Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

Cấu trúc quần xã ve giáp (acari oribatida) ở hệ sinh thái đất rừng tự nhiên độ cao 100m, thuộc rừng quốc gia cúc phương, tỉnh ninh bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (706.51 KB, 48 trang )

Bộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
■ * • TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2
TRẦN THỊ THẢO
CẤU TRÚC QUẰN XÃ VE GIÁP (ACARI: ORIBATIDA) Ở HỆ
SINH THÁI ĐẤT RỪNG Tự NHIÊN Độ CAO 100 m,
• • • 7
THUỘC VƯỜN QUỐC GIA cúc PHƯƠNG,
TỈNH NINH BÌNH
LUẬN VÃN THẠC sĩ SINH HỌC
• • •
Bộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2
• • • •
TRẦN THỊ THẢO
CÁU TRÚC QUÀN XÃ VE GIÁP (ACARI: ORIBATIDA) Ở HỆ
SINH THÁI ĐẤT RỪNG Tự NHIÊN Độ CAO 100 m, THUỘC
VƯỜN QUỐC GIA cúc PHỪƠNG,
TỈNH NINH BÌNH
HÀ NỘI,
Chuyên ngành: Sinh thái học Mã số: 60 42
01 20
TÓM TẤT LUẬN VĂN THẠC sĩ SINH HỌC
• • •
Người hướng dẫn khoa học: GS. TSKH Vũ Quang Mạnh
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến GS. TSKH Vũ Quang Mạnh, người thày
hướng dẫn đã quan tâm, tận tình chỉ bảo và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho tôi ừong suốt
quá trình thực hiện luận văn.
Xin chân thảnh cảm ơn sự giúp đỡ quí báu của Ts. Đào Duy Trinh, Ncs. Lại Thu
Hiền, cùng các anh, chị, bạn bè trong nhóm nghiên cứu. Trân ừọng cám ơn sự hỗ ừợ và tạo
điều kiện của các cán bộ bộ môn Động vật học, Ban chủ nhiệm khoa Sinh - KTNN, phòng
Sau Đại học trường ĐHSP Hà Nội
2, BGH trường TH, THCS, THPT Nguyễn Bỉnh Khiêm Bắc Giang nơi tôi học tập và công tác.


Cuối cùng, tôi xin tỏ lòng tri ân chân thành tới gia đình, bạn bè trong khóa học 16
STH, SHTN và quê hương, những người đã mang lại cho tôi niềm tin và hạnh phúc.
Hà Nội, ngày 02 tháng 08 năm 2014 Tác giả ỉuận văn
TRẰN THỊ THẢO
LỜI CẢM
HÀ NỘI,
Tôi xin cam đoan rằng , số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn
này là trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác.
Tôi cũng xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận
văn này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ
rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày 02 tháng 08 năm 2014 Tác giả luận văn
TRẦN THỊ THẢO
Kí hỉêu viết tắt
c% Độ phổ biến D% Độ ưu thế H’ Chỉ số đa dạng loài
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CAM ĐOAN
1+1 Tầng rêu 0-100 cm trên mặt đất
10 Tầng thảm lá bề mặt đất
1-1 Tầng đất mặt 0-10 cm
1-2 Tầng đất sâu 11-20 cm
J’ Chỉ số đồng đều
Chữ viết tắt
HST Hệ sinh thái
k Mùa khô
KVNC Khu vực nghiên cứu
m Mùa mưa
MĐTB Mật độ trung bình quần thể
VQG Vườn quốc gia
VQN Vườn quanh nhà

RNT Rừng nhân tác
RTN Rừng tự nhiên
TCCB Trảng cỏ cây bụi
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lòi cảm 0'n Lòi
cam đoan
Danh mục các kí hiệu, các chữ viết tắt
Danh mục các bảng Danh muc các hình
vẽ, đồ thỉ MUC LUC

LỜI CAM ĐOAN

PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong cấu trúc quần xã động vật đất, nhóm chân khớp bé ở đất
(Microarthropoda) bao gồm các nhóm động vật không xương sống thuộc
ngành chân khớp (Arthropoda), có chiều dài cơ thể khoảng 0,1 - 0,2 mm cho
đến 2,0 - 3,0 mm. Chúng là các nhóm Ve bét (Arachnida: Acarina), Bọ nhảy
(Insecta: Apterygota: Collembola), Đuôi nguyên thủy, Hai đuôi, Ba đuôi
(Insecta: Protura, Diplura, Thysanura), Rết tơ (Myriapoda: Symphyla). Thực
tế, hai nhóm Ve bét và Bọ nhảy, chủ yếu là Ve giáp (Acarina: Oribatei) luôn
chiếm khoảng hơn 95% tổng lượng của chân khớp bé. Ở Việt Nam, số lượng
chân khớp bé đạt 4.000 - 25.000 cá thể ở các hệ sinh thái đất canh tác vùng
đồng bằng, và 11.000 - 25.700 cá thể ở hệ sinh thái đất rừng, tính trên 1 mét
vuông mặt đất. Chúng tiêu thụ nấm, thảm lá mục, cây gỗ mục, rêu, địa y và
phân bố trong các tầng đất (từ 0 - 20 cm) [12].
Oribatida là nhóm động vật đất rất đa dạng và phong phú về thành phàn
loài, về mật độ cá thể cũng như về môi trường sống ừong đất và các môi

trường liên quan. Hơn nữa, nhóm Oribatida là nhóm có số lượng lớn, dễ thu
bắt, nhạy cảm với sự thay đổi của các yếu tố môi trường như độ chua, hàm
lượng các chất khoáng, lượng mùn và các đặc điểm cấu tạo đất. Việc nghiên
cứu và phát hiện khu hệ Oribatida góp phần đầy đủ hơn về tài nguyên đa dạng
sinh học của Việt Nam và mang ý nghĩa vô cùng quan trọng trong giảng dạy và
nghiên cứu khoa học. Đặc biệt, khi nghiên cứu các chỉ số sinh học trong cấu
trúc quần xã Oribatida như: thành phần loài, mật độ quần thể, đặc điểm phân
bố của chúng có ý nghĩa quan trọng trong xác định chỉ thị sinh học các quá
trình diễn thế sinh thái và bảo vệ môi trường, làm cơ sở khoa học cho việc
quản lý và khai thác bền vững hệ sinh thái đất.
Cho đến nay, khu hệ Ve giáp thế giới hiện biết khoảng 10000 loài nằm
trong hơn 1000 giống khác nhau (chiếm khoảng 20%) và số loài Oribatida thực
tế có thể vào khoảng 50.000 loài đến 100.000 loài [49]. Các nghiên cứu về cấu
7
trúc quần xã động vật đất trên thế giới và ở Việt Nam, về sự phân bố, sự ảnh
hưởng của các yếu tố môi trường đến thành phần loài và cấu trúc quần xã,
cũng như vai trò chỉ thị của Oribatida ở hệ sinh thái đất rừng còn chưa đầy đủ.
Vườn quốc gia Cúc Phương là khu bảo vệ có giá trị sử dụng toàn diện
về các mặt bảo vệ thiên nhiên, nghiên cứu khoa học, bảo tồn di tích văn hóa và
phục vụ tham quan du lịch. Nguồn tài nguyên sinh học nơi đây được nghiên
cứu khá kỹ nhưng chủ yếu tập trung vào khu hệ động vật có xương sống, nấm,
côn trùng và thực vật. Các nhóm động vật không xương sống trong đất hàu
như biết đến rất ít, đặc biệt là Oribatida (hiện biết 29 loài) [14].
Vì những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Cấu trúc quần xã
Ve giáp (Acari: Oribatida) ở hệ sinh thái đất rừng tự nhiên độ cao 100 m, thuộc
vườn Quốc gia Cúc Phương, tỉnh Ninh Bình”.
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
2.1. Ý nghĩa khoa học
Đe tài bổ sung dẫn liệu về đa dạng sinh học của quần xã Oribatida ở hệ
sinh thái (HST) đất rừng VQG Cúc Phương, tỉnh Ninh Bình.

Đề tài cung cấp dẫn liệu về đặc điểm phân bố và đặc trung định lượng
của quần xã Oribatida ở VQG Cúc Phương, cấu trúc quần xã Oribatida về đặc
điểm phân bố và mật độ quàn thể ở HST đất rừng VQG Cúc Phương được
nghiên cứu và phân tích đồng bộ, theo 2 mùa (mùa mưa và mùa khô) và theo 4
tầng sâu thẳng đứng trong HST đất rừng ở khu vực nghiên cứu gồm: tầng rêu 0
- 100 cm trên mặt đất (1+1); tầng thảm lá bề mặt đất (10); tầng đất 0-10 cm (1-
1); tầng đất sâu 11 - 20 cm (1-2).
2.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài bổ sung tư liệu về thành phần loài Oribatida, góp phần bổ sung tài
nguyên đa dạng động vật đất của Việt Nam.
Góp phần đánh giá về sự ảnh hưởng của một số yếu tố tự nhiên đến cấu
trúc quần xã Oribatida ở khu vực nghiên cứu.
8
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu đa dạng thành phần loài, đặc điểm phân bố của quàn xã
Oribatida (Acari: Oribatida) ở HST đất rừng tự nhiên phân bố ở đai cao 100 m
trên mặt biển thuộc VQG Cúc Phương, và bước đầu đánh giá vai trò chỉ thị
sinh học điều kiện tự nhiên môi trường của chúng.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
4.1. Nghiên cứu đa dạng thành phàn loài, và bước đầu giới thiệu đặc
điểm hình thái qua bộ ảnh hiển vi và mật độ của quàn xã Oribatida ở vùng
nghiên cứu.
4.2. Khảo sát biến đổi cấu trúc của quần xã Oribatida theo bốn tầng
thẳng đứng và theo hai mùa nghiên cứu.
4.3. Bước đầu đánh giá vai trò của quần xã Oribatida như yếu tố sinh
học chỉ thị biến đổi điều kiện tự nhiên và khí hậu ở vùng nghiên cứu.
5. Đổi tượng nghiên cứu
Các loài Ve giáp (Acari: Oribatida), thuộc phân lớp Ve bét (Acari), lớp
Hình nhện (Arachnida), phân ngành Chân khớp có kìm (Chelicerata), ngành
Chân khớp (Arthropoda), của giới Động vật (Animalia).

6. Đóng góp mới
6.1. Luận văn cung cấp số liệu về đa dạng thành phàn loài, đặc điểm
phân bố của Oribatida ở HST đất rừng tự nhiên VQG Cúc Phương, tỉnh Ninh
Bình theo 4 tàng sâu thẳng đứng và theo 2 mùa nghiên cứu.
6.2. Luận văn cung cấp dẫn liệu về cấu trúc quần xã Oribatida gồm các
chỉ số: mật độ trung bình (MĐTB) quàn thể, độ ưu thế (D%), độ phổ biến (C
%), chỉ số đa dạng loài H’, chỉ số đồng đều J’.
Luận văn đưa một số nhận định về tác động của một số yếu
tố tự nhiên đến quần xã Oribatida ở HST đất rừng tự nhiên
VQG Cúc Phương.
NỘI DUNG CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
9
Ve giáp luôn chiếm khoảng trên 50% trong tổng số Chân khớp bé, chúng
tham gia tích cực vào mọi chu trình tự nhiên, vào các quá trình sinh học của
đất, quá trình vận chuyển năng lượng và vật chất, quá trình làm sạch đất khỏi bị
ô nhiễm các chất thải (hữu cơ và vô cơ), chất phóng xạ. Chúng làm gia tăng độ
màu mỡ của đất thông qua các hoạt động sống của mình [14].
Trong hơn 30 năm qua, cho đến năm 2000 các kết quả nghiên cứu hàng
năm của các chuyên gia chuyên ngành trên thế giới, đặc biệt là các kết quả liên
quan đến khu hệ và phân bố của Ve giáp đã được bảo tàng lịch sử tự nhiên
Görlitz, CHLB Đức giói thiệu trong 31 số của ấn phẩm Quốc tế Bibliographia:
Oribatologica. Từ năm 2001 ấn phẩm chuyên ngành này được mang tên mới là
Acari: Bibliographia Acarologica: Oribatida [14].
Các nghiên cứu về Oribatida ở Việt Nam được bắt đàu từ những năm 60
và do các tác giả nước ngoài thực hiện, sau đó được mở rộng tò những năm 80
của thế kỷ trước, trong khuôn khổ các đề tài nghiên cứu thuộc “Chương trình
nghiên cứu cơ bản cấp Nhà nước” và “Chương trình nghiên cứu cơ bản trong
khoa học sự sống”. Trên cơ sở đó đã hình thành một bộ sưu tập khá phong phú
về dữ liệu Oribatida ở Việt Nam.

Với những thông tin trên cho thấy, việc nghiên cứu phân tích sự thay đổi
các đặc trưng định lượng của Oribatida (số lượng loài, mật độ, chỉ số đa dạng
H’, chỉ số đồng đều J’) theo mùa, theo đai cao khí hậu và theo độ sâu đất lần
đầu tiên được áp dụng ở VQG Cúc Phương làm cơ sở khoa học chỉ ra những
tác động tích cực cũng như tiêu cực của các nhân tố môi trường, con người đến
hệ sinh vật đất.
1.2. Tổng quan tài liệu
1.2.1. Tĩnh hình nghiên cứu Oríbatida trên thế giới
Từ lâu, con người đã biết đến vai trò phân hủy xác mùn, phân hủy chất
hữu cơ và luân chuyển vật chất của nhiều nhóm sinh vật, trong đó có sinh vật
sống trong đất. Cùng vói sự phát triển mạnh của bộ môn khoa học vi sinh vật,
các nhà nghiên cứu đã thu được nhiều kết quả xác định vai trò phân hủy mùn
và tạo đất của các nhóm vi sinh vật. Trong số các sinh vật đất, phải kể đến bộ
1
Ve giáp (Acari: Oribatida). Các nghiên cứu về Ve giáp trên thế giới được bắt
đàu tò rất sớm. Từ cuối thế kỉ XIX, các nhà Sinh học nghiên cứu về sinh vật đã
quan tâm và tiến hành tìm hiểu về Oribatida.
Nhờ phương pháp dùng hệ thống phễu lọc để phân tách hệ động yật
chân khớp bé trong đất của nhà nghiên cứu người Italia A.Berlese (1905) và
sau đó được A.Tullgren cải tiến và hoàn thiện hơn (1917) nên con người đã có
khái niệm đầy đủ hơn về hệ động yật đất.
Ở Nga (Liên Xô cũ), nghiên cứu đầu tiên về Ve giáp bắt đầu vào những
năm cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, xuất hiện công tác nghiên cứu về động
vật học và hệ thống học về Ve giáp. Đến cuối những năm 30 của thế kỷ XX, ở
Liên Xô đã biết khoảng 100 loài Ve giáp (Krivolutsky, 1975) [51].
Khu hệ Ve giáp của Ôxtrâylia cho đến nay đã ghi nhận được trên 300
loài thuộc 45 họ. Đa số các loài Ve giáp của Ôxtrâylia mới được mô tả trong
khoảng 20 năm gàn đây (Niedbala et al., 1997) [52].
Ở Trung Quốc, Wang et al (2000, 2003) đã thống kê được 580 loài và
phân loài thuộc 279 giống và có cung cấp thông tin chi tiết về sự phân bố của

mỗi loài ở các tỉnh của Trung Quốc [53].
Khu hệ Ve giáp của Lavia, trước năm 1943 mói ghi nhận được 10 loài
theo công bố của Graube, 1943. Đến 1943, Eglitis đã thu thập thêm và công bố
50 loài (Eglitis, 1943). Năm 1954, khu hệ này bao gồm 120 loài và đến năm
2007 đã ghi nhận 200 loài thuộc 58 họ theo Baranovska A, 2007 [52].
Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu của mình kết họp vói các công trình
của các tác giả khác Schatz, 2002 đã tổng họp và công bố bản mục lục các loài
Ve giáp đã biết ở khu vực Trung Châu Mỹ. Danh sách gồm 543 loài Ve giáp
thuộc 87 họ. Ngoài ra, ông còn liệt kê số lượng Ve giáp ở các quốc gia và vùng
lãnh thổ khác cũng thuộc khu vực này như: Cuba (225 loài), Antilles (387
loài), Lasser Antilles (172 loài), Jamaica (28 loài), Dominica (21 loài)
(Schatz, 2002). Số lượng loài Ve giáp của Trung Mỹ, bao gồm cả Mexico là
987 loài, nếu cộng thêm cả Antilles, con số này là 1238 loài (Schatz, 2002)
[47].
1
Đen năm 2001, các nhà khoa học thế giới đã báo cáo Ve giáp có hơn
1300 giống của 191 họ, hơn 10000 loài, nhưng suy đoán rằng con số trên chỉ
chiếm khoảng 20% số loài có thực tế [49].
Các nghiên cứu về sinh thái học Ve giáp: Lindo et al., 2007, nghiên cứu
độ phong phú, độ giàu loài và thành phần quần xã Ve giáp ở dưới mặt đất và
trên tán cây của 12 cây thông đỏ ở rừng Thông - Độc nội địa (British
Columbia, Canada), các mẫu được thu từ lá, từ 3 nhóm địa y chức năng khác
nhau (địa y dạng lá, địa y dạng sợi và địa y dạng thùy) và dưới gốc cây. Kết
quả cho thấy: Ve giáp là nhóm chân khớp ưu thế ở tất cả các kiểu sinh cảnh. Số
lượng chân khớp và Ve giáp phong phú nhất ở đất rừng và trong mẫu địa y
dạng lá so với các sinh cảnh khác (tán cây, địa y dạng sợi, dạng thùy) (Lindo et
al, 2007) [39].
S. Karasawa đã nghiên cứu ảnh hưởng của sự đa dạng vi sinh cảnh và
sự phân cắt địa lý đến quàn xã Ve giáp ở rừng ngập mặn tại đảo Ryukyu (Nhật
Bản), 2004. Ve giáp được thu thập từ lá, vỏ cây, mẩu rễ cây, đất nền và từ tảo

biển ở 2 hòn đảo cách nhau 470 km. Kết quả cho thấy, thành phần loài quần xã
Ve giáp ở vỏ đầu rễ cây và vỏ thân cây có sự sai khác với ở lá cây, đất nền và
tảo biển; quần xã Ve giáp của cùng một kiểu sinh cảnh ở các địa điểm khác
nhau có khuynh hướng giống nhau hơn là những quần xã ở các sinh cảnh khác
nhau nhưng cùng một địa điểm. Điều này có nghĩa là cùng một thành phần loài
Ve giáp ở rừng ngập mặn giống nhau do ảnh hưởng của nhân tố đa dạng về vi
sinh cảnh lớn hơn là do sự phân cách về địa lý (Karasawa, 2004) [34].
Zaitsev và Wolters, 2006 đã thực hiện các đợt điều ừa thu mẫu Ve giáp
theo một lát cắt ngang châu Âu, Hà Lan đến Matxcơva trong cùng một kiểu
sinh cảnh (rừng rụng lá theo mùa) với mục đích đánh giá tác động của khí hậu
lục địa đến cấu trúc và độ đa dạng quần xã Ve giáp. Kết quả cho thấy, khí hậu
lục địa có ảnh hưởng rõ ràng đến cấu trúc, chức năng và độ đa dạng quần xã Ve
giáp như làm tăng độ phong phú (mật độ trung bình) của các loài sống ừên bề
mặt thảm lá, theo chiều tò phía Tây sang phía Đông và làm giảm độ phong phú
1
của các loài sống trong lớp thảm. Mặt khác, cũng có những dấu hiệu chỉ thị
cho sự thay đổi cấu trúc khu hệ dần dần, dọc theo lát cắt từ Tây sang Đông.
Kiểu đất đóng vai ừò điều chính thành phàn loài và độ giàu loài của quần xã Ve
giáp (Zaitsev et al., 2006) [46].
về vai trò chỉ thị sinh học của Ve giáp có nhiều công trình nghiên cứu,
mỗi loài Ve giáp riêng biệt phản ứng một cách có chọn lọc với các loại thuốc
trừ sâu (Behan - Pelletier, 1999); loài đông đảo xuất hiện chiếm ưu thế trong
những môi trường sống đặc trưng hay trong các quần hợp đặc trưng, chúng
như những sinh vật chỉ thị thích hợp [28].
Ve giáp là nhóm động vật nhạy cảm với sự thay đổi chất lượng không
khí (Andre, 1976; Weigmann et ah, 1991; Weigmann et al., 1992; Steiner,
1995). Theo Steiner, ô nhiễm không khí, đặc biệt trong trường hợp nồng độ
N0
2
tăng cao, đã làm suy giảm độ giàu loài Ve giáp và tạo ra những quàn xã

đơn điệu nhiều hơn. Ông cũng lưu ý rằng nhiều loài bị ảnh hưởng mạnh hơn
bởi đặc trưng của vi sinh cảnh hơn là bởi mức độ ô nhiễm và sự thay đổi trong
các cấu trúc quần thể [45].
Cấu trúc quàn thể, độ giàu loài và đặc điểm sinh sản của Oribatida có
phản ứng âm tính với liều cao của một số kim loại nặng trong môi trường đô
thị.
Trên thế giới còn có rất nhiều hướng nghiên cứu về Oribatida nữa như,
nghiên cứu về nguồn gốc phát sinh; lịch sử hình thành loài; hướng tiến hóa của
Oribatida; ảnh hưởng của các nhân tố tự nhiên lên mật độ, thành phàn loài
Oribatida; vai trò của Oribatida trong sự phân hủy và chu trình dinh dưỡng;
nghiên cứu về quy luật và các yếu tố phát tán Oribatida; nghiên cứu về môi
trường sống Ve giáp; sự đa dạng và phân bố Oribatida trên toàn cầu.
1.2.2. Tĩnh hình nghiên cứu Orĩbatida ở Việt Nam
Cùng vói những bước phát triển trong nghiên cứu về Oribatida trên thế
giới, ở Việt Nam các nghiên cứu trong lĩnh vực này cũng đã đạt được những
thành tựu đáng kể. Nhìn lại lược sử nghiên cứu, có thể chia làm 4 giai đoạn:
1
• Giai đoạn 1: từ năm 1967 đến 1980
• Giai đoạn 2: từ năm 1981 đến 1986
• Giai đoạn 3: từ năm 1987 đến 2007
• Giai đoạn 4: từ năm 2008 đến nay
Giai đoạn 1: Tình hình nghiên cứu Orỉbatida ở Việt Nam từ năm
1967 đến năm 1980
Trước năm 1967, chưa có công trình nào nghiên cứu về Ve giáp ở Việt
Nam.
Hai tác giả Balogh J. và Mahunka s., 1967 - (Hungari) đã giói thiệu khu
hệ, danh pháp và đặc điểm phân bố của 33 loài Ve giáp trong đó mô tả 29 loài
và 4 giống mói cho khoa học trong tác phẩm:“Neworibatids from
Vietnam”. Tiếp theo là nghiên cứu của hai tácgiả Balan A.Rajski và
R.Szudrowicz (Balogh J. et al, 1967; Rajski A. et al., 1974) [26]. Mở đầu cho

các nghiên cứu tiếp theo về Oribatida ở Việt Nam.
Trước năm 1975, nghiên cứu về Ve bét nói chung và Oribatìda nói riêng
ở Việt Nam chủ yếu là nghiên cứu của các tác giả nước ngoài. Sau năm 1975,
các tác giả trong nước bắt đầu có các nghiên cứu độc lập về Oribatida.
Năm 1978, các tác giả Vũ Quang Mạnh và Nguyễn Trí Tiến đã tiến hành
nghiên cứu các nhóm Acariña và Collembola ở đất canh tác thuộc huyện Từ
Liêm, Hà Nội.
Sau đó phải kể đến công trình luận văn cấp I sau đại học của tác giả Vũ
Quang Mạnh, 1980 nghiên cứu thành phần loài, phân bố và biến động số
lượng của các nhóm Ve bét Cryptostigmata, Mesostigmata, Prostigmata
(Acariña) và Bọ nhảy Collembola (Insecta) ở một số sinh cảnh Tây Nguyên và
ngoại thành Hà Nội. Qua nghiên cứu này, tác giả chỉ ra rằng ở các sinh cảnh
khác nhau có sự thay đổi về thành phàn và số lượng loài Oribatida [6].
Trong giai đoạn này, nhìn chung các nghiên cứu về Oribatida chủ yếu do
các tác giả nước ngoài tiến hành. Các tác giả ừong nước bắt đàu đi vào nghiên
cứu về định lượng chung, thành phần loài nhưng chưa nghiên cứu chuyên sâu.
1
Giai đoạn 2: Tình hình nghiên cứu Orỉbatida ở Việt Nam từ năm
1981 đến năm 1986
Chỉ trong vòng 6 năm, tuy nhiên các nghiên cứu về Oribatida ở Việt
Nam đã có những bước phát triển mới, rõ rệt đồng thời bổ sung đầy đủ hơn các
dẫn liệu so với giai đoạn trước.
Tiêu điểm là công trình của nghiên cứu về nhóm chân khớp bé
(Microathropoda) ở đất Cà Mau (Minh Hải) và Hà Nội (Từ Liêm), năm 1984
của tác giả Vũ Quang Mạnh. Công trình này đã đánh giá về sự khác nhau về
thành phần loài Oribatei và Collembola ở các sinh cảnh: vườn trồng lâu năm,
ruộng rau xanh, đất bờ sông ổn định và sự khác nhau về thành phần loài, số
lượng loài ở lớp đất 0 - lOcm [7].
Luận án Phó tiến sĩ của Vũ Quang Mạnh, 1985 về Oribatida ở các hệ
sinh thái tự nhiên và đất canh tác ở miền Bắc Việt Nam.

Như vậy, ừong giai đoạn này các nghiên cứu về Oribatida đã có những
bước phát triển hơn so với giai đoạn trước. Hướng nghiên cứu, phạm vi địa lý
được mở rộng hơn so với nghiên cứu của giai đoạn trước. Tuy nhiên, các
nghiên cứu này vẫn đi sâu về nghiên cứu nhổm chân khớp bé nói chung còn Ve
giáp nói riêng chưa nhiều.
Giai đoạn 3: Tình hình nghiên cứu Orỉbatida ở Việt Nam từ năm
1987 đến năm 2007
Nghiên cứu đánh giá mật độ, thành phần loài khu hệ Microathropoda ở
đất Cà Mau, Vũ Quang Mạnh (1987), Vũ Quang Mạnh và M Jeleva (1987) ở
đất rừng Tây Nguyên; vùng đồng bằng ven biển miền Bắc Việt Nam của Vũ
Quang Mạnh và Nguyễn Trí Tiến (1988, 1990). Năm 1990, Vũ Quang Mạnh
đã tổng kết tất cả các công trình nghiên cứu Chân khớp bé ở Việt Nam và đưa
ra danh sách 117 loài Ve giáp đã biết ở Việt Nam cho đến thời điểm đó, cùng
với đặc điểm phân bố của chúng theo vùng địa lý, loại đất và hệ sinh thái (Vũ
Quang Mạnh, 1990) [8].
1
Tiếp đó là rất nhiều công trình nghiên cứu của Vũ Quang Mạnh, Vũ
Quang Mạnh và Nguyễn Trí Tiến, Vũ Quang Mạnh và Cao Văn Thuật, Vũ
Quang Mạnh và Vương Thị Hòa, Vũ Quang Mạnh và Nguyễn Thanh Huyền
nghiên cứu khu hệ Ve giáp ở Việt Nam (1985, 87, 88, 89, 90a, 90b, 93, 94,
95,96, 99, 2000, 203,204 ).
Năm 1994, trong thông báo khoa học các trường đại học, Vũ Quang
Mạnh đã giới thiệu danh sách 28 loài Ve giáp ở vùng đất ven biển Yên Hưng
(Quảng Ninh), đảo Cát Bà (Hải Phòng) và đồng bằng sông Hồng (Hà Nội) và
tác giả nêu lên mối liên hệ giữa Ve giáp vùng ven biển và vùng đảo so với Ve
giáp trong đất liền (Vũ Quang Mạnh, 1994).
Trong báo cáo khoa học tại Hội nghị Côn trùng học toàn quốc lần thứ V,
tác giả Vũ Quang Mạnh, Nguyễn Xuân Lâm, 2005 đã công bố khu hệ Ve giáp
Việt Nam bao gồm 158 loài, thuộc 46 họ, khu hệ này mang yếu tố Ấn Độ
- Mã Lai và thuộc vùng địa động vật Đông Phương. Tuy nhiên, khu hệ Ve giáp

Việt Nam có tính đặc hữu cao, có tới 76 loài chỉ phát hiện được ở Việt Nam.
Đồng thời, cũng có một số loài mang đặc điểm chung của khu hệ Thái Lan,
Inđônêxia, Malaixia, Philippin, Nhật Bản và các đảo Nam Thái Bình Dương
(Vũ Quang Mạnh và cs., 2005) [13].
Năm 2007, Vũ Quang Mạnh và cs. đã công bố 3 loài Ve giáp thuộc
giống Perxylobates Hammer 1972, hiện có ở Việt Nam [16].
Cũng trong năm 2007, Vũ Quang Mạnh đã giới thiệu hệ thống phân loại
và danh pháp đầy đủ nhất của 150 loài trong khoảng 180 loài Ve giáp đã biết
của khu hệ động vật Việt Nam trong công trình “Động vật chí và Thực vật chí
Việt Nam”, Tập 21 “Ve giáp (Acari: Oribatida) ở Việt Nam”. Tác phẩm này
hiện nay đang được sử dụng phổ biến, rộng rãi trong nghiên cứu và định loại
Oribatida ở các cơ sở khoa học chuyên ngành [14].
Những nghiên cứu về cấu trúc quần xã Ve giáp như: đánh giá về đa dạng
quần xã Ve giáp vùng đồi núi Đông Bắc và Bắc Kạn, Vũ Quang Mạnh, 2002
nhận định độ phong phú các loài ở các sinh cảnh khác nhau do tình trạng cấu
1
trúc của vi sinh cảnh thấp và tính đề kháng sự khô hạn thấp và nguồn thức ăn
kém (Vũ Quang Mạnh, 2002) [10].
Nghiên cứu về cấu trúc quần xã Ve giáp ở VQG Tam Đảo (Vĩnh Phúc),
Vũ Quang Mạnh và cs., 2002 có sự nhận xét cấu trúc quần xã Ve giáp ở hệ sinh
thái đất có liên quan rõ rệt với sự suy giảm gỗ rừng. Nó có thể được xem xét và
đánh giá như một đặc điểm sinh học, chỉ thị quá trình diễn thế của VQG Tam
Đảo nói riêng và của Việt Nam nói chung (Vũ Quang Mạnh và cs., 2002) [11].
Oribatìda trong cấu trúc quần xã Acari ở hệ sinh thái VQG Ba Vì, Việt
Nam, Phan Thị Huyền và cs., 2004 đã xác định được mối liên hệ giữa đai cao
khí hậu ảnh hưởng tới cấu trúc quần xã Oribatida.
Các nghiên cứu về Ve giáp như yếu tố chỉ thị sinh học cho môi trường
đất cũng được đề cập. Krivolutsky et al., 1997 nhận định Ve bét là vật chủ
trung gian của các loài sán dây họ Anoplocephaỉlỉdae.
Vũ Quang Mạnh và cs., 2002 đã đưa dẫn liệu bổ sung về cấu trúc và vai

trò quần xã Ve giáp VQG Tam Đảo, Vĩnh Phúc nhận định có sự thay đổi đặc
điểm đa dạng thành phần loài của quần xã Ve giáp theo chiều thẳng đứng, từ
thảm rêu quanh thân cây và vụn xác thực yật, nằm trên mặt đất từ độ cao 0 -
100cm, cho đến thảm lá rừng phủ trên mặt đất, lớp đất mặt 0 - 10cm và lớp đất
sâu 11 - 20cm ở hệ sinh thái VQG Tam Đảo. Chỉ số này có thể xem xét như
một yếu tố chỉ thị sinh học ở các diễn thế ở hệ sinh thái rừng Việt Nam (Vũ
Quang Mạnh và cs., 2002).
Trong tập 21 “Ve giáp (Acari: Oribatida) ở Việt Nam”, tác giả Vũ Quang
Mạnh đã có những đánh giá rất cao về giá trị nguồn lợi và hiện trạng Ve giáp ở
Việt Nam.
Oribatida là nhóm động yật đất nhạy cảm với sự thay đổi của các yếu tố
môi trường đất như: nhiệt độ, độ chua, hàm lượng các chất khoáng và lượng
mùn, đặc điểm cấu tạo cấu trúc quần xã Oribatida có liên quan mật thiết vói
những thay đổi của điều kiện môi trường đất.
Nhiều nhóm Ve giáp là nhóm gây hại trực tiếp cho cây trồng hoặc có vai
trò như những vectơ mang truyền vi khuẩn, nguồn bệnh và giun sán kí sinh
1
trong môi trường này. Vì thế, qua phân tích cấu trúc các quần xã Ve giáp giúp
chúng ta có thể đánh giá và nhận biết được đặc điểm, tính chất của môi trường
đất [14].
Như vậy, các nghiên cứu về khu hệ Oribatida ở Việt Nam không ngừng
phát triển và ngày càng chứng tỏ tính đa dạng cho khu hệ này. Việc nghiên cứu
Oñbatida ừong giai đoạn này đã có những bước tiến mới và mang lại các giá trị
to lớn cho con người trong các nghiên cứu về vai trò chỉ thị sinh học của
chúng.
Giai đoạn 4: Tình hình nghiên cứu Orỉbatida ở Việt Nam từ năm
2008 đến nay
Vũ Quang Mạnh, 2009 xác định thêm khu hệ Ve giáp ở Việt Nam hiện
đã xác định được có đại diện của 4 giống thuộc họ Lohmanoidae B erlese,
1961. Riêng giống Papillacarus Kunst, 1959 hiện biết ở Việt Nam có 3 loài

(Vũ Quang Mạnh, 2009).
về nghiên cứu cấu trúc quàn xã, tác giả Vũ Quang Mạnh và cs. đã
nghiên cứu cấu trúc quàn xã chân khớp bé ừong đó có Oribatida, về ảnh hưởng
và vai trò của chúng đối với các loại đất và đặc điểm của thảm cây trồng ở
vùng đồng bằng Sông Hồng. Thành phàn loài Oribatida xác định được phong
phú ở sinh cảnh bãi cỏ hoang, với 15 loài, số lượng loài Oribatida giảm dần từ
sinh cảnh RTN và VQN, đều có 9 loài; đến RNT và đất trồng cây gỗ lâu năm,
với 7 loài, thấp nhất ở ruộng lúa cạn, với 2 loài (Vũ Quang Mạnh và cs., 2008)
[17].
Trong báo cáo tại hội nghị Techmart tại Tây Nguyên tháng 4/2008, tác
giả Vũ Quang Mạnh và cs. chỉ ra trong cấu trúc quần xã động yật đất thì Ve
giáp chiếm ưu thế, vào khoảng 40 - 50%, có vai trò quan trọng trong nghiên
cứu hệ sinh thái đất (Vũ Quang Mạnh và cs., 2008) [18].
Luận án Tiến sĩ Sinh học của Đào Duy Trinh, 2011 nghiên cứu về thành
phàn và cấu trúc quần xã Ve giáp ở VQG Xuân Sơn (Phú Thọ) đã xác định
được 102 loài và 1 phân loài Oribatida, thuộc 48 giống và 28 họ. Tác giả cũng
chỉ ra những thay đổi về sự phân bố thành phần loài theo đai cao khí hậu (giảm
1
dàn từ 300m đến 1600m), số loài giảm đi khi di chuyển từ mùa khô sang mùa
mưa. Khẳng định rõ yếu tố Ấn Độ - Mã Lai của khu hệ Oribatida ở VQG Xuân
Sơn [22].
Một công trình khác nghiên cứu về Oribatìda ở VQG Phong Nha - Kẻ
Bàng (Quảng Bình) của Nguyễn Hải Tiến, Vũ Quang Mạnh. Các tác giả nghiên
cứu về vai trò chỉ thị sinh học của cấu trúc quần xã Ve giáp với sự thay đổi
điều kiện môi trường ở khu vực nghiên cứu. Các tác giả đã ghi nhận: vào mùa
khô ở tàng đất 0-1 Ocm số lượng loài Oribatida giảm theo thứ tự: RTN trên núi
đá vôi > RTN trên núi đất > RNT trên núi đất > RNT trên núi đá vôi. Vào mùa
mưa, số lượng loài giảm theo thứ tự: RTN trên núi đá vôi > RNT trên núi đất >
RTN trên núi đất > RNT trên núi đá vôi. Như vậy, số lượng loài Oribatida có
sự biến đổi theo từng loại đất, theo độ che phủ của thực vật và mức độ tác

động của con người. Đây là cơ sở sử dụng nhóm động vật này như một chỉ thị
sinh học đối vói sự biến đổi môi trường [21].
Trong các công trình được công bố gần đây thì có thể nói công trình có
mức độ chuyên sâu và toàn diện nhất là công trình nghiên cứu về hệ thống địa
động vật Oribatida về hình thái và vai trò trong HST của tác giả Vũ Quang
Mạnh, các kết quả được trình bày trong luận án Tiến sĩ khoa học năm 2013 của
tác giả. Trong công trình này ghi nhận 316 loài và 4 phân loài, thuộc 163
giống, 60 họ và 2 phân họ. Trong đó, có 111 loài (34,68%) đặc trưng chỉ phát
hiện ở Việt Nam, 155 loài (chiếm 48,44%) lần đầu tiên được phát hiện cho khu
hệ Ve giáp Việt Nam [20].
Trong công trình này, tác giả còn nghiên cứu và tổng kết vai trò phân
hủy xác thực yật, cấu trúc quần xã của chúng liên quan đến việc sử dụng các
thành phần hữu cơ và phân bón hóa học khác nhau trong sản xuất nông nghiệp.
Do yậy, những cấu trúc này có thể sử dụng như các chỉ thị sinh học tiềm năng
cho sự phát triển bền vững của HST nông nghiệp.
Tóm lại, trong giai đoạn này các nghiên cứu về Oribatida tiếp tục được
các tác giả đặc biệt là các tác giả trong nước đi sâu và mở rộng nghiên cứu về
1
các hướng: khu hệ, cấu trúc quàn xã, đặc biệt là vai trò chỉ thị sinh học đối
với sự thay đổi các điều kiện môi trường.
2
CHƯƠNG 2. ĐỊA ĐIỂM, THÒ® GIAN, ĐẶC ĐIỂM Tự NHIÊN VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN cứu
2.1. Địa điểm, thòi gian nghiên cứu và số lvợng mẫu
2.1.1. Địa điểm
Rừng tự nhiên, độ cao 100 m trên mặt biển thuộc VGQ Cúc Phương,
tỉnh Ninh Bình.
Sơ ĐÔ THAM QƯẠN V.Q.G cúc PHƯ0NG
VISITING ROUTES OF
cuc

PHUOMG NATIONAL PARK
TSJTI MỊ
Hình 2.1: Bản đồ tham quan VQG Cúc Phương Ghi chú:
Địa điểm thu mẫu 0 (Nguồn: Ban quản ỉí VQG Cúc Phương)
2
HOÀ
LẠC SƠN
CHÚ DẪN LESẼNO
Oiộr lích/tarKi arca
Chu vi/CirajíĩiíeíGfiM
Ranh giứi Vưửn/Bountiary of KIP
Đường fi tò/Mạin road
Đường 01 bộíTrail
Sửng nó/River
Ranh giới TinrvPíQYinãai tlne
ỉhò
22.20
0 na
J
Ĩívĩnrivén
THẠCH'T
HÁNH'-
'Cũc
2.1.2. Thời gmn nghiên cứu và số lượng mẫu
Trong năm 2013, chúng tôi đã tiến hành 2 đợt nghiên cứu và thu mẫu
ngoài thực địa, tương ứng với 2 mùa đàu mùa mưa và đàu mùa khô.
Đợt 1: tháng 5/2013 Đợt 2: tháng 12/ 2013
Tổng số mẫu định lượng (ĐL) và định tính (ĐT) ở 2 tàng đất, thảm lá,
tầng rêu tại rừng tự nhiên thể hiện ữong bảng:
Bảng 2.1: Thống kê số lượng mẫu thu tại VQG Cúc Phương

2.2. Đặc điểm tự nhiên của VQG Cúc Phương, tỉnh Ninh Bình
2.2.1. Vị trí địa lý và dm hình (Nguồn: Ban quản lí VQG Cúc Phương)
Cúc Phương nằm ở phía đông nam của dãy núi Tam Điệp. Ranh giới của
VQG Cúc Phương được xác định với tổng diện tích là 22.200 ha, gồm
11. 350 ha thuộc địa giới tỉnh Ninh Bình, 5.850 ha thuộc địa giói tỉnh Thanh Hóa
và 5.000 ha thuộc địa giới tỉnh Hòa Bình. Tọa độ rừng: Từ 20°14’ tói 20°24’ vĩ
bắc, 105°29’ tới 105°44’ kinh đông.
Địa hình Cúc Phương chủ yếu là núi đá vôi có độ chênh cao trung bình
so với mặt biển 400 - 450 m, cao nhất là đỉnh Mây Bạc (656 m) nằm ở phía
Tây Bắc và thấp dần về hai phía Tây Nam và Đông Nam. Cúc Phương có sông
Bưởi cắt qua Vườn phía Tây Bắc, còn lại có nhiều suối cạn xuất hiện theo mùa
mưa dạng núi đá vôi tương đối điển hình, ngoài ra còn có các hang động, mắt
Đất mặt 0 -10 cm Đất sâu 11 - 20 cm Lá Rêu Tổng
ĐT 0-
10 cm
ĐL 0 -10
cm
ĐT
11-20
cm
ĐL
11-20
cm
ĐT ĐL ĐT ĐL
1 mâu
x2
5 mâu x2 1 mâu
x2
5 mâu
x2

1 mâu
x2
5 mâu
x2
1 mâu
x2
5 mâu
x2
48 mẫu
hút nước, dòng chảy ngầm. Cúc Phương có 3 dạng địa hình chính liên quan tới
hai loại sản phẩm cấu tạo đất chủ yếu với các loại đá mẹ khác nhau:
Địa hình núi cao dốc đứng: sản phẩm đá vôi.
Địa hình bãi bằng thung lũng hẹp: sản phẩm bồi tụ.
Địa hình núi thấp và ít dốc: sản phẩm đá sét.
2.2.2. Khí hậu và thủy văn (Nguồn: Ban quản lí VQG Cúc Phương)
Khí hậu
Khí hậu ở Cúc Phương thuộc loại khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ
trung bình năm khoảng 24,7°c. Mùa khô ở Cúc Phương từ tháng XII đến tháng
IV, mùa mưa tò tháng V đến tháng XI. Mưa khá to, dâng và rút rất nhanh.
Lượng mưa trung bình hàng năm lên tới 2.157 ĨĨUĨ1 với lượng mưa cao nhất là
3300 mm vào năm 1963. số ngày mưa trung bình năm là 224 ngày.
Thủy văn
Cúc Phương nằm ở phía đông nam của dãy núi Tam Điệp, một dãy núi đá
vôi chạy từ tỉnh Sơn La ở hướng tây bắc. Dải núi đá vôi này với ưu thế là kiểu
karst tự nhiên. Phần dãy núi đá vôi bao quanh vườn quốc gia có chiều dài
khoảng 25 km và rộng đến 10 km, ở giữa có một thung lũng chạy dọc gần hết
chiều dài của dãy núi.
Địa hình karst ảnh hưởng rõ nét đến hệ thống thủy văn của Cúc Phương.
Phần lớn nước ừong vườn quốc gia bị hệ thống các mạch nước ngầm hút rất
nhanh, nước sau đó thường chảy ra ở những khe nhỏ ở bên hai sườn của vườn

quốc gia. Do vậy, không có các ao hồ tự nhiên hay các thủy vực tĩnh nằm trong
vườn, mà chỉ có một dòng chảy thường xuyên là sông Bưởi.
Rừng Cúc Phương còn đóng vai ừò bảo vệ đầu nguồn hồ chứa nước Yên
Quang. Hồ cung cấp nước cho sinh hoạt và sản xuất nông nghiệp các vùng lân
cận.
2.2.3. Thổ nhưỡng và đất đai (Nguồn: Ban quản lí VQG Cúc Phương)
Nền địa chất Cúc Phương được hình thành bởi chuyển động tạo sơn kỷ
Mêri đầu nguyên đại trung sinh kỷ Triat trung, bậc Cadôni tầng Đồng Giao.
Cúc Phương là một phần đất cổ có lịch sử cấu tạo địa chất và hình thành địa hình
tương đối lâu đời, phàn đất cổ ấy được gắn chặt với khu Tây Bắc Việt Nam và
có dạng địa mạo đặc biệt núi đá vôi nửa che phủ.
Đất Cúc Phương có 2 nhóm đất với 7 loại chính và 16 loại phụ.
Đất Cúc Phương có những đặc tính chung sau:
Đất có hàm lượng sét tương đối thấp, ngay ở độ sâu 50 - 70 cm cũng có ít
tàng đạt ừên 40%, phần lớn đều dưới 30%.
Đất có độ ẩm tự nhiên tương đối cao, thường đạt tới 30 - 50%, ít có tầng
dưới 20% đối với tất cả các loại đất.
Đất có độ xốp rất tốt, thường đạt 60 - 65%, có khi đạt tới 70 - 80%, thấp
nhất cũng không dưới 50%.
Đất có hàm lượng mùn lớn không kể ừên cao hay dưới thấp. Mùn trong
tầng đất mặt đều đạt từ 3 - 4% trở lên.
Đất có khả năng hấp thụ cao biểu thị ở tổng cation trao đổi cao.
2.3. Tài nguyên thực vật và động vật (Nguồn: Ban quản lí VQG Cúc Phương)
Đa dạng về thành phần loài thực vật: Trong đó ngành Quyết thực vật có 31
họ, 57 chi, 149 loài; ngành Hạt tràn có 3 họ, 3 chi và 3 loài; ngành Hạt kín có
154 họ, 747 chi và 1588 loài. Hệ thực vật Vườn quốc gia Cúc Phương chiếm tỷ
lệ 76% số họ, 48,6% số chi và 30% số loài của miền Bắc và chiếm 68,9% số họ,
43,6% số chi và 24,6% số loài hiện có ở Việt Nam.
Đa dạng về thành phần loài động vật: Rừng Cúc Phương có hệ sinh thái khá
phong phú và đa dạng, gồm 97 loài thú (trong đó nổi bật nhất là các loài khỉ

châu Á), 137 loài chim, 76 loài bò sát, 46 loài lưỡng cư, 11 loài cá và hàng ngàn
loài côn trùng. Nhiều loài nằm trong Sách đỏ Việt Nam.
2.4. Dụng cụ nghiền cứu
Dụng cụ thu mẫu ngoài thực địa: hộp cắt kim loại hình khối hộp chữ nhật
cỡ (5x5x10) cm. Túi nilong dựng mẫu, bút dạ không xóa, sổ ghi chép,
Máy xác định tọa độ địa lý GPS là thiết bị thu và xử lý tín hiệu từ các vệ tinh địa
tĩnh để xác định tọa độ địa lý của bất kì địa điểm nào trên trái đất.
Dụng cụ nghiên cứu trong phòng thí nghiệm:
Hệ thống lọc mẫu đất (rây lọc, phễu lọc,
Dụng cụ tách mẫu, phân tích mẫu và làm tiêu bản: đĩa petri, lam kính,
lamen, ống hút, bút tách mẫu, giấy thấm, bông
Kính lúp Olympus SZ40; Kính hiển vi Olympus CH2; Chụp ảnh Oribatida
ở kính Olympus có độ phóng đại tò 40 - 100 lần
Hoá chất sử dụng: Glixerol, Formol, cồn tuyệt đối
2.5. Phương pháp nghiền cứu
2.5.1. Thu mẫu Orỉbatida
Thu mẫu đất, lá và rêu
Ở VQG Cúc Phương, Ninh Bình chứng tôi tiến hành thu mẫu tầng đất,
tầng rêu và thảm lá, định lượng theo các sinh cảnh nghiên cứu khu hệ và thu lặp
lại theo lịch thu mẫu trong năm. Mau đất được lấy ở độ sâu 0 - 10 cm và 11 - 20
cm với kích thước của mỗi mẫu thu là 5x5x10 cm.
Đối với thảm lá rừng phủ ừên mặt đất, chúng tôi tiến hành gom tất cả lá
mục, cành cây, xác hữu cơ phủ ừên mặt đất có diện tích (20 cm X 20 cm), đem
cân và ghi lại trọng lượng, sau đó tính trung bình để biết trên lm
2
diện tích có
trọng lượng thảm lá rừng là bao nhiêu.
Đối với các mẫu thảm rêu mẫu định lượng là từ 200 - 300 gram rêu bám
thân cây gỗ rừng, xác vụn thực vật ở trên mặt đất nằm ở độ cao từ 0 - 100 cm
trên mặt đất. Các mẫu này đều cân trọng lượng mỗi mẫu và tính trung bình theo

kg.

×