Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Điều tra đánh giá hiện trạng diễn biến tài nguyên động thực vật VQG Lò Gò-Xa Mát

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (339.58 KB, 5 trang )

Đề tài: Điều tra đánh giá hiện trạng diễn biến tài nguyên động thực vật VQG Lò Gò-Xa Mát

UBND Tỉnh Tây Ninh, Vườn Quốc Gia Lò Gò-Xa Mát.

90
II.3.3 Khu hệ cá ở Vườn Quốc Gia Lò Gò-Sa Mát
II.3.3.1 Tài nguyên sinh học:
Khu hệ cá ở Vườn Quốc Gia Lò Gò - Xa Mát là một phần trong khu hệ cá của Đồng
bằng sông Cửu Long và mang đặc trưng của vùng trung lưu và hạ lưu của hệ thống
sông Mekong với 88 loài cá thuộc 26 họ và 10 bộ. (xem chi tiết trong phần phụ lục
VII- Thành phần các loài cá VQG-LGXM)
Nếu so sánh với khu hệ cá Đồng bằng sông cửu Long (gồm 13 tỉnh) có 255 loài cá
(Mai Đình Yên và nnk, 1992), thì khu hệ cá ở Vườn Quốc Gia Lò Gò – Xa Mát
chiếm 34,5%; và bằng 70,4 % khi so sánh với khu hệ cá ở vùng Đồng Tháp Mười (3
tỉnh Long An, Tiền Giang và Đồng Tháp- Hoàng Đức Đạt và Thái Ngọc Trí, 2000).
Khu hệ cá của Vườn Quốc Gia Lò Gò – Xa Mát rất phong phú và đa dạng về thành
phần loài. (Xin xem chi tiết trong phần phụ lục số VII)
Trong 10 bộ cá được xác định tại Vườn Quốc Gia Lò Gò – Xa Mát bộ cá chép
(Cypriniformes) chiếm số lượng nhiều nhất có 40 loài chiếm 46% tổng số của các
loài; đứng thứ 2 là bộ cá nheo (Siluriformes) có 17 loài, chiếm 20%; đứng thứ 3 là
bộ cá vược (Perciformes) có 16 loài, chiếm 18%; đứng thứ 4 là bộ mang liền
(Synbranchiformes) có 5 loài, chiếm 6%; đứng thứ 5 là bộ cá kìm (Beloniformes) có
3 loài, chiếm 3%; kế đến là 2 bộ cá trích (Clupeiformes) và bộ cá nóc
(Tetraodontiformes), mỗi bộ có 2 loài, chiếm 2%; 3 bộ còn lại gồm: bộ cá thát lát
(Osteoglossiformes), bộ Gasterosteiformes và bộ cá bơn (Pleuronectiformes), mỗi bộ
có 1 loài, chiếm 1%. (Sơ đồ 14: tỉ lệ thanh phần loài)
Hình 1. Tỷ lệ thành phần loài
CYPRINIFORMES
Bộ cá chép
46%
CLUPEIFORMES


Bộ cá trích
2%
OSTEOGLOSSIFORMES
Bộ cá thát lát
1%
PLEURONECTIFORMES
Bộ cá bơn
1%
PERCIFORMES
Bộ cá vược
18%
SYNBRANCHIFORMES
Bộ cá mang liền
6%
SILURIFORMES
Bộ cá nheo
20%
Bộ
GASTEROSTEIFORMES
1%
BELONIFORMES
Bộ cá kìm
3%
TETRAODONTIFORMES
Bộ cá nóc
2%






Sơ đồ 16: Tỷ lệ thành phần loài cá VQG LGXM
Đề tài: Điều tra đánh giá hiện trạng diễn biến tài nguyên động thực vật VQG Lò Gò-Xa Mát

UBND Tỉnh Tây Ninh, Vườn Quốc Gia Lò Gò-Xa Mát.

91
II.3.3.2. Các loài cá có giá trị kinh tế
Khu hệ cá ở Vườn Quốc Gia Lò Gò - Xa Mát rất đa dạng và phong phú về thành
phần loài cũng như số lượng cá thể. Có nhiều loài có giá trị kinh tế cao và là nguồn
thực phẩm cho người dân địa phương (bảng 4). Ngoài ra nguồn lợi cá ở đây còn là
nguồn thức ăn của một số loài động vật hoang dã khác khác như: bò sát - lưỡng cư,
chim và thú.
Nguồn lợi cá ở Vườn Quốc Gia Lò Gò – Xa Mát không những cung cấp cho người
dân trong vùng đệm, các vùng lân cận mà còn là nguồn thực phẩm cung cấp cho thị
xã Tây Ninh, ngoài ra nó còn là nguồn thực phẩm cung cấp cho một số người dân
sống ở vùng biên giới của nước bạn Cambodia.
Nguồn lợi cá ở Vườn Quốc Gia Lò Gò – Xa Mát ngoài việc cung cấp nguồn protein
cho người dân, còn có nhiều loài có giá trị sử dụng làm nuôi cá cảnh, có giá trị xuất
khẩu cao, đồng thời có nhiều loài phục vụ cho môn thể thao câu cá, đáp ứng cho tiềm
năng du lịch sinh thái.
Có 77 / 88 loài cá đã được xác định có giá trị kinh tế vừa là nguồn thực phẩm, vừa
làm cá cảnh. (Phụ lục số VII), thuộc về 24 họ, 10 bộ. Nhiều loài cá có giá trị kinh tế
vừa được khai thác làm cá cảnh và trở nên có giá trị rất cao như loài cá hường Coius
microlepis (Bleeker, 1853).
II.3.3.3. Môi trường sống và sự di cư
Hệ thống thủy vực ở Vườn Quốc Gia Lò Gò- Xa Mát rất phong phú và đa dạng, bao
gồm sông, suối, bàu, trảng, kênh và vùng ngập nhân tạo, liên hệ với nhau và cùng đổ
vào sông Vàm Cỏ Đông. Hệ thống sông, suối, bàu, trảng ở Vườn Quốc Gia tương
đối nhiều, một số có nước quanh năm và một số các vùng trủng ngập nước theo mùa.

Vào mùa mưa các suối, bàu, trảng đều ngập nước và hoà nhập vào lưu vực sông
Vàm Cỏ Đông tạo điều kiện cho các loài cá di cư kiếm ăn, sinh sản, mở rộng phạm
vi phân bố và sinh sống. Vào mùa khô, chỉ có một số các vùng trũng còn giữ được
nước.
Có hai nhóm cá tại chỗ và nhóm cá di cư hiện diện ở các suối, sông ở Vườn Quốc
Gia Lò Gò-Sa Mát:
 Nhóm cá tại chỗ: gồm các loài cá lóc (Channa striata), cá tràu dầy (Channa
lucius), cá thát lát (Notopterus notopterus), cá trê trắng (Clarias batrachus), cá
chạch lấu (Mastacembelus favus), lươn đồng (Monopterus albus), cá rô biển
(Pristolepis fasciata), v.v…
 Nhóm cá di cư: một số loài cá di cư vào mùa mưa từ sông chẩy vào trong các
suối kiếm ăn và sinh sản: cá linh rìa (Dangila spilopleura), cá mè lúi
(Osteochilus hasselti ), cá lăng nha (Mystus nemurus), cá ngựa nam (Hampala
macrolepidota), cá phèn trắng (Polynemus dubius) v.v…
Như vậy, vào mùa mưa các suối, bàu, trảng ngập nước là nơi cho các loài cá di cư
sinh sản, môi trường sinh sống và kiếm ăn của một số loài cá di cư từ sông Vàm Cỏ
Đông vào và các ấu trùng con non của chúng. Ngoài ra sông Vàm Cỏ Đông còn là
nơi các loài cá từ nước bạn Cambodia di cư vào trong mùa mưa.
Số lượng và thành phần loài cá hiện diện trong từng loại hình thủy vực cũng khác
nhau, đồng thời cũng thay đổi theo mùa. Vào mùa khô, mực nước ở các sông, suối,
Đề tài: Điều tra đánh giá hiện trạng diễn biến tài nguyên động thực vật VQG Lò Gò-Xa Mát

UBND Tỉnh Tây Ninh, Vườn Quốc Gia Lò Gò-Xa Mát.

92
bàu, trảng và các vùng ngập nhân tạo xuống thấp và chúng bị gián đoạn tạm thời, lúc
này sự hiện diện thành phần loài ở sông, suối, bàu trảng có sự khác biệt rất lớn. Tuy
nhiên, vào mùa mưa thì chúng lại thông thương với nhau, tạo điều kiện cho nhiều
loài di cư kiếm ăn và sinh sản. Có 77 loài cá thường thấy ở sông Vàm Cỏ Đông
(chiếm 87,5%); 53 loài sống ở suối (60,23%); 22 loài sống ở bàu (25%); ở trảng chỉ

có 16 loài (18,19%); và các vùng ngập nhân tạo có 14 loài (15,91%). (xin xem chi
tiết trong phần phụ lục số ….. )

Hình 2. Tỷ lệ và thành phần loài hiện diện trong các loại hình thủy vực
ở VQG Lò Gò-Sa Mát
73
53
22
16
14
60.23%
25%
87.50%
18.19%
15.91%
0
10
20
30
40
50
60
70
80
Sông Suối Bàu Trảng Vùng ngập nhận tạo
Số lượng loài





II.3.3.4 Những yếu tố đe dọa đến môi trường sống và hướng di cư của các loài

Các hoạt động kinh tế của người dân vùng đệm đã có những tác động rất lớn đến
nguồn lợi cá. Việc sử dụng các loại ngư cụ lạc hậu, kích thước mắt lưới nhỏ làm cho
nguồn lợi cá ngày càng bị khai thác quá mức, dẫn đến suy giảm và có nhiều loài bị
đe dọa và có nguy cơ bị tuyệt chủng.
Các ngư dân của nước bạn Cambodia cũng qua bên VN khai thác cá bằng các lưới
mùng, đây là hình thức tận khai thác làm cạn kiệt và suy giảm nguồn lợi cá.
Một số các nhu cầu quá cao về đời sống vật chất và tinh thần của con người (dùng
làm thực phẩm, làm cá cảnh) dẫn đến một số loài bị khai thác triệt để dễ bị dẫn đến
tuyệt chủng
Vào mùa khô, sản lượng khai thác ít hơn và tập trung chủ yếu ở sông Vàm Cỏ Đông,
một số các trảng, bàu và vùng ngập nhân tạo. Vào mùa này, các đối tượng khai thác
chủ yếu là các loài cá tại chổ (nhóm cá đen) chiếm ưu thế bên cạnh đó còn có một số
Sơ đồ 17: Tỷ lệ thành phần loài cá trong các thuỷ vực
Đề tài: Điều tra đánh giá hiện trạng diễn biến tài nguyên động thực vật VQG Lò Gò-Xa Mát

UBND Tỉnh Tây Ninh, Vườn Quốc Gia Lò Gò-Xa Mát.

93
loài thuộc nhóm cá trắng: cá lóc (Channa striata), cá rô đồng (Anabas testudineus),
cá bống tượng (Oxyeleotris marmorata), lươn đồng (Monopterus albus), cá thát lát
(Notopterus notopterus), cá sặc bướm (Trichogaster trichopterus), cá lòng tong lưng
thấp (Rasbora aurotaenia), cá trèn bầu (Ompok bimaculatus), cá trê vàng (Clarias
macrocephalus), cá trê trắng (Clarias batrachus), v.v…
Vào mùa mưa, sản lượng khai thác được nhiều hơn, cá bị đánh bắt ở tất cả các loại
hình thủy vực: sông, suối, trảng, bàu, kênh và vùng ngập nhân tạo. Thành phần loài
khai thác cũng đa dạng hơn, ngoài nhóm đối tượng khai thác trong mùa khô còn có
các nhóm đối tượng di cư để sinh sản và kiếm ăn, có thể kể một số loài như: cá lăng
nha (Mystus nemurus), cá linh tía (Dangila lineate), cá linh rìa (Dangila

spilopleura), cá ét mọi (Morulius chrysophekadion), cá mè lúi (Osteochilus hasselti),
cá lúi sọc (Osteochilus microcephalus), cá dảnh (Puntioplites proctozysron), cá hồng
nhau bầu (Poropuntius deauratus), cá ngựa nam (Hampala macrolepidota), cá chốt
bông (Leiocassis siamensis), cá sát xiêm (Pangasius siamensis), cá duồng (Cirrhinus
microlepis), v.v…
Đặc biệt hiện nay xuất hiện nghề bắt các loài cá có màu sắc đẹp về thuần và bán làm
cá cảnh và những loài này có giá trị rất cao: cá hường (Coius microlepis), cá trèn lá
(Kryptopterus bicirrhis), cá heo mắt gai (Pangio kuhlii), cá ngũ vân (Systomus
partipentazona), cá tai tượng (Osphronemus goramy), cá thanh ngọc (Trichopsis
pumila), cá bãi trầu (Trichopsis vittata) v.v…
Ngư cụ sử dụng đánh bắt cá ở Vườn Quốc Gia Lò Gò – Xa Mát cũng rất phong phú
và đa dạng, bên cạnh đó còn sử dụng nhiều loại ngư cụ lạc hậu mang tính hủy diệt và
tận thu. Các loại ngư cụ được thể hiện ở bảng sau.
Bảng 35: Các loại ngư cụ sử dụng ở Vườn Quốc Gia Lò Gò – Xa Mát
Stt Tên ngư cụ Kích thước Sử dụng

Mùa
khô
Mùa
mưa
1 Lưới giăng Nhiều kích cỡ + +
2 Vó 30m x 30m
+
3 Câu giăng
100-200 lưỡi (nhiều loại
kích cỡ) + +
4 Câu cắm
50-100 cần (nhiều loại
kích cỡ)
+ +

5 Đóng đáy 10m x 30m +
6 Đánh sa 10m x 25m
+
7 Đăng cá 10m x 30m
+
8 Xiệc điện 20cm x 20cm x 30cm + +
9
Thuốc cá bằng cây đơn
hùng tính Cả cây (thân, lá, rễ)
+ +
10 Tát cá 1 nhóm từ 3-7 người
+

II.3.3.5. Giá trị sử dụng
Nguồn lợi cá ở Vườn Quốc Gia Lò Gò – Xa Mát không những phong phú và đa dạng
về thành phần loài, cũng như số lượng mà còn có nhiều loài có giá trị kinh tế cao,
nhiều loài ngon được ưa chuộng. Nguồn lợi cá ở đây không những là nguồn thực
Đề tài: Điều tra đánh giá hiện trạng diễn biến tài nguyên động thực vật VQG Lò Gò-Xa Mát

UBND Tỉnh Tây Ninh, Vườn Quốc Gia Lò Gò-Xa Mát.

94
phẩm cho nhân dân trong vùng đêm, các vùng lân cận ở Vườn Quốc Gia, mà còn là
nguồn thực phẩm cho những người dân nước bạn Cambodia sông ở vùng biên giới
với Việt Nam.
Ngoài các loài được sử dụng làm thực phẩm, còn có các loài được thuần hóa sử dụng
làm cá cảnh phục vụ nhu cầu giải trí về mặt tinh thần. Tuy nhiên, trong những năm
gần đây nguồn lợi cá có sự suy giảm rất rõ rệt đối với tất cả các loại ngư cụ khai
thác.
Bảng 36. Giá trị kinh tế của một số loài cá ở Vườn Quốc Gia Lò Gò – Xa Mát

(Giá vào thời điểm cuối năm 2004 đến tháng 10 năm 2006)
Stt Tên loài cá Giá bán ra (đồng/kg)
1 Lươn đồng 40.000-70.000
2 Cá lăng nha 20.000-30.000
3 Cá ét mọi 15.000-35.000
4 Cá hường 300.000-450.000
5 Cá tai tượng 30.000-50.000
6 Cá bống tượng 120.000-150.000
7 Cá ngựa nam 15.000-20.000
8 Cá chốt (các loại) 10.000-17.000
9 Cá đỏ mang 10.000-15.000
10 Cá linh các loại 10.000-15.000
11 Cá kết 25.000-35.000
12 Cá dảnh 10.000-25.000
13 Cá lóc 35.000-40.000
14 Cá trê vang 12.000-20.000
15 Cá trê trắng 10.000-17.000
16 Cá mè lúi 8.000-12.000
17 Cá sặc 8.000-15.000
18 Cá duồng 15.000-20.000
19 Cá rô đồng 25.000-35.000
20 Cá chạch lấu 20.000-35.000

×