dạy học đã được giáo viên thực hiện
bằng 2 bước:
5
-Bước 1: GV giới thiệu tên bản đồ, lược đồ; ranh giới, các quy ước trên
bản đồ, lược đồ.
-Bước 2: Bằng lời nói sinh động kết
hợp với sử dụng bản đồ, lược đồ giáo viên
đã tường thuật, miêu tả, nêu đặc điểm, giải
thích…những sự kiện chính xác được quy

định trong chương trình, sách giáo khoa
nhằm cung cấp cho học sinh những kiến
thức cơ bản, điển hình, cụ thể, nhằm tái
tạo lại hình ảnh của quá khứ.
Ví dụ1: Hình 10. Lược đồ lực lượng
phản cách mạng tấn công nước Pháp năm
1793 (Trang 15, Bài 2: Cách mạng tư sản
Pháp (1789 – 1794))
Để thực hiện yêu cầu của sách giáo viên: “Dựa vào lược đồ để cụ thể
hóa tình hình “Tổ quốc lâm nguy”, quá trình tổ chức thực hiện của giáo viên
như sau:
-Bước 1: Giới thiệu lược đồ và chú giải.
-Bước 2: GV dựa vào lược đồ thông báo tình hình “Tổ quốc lâm nguy”
của nước Pháp như sau: “Mùa xuân 1793, quân Anh cùng quân các nước
phong kiến châu Âu tấn công nước Pháp cách mạng (kết hợp với chỉ các nước
đánh nhau với Pháp màu xanh ,các mũi tên màu đen trên lược đồ). Trong
nước, bọn phản động lại nổi loạn ở vùng Văng đê và cả miền Tây Bắc (kết
hợp với chỉ các vùng màu gạch trên lược đồ). Đồng thời xảy ra nạn đầu cơ
tích trữ hoành hành. Giá cả tăng vọt. Đời sống nhân dân rất khốn khổ. Trong
khi đó, phái Gi-rông-đanh không lo tổ chức chống ngoại xâm, nội phản và ổn
định cuộc sống nhân dân mà chỉ lo củng cố quyền lực.”
Với cách sử dụng nêu trên, giáo viên đã sử dụng lược đồ để minh họa
cho học sinh thấy tình hình khó khăn của nước Pháp vào năm 1793. Như vậy
một đơn vị kiến thức đã được trình bày ở phần kênh chữ sách giáo khoa, được
6
kí hiệu hóa thể hiện qua lược đồ H10, lại một lần nữa do giáo viên trình bày
bằng cách kết hợp nội dung kênh chữ của sách giáo khoa với sử dụng lược đồ
Hình 10, cách hoạt động như vậy đã làm cho giáo viên trở thành là người giữ
vai trò chủ động trong hoạt động học tập còn học sinh rơi vào thế thụ động
ngồi nghe và theo dõi sách giáo khoa xem giáo viên trình bày đến đâu, phải

đến cuối tiết học, nếu còn thời gian giáo viên mới cho học sinh lên bảng dựa
vào lược đồ trình bày tình hình nước Pháp năm 1793 để rèn luyện kĩ năng bộ
môn cho học sinh.
Trường hợp thứ hai, do nhận thức một cách máy móc về yêu cầu đổi
mới phương pháp dạy học nên có giáo viên đã chuyển giao công việc trình
bày diễn biến các sự kiện lịch sử trên lược đồ, bản đồ cho học sinh thực hiện
bằng một câu hỏi: Em hãy trình bày tình hình của nước Pháp năm 1793?. Với
cách thực hiện này, chỉ một vài học sinh giỏi, khá trong lớp nhanh chóng ghi
nhớ nội dung diễn biến từ sách giáo khoa và lên bảng trình bày minh họa như
một cái máy nhưng không hiểu được bản chất sự kiện lịch sử.
b.Tranh ảnh lịch sử (tranh chân dung nhân vật lịch sử, tranh biếm
họa, tranh lịch sử…): Tranh ảnh lịch sử là
những tài liệu lịch sử quý đã được chọn để sử
dụng trong dạy học nhằm nâng cao hiệu quả
giờ dạy, góp phần nâng cao chất lượng bộ
môn. Giáo viên khi sử dụng tranh ảnh lịch sử
chỉ tập trung vào việc rèn luyện cho HS kĩ
năng quan sát, mô tả, tường thuật là chủ yếu.
Quá trình khai thác tranh ảnh lịch sử này đã
được giáo viên thực hiện như sau:
b.1.Tranh nhân vật lịch sử: Ví dụ:
Hình 44.Tôn Trung Sơn (1866 – 1925) trang 61(Bài 10: Trung Quốc cuối thế
kỉ XIX-đầu thế kỉ XX)
Bước 1: GV cho HS quan sát Hình 44 sách giáo khoa Sử 8 trang 61.
7
Bước 2: Giáo viên giới thiệu nhân vật lịch sử ở Trung Quốc vào thế kỉ
XX là Tôn Trung Sơn, sinh năm 1866 mất năm 1925, một đại diện ưu tú nhất
của phong trào cách mạng tư sản. Giáo viên nêu khái quát ngắn gọn tiểu sử
của nhân vật ấy: Tôn Trung Sơn (1866 – 1925), vốn tên là Văn, tự Dật Tiên,
xuất thân trong một gia đình nông dân tỉnh Quảng Đông. Thuở hàn vi, ông

vốn đồng cảm với những người dân nghèo khổ, lớn lên được người anh là một
nhà tư bản cho đi du học ở Mĩ, Anh. Năm 1882, ông tốt nghiệp bác sĩ y khoa
ở Hồng Công. Từ 1902 đến 1905, ông đã từng đi nhiều nước trên thế giới: qua
Hà Nội (Việt Nam), Nhật Bản, Mĩ, châu Âu…Năm 1905, tại Tô-ki-ô (Nhật
Bản), ông thành lập Trung Quốc Đồng minh hội.(Sách giáo viên).
Trường hợp thứ hai: sau khi giới thiệu hình 44, Giáo viên nêu câu hỏi:
Em biết gì về nhân vật lịch sử này? HS sẽ trình bày một số thông tin về nhân
vật Tôn Trung Sơn dựa trên những tư liệu của sách giáo khoa.
Với cách thực hiện trên, giáo viên đã sử dụng H44 trong sách giáo khoa
chỉ với một mục đích giới thiệu hình ảnh nhân vật lịch sử được đề cập đến
trong bài học không tạo cho học sinh ấn tượng đáng ghi nhớ và hiểu biết về
những nội dung khác của nhân vật lịch sử được thể hiện qua hình bằng các kĩ
năng quan sát, nhận xét, nhận định, đánh giá
b.2.Tranh biếm họa: Ví dụ Hình 42: Các nước đế quốc xâu xé “cái
bánh ngọt” Trung Quốc, trang 59. (Bài 10 Trung Quốc cuối thế kỉ XIX-đầu
thế kỉ XX)
Bước 1: GV giới
thiệu Hình 42. Các nước
đế quốc xâu xé “cái bánh
ngọt” Trung Quốc : Trung
Quốc được ví như cái
bánh ngọt bị cắt làm 6
miếng và các nước đế
quốc là những người cầm
nĩa đứng xung quanh.
8
Bước 2: Giáo viên nêu câu hỏi: ?Dựa vào H.42, em hãy cho biết tình
hình của Trung Quốc nửa sau thế kỉ XIX? HS sẽ trả lời Trung Quốc bị các
nước đế quốc xâu xé.
Với cách thực hiện trên, giáo viên chỉ mới khai thác tầng nghĩa thứ nhất

được thể hiện qua bức tranh: Trung Quốc là một cái bánh ngọt và bị 6 nước
đế quốc chia cắt và sử dụng nó để thông báo đơn vị kiến thức Trung Quốc bị
các nước đế quốc xâm chiếm chứ không thông qua chi tiết biếm họa khai thác
một đơn vị kiến thức thứ hai của bức tranh đó là: nguyên nhân các đế quốc
xâu xé Trung Quốc? Tính biếm họa của bức tranh nhằm thể hiện nội dung
kiến thức không được khai thác, học sinh thụ động nắm kiến thức không có
cơ hội được phát huy tính chủ động sáng tạo của mình thông qua kĩ năng quan
sát, nhận xét, suy luận để tiếp nhận kiến thức mới
c.Tranh lịch sử: Hình 99. Nông dân Việt Nam trong thời kì Pháp
thuộc (Bài 29: Chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp và những
chuyển biến về kinh tế, xã hội ở Việt Nam)
Buớc 1: giáo viên
cho học sinh quan sát H99.
Nông dân Việt Nam trong
thời kì Pháp thuộc
Bước 2: GV đặt câu
hỏi: Quan sát H 99, em hãy
cho biết dưới thời Pháp
thuộc, đời sống của người
nông dân như thế nào?
HS sẽ trả lời: đời
sống của người nông dân
cực khổ.
Với cách tổ chức hoạt động dạy - học như
trên, giáo viên chỉ mới cho HS sử dụng kĩ năng
quan sát tranh, ảnh và xác định một cách khái
9
quát nội dung được thể hiện qua kênh hình và nhằm mục đích minh họa cho
phần kênh chữ của sách giáo khoa chứ chưa qua kênh hình giúp các em cảm
nhận được mức độ cực khổ trăm bề của nông dân ta dưới thời Pháp thuộc cao

hơn trước như thế nào và qua đó thấy được cuộc sống bị bần cùng hóa của
nông dân
d. Sơ đồ: Hình 62. Sơ đồ so sánh sự phát triển của sản xuất thép giữa
Anh và Liên Xô trong những năm 1929 – 1931.(Bài 17: Châu Âu giữa hai
cuộc chiến tranh thế giới (1918 – 1939)-Trang 87)
Đây là một tài liệu học tập diễn tả quá trình phát triển, sự vận động của
một sự kiện lịch sử bằng mũi tên trên hệ trục tọa độ có thời gian và sự kiện.
Bước 1: Giáo viên giới thiệu hình 62 trang 90
Bước 2: Nêu câu hỏi sách giáo khoa: Qua sơ đồ trên, em có nhận xét gì
về tình hình sản xuất ở Liên Xô và Anh trong những năm 1929 – 1931?
(Sản xuất của Liên Xô tăng dần từ 1929 đến 1931, sản xuất của Anh
tăng dần đến nửa đầu 1930 giảm rất nhanh đến 1931 )
Với cách tổ chức hoạt động như trên, giáo viên chỉ giúp học sinh so
sánh sự tăng trưởng của sản lượng thép ở Liên Xô với sự sụt giảm của sản
lượng thép ở Anh, thể hiện hai chiều trái ngược nhau trong nền sản xuất của
Anh (TBCN) và của Liên Xô (nước XHCN) trong những năm 1929 – 1933
mà không giúp học sinh rút ra nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế thừa ở
các nước tư bản được thể hiện qua kênh hình.
4.3.Nguyên nhân thực trạng: Với cách tiến hành đã nêu trên, GV chỉ thực
hiện hai bước trong quá trình khai thác, các kênh hình trong sách giáo khoa
lịch sử 8: lược đồ, tranh ảnh, biểu đồ đã được giáo viên sử dụng để minh
họa cho những đơn vị kiến thức mà giáo viên cung cấp cho HS. GV đã trở
thành là người giữ vai trò chủ động trong hoạt động dạy học, cung cấp thông
tin đến cho học sinh, còn HS ở vào thế bị động tiếp thu lại những nội dung do
giáo viên truyền đạt hoặc đọc từ kênh chữ của sách giáo khoa hoặc giải quyết
một số vấn đề do giáo viên đặt ra một cách áp đặc. Những tồn tại của giáo
10
viên trong quá trình sử dụng và khai thác kênh hình được nêu trên xuất phát
từ những nguyên nhân chính sau đây:
-Cơ sở lý luận về phương pháp dạy học Lịch sử trang bị cho giáo viên

trong quá trình đào tạo chỉ tập trung vào nêu vị trí và ý nghĩa của đồ dùng trực
quan mà chưa chú trọng vào việc cung cấp cho giáo viên phương pháp sử
dụng các loại đồ dùng trực quan trong quá trình dạy – học ở trường phổ
thông. Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục THCS được triển khai tại các
lớp tập huấn giáo viên dạy chương trình thay sách giáo khoa 4 năm vừa qua
với thời gian rất ngắn, còn nặng về tìm hiểu, làm quen với nội dung chương
trình, SGK; chưa tập huấn sâu sắc, kĩ lưỡng về PPDH; thiếu những mẫu cụ
thể để bắt chước hoặc vân dụng các PPDH tích cực, đặc biệt chưa chú trọng
nội dung bồi dưỡng sử dụng thiết bị dạy học cho giáo viên theo yêu cầu đổi
mới phương pháp dạy học.
-Một bộ phận giáo viên khi tham gia học bồi dưỡng chuyên môn về đổi
mới phương pháp dạy học, đổi mới nội dung chương trình, sách giáo khoa
THCS thì học môn Địa nhưng khi phân công lao động thì dạy cả môn Sử nên
không nắm vững các yêu cầu đặc trưng của bộ môn.
-Nhiều đơn vị trường học đã không tạo điều kiện để giáo viên có dạy
qua các khối lớp 6,7,8, 9 trong bậc THCS, đã 6 năm thực hiện chương trình
thay sách giáo khoa vẫn có trường hợp giáo viên chỉ mới dạy 1-2 khối lớp/ 4
khối trong bậc học.
-Phương pháp dạy học trước đây chủ yếu dựa vào sách giáo khoa để
cung cấp kiến thức cho học sinh ghi nhớ là chính, nên đã xuất hiện quan điểm
cho rằng việc sử dụng đồ dùng trực quan chỉ cần thiết đối với các môn tự
nhiên còn không cần thiết đối với các môn xã hội, nếu có sử dụng cũng chỉ
mang tính chất là để minh họa Tình hình này được kéo dài trong thời gian
khá lâu nên nay đã trở thành quen đối với nhiều giáo viên dạy môn Lịch sử,
đến khi có đồ dùng trực quan cũng ít khi sử dụng trên lớp (dạy chay) hoặc có
sử dụng thì chưa đúng với mục đích yêu cầu của việc sử dụng đồ dùng trực
quan theo hướng tích cực.
11
-Chưa nắm vững yêu cầu rèn luyện kĩ năng thực hành bộ môn của học
sinh theo từng khối, lớp. Xem nhẹ năng lực thực hành bộ môn của học sinh

trong việc tự trình bày sự hiểu biết của mình qua đọc và sử dụng các kí hiệu
của lược đồ, bản đồ, tranh ảnh. Giáo viên tự cho rằng đó là công việc mà giáo
viên phải làm, học sinh không thể làm được, giáo viên phải là người tái tạo lại
bức tranh lịch sử trong quá khứ cho học sinh nghiên cứu và tìm hiểu.
-Không xác định được nội dung kiến thức được thể hiện qua các tranh
ảnh lịch sử được đưa vào sách giáo khoa và cách khai thác từng loại tranh ảnh
lịch sử đó. Quá trình tổ chức thực hiện không thực hiện đúng năm bước theo
lý luận, và không đặt ra được những tình huống có vấn đề của tranh, ảnh, lược
đồ để hướng dẫn, tổ chức học sinh tìm hiểu nội dung bài học từ việc giải
quyết những vấn đề đã đặt ra. (đây là nguyên nhân cơ bản, quan trọng nhất )
-Kênh hình trong sách giáo khoa gồm: bản đồ, lược đồ, hình ảnh đen
trắng in với kỹ thuật không cao, ít được giải thích nội dung và cũng ít hấp
dẫn. Nếu so sánh với những tài liệu học tập của các môn Vật Lý, Hóa học,
Sinh học, Địa lý …ta thấy cần có những cải tiến, bổ sung cho bộ môn Lịch sử
trong nhà trường.
5/NỘI DUNG NGHIÊN CỨU:
Mục tiêu đổi mới của giáo dục phổ thông là nhằm đào tạo những con
người vừa có thể thích ứng với với hoàn cảnh, vừa có khả năng tác động để
thay đổi hoàn cảnh theo quy luật phát triển của lịch sử. Từ mục tiêu giáo dục
như vậy, việc biên soạn sách giáo khoa Lịch sử cũng được đổi mới. Sách giáo
khoa được biên soạn theo quan điểm đúng đắn: Đây là tài liệu cơ bản cho học
sinh học tập, giúp các em “làm việc” với sách để nắm kiến thức, chứ không
phải để học thuộc lòng. Vì vậy, ngoài phần bài viết, sách giáo khoa còn có
nhiều bộ phận quan trọng khác: tài liệu tham khảo, câu hỏi, các loại tranh ảnh,
lược đồ, bản đồ… để củng cố và bổ sung kiến thức cần thiết mà học sinh cần
nắm vững. Sách giáo khoa mới tăng thêm một số lượng đáng kể về kênh hình:
SGK Lịch sử 8 có 107 kênh hình, trong đó có 18 lược đồ (sách cũ có 64 kênh
hình). Các tư liệu Lịch sử trực quan này tự nó chứa đựng thông tin, tư liệu,
12
hình ảnh (tĩnh và động), là phương tiện để GV tổ chức quá trình nhận thức

nên có tác động rất mạnh đến nội dung dạy học. Ví như các kênh hình đã
chứa đựng nhiều thông tin, chi tiết có thể giúp cho HS nắm bắt nội dung học
tập thì nội dung kênh chữ hay người thầy không nhất thiết phải trình bày quá
kĩ. Ở đây, kênh chữ và kênh hình đều cùng chứa đựng thông tin dạy học
nhưng chúng có cách thể hiện nội dung theo đặc trưng riêng và đều giúp học
sinh tiếp cận kiến thức một cách chủ động, sáng tạo và thích thú.
Trong quá trình đổi mới giáo dục phổ thông, PPDH (phương pháp dạy
học) và TBDH (thiết bị dạy học) có mối quan hệ hết sức chặt chẽ, ở nhiều
trường hợp với phương pháp này cần phải có ĐDDH tương ứng kia và ngược
lại có ĐDDH này cần phải có phương pháp DH tương ứng. Do PPDH đã
được đổi mới căn bản nên giờ đây ĐDDH trực quan không còn là những đồ
dùng để GV minh họa mà ĐDDH có nhiệm vụ giúp cho quá trình nhận
thức của học sinh chủ động, sáng tạo, rèn luyện kĩ năng…làm cho nội
dung học tập súc tích, PPDH linh hoạt, giờ học có hiệu quả cao.
Trên cơ sở có nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của ĐDDH, cơ sở
lý luận về đổi mới giáo dục trong việc sử dụng khai thác kênh hình của giáo
viên, từ kinh nghiệm thực tế của bản thân qua quá trình dạy học xin được
trình bày phương pháp sử dụng kênh hình trong quá trình dạy học lịch sử một
cách có hiệu quả:
5.1: Việc khai thác kênh hình sách giáo khoa phải được thực hiện
theo đúng năm bước:
Bước 1: Cho HS quan sát tranh, ảnh, lược đồ để xác định một cách
khái quát nội dung tranh, ảnh cần khai thác.
Bước 2: GV đưa ra câu hỏi nêu vấn đề và tổ chức, hướng dẫn HS tìm
hiểu nội dung tranh ảnh, lược đồ
Bước 3: HS trình bày kết quả tìm hiểu nội dung tranh, ảnh, lược đồ sau
khi đã quan sát, kết hợp gợi ý của GV và tìm hiểu nội dung trong bài học.
Bước 4: GV nhận xét, bổ sung ý kiến trả lời của HS, hoàn thiện nội
dung khai thác tranh, ảnh cho HS.
13

5.2: GV phải hiểu được nội dung cần khai thác từ kênh hình của
SGK.
5.3: GV phải đặt ra được những tình huống có vấn đề để hướng dẫn,
tổ chức HS khai thác tìm ra
5.4: GV thay thế các kênh hình đảm bảo tính khoa học và thẩm mĩ
cho các kênh hình của SGK
Kênh hình trong dạy học lịch sử có nhiều loại, mỗi loại lại có cách sử
dụng riêng như sau:
a. Sử dụng bản đồ, lược đồ: Sử dụng lược đồ trong sách giáo khoa
hoặc bản đồ được cấp là một yêu cầu cấp thiết trong dạy học lịch sử, nhằm
phát triển tư duy của học sinh. Song sử dụng như thế nào để phát huy hiệu
quả của nó trong dạy học lịch sử thì ít được chú ý. Sử dụng như thế nào mới
đáp ứng được yêu cầu của chương trình thay sách theo hướng học sinh chủ
động nắm kiến thức chứ không phải để minh họa cho kiến thức?
Trên bản đồ lịch sử, các sự kiện luôn được thể hiện trong một không
gian, thời gian, địa điểm cùng một số yếu tố địa lí nhất định. Tất cả nội dung
trên đã được mã hóa bằng các kí hiệu: màu sắc, mũi tên hoặc nhiều kí hiệu
khác đã được nêu rõ ở chú giải của bản đồ, lược đồ.
Bản đồ, kí hiệu bản đồ, cách đọc bản đồ… là nội dung kiến thức đã
được đưa vào trong chương trình giảng dạy của bộ môn Địa lí lớp 6 với 3 tiết
nhằm cung cấp cho học sinh kĩ năng vẽ và đọc bản đồ nên học sinh từ lớp 6
đã biết sử dụng và đọc bản đồ, lược đồ.
Trong quá trình biên soạn sách giáo khoa, mức độ yêu cầu rèn luyện kĩ
năng sử dụng lược đồ và bản đồ cho học sinh trong bộ môn Lịch sử cũng
được thể hiện rất rõ trong sách giáo khoa Lịch sử ở từng khối lớp:
Ở lớp 6, yêu cầu rèn luyện kĩ năng điền kí hiệu thích hợp vào bản đồ,
thì sang lớp 7, bản đồ - lược đồ đã có có kí hiệu, có bản chú giải nên yêu cầu
về kĩ năng cao hơn một bước, đầu tiên là “sử dụng lược đồ để trình bày tóm
tắt diễn biến ” sau đó chuyển qua “Dựa vào lược đồ, em hãy trình bày diễn
biến ” và tiếp tục được hoàn thiện thành kĩ năng ở lớp 8,9. Như vậy việc

14
hướng dẫn, tổ chức cho học sinh lớp 8 dựa vào kênh hình để tự mình khai
thác kiến thức là đảm bảo tính vừa sức, khoa học, phù hợp với mục tiêu của
chương trình giáo dục mới. Khi tổ chức các hoạt động dạy học có sử dụng
lược đồ, bản đồ nhất thiết phải lưu ý sử dụng và khai thác các kĩ năng sau: vẽ
lược đồ, tường thuật, miêu tả, quan sát, so sánh, nhận định đánh giá, rút ra
quy luật, bài học lịch sử. Quá trình khai thác phải thực hiện các bước như sau:
-Bước 1: GV hướng dẫn học sinh đọc tên lược đồ, bản đồ; xác định
ranh giới, chú giải bản đồ, lược đồ.
-Bước 2: GV đặt câu hỏi nêu vấn đề nội dung tìm hiểu qua lược đồ, bản
đồ
-Bước 3: HS trả lời câu hỏi bằng việc trình bày kết quả tìm hiểu nội
dung bản đồ, lược đồ.
-Bước 4: HS - GV nhận xét, bổ sung, mở rộng hoàn thiện kiến thức.
Ví dụ: Hình 10. Lược đồ lực lượng phản cách mạng tấn công nước
Pháp năm 1793 (Trang 15, Bài 2: Cách mạng tư sản Pháp (1789 – 1794)
-Bước 1: Giáo viên giới thiệu ( hay học
sinh tự đọc) nội dung tên lược đồ, chú giải
của lược đồ, ranh giới. Hình 10. Lược đồ lực
lượng phản cách mạng tấn công nước Pháp
năm 1793
-Bước 2: Hãy dựa vào lược đồ, nêu
tình hình của nước Pháp năm 1793?
-Bước 3: HS dựa vào lược đồ, dung lời
nói để tường thuật, miêu tả, cụ thể hóa tình
hình của nước Pháp như sau: “Năm 1793,
quân Anh cùng quân các nước châu Âu tấn công nước Pháp cách mạng từ
nhiều hướng, trong nước bọn nổi loạn khắp nơi, nền độc lập bị đe dọa”
-Bước 4: GV nhận xét, bổ sung ý kiến trả lời của HS và hoàn chỉnh nội
dung lược đồ cần cung cấp cho HS là: nước Pháp gặp khó khăn về ngoại xâm

15
và nội loạn trong nước ngoài ra còn có thêm một số khó khăn trong nước nạn
đầu cơ tích trữ hoành hành, giá cả tăng vọt, đời sống nhân dân đói khổ.
Với cách sử dụng nêu trên giáo viên đã khắc phục những nhược điểm
của cách dạy cũ như đã nêu phần trên (GV dựa vào lược đồ để trình bày diễn
biến lịch sử, học sinh chỉ ngồi nghe), bây giờ thông qua quan sát bản đồ, đọc
ký hiệu được biểu diễn trên bản đồ học sinh đã tự phát hiện được nội dung
lịch sử. Như vậy từ vị trí thầy là người chủ động, trò thụ động trong giờ học
đã chuyển sang thầy là người hướng dẫn tổ chức thực hiện còn trò là người
chủ động tự mình tìm kiếm, khai thác kiến thức trong hoạt động học tập và
trình bày trước tập thể lớp. Việc sử dụng bản đồ lịch sử đã góp phần phát triển
khả năng quan sát, trí tưởng tượng, tư duy và ngôn ngữ, đặc biệt là kĩ năng
đọc bản đồ, củng cố thêm kiến thức địa lí…cho học sinh
b.Sử dụng tranh, ảnh lịch sử :
Do hiện thực lịch sử là hiện thực quá khứ nên học sinh không được tiếp
xúc với các sự kiện, hiện tượng, nhân vật, quá trình lịch sử. Mặt khác, do lịch
sử là quá khứ, gần hoặc xa, thậm chí rất xa và nội dung của những thời đại xa
xưa ấy lại có nhiều điều khác, thậm chí rất khác với thời đại hiện nay nên con
người hiện nay không dễ gì hình dung và cắt nghĩa được những gì đã từng
xảy ra trước kia. Vì những lý do nêu trên, tranh hay ảnh lịch sử luôn luôn
được xem là những tư liệu lịch sử quý. Khai thác tranh, ảnh lịch sử là một
trong những cách tiếp cận lịch sử tốt nhất, có khả năng đưa lại hiệu quả giáo
dục cao nhưng lại không phải là một công việc đơn giản, dễ thực hiện. Ở đây,
ngoài vấn đề nhận thức nội dung lịch sử qua tư liệu tranh hay ảnh lịch sử còn
có vấn đề rèn luyện óc quan sát và khả năng vận dụng phương pháp mô tả.
Nhiều thầy, cô giáo có kinh nghiệm cho rằng, việc rèn luyện cho học sinh các
kỹ năng vừa nêu thường đạt hiệu quả cao khi các em được tiếp cận với các tư
liệu tranh, ảnh dưới sự hướng dẫn có phương pháp, có kế hoạch của giáo viên.
Cụ thể như sau:
b.1.Tranh nhân vật lịch sử:

16
Sử dụng chân dung các nhân vật lịch sử có ý nghĩa rất lớn trong học tập
lịch sử, cần chú ý đến mục đích giáo dục, giáo dưỡng và phát triển tư duy. Để
giúp HS học cách tiếp cận lịch sử qua tranh nhân vật lịch sử chúng ta có thể
hướng dẫn các em đi theo những bước và tìm hiểu theo hướng sau:
Trước tiên, GV phải xác định nội dung cần khai thác từ tranh nhân vật
lịch sử:
*Ở mức độ 1: tiếp cận đầu tiên tranh các nhân vật lịch sử, học sinh cần
tìm hiểu: Ngày tháng năm sinh và mất, đặc điểm về nhận dạng.
*Ở mức độ 2: Đi sâu hơn, học sinh cần tìm hiểu: thái độ lập trường,
quan điểm chính trị, tư tưởng… của nhân vật lịch sử đang được tìm hiểu được
thể hiện qua những chi tiết nào?
Có rất nhiều nhân vật lịch sử được đưa vào chương trình giảng dạy nên
trong quá trình giảng dạy giáo viên phải tùy theo nhân vật lịch sử để xác định
mức độ khai thác kiến thức với từng tranh nhân vật lịch sử cho phù hợp với
yêu cầu của bài học chứ không nhất thiết phải thực hiện hết các yêu cầu đã
nêu trên. Riêng đối với các anh hùng dân tộc, lãnh tụ cách mạng phải lưu ý
làm nổi bật tính cách của nhân vật ấy thông qua việc miêu tả hình thức bề
ngoài, hay nêu khái quát ngắn gọn tiểu sử của nhân vật ấy làm cho học sinh
hứng thú, kích thích óc tò mò, phát triển năng lực nhận thức.
Sau đó giáo viên sẽ hướng dẫn học sinh hoạt động theo các bước sau:
-Bước 1:Cho HS quan sát tranh, ảnh để xác định một cách khái quát nội
dung tranh ảnh cần khai thác.
-Bước 2: GV đưa ra câu hỏi nêu vấn đề và tổ chức, hướng dẫn HS tìm
hiểu nội dung tranh ảnh.
-Bước 3: HS trình bày kết quả tìm hiểu nội dung tranh, ảnh sau khi đã
quan sát, kết hợp gợi ý của GV và tìm hiểu nội dung bài học.
-Bước 4: GV nhận xét, bổ sung ý kiến trả lời của học sinh, hoàn thiện
nội dung khai thác tranh, ảnh cho HS
Ví dụ: Hình 44.Tôn Trung Sơn (1866 – 1925) trang 61(Bài 10: Trung

Quốc cuối thế kỉ XIX-đầu thế kỉ XX
17
Bước 1: GV yêu cầu học sinh nêu
những thông tin về nhân vật Tôn Trung Sơn
qua Hình 44. (HS sẽ trình bày năm sinh và
mất, đặc điểm về nhận dạng của Tôn Trung
Sơn là: sinh năm 1866 mất năm 1925, tóc
ngắn, bận âu phục)
Bước 2: GV nêu tình huống vấn đề để
học sinh khai thác nội dung của tranh nhân
vật: Đặc điểm nhận dạng đã thể hiện lập
trường, quan điểm chính trị, tư tưởng của
ông có điểm gì khác với những người cùng thời? (Đặc điểm nhận dạng: tóc,
trang phục ).
Bước 3: HS trình bày kết quả tìm hiểu nội dung tranh, ảnh.
Bước 4: Giáo viên nhận xét, bổ sung ý kiến trả lời của HS, hoàn thiệu
nội dung khai thác tranh ảnh cho HS:(Đặc điểm nhận dạng: tóc ngắn, bận âu
phục khác với những người cùng thời là tóc đuôi sam, áo dài…thể hiện tư
tưởng canh tân, theo tây học của giai cấp tư sản trong lòng xã hội phong kiến
Trung Quốc).
Dựa vào tài liệu tham khảo ở sách giáo viên, giáo viên kể cho học sinh
một số nét về tiểu sử của ông: Tôn Trung Sơn (1866 – 1925), vốn tên là Văn,
tự Dật Tiên, xuất thân trong một gia đình nông dân tỉnh Quảng Đông. Thuở
hàn vi, ông vốn đồng cảm với những người dân nghèo khổ, lớn lên được
người anh là một nhà tư bản cho đi du học ở Mĩ, Anh. Năm 1882, ông tốt
nghiệp bác sĩ y khoa ở Hồng Công. Từ 1902 đến 1905, ông đã từng đi nhiều
nước trên thế giới: qua Hà Nội (Việt Nam), Nhật Bản, Mĩ, châu Âu…Năm
1905, tại Tô-ki-ô (Nhật Bản), ông thành lập Trung Quốc Đồng minh hội và
chịu ảnh hưởng của các nước tư bản nên chủ trương tiến hành cách mạng tư
sản.

Như vậy ngoài việc dùng ảnh nhân vật để giới thiệu hình dạng nhân vật
lịch sử giáo viên còn có thể khai thác quan điểm, lập trường giai cấp của nhân
18
H44.Tôn Trung Sơn(1866-1925)
vật đó từ đồ dùng dạy học này và đã tạo học sinh một ấn tượng sâu sắc về
nhân vật lịch sử vừa học.
b.2.Tranh biếm họa: Trong quá trình khai thác tranh biếm họa, hãy
chỉ ra nét vẽ có tính biếm họa và ý nghĩa châm biếm ( nhẹ nhàng hay sâu cay)
hoặc ở mức độ đả kích của bức tranh, qua đó nêu nhận xét về thái độ của tác
giả đối với sự kiện, hiện tượng hay thời kì lịch sử đó. Để giúp HS học cách
tiếp cận lịch sử qua tranh lịch sử chúng ta có thể hướng dẫn các em đi theo
những bước tìm hiểu như sau:
Bước 1: Hướng dẫn học sinh quan sát tranh ảnh để xác định một cách
khái quát nội dung tranh ảnh cần khai thác.
Bước 2: GV đặt vấn đề để học sinh phát hiện nội dung được thể hiện
của tranh biếm họa: Chi tiết biếm họa? mục đích biếm họa?
Bước 3: HS trình bày kết quả tìm hiểu nội dung tranh, ảnh sau khi đã
quan sát, kết hợp gợi ý của GV và tìm hiểu nội dung bài học.
Bước 4: GV nhận xét, bổ sung ý kiến trả lời của HS, hoàn thiện nội
dung khai thác tranh, ảnh cho HS
Ví dụ Hình 42: Các nước đế quốc xâu xé “cái bánh ngọt” Trung Quốc,
trang 59. (Bài 10: Trung
Quốc cuối thế kỉ XIX-
đầu thế kỉ XX).
Hoạt động dạy học được
thực hiện như sau:
-Bước 1:
Cho học sinh quan sát H
42, xác định một cách
khái quát nội dung tranh ảnh. (Trung Quốc được xem như một cái bánh ngọt,

các nước đế quốc đang xâu xé cái bánh ngọt TQ)
-Bước 2: Đặt vấn đề: Vì sao lại ví Trung Quốc như một cái bánh ngọt
khổng lồ mà không phải là một khúc xương chẳng hạn?
19
-Bước 3: HS trình bày kết quả tìm hiểu nội dung tranh ảnh sau khi quan
sát, kết hợp gợi ý của GV và tìm hiểu nội dung trong bài học.(Bánh ngọt có
đặc điểm ngon và dễ ăn. Trung Quốc là một quốc gia rộng lớn, đông dân và
nhiều tài nguyên (ngon), chế độ phong kiến Trung Quốc lại đang suy yếu (dễ
ăn).
-Bước 4: GV kết luận: Trung Quốc là một quốc gia rộng lớn, đông dân
và nhiều tài nguyên, chế độ phong kiến Trung Quốc lại đang suy yếu nên đây
chính là nguyên nhân các nước đế quốc tranh nhau xâm chiếm Trung Quốc và
bổ sung thêm nội dung bức tranh: những người trong H42 từ trái sang phải là
Hoàng đế Đức, Tổng thống Pháp, Nga hoàng, Nhật hoàng, Tổng thống Mĩ,
Thủ tướng Anh.
Với cách tổ chức hoạt động dạy học: từ chi tiết biếm họa của bức tranh
để rút ra được kiến thức (từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng) đã
giúp học sinh chủ động tìm ra, hiểu, khắc sâu kiến thức qua một hình ảnh ấn
tượng khó quên:
Cái bánh ngọt lớn = Trung Quốc rộng lớn
Cái bánh ngọt ngon = Trung Quốc nhiều tài nguyên, dân đông
Cái bánh ngọt mềm, dễ ăn = Trung Quốc có chế độ PK suy yếu
đây là nguyên nhân các đế quốc xâu xé đất nước Trung Quốc.
b.3.Tranh lịch sử: Tranh ảnh được đưa vào trong giảng dạy Lịch Sử ở
trường phổ thông có ý nghĩa hết sức to lớn, không chỉ là nguồn kiến thức, có
tác dụng giáo dục tư tưởng tính cách mà còn phát triển tư duy cho học sinh.
Bản thân tranh ảnh không thể gây được sự quan sát tích cực của học sinh nếu
như nó không được quan sát trong những tình huống có vấn đề, trong những
nhu cầu cần thiết phải trả lời một vấn đề cụ thể. Qua tranh ảnh lịch sử, học
sinh sẽ tiếp cận lịch sử theo các bước sau:

Bước 1: GV xác định nguồn gốc, thời điểm của bức tranh, cách thể hiện
nội dung của tác giả trên tranh ảnh.
Bước 2: Cho HS rút ra nội dung kiến thức được thể hiện qua tranh lịch
sử.
20
Bước 3: GV nêu yêu cầu cụ thể cho HS xử lí thông tin tiếp nhận từ
tranh ảnh lịch sử
Bước4: GV nhận xét, bổ sung hoàn thiện ý kiến trả lời của HS
Ví dụ: Hình 99. Nông dân Việt Nam trong thời kì Pháp thuộc (Bài 29:
Chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp và những chuyển biến về
kinh tế, xã hội ở Việt Nam)
Buớc 1: GV xác
định đây hình ảnh người
nông dân Việt Nam cày
ruộng dưới thời Pháp thuộc.
(người nông dân dưới thời
Pháp thuộc lưng trần, nón
cời, gầy yếu, hai người
đang kéo cày thay cho trâu).
Bước 2: GV đưa ra
câu hỏi nêu vấn đề và tổ chức, hướng dẫn HS tìm hiểu nội dung tranh, ảnh:
Cuộc sống người nông dân dưới thời Pháp thuộc so với trước như thế nào?
Bước 3: HS trình bày kết quả tìm hiểu nội dung tranh, ảnh sau khi đã
quan sát, kết hợp gợi ý của GV và tìm hiểu nội dung bài học.
Bước 4: GV nhận xét, bổ sung ý kiến trả lời của HS, hoàn thiện nội
dung khai thác tranh ảnh cho học sinh.(Người nông dân dưới thời Pháp thuộc
phải kéo cày thay trâu, lưng trần, nón cời, gầy ốm…chứng tỏ người nông dân
bị bần cùng hóa hơn so với thời phong kiến)
Với cách sử dụng tranh ảnh như vậy, GV vừa khai thác nội dung lịch
sử thể hiện qua tranh ảnh, vừa phát triển khả năng quan sát, trí tưởng tượng,

tư duy và ngôn ngữ của học sinh mà còn có ý nghĩa giáo dục tư tưởng, cảm
xúc thẩm mĩ rất lớn. Ngắm nhìn bức tranh Nông dân Việt Nam dưới thời
Pháp thuộc học sinh sẽ có những tình cảm mạnh mẽ về nỗi cực nhục của
21
người dân mất nước (kéo cày thay trâu), lòng căm thù bọn xâm lược cai trị, ý
thức đấu tranh giành độc lập…
c. Sơ đồ: Đây là một tài liệu học tập diễn tả quá trình phát triển, sự vận
động của một sự kiện lịch sử bằng mũi tên trên hệ trục tọa độ có thời gian và
sự kiện. Yêu cầu đặt ra cho học sinh là quan sát, rút ra ý nghĩa của đường biểu
diễn trên một đồ thị, qua đó hình dung và hiểu được hiện thực lịch sử.
Hoạt động tổ chức dạy học khi sử dụng đồ thị phản ánh nội dung lịch
sử như sau:
-Đồ thị phản ánh thông tìn gì vào giai đoạn lịch sử nào, ở đâu?
-Nhận xét: Từ khởi đầu đến kết thúc, hiện tượng lịch sử được phản ánh
qua đường biểu diễn phát triển theo chiều tăng lên hay giảm đi? Hoặc giữ
mức thăng bằng, không tăng, không giảm? Từng giai đoạn? Nhịp điệu biến
đổi?
-So sánh các đường biểu diễn (nếu trên đồ thị có nhiều đường biểu
diễn) để tìm hiểu đặc điểm mỗi đường, mối liên hệ giữa các đường…
-Rút ra nguyên nhân hoặc hậu quả của các hiện tượng lịch sử đó.
Ví dụ: Hình 62. Sơ đồ so sánh sự phát triển của sản xuất thép giữa Anh
và Liên Xô trong những năm 1929 – 1931.(Bài 17: Châu Âu giữa hai cuộc
chiến tranh thế giới (1918 – 1939)-Trang 87)
Bước 1: Giáo viên giới
thiệu hình 62 trang 90 - Sơ đồ so
sánh sự phát triển của sản xuất
thép giữa Anh và Liên Xô trong
những năm 1929 – 1931
Bước 2: Qua sơ đồ trên,
em có nhận xét gì về tình hình

sản xuất thép ở Liên Xô và Anh
trong những năm 1929 – 1931?
nêu nguyên nhân?
22
-Bước 3: HS trình bày kết quả tìm hiểu nội dung sau khi đã quan sát,
kết hợp gợi ý của GV về việc lien hệ với khái niệm khủng hoảng kinh tế đã
học và tìm hiểu nội dung bài học.
-Bước 4: GV nhận xét bổ sung ý kiến trả lời của HS, hoàn thiện nội dung
khai thác tranh cho HS.( Sản xuất của Liên Xô tăng dần từ 1929 đến 1931 do
phục vụ cho công nhân, sản xuất của Anh tăng dần đến nửa đầu 1930 và đến
1931 giảm rất nhanh do chủ tư bản chạy theo lợi nhuận dẫn đến khủng hoảng
kinh tế thừa)
Bằng cách sử dụng kiến thức liên môn: kĩ năng sử dụng biểu đồ, đồ thị
ở môn Địa, giáo viên đã hướng dẫn học sinh khai thác hết các nội dung kiến
thức thể hiện trên đồ thị để nghiên cứu lịch sử và hiểu được bản chất của hiện
tượng lịch sử.
6/ Hiệu quả của sáng kiến khi thực nghiệm:
Trong hoạt động dạy học, hiệu quả của tiết dạy phụ thuộc vào nhiều
yếu tố nhưng trong đó việc sử dụng kênh hình và tổ chức các hoạt động tự
học của học sinh là quan trọng nhất. Việc sử dụng kênh hình trong dạy học là
một nghệ thuật, các kênh hình được sử dụng với nhiều mục đích khác nhau, ở
những khâu khác nhau của quá trình dạy học nhưng quan trọng nhất là thông
qua kênh hình giáo viên hướng dẫn học sinh từng bước phát hiện ra bản chất
của sự vật, quy luật của hiện tượng, kích thích tính tích cực tìm tòi, sự ham
muốn hiểu biết. Ở đây giáo viên là người tổ chức sự tìm tòi, còn học sinh là
người tự lực phát hiện kiến thức mới. Nắm vững lí luận này nên trong quá
trình thực hiện giảng dạy chương trình sách giáo khoa mới tôi đã chú trọng
việc đổi mới quá trình khai thác kênh hình trong việc tổ chức các hoạt động
dạy học trên lớp, làm cho ngôn ngữ của hình ảnh đến được với học sinh và
bằng cách này trong quá trình dạy học, giáo viên đã huy động được nhiều cơ

quan cảm giác của học sinh vào quá trình nhận thức, kết hợp chặt chẽ được
nhiều hệ thống tín hiệu với nhau: tai nghe, mắt thấy, miệng nói … điều này đã
tạo điều kiện cho học sinh dễ hiểu, nhớ lâu, gây được những mối liên hệ thần
kinh tạm thời khá phong phú, phát triển ở học sinh năng lực chú ý, quan sát
23
hứng thú; khả năng phát huy trí thông minh, sáng tạo của học sinh ngày được
nâng lên. Đây là phương pháp phù hợp với đặc trưng bộ môn: phương pháp
tìm hiểu, xem xét các sự kiện lịch sử một cách cụ thể để khôi phục, miêu tả
quá khứ lịch sử …và phù hợp với con đường nhận thức có tính biện chứng.
Nó còn phù hợp với yêu cầu giúp học sinh chủ động, sáng tạo trong việc lĩnh
hội kiến thức. Môn học Lịch sử đã trở thành một môn học có nhiều hứng thú,
bổ ích, thiết thực và cùng với các môn học khác thực hiện được mục tiêu giáo
dục mới mà xã hội đang đặt ra.
7/ KẾT LUẬN
Kênh hình có vai trò rất lớn trong việc giúp học sinh tạo biểu tượng và
hình thành khái niệm, kênh hình còn phát triển khả năng quan sát, trí tưởng
tưởng, tư duy và ngôn ngữ của học sinh. Nhìn vào bất cứ loại đồ dùng trực
quan nào, học sinh cũng thích nhận xét, phán đoán, hình dung nội dung kiến
thức được phản ánh, minh hoạ như thế nào. Các em suy nghĩ và tìm cách diễn
đạt bằng lời nói chính xác, có hình ảnh rõ ràng, cụ thể về kiến thức được đề
cập đến.
Ngoài ra kênh hình còn có ý nghĩa giáo dục tư tưởng, cảm xúc thẩm mĩ rất
cao. Với tất cả những ý nghĩa giáo dưỡng, giáo dục và phát triển nêu trên,
kênh hình góp phần to lớn nâng cao chất lượng dạy học gây hứng thú học tập
cho học sinh. Trong quá trình học tập, học sinh đã tự khám phá ra những điều
mới đối với bản thân mình (mặc dù đó chỉ là những việc đã xảy ra trong quá
khứ). Học sinh sẽ chỉ ghi nhớ, nắm vững được những gì đã trải qua trong
hoạt động nhận thức tích cực của mình, trong đó các em đã phải có những cố
gắng trí tuệ và khát vọng học tập.
Kinh nghiệm khai thác tốt kênh hình trong giảng dạy môn Lịch Sử lớp

8 bậc THCS là đề tài được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu lý luận dạy học,
hiệu quả sử dụng khai thác kênh hình qua thực tế giảng dạy Lịch Sử 6, 7, 8, 9
của chương trình thay sách giáo khoa. Với phương pháp dạy học này, giáo
viên đã khắc phục được tình trạng phổ biến thầy đọc, trò chép hoặc giảng giải
xen kẽ vấn đáp, giải thích, minh họa bằng phương tiện trực quan để thay vào
24
đó là giáo viên tổ chức cho học sinh “tự làm việc” với tài liệu giáo khoa, trao
đổi, thảo luận với bạn bè, để đề xuất ý kiến, thắc mắc, thảo luận…tìm ra kiến
thức mới của bài. Đề tài gồm các nội dung sau:
1. Bốn bước khai thác kênh hình ở SGK:
-Bước 1: quan sát kênh hình để xác định một cách khái quát nội dung.
-Bước 2: GV đặt vấn đề và tổ chức hướn dẫn HS tìm hiểu nội dung từ
kênh hình.
-Bước 3: HS trình bày kết quả tìm hiểu nội dung kênh hình sau khi
quan sát kết hợp gợi ý của giáo viên và tìm hiểu nội dung bài học.
-Bước 4: GV nhận xét bổ sung
2. Xác đinh nội dung GV cần khai thác từ kênh hình của SGK (minh
họa ở phần phụ lục)
3. Cách đặt vấn đề trong quá trình khai thác kênh hình (minh họa ở
phần phụ lục) ở từng loại cụ thể:
-Lược đồ, bản đồ: dựa vào chú giải, kí hiệu trên lược đồ để tự tìm hiểu
các nội dung của các sự kiện lịch sử được thể hiện trên lược đồ, bản đồ.
-Tranh ảnh lịch sử:
+Tranh ảnh nhân vật lịch sử: nhận biết hình dạng, qua hình dáng để
biết được quan điểm, tư tưởng… của nhân vật lịch sử.
+Tranh biếm hoạ: Xác định chi tiết biếm hoạ, nội dung được phản ảnh
của hình ảnh, chi tiết biếm hoạ của bức tranh.
+Tranh ảnh lịch sử khác: nội dung cần khai thác từ những hình ảnh, sự
vật cụ thể của bức tranh…
Đây là đề tài đã được bản thân hình thành từ khi thực hiện giảng dạy

chương trình thay sách giáo khoa lớp 6, ý tưởng này được hoàn thiện khi tiếp
tục thực hiện chương trình thay sách giáo khoa lớp 7, 8 , 9. Đến nay, qua 6
năm kiểm nghiệm từ thực tiễn giảng dạy chương trình thay sách Lịch sử bậc
THCS và 3 năm dạy chương trình lịch sử lớp 8, được sự góp ý của đồng
nghiệp, tổ chuyên môn, của lãnh đạo cấp trên và qua hiệu quả sử dụng, quá
trình đối chiếu với lý luận về đổi mới giáo dục THCS có thể khẳng định việc
25

×