Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

Rủi ro và đánh giá rủi ro trong thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Tây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (599.19 KB, 107 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh Việt Nam đang thực sự hòa nhập vào nền kinh tế thế
giới bằng việc trở thành thành viên chính thức thứ 150 của tổ chức thương
mại thế giới WTO, vị thế của nước ta tiếp tục được khẳng định, nâng cao trên
trường quốc tế. Điều này đem lại nhiều cơ hội thuận lợi cho nền kinh tế Việt
Nam. Bên cạnh đó là những thách thức không nhỏ buộc chúng ta phải nỗ lực
hết mình để có thể vượt qua những khó khăn trong bước đầu hội nhập. Chính
trong thời điểm này, thời kỳ khủng hoảng trầm trọng của nền kinh tế toàn cầu
nói chung và của nền kinh tế Việt Nam nói riêng đòi hỏi tất cả các doanh
nghiệp, các thành phần kinh tế đều phải có những kế hoạch, định hướng phát
triển phù hợp với yêu cầu của thời đại mới. Cùng với sự phát triển của nền
kinh tế, hoạt động đầu tư đặc biệt được quan tâm.
Hiện nay, để phát triển các doanh nghiệp đã và đang tiến hành rất nhiều
dự án đầu tư. Tuy nhiên, các dự án đầu tư thường đòi hỏi vốn lớn và thời gian
thực hiện lâu dài nên hầu hết các doanh nghiệp khi tiến hành đầu tư thực hiện
các dự án đều không thể tự tài trợ toàn bộ vốn cho một dự án. Một trong
những biện pháp quan trọng là đi vay vốn tại các ngân hàng.
Khi nền kinh tế phát triển thì vai trò của các ngân hàng thương mại là
rất quan trọng trong việc việc đảm bảo cho hoạt động lưu thông tiền tệ được
thông suốt, đáp ứng kịp thời yêu cầu về vốn cho nền kinh tế nói chung và cho
hoạt động đầu tư nói riêng. Đối với ngân hàng thương mại, nghiệp vụ mang
lại lợi nhuận chủ yếu là hoạt động cho vay. Phương châm hoạt động của các
ngân hàng là an toàn – chất lượng – hiệu quả và tăng trưởng bền vững. Nhưng
một đặc trưng của các dự án đầu tư là luôn chứa đựng các yếu tố rủi ro. Khi
rủi ro xảy ra, không chỉ dự án bị ảnh hưởng mà ngân hàng và xã hội cũng sẽ
gặp nhiều tổn thất.
Nguyễn Thị Ngọc Yến Kinh tế đầu tư 47D
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trước thực tế đó, để nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng và đảm


bảo an toàn về vốn cho mình, công tác quản lý rủi ro các dự án đầu tư được
cho vay vốn là vô cùng quan trọng đối với các ngân hàng. Nhận thấy tầm
quan trọng của công tác quản lý rủi ro các dự án đầu tư được cho vay vốn đối
với ngân hàng thương mại, trong quá trình thực tập tại Ngân hàng công
thương Chi nhánh Thanh Xuân – Hà Nội, em đã nghiên cứu đề tài: “ Quản lý
rủi ro các dự án đầu tư tại Ngân hàng Công thương Chi nhánh Thanh Xuân
Hà Nội.”
Chuyên đề gồm 3 chương:
– Chương I: Một số vấn đề lý luận cơ bản về rủi ro và quản lý rủi ro.
– Chương II: Thực trạng hoạt động quản lý rủi ro các dự án đầu tư tại
Ngân hàng công thương Chi nhánh Thanh Xuân Hà Nội.
– Chương III: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao khả năng
quản lý rủi ro các dự án đầu tư với Ngân hàng công thương chi nhánh Thanh
Xuân Hà Nội.
Do hạn chế về mặt thời gian cũng như kinh nghiệm và trình độ nên bài
viết còn nhiều thiếu sót. Vì vậy, em rất mong được sự góp ý chân thành của
các thầy cô giáo, các cô chú, anh chị trong Khách hàng doanh nghiệp và
phòng Quản lý rủi ro và nợ có vấn đề – Ngân hàng công thương Chi nhánh
Thanh Xuân Hà Nội để bài viết hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn Thạc sỹ Nguyễn Thị Thu Hà, các cô chú và
anh chị trong phòng Khách hàng doanh nghiệp và phòng Quản lý rủi ro và nợ
có vấn đề – Ngân hàng công thương Chi nhánh Thanh Xuân Hà Nội đã tận
tình giúp đỡ, hướng dẫn em trong thời gian qua để em hoàn thành bài viết
này.
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Ngọc Yến Kinh tế đầu tư 47D
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Nguyễn Thị Ngọc Yến
CHƯƠNG I

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ
RỦI RO VÀ QUẢN LÝ RỦI RO
1.1. Rủi ro đối với các dự án đầu tư.
Dự án đầu tư có đặc trưng là:
- Có sự tham gia của nhiều bên như: Chủ đầu tư, nhà thầu, cơ quan
cung cấp dịch vụ trong đầu tư, cơ quan quản lý nhà nước.
- Môi trường hoạt động của dự án là: “va chạm”, có sự tương tác
phức tạp giữa dự án này với dự án khác, giữa bộ phận quản lý này với bộ
phận quản lý khác.
- Dự án có tính chất bất định và rủi ro cao, do đặc điểm mang tính
chất dài hạn của hoạt động đầu tư phát triển.
Những đặc trưng trên cho thấy hoạt động đầu tư vào các dự án luôn
chứa đựng rất nhiều rủi ro ở tất cả các giai đoạn của dự án là pha lập dự án
(rủi ro bên trong và rủi ro bên ngoài), pha thực hiện đầu tư, pha vạn hành khai
thác dự án.
Một dự án đầu tư có thể gặp những rủi ro sau:
Một dự án đầu tư có thể gặp rất nhiều rủi ro khác nhau. Nhưng nhìn
chung, có thể liệt kê một số vấn đề sau :
- Thời gian thực hiện dự án lâu hơn dự kiến ( do chậm giải phóng
mặt bằng, do không huy động đủ vốn, do mua thiết bị không đúng chủng loại,
tiến độ đấu thầu bị kéo dài…)
- Xảy ra khó khăn không lường trước ( Ví dụ: Dịch cúm vi rút
H5N1 xảy ra làm khách du lịch đến Việt Nam giảm đáng kể. Rất nhiều
Nguyễn Thị Ngọc Yến Kinh tế đầu tư 47D
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
chương trình làm việc của các doanh nghiệp bị phá vỡ do đối tác nước ngoài
không đến, các dự án hoạt động khó khăn).
- Xảy ra các sự kiện bất ngờ ( Một trận hỏa hoạn đã xảy ra và làm
cháy một thiết bị quan trọng và khó kiếm. Do đó tất cả các hoạt động của dự

án liên quan đến thiết bị này đều phải hủy bỏ).
- Xảy ra những biến động ngắn hạn và áp lực cạnh tranh sẽ gây
biến động hoạt động chung ( Dự án sản xuất sữa đang chuẩn bị và được đưa
vào sản suất thì có tin đồn là trong sữa có chứa hàm lượng chất gây hại
melalin. Mặc dù tin đồn này đã được đính chính lại nhưng cũng gây tâm lý
hoang mang cho người tiêu dùng một thời gian. Điều này đã làm ảnh hưởng
tới kế hoạch của dự án.)
- Sự phối hợp giữa các bộ phận liên quan rất lỏng lẻo.( thị trường
đã xác định, sản xuất đã tăng công suất, trong khi mạng lưới phân phối vẫn
chưa hình thành).
1.2. Rủi ro tín dụng.
1.2.1. Khái niệm rủi ro tín dụng.
Ngân hàng thương mại là loại doanh nghiệp kinh doanh hàng hóa đặc
biệt – hàng hóa tiền tệ. Hoạt động của ngân hàng luôn tiềm ẩn những yếu tố
rủi ro. Rủi ro là yếu tố không thể tránh khỏi, là bạn đường trong kinh doanh,
có thể đề phòng, hạn chế, chứ không thể loại trừ. Đặc biệt là đối với hoạt
động cho vay các dự án đầu tư càng chứa đựng nhiều rủi ro hơn, bởi bản thân
các dự án đầu tư như trên đã nói vốn đã chứa đựng rất nhiều rủi ro. Đối với
loại rủi ro khi cho các dự án đầu tư vay vốn ngân hàng đã giành riêng cho một
tên gọi là “rủi ro tín dụng”.
- Theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước ngày 22/4/2005: “ Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng
của tổ chức tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng
Nguyễn Thị Ngọc Yến Kinh tế đầu tư 47D
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng
thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết.”
- Theo giáo trình Ngân hàng thương mại của PGS.TS. Phan Thị
Thu Hà: “ Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất ngoài dự kiến cho

ngân hàng do khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả hoặc không trả
đầy đủ vốn và lãi.”
Rủi ro tín dụng gắn với hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng, có
quy mô lớn nhất của ngân hàng thương mại đó là hoạt động tín dụng. Khi
thực hiện một hoạt động tài trợ cho các dự án đầu tư, ngân hàng luôn cố gắng
phân tích các yếu tố của người vay, của dự án sao cho độ an toàn cao nhất. Và
nhìn chung ngân hàng chỉ quyết định cho vay khi thấy an toàn. Tuy nhiên,
không một nhà kinh doanh ngân hàng tài ba nào có thể dự đoán chính xác tất
cả các vấn đề có thể xảy ra. Khả năng hoàn trả tiền vay của khách hàng có thể
bị thay đổi do nhiều nguyên nhân. Một số nhóm nguyên nhân có thể đưa ra ở
đây là :
1.2.2. Các nguyên nhân rủi ro tín dụng:
1.2.2.1. Những nguyên nhân từ các nhân tố vĩ mô:
* Môi trường chính trị: rủi ro này bao gồm các bất ổn tài chính và
bất ổn chính trị.
Có thể liệt kê một số rủi ro chính trị chính sau đây:
- Rủi ro thuế: Sự thay đổi về thuế đã làm cho dòng tiền hàng năm
của dự án bị thay đổi từ đó NPV và IRR của các dự án bị thay đổi theo, nguồn
trả nợ của dự án từ đó cũng bị ảnh hưởng.
- Hạn ngạch, thuế quan hoặc các giới hạn thương mại khác làm
giảm sản lượng hoặc tăng chi phí của các dự án. Ví dụ: thuế nhập khẩu thép
tăng lên làm tăng chi phí nguyên vật liệu cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng của
dự án.
Nguyễn Thị Ngọc Yến Kinh tế đầu tư 47D
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Chính sách tuyển dụng lao động: những thay đổi về quản lý và
tuyển dụng lao động như thay đổi quy định về mức lương tối thiểu, chính sách
với lao động nữ, hạn chế lao động nước ngoài … đều ảnh hưởng tới hiệu quả
của dự án đầu tư cũng như năng trả nợ của dự án.

- Kiểm soát ngoại hối: hạn chế chuyển tiền ra nước ngoài ảnh
hưởng tới hoạt động cung ứng hoặc tiêu thụ sản phẩm của dự án cũng như
quyền lợi của các nhà đầu tư.
- Lãi suất: Khi chính phủ đưa ra chính sách lãi suất để kiểm soát
lạm phát có thể làm cho hoạt động đầu tư tăng lên hoặc giảm đi.
- Độc quyền: Sự độc quyền kinh doanh của Nhà nước ở một số
lĩnh vực có thể làm hạn chế đầu tư vào các bộ phận khác trong xã hội và
thường dẫn đến sự kém hiệu quả trong đầu tư.
- Môi trường, sức khỏe và an toàn: những quy định liên quan đến
kiểm soát chất thải, quy trình sản xuất để bảo vệ sức khỏe cộng đồng có thể
làm hạn chế nhiều dự án cũng như làm tăng chi phí của các dự án.
- Quốc hữu hóa. VD năm 2007 ở Cuba đã đưa ra việc quốc hữu
hóa các tổ chức kinh tế.
* Môi trường kinh tế:
Bất kỳ một hoạt động sản xuất kinh doanh nào cũng đều chịu ảnh
hưởng trực tiếp của môi trường kinh tế xã hội. Môi trường kinh tế không
thuận lợi sẽ làm cho các doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, mỗi đồng vốn
không phát huy được hết hiệu quả của nó, làm cho khả năng trả nợ vay cuả dự
án bị hạn chế, dẫn đến rủi ro cho các khoản cho vay của ngân hàng. Trong
một nền kinh tế tăng trưởng mạnh, tiềm năng sản xuất, tiêu dùng của xã hội
còn lớn thì hoạt động sản xuất còn có nhiều điều kiện tốt để phát triển. Nhưng
một nền kinh tế bị khủng hoảng, tỷ lệ lạm phát cao, sản xuất bị đình trệ, đầu
tư bị giảm sút, tất cả tác động đến khả năng thu hồi vốn tín dụng của ngân
Nguyễn Thị Ngọc Yến Kinh tế đầu tư 47D
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hàng . Không chỉ giới hạn trong môi trường kinh tế của một nước mà các tác
động tới hoạt động tín dụng của ngân hàng, nhất là khi quan hệ kinh tế quốc
tế được mở rộng.
* Môi trường và xã hội:

Môi trường và xã hội là nhân tố lớn ảnh hưởng tới rủi ro tín dụng. Môi
trường bao gồm những nhân tố ảnh hưởng tới kết quả nhưng không bị chi
phối bởi người ra quyết định. Những rủi ro do môi trường và xã hội gây ra
như: Rủi ro về những tác động tiêu cực của dự án đối với môi trường và
người dân xung quanh, dẫn đến dự án phải tốn nhiều chi phí hơn cho việc xử
lý chất thải, thậm chí dự án có thể bị dừng hoạt động. Rủi ro có thể xảy ra khi
thị hiếu của xã hội thay đổi. Ví dụ như: do dân trí nâng cao, người dân nhận
thấy rằng các thức ăn công nghiệp thực sự không tốt cho sức khỏe, họ chuyển
sang dùng những thực phẩm có nguồn gốc từ tự nhiên. Do vậy, những thực
phẩm đóng hộp và những thực phẩm như gà công nghiệp, cá nuôi đều bị giảm
nhu cầu, giá bán hạ, những dự án sản xuất những mặt hàng trên trở nên thua
lỗ. Rủi ro cũng có thể xảy ra khi đạo đức của xã hội thay đổi.
* Nguyên nhân bất khả kháng: Ngoài các nguyên nhân khách quan
trên, rủi ro tín dụng còn chịu tác động của các nhân tố khác như: thiên tai,
chiến tranh, địch họa… Những nhân tố này vượt quá tầm kiểm soát của
người vay lẫn người cho vay. Những nhân tố này có thể xảy ra bất ngờ, tác
động tới người vay, tạo thuận lợi hoặc khó khăn cho người vay. Nhiều
người vay với bản lĩnh của mình có khả năng dự báo, thích ứng hoặc khắc
phục những khó khăn. Trong những trường hợp khác, dự án có thể bị tổn
thất song vẫn đủ khả năng trả nợ cho ngân hàng đúng hạn, đủ gốc và lãi.
Tuy nhiên, khi các tác động của các nguyên nhân bất khả kháng đối với dự
án là nặng nề thì khả năng trả nợ của dự án ít nhiều bị suy giảm. Ví dụ: một
Nguyễn Thị Ngọc Yến Kinh tế đầu tư 47D
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
trận động đất lớn xảy ra làm phá hủy toàn bộ cơ sở vật chất của một nhà
máy.
1.2.2.2. Nguyên nhân từ phía dự án.
Nguyên nhân từ phía dự án đầu tư cho vay là một trong những nguyên
nhân chính, điển hình gây ra rủi ro tín dụng. Theo thống kê cho thấy, khả

năng xảy ra rủi ro tín dụng xuất phát từ phía dự án là phổ biến nhất bởi dự án
mà đại diện là chủ đầu tư là người trục tiếp sử dụng vốn vay. Nguyên nhân từ
phía dự án có thể xem xét trên các mặt sau:
* Dự án bị thua lỗ dẫn đến mất khả năng trả nợ.
Nguyên nhân có thể do khả năng quản lý trong lĩnh vực kinh doanh,
điều hành dự án, thực hiện dự án và vận hành dự án không tốt, do trình độ yếu
kém của khách hàng trong việc dự đoán các vấn đề về kinh doanh như:
- Rủi ro trong quá trình xây dựng và hoàn thành công trình: do khả
năng quản lý của chủ đầu tư kém nên dẫn đến một trong các rủi ro sau:
+ Chi phí xây dựng vượt quá dự toán.
+ Công trình xây dựng không đảm bảo các yêu cầu của dự án.
+ Hoàn thành không đúng thời hạn.
+ Không giải tỏa được dân, phải thu hẹp hoặc hủy bỏ dự án.
- Rủi ro về thị trường, thu nhập, thanh toán: do dự đoán ban đầu về
thị trường của dự án không chính xác nên dự án có thể rơi vào một trong só
các tình trạng sau: cầu không đủ, sản lượng bán ra nhỏ hơn công suất của dự
án, giá bán thấp hơn dự kiến ban đầu…dẫn đến doanh thu của dự án thấp,
không trang trải đủ cho các chi phí, không đảm bảo được khả năng trả nợ cho
ngân hàng.
- Rủi ro về cung cấp đầu vào:
Đầu vào của dự án bao gồm nguyên vật liệu, vốn, lao động, máy móc
thiết bị… do chủ quan cảu người lập dự án lúc đầu mà có thể dẫn đến tình
Nguyễn Thị Ngọc Yến Kinh tế đầu tư 47D
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
trạng khi dự án đi vào giai đoạn vận hành khai thác thì nguồn cung nguyên
vật liệu của dự án lại không đáp ứng được công suất của dự án. Rủi ro cũng
có khể xảy ra khi dự đoán về giá cả, chất lượng nguyên vật liệu lúc đầu không
còn chính xác. Ví dụ: dự án được lập vào năm 2007 khi mà giá vật liệu thép
mới chỉ là 10 triệu đồng/ tấn, nhưng đến năm 2008 khi đi vào thi công xây

dựng dự án thì giá nguyên vật liêu thép tăng lên 16 triệu đồng/1tấn. Tất cả
những rủi ro do dự đoán không chính xác về nguồn cung cấp đầu vào trên đều
gây khó khăn tới việc vận hành dự án cũng như thanh toán các khoản nợ.
- Rủi ro về kỹ thuật và vận hành: Khi các tiện ích ( dây chuyền,
thiết bị, hệ thống điều hành…) của dự án không thể vận hành và bảo dưỡng ở
mức độ phù hợp với thiết kế ban đầu. Ví dụ: Một công nghệ đặc biệt của dự
án được nhập về từ châu Âu, nơi có khí hậu lạnh và khô, khi về tới Việt Nam
do khí hậu nhiệt đới gió mùa, độ ẩm cao nên các thông số ban đầu cảu công
nghệ đã bị thay đổi, không thể vận hành như ở nơi nhập công nghệ. Rủi ro
trên sẽ dẫn đến dự án phải tốn thêm chi phí để bảo dưỡng hoặc điều chỉnh lại
công nghệ cho phù hợp với điều kiện ở Việt Nam, thậm chí có thể dẫn tới bỏ
hoàn toàn công nghệ. Điều đó sẽ có ảnh hưởng không nhỏ tới khả năng trả nợ
của dự án.
* Khách hàng cố tình không tuân thủ các điều kiện trong hoạt động
vay vốn, cố tình lừa đảo ngân hàng.
Không ít khách hàng để đạt được mục tiêu vay vốn của mình đã tìm
mọi cách để đối phó với ngân hàng như cung cấp thông tin không chính xác,
giả tạo hồ sơ, hợp đồng mua bán vòng vo, mua chuộc cán bộ tín dụng nhằm
vay vốn ngân hàng. Nhiều chủ đầu tư còn lập dự án ảo để vay vốn của ngân
hàng sau đó sử dụng số tiền vay vốn đó vào mục đích khác. Thậm chí, nhiều
dự án kinh doanh có lãi song không chịu trả nợ ngân hàng đúng hạn, chây ỳ
với kỳ vọng quỵt nợ hoặc có thể sử dụng vốn vay càng lâu càng tốt. Đây là
Nguyễn Thị Ngọc Yến Kinh tế đầu tư 47D
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
trường hợp tồi tệ nhất trong các nguyên nhân chủ quan dẫn đến rủi ro tín
dụng, nó biểu hiện một hành động có chủ ý xấu của người vay đã được tính
toán, chuẩn bị từ trước nhằm chiếm đoạt tiền vay, loại nguyên nhân này được
coi là rủi ro về tư cách đạo đức của người vay.
Rủi ro từ phía dự án cho vay luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất và là chủ yếu

trong hoạt động tín dụng hiện nay. Việc phòng tránh cũng rất khó khăn, phức
tạp vì khách hàng của ngân hàng rất đa dạng, trình độ khác nhau, kinh doanh
trong nhiều lĩnh vực do vậy ngân hàng cần nâng cao chất lượng công tác thẩm
định dự án đầu tư trước khi quyết định cho vay, tăng cường công tác kiểm tra,
giám sát việc thực hiện khoản vay của các chủ đầu tư và đa dạng hóa đầu tư
nhằm phân tán bớt rủi ro.
1.2.2.3. Nguyên nhân từ phía ngân hàng.
Thứ nhất, rủi ro xảy ra do những nguyên nhân xuất phát từ cơ chế,
chính sách của ngân hàng còn chưa phù hợp.
Chính sách tín dụng phản ánh cưỡng lĩnh tài trợ của ngân hàng đó và
trở thành hướng dẫn chung cho cán bộ tín dụng và các nhân viên ngân hàng,
tăng cường chuyên môn hóa trong phân tích tín dụng, tạo sự thống nhất chung
trong hoạt động tín dụng nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng sinh lời.
Chính sách không phù hợp sẽ làm giảm hiệu quả hoạt động của ngân hàng và
có thể tạo nhiều rủi ro. Chẳng hạn, ngân hàng vì lợi nhuận mà mở rộng hoạt
động tín dụng quá mức thì sẽ có rủi ro cao, nợ quá hạn gia tăng. Ngược lại,
chính sách khách hàng không đa dạng, dẫn đến tập trung tài trợ cho một số
khách hàng, lĩnh vực tạo nên nguy cơ rủi ro cao khi mà “bỏ trứng tất cả vào
một giỏ”.
Thứ hai, bộ máy tổ chức hoạt động quản lý rủi ro còn lạc hậu, yếu
kém. Ngân hàng thiếu một cơ quan chuyên trách theo dõi, quản lý rủi ro, quản
lý hạn mức tín dụng tối đa cho từng khách hàng thuộc các ngành nghề, địa
Nguyễn Thị Ngọc Yến Kinh tế đầu tư 47D
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
phương khác nhau để phân tán rủi ro. Chất lượng thông tin thấp, sự hợp tác
giữa ngân hàng thương mại và trung tâm thông tin tín dụng không đồng bộ và
chưa đạt hiệu quả cao cũng là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến rủi ro tín
dụng. Thậm chí một số ngân hàng thương mại vì sợ cạnh tranh nên đã không
thông tin cho trung tâm thông tin tín dụng và điều đó đã dẫn đến việc tìm hiểu

khách hàng có quan hệ vay nợ tại các tổ chức tín dụng trở nên khó khăn.
Chính vì vậy, ngân hàng rất khó giám sát khách hàng về việc họ có sử dụng
khoản vay đúng mục đích hay không vì chưa có thông tin đầy đủ. Nếu thiếu
một trong các yêu cầu đó thì ngân hàng sẽ không thể có được những quyết
định phù hợp, có thể dẫn đến việc ngân hàng sẽ rót vốn vào những nơi thiếu
tin cậy.
Hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ còn yếu kém, lỏng lẻo. Nhiều ngân
hàng còn chưa quan tâm đến hướng dẫn quy trình nghiệp vụ, chỉ đạo quy
trình chưa nghiêm túc, kém hiệu lực, thậm chí có những sai phạm.
Thứ ba, sự yếu kém về trình độ nghiệp vụ cũng như tư cách đạo đức
của cán bộ tín dụng ngân hàng. Điều này được thể hiện:
Cán bộ tín dụng yếu kém về trình độ, năng lực, nghiệp vụ, không có
khả năng phân tích, thẩm định dự án, đánh giá khách hàng thiếu chính xác do
công tác thông tin vừa yếu, vừa thiếu. Ngân hàng không có đủ các số liệu
thống kê, các chỉ tiêu phân tích dẫn đến việc xác định sai hiệu quả của dự án,
thời hạn cho vay, thời hạn trả nợ không phù hợp với phương án kinh doanh.
Việc cán bộ tín dụng thiếu năng lực còn dẫn đến tình trạng không phát hiện
được những sai sót về mặt pháp lý trong hồ sơ xin vay của khách hàng, hay
định giá tài sản đảm bảo không hợp lý có thể gây ra những tổn thất cho ngân
hàng khi khách hàng không có khả năng trả nợ hoặc cố tình gán tài sản đó cho
ngân hàng. Sự yếu kém và lơi lỏng của cán bộ tín dụng trong quá trình giám
sát việc thực hiện các khoản vay cũng là một nguyên nhân rất quan trọng dẫn
Nguyễn Thị Ngọc Yến Kinh tế đầu tư 47D
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
đến việc không phát hiện kịp thời hiện tượng vốn vay không được sử dụng
đúng mục đích hoặc hành vi lừa đảo của khách hàng.
Bên cạnh vấn đề là thiếu và yếu năng lực, đôi khi một bộ phận cán bộ
ngân hàng yếu kém về tư cách đạo đức đã lợi dụng vị trí công tác để trục lợi,
tham ô, nhaanh hối lộ, cố tình cho vay sai nguyên tắc. Các cán bộ tín dụng

quá dễ dàng cho vay đối với khách hàng là bạn bè, người quen thân, hoặc do
lợi ích cá nhân mà bỏ qua các quy định cần thiết để đảm bảo an toàn. Cán bộ
quản lý đôi khi vì lợi ích cá nhân hay vì lợi ích của một nhóm tập thể, trong
công tác điều hành đã vô tình tạo điều kiện, kẽ hở cho loại rủi ro đạo đức ở
cán bộ phát triển. Chẳng hạn khi nhà quản lý hay bộ phận nhóm cán quản lý
đã có quan hệ lợi ích với khách hàng, mặc dù điều kiện vay vốn có thể chưa
hội tụ đủ, thậm chí không đủ điều kiện và đã được cán bộ thẩm định ghi rõ
nguyên nhân trong báo cáo thẩm định là không duyệt cho vay. Thông thường
những khoản vay đó sẽ không được phê duyệt, nhưng vì một lý do tế nhị nào
đó, nhà quản lý đã bằng cách này hay cách khác, hướng dẫn khách hàng hợp
thức hóa hồ sơ, thậm chí còn yêu cầu cán bộ tín dụng, cán bộ thẩm định phải
thực hiện theo ý kiến chỉ đạo ( trên thực tế thì rất ít cán bộ có thể bảo vệ ý
kiến ban đầu của mình).
Do đó, rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi, là khách quan. Nhiều
quan điểm nhất trí rằng: rủi ro tín dụng là bạn đường trong kinh doanh, có thể
đề phòng hoặc hạn chế chứ không thể loại trừ.
Sự tiếp cận các yếu tố, nguyên nhân gây rủi ro trên đây giúp chúng ta
nhìn nhận một cách đầy đủ, toàn diện, khách quan hơn, từ đó có được đề xuất
phòng ngừa, giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh của ngân hàng thương mại
một cách hữu ích, thiết thực hơn.
1.2.3. Các dấu hiệu phản ánh rủi ro tín dụng.
Nguyễn Thị Ngọc Yến Kinh tế đầu tư 47D
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Rủi ro tín dụng thường khó mà xảy ra qua một đêm, do vậy mà nó
thường có một vài dấu hiệu báo động. Có những dấu hiệu biểu hiện mờ nhạt,
có dấu hiệu biểu hiện rõ ràng. Ngân hàng cần có cách nhận biết ra những dấu
hiệu ban đầu của dự án có vấn đề và có hành động cần thiết nhằm ngăn ngừa
hoặc xử lý chúng. Nhưng các dấu hiệu này đôi khi được nhận ra qua một quá
trình chứ không hẳn là một thời điểm, do vậy cán bộ tín dụng cần phải biết

cách nhận ra chúng một cách có hệ thống. Sau khi khoản vay phát sinh và
được phân loại, cán bộ tín dụng luôn phải theo dõi, giám sát khoản vay để
nhận diện rủi ro thông qua các dấu hiệu cảnh báo sau:
1.2.3.1. Nhóm các dấu hiệu liên quan đến mối quan hệ với ngân hàng.
- Trì hoãn hoặc gây khó khăn, trở ngại đối với ngân hàng trong
quá trình kiểm tra theo định kỳ hoặc đột xuất tình hình sử dụng vốn vay, tình
hình tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng mà không có sự
giải thích minh bạch, thuyết phục.
- Có dấu hiệu không thực hiện đầy đủ các quy định, vi phạm pháp
luật trong quá trình quan hệ tín dụng.
- Chậm gửi hoặc trì hoãn gửi các báo cáo tài chính theo yêu cầu
mà không có sự giải thích minh bạch, thuyết phục.
- Không có các báo cáo hay dự đoán về lưu chuyển tiền tệ.
- Trong quá trình hạch toán của khách hàng, xu hướng các tài
khoản của khách hàng qua một quá trình sẽ cung cấp cho ngân hàng một số
dấu hiệu quan trọng như:
+ Phát hành séc quá bảo chứng hoặc bị từ chối.
+ Khó khăn trong thanh toán lương.
+ Sự giao động của các tài khoản mà đặc biệt là giảm sút số dư tài
khoản tiền gửi.
+ Tăng mức sử dụng bình quân trong các tài khoản.
Nguyễn Thị Ngọc Yến Kinh tế đầu tư 47D
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
+ Thường xuyên yêu cầu hỗ trợ nguồn vốn lưu động từ nhiều
nguồn khác nhau .
+ Không có khả năng thực hiện các hoạt động cắt giảm chi phí.
+ Gia tăng các khoản nợ thương mại hoặc không có khả năng
thanh toán nợ khi đến hạn…
- Các hoạt động cho vay:

+ Mức độ vay thường xuyên gia tăng.
+ Thanh toán chậm các khoản nợ gốc và lãi.
+ Yêu cầu các khoản vay vượt quá nhu cầu dự kiến.
+ Xuất hiện nợ quá hạn do khách hàng không có khả năng hoàn trả
hoặc khách hàng không muốn trả nợ hoặc do việc tiêu thụ hàng, thu hồi công
nợ chậm hơn dự tính.
+ Tài sản đảm bảo không đảm bảo đủ tiêu chuẩn, giá trị tài sản bị
giảm sút so với định giá khi cho vay. Có dấu hiệu tài sản đã cho người khác
thuê, bán hay trao đổi hoặc đã biến mất, không còn tồn tại.
- Phương thức tài chính:
+ Sử dụng nhiều các tài khoản ngắn hạn tài trợ cho các hoạt động
phát triển dài hạn.
+ Chấp nhận sử dụng các nguồn tài trợ đắt nhất. Ví dụ: thường
xuyên sử dụng dịch vụ chiết khấu các tài khoản phải trả.
+ Giảm các khoản phải thu và tăng các khoản phải trả.
+ Các hệ số thanh toán phát triển theo chiều hướng xấu.
+ Có biểu hiện giảm vốn điều lệ.
+ Có dấu hiệu tìm kiếm sự tài trợ nguồn vốn lưu động từ nhiều
nguồn khác, đặc biệt từ đối thủ cạnh tranh của ngân hàng.
Nguyễn Thị Ngọc Yến Kinh tế đầu tư 47D
14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
+ Có dấu hiệu cho thấy khách hàng trông chờ các nguồn thu nhập
bất thường khác không phải từ hoạt động sản xuất kinh doanh chính hoặc từ
hoạt động được đề xuất trong phương án vay vốn để đáp ứng các nghĩa vụ
thanh toán.
1.2.3.2. Nhóm các dấu hiệu liên quan đến phương pháp quản lý của khách hàng.
Cũng như nhóm các dấu hiệu liên quan tới mối quan hệ với ngân hàng,
nhóm các dấu hiệu này có tác động trực tiếp tới chất lượng khoản vay nhưng
với tốc độ chậm hơn. Các dấu hiệu này xuất phát từ chính hoạt động sản xuất

kinh doanh của dự án đầu tư và không dễ nhận diện nếu thiếu sự quản lý chặt
chẽ, sâu sát của cán bộ tín dụng. Nó cũng đòi hỏi các giải pháp và chiến lược
xử lý có tính dài hạn hơn. Biểu hiện cụ thể:
- Có chênh lệch lớn giữa doanh thu hay dòng tiền thực tế so với
mức dự kiến ban đầu khi lập dự án.
- Những thay đổi bất lợi trong cơ cấu vốn, tỷ lệ thanh khoản hay
mức độ hoạt động của dự án.
- Xuất hiện ngày càng nhiều các khoản chi phí bất hợp lý như sự
gia tăng đột biến trong chi phí quảng cáo, tiếp khách, tập trung quá mức chi
phí để gây ấn tượng như thiết bị văn phòng hiện đại, phương tiện giao thông
đắt tiền…
- Thay đổi thường xuyên cơ cấu tổ chức của hệ thống quản trị
hoặc ban điều hành.
- Xuất hiện bất đồng và mâu thuẫn trong quản trị điều hành, tranh
chấp trong quá trình quản lý.
- Có dấu hiệu phát hiện ra quá trình khảo sát, thẩm định dự án sai
dẫn đến việc đầu tư dự án không hiệu quả.
Nguyễn Thị Ngọc Yến Kinh tế đầu tư 47D
15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Lập kế hoạch xác định mục tiêu kém, xuất hiện các hành động
nhất thời, không có khả năng đối phó với những thay đổi.
- Việc lập kế hoạch những người kế cận không đầy đủ.
- Quản lý có tính gia đình: có biểu hiện thiếu tin tưởng vào những
người quản lý không thuộc gia đình, cho thành viên gia đình chưa được đào
tạo, huấn luyện đầy đủ đảm đương vị trí then chốt.
- Đối với khách hàng là tư nhân cá thể, có dấu hiệu của người vay
bị bệnh kéo dài hoặc chết.
1.2.3.3. Nhóm các dấu hiệu liên quan đến các ưu tiên trong kinh doanh.
- Xuất hiện dấu hiệu hội chứng hợp đồng lớn: sẵn sàng từ bỏ các

hợp đồng có giá trị nhỏ và vừa nhưng có khả năng thu được tỷ suất lợi nhuận
cao để tìm kiếm các hợp đồng có giá trị lớn với các bạn hàng có “tên tuổi” dù
lợi nhuận thu về có khả năng đạt thấp hơn, sẵn sàng cắt giảm lợi nhuận để đạt
được các hợp đồng lớn, theo đuổi chiến lược “mượn thương hiệu”, “nước nổi
thuyền nổi”.
- Xuất hiện dấu hiệu hội chứng sản phẩm đẹp: mải mê theo đuổi
một sản phẩm không thích hợp về thời gian và năng lực hiện tại mà không
chú đến các yếu tố khác.
- Do áp lực nội bộ dẫn tới tung ra thị trường các sản phẩm dịch vụ
quá sớm khi chưa hội tụ đủ các điều kiện chín muồi hoặc đặt ra các hạn mức
thời gian kinh doanh, doanh số không thực tế, tạo mong đợi trên thị trường
không đúng lúc.
1.2.3.4. Nhóm các dấu hiệu liên quan đến các vấn đề về kỹ thuật thương mại.
- Khó khăn trong phát triển sản phẩm, dịch vụ mới.
- Những thay đổi từ chính sách của Nhà nước, đặc biệt là tác động
của các chính sách thuế, xuất nhập khẩu; thay đổi các biến số kinh tế vĩ mô: tỷ
giá, lãi suất, thay đổi công nghệ kỹ thuật sản xuất, thị hiếu tiêu dùng, mất nhà
Nguyễn Thị Ngọc Yến Kinh tế đầu tư 47D
16
Website: Email : Tel : 0918.775.368
cung ứng hoặc khách hàng lớn, thêm đối thủ cạnh tranh tác động bất lợi đến
chiến lược và kế hoạch sản xuất, kinh doanh của khách hàng.
- Thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh xảy ra.
- Sản phẩm của khách hàng mang tính thời vụ cao.
1.2.3.5. Nhóm các dấu hiệu về xử lý thông tin tài chính, kế toán của khách hàng.
- Sự gia tăng không cân đối về tỷ lệ nợ thường xuyên.
- Khả năng tiền mặt giảm.
- Tăng doanh số bán nhưng lãi giảm hoặc không có.
- Các tài khoản hạch toán vốn điều lệ không khớp.
- Những thay đổi về tỷ lệ lãi gộp và lãi ròng trên doanh số bán.

- Số khách hàng nợ tăng nhanh và thời gian thanh toán của các con
nợ được kéo dài.
- Hoạt động lỗ.
- Lập kế hoạch trả nợ mà nguồn vốn không đủ.
- Không hạch toán đúng tài sản cố định.,
- Làm đẹp bản cân đối bằng cách tạo ra những tài sản vô hình.
- Thường xuyên không đạt mức kế hoạch về sản xuất và bán hàng.
- Tăng giá trị quá cao thông qua việc tính lại tài sản.
- Phân bố nợ không thích hợp.
- Lệ thuộc vào sản phẩm bất thường để tạo ra lợi nhuận.
Trong tất cả các dấu hiệu đó, dấu hiệu rõ ràng và có ý nghĩa nhất là
chậm thanh toán các khoản vay và các khoản phải trả khác.
1.3. Quản lý rủi ro các dự án đầu tư tại ngân hàng.
Hoạt động tín dụng là quan trọng nhất trong ngân hàng thương mại, bao
gồm 2 mặt: Sinh lời và rủi ro. Phần lớn các thua lỗ của các ngân hàng là từ
hoạt động tín dụng. Song ở đây không có cách nào để loại trừ rủi ro tín dụng
Nguyễn Thị Ngọc Yến Kinh tế đầu tư 47D
17
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hoàn toàn mà phải quản lý thật cẩn thận. Đứng trước quyết định tài trợ vốn
cho các dự án, cán bộ ngân hàng phải cân nhắc mâu thuẫn giữa sinh lời và rủi
ro. Vì vậy, quản lý rủi ro tín dụng (đặc biệt là đối với cho vay các dự án đầu
tư) được coi là nội dung quản lý quan trọng của ngân hàng thương mại.
Khái niệm quản lý rủi ro tín dụng: “Quản lý rủi ro tín dụng là việc sử
dụng các biện pháp nghiệp vụ để kiểm soát chất lượng tín dụng, hạn chế hậu
quả xấu trong hoạt động tín dụng, giảm thiểu sự tổn thất không để hoạt động
ngân hàng lâm vào tình trạng đổ vỡ.”
1.3.1. Sự cần thiết phải quản lý rủi ro các dự án đầu tư.
Rủi ro đối với cho vay các dự án đầu tư là rủi ro phức tạp nhất trong
hoạt động ngân hàng. Nó có thể xảy ra ở bất cứ nơi đâu và bất kỳ khi nào.

1.3.1.1. Ảnh hưởng của rủi ro tới nền kinh tế.
Trước tiên, rủi ro xảy ra làm cho ngân hàng chậm hoặc không có khả
năng thu hồi vốn để tiếp tục cho vay. Vì vậy rủi ro sẽ làm giảm vòng quay sử
dụng vốn của ngân hàng, giảm khả năng cung cấp vốn và làm chậm tốc độ
lưu chuyển vốn trong nền kinh tế. Kết quả là sản xuất bị đình đốn, nền kinh tế
không phát triển được, xã hội bị rối loạn.
Sau đó, nếu việc quản lý rủi ro của các tổ chức tín dụng không tốt sẽ
làm ảnh hưởng tới khả năng thanh khoản của ngân hàng. Nếu tình trạng này
kéo dài đến một mức độ nào đó nó sẽ là một trong những nguyên nhân cơ bản
dẫn đến đỗ vỡ, phá sản của tổ chức tín dụng đó và lớn hơn là sự đổ vỡ dây
chuyền của các tổ chức tín dụng mà hậu quả của nó dẫn đến khủng hoảng
kinh tế, tài chính. Điều này không chỉ diễn ra ở một quốc gia mà nó còn lan
truyền đến nhiều nước, nhiều khu vực trên toàn thế giới. Nó không chỉ là sự
khủng hoảng về kinh tế, nó còn dẫn đến sự khủng hoảng về chính trị. VD:
khủng hoảng ở Anbani năm 1997, khủng hoảng ở Thái Lan và khu vực Đông
Nam Á 1997.
Nguyễn Thị Ngọc Yến Kinh tế đầu tư 47D
18
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.3.1.2. Ảnh hưởng của rủi ro tới bản thân ngân hàng cấp tín dụng.
Hoạt động tín dụng là hoạt động mang lại nguồn thu nhập chủ yếu cho
ngân hàng và nó quyết định sự tồn tại cũng như sự phát triển của ngân hàng.
Khi rủi ro xảy ra đối với các dự án đầu tư, trước tiên nó sẽ làm gây ra
những khoản nợ khó thu hồi, vốn của ngân hàng sẽ không thể quay vòng, lãi
không thể thu. Mặt khác, khi có quá nhiều các khoản nợ khó đòi sẽ phát sinh
các khoản chi phí phát sinh như giám sát, thu nợ… Bên cạnh đó, ngân hàng
vẫn phải trả lãi cho các khoản tiền huy động. Kết quả là lợi nhuận của ngân
hàng bị giảm sút.
Ngân hàng bao giờ cũng lên kế hoạch cân đối giữa dòng tiền ra và dòng
tiền vào tại các thời điểm được xác định sẵn trong tương lai. Khi các khoản vay

không thu hồi được như kế hoạch sẽ dẫn đến sự mất cân đối, gây ra sự suy yếu và
hạn chế cho ngân hàng khi đến hạn thanh toán cho các khoản tiền ra. Nếu tình
trạng mất khả năng chi trả của ngân hàng diễn ra quá nhiều lần, hay những thông
tin về rủi ro tín dụng của nội bộ ngân hàng bị rò rỉ ra bên ngoài thì uy tín của ngân
hàng bị giảm sút. Điều đó tất yếu sẽ dẫn đến khả năng cạnh tranh của ngân hàng
cũng yếu đi, do đó việc huy động tiền gửi sẽ gặp nhiều khó khăn, việc thiết lập các
giao dịch với các doanh nghiệp và các ngân hàng khác cũng sẽ không được thuận
lợi. Uy tín đối với khách hàng là một tài sản vô hình hết sức quý giá của ngân
hàng, một khi đã mất đi thì rất khó có thể lấy lại hoặc nếu có thì cũng phải tốn
nhiều tiền của cũng như thời gian.
Nếu mức độ rủi ro mà ngân hàng có thể chịu đựng được thì ngân hàng
có thể bù đắp bằng các quỹ dự phòng rủi ro hoặc vốn tự có, còn nếu rủi ro xảy
ra ở mức độ nghiêm trọng thì sự bù đắp của các quỹ dự phòng cũng không
thay đổi được tình hình. Thu nhập không thể bù đắp được chi phí, các dòng
tiền vào không thể cân đối với dòng tiền ra, khả năng thanh toán của ngân
hàng bị giảm sút dẫn đến rủi ro thanh toán, thậm chí gây phá sản nếu không
Nguyễn Thị Ngọc Yến Kinh tế đầu tư 47D
19
Website: Email : Tel : 0918.775.368
có sự can thiệp kịp thời của Ngân hàng Nhà nước. VD: ngân hàng Đông Nam
Á năm 2001.
Như vậy, rủi ro khi cho vay các dự án đầu tư xảy ra dù ở mức độ nào
cũng gây ảnh hưởng tới sự phát triển của ngân hàng nói riêng và sự tăng
trưởng của nền kinh tế nói chung. Vì vậy, quản lý rủi ro khi cho các dự án đầu
tư vay vốn không chỉ là trách nhiệm riêng của ngân hàng mà là của toàn nền
kinh tế. thực hiện các biện pháp quản lý rủi ro phù hợp sẽ làm giảm tổn thất
cho ngân hàng cũng như nền kinh tế, lành mạnh hóa hệ thống tài chính ngân
hàng, tăng cường sức cạnh tranh, tạo điều kiện cho nền kinh tế tăng trưởng.
1.3.2. Nội dung quản lý rủi ro.
Quy trình quản lý rủi ro chung:

1.3.2.1. Phát hiện rủi ro.
Đây là công việc mang tính thiết yếu, quan trọng bởi nếu nó được làm
tốt thì các bước tiếp theo của nội dung quản lý rủi ro mới được tiến hành, mới
đạt kết quả tốt. Việc phát hiện rủi ro phải được tiến hành xem xét một cách
Nguyễn Thị Ngọc Yến Kinh tế đầu tư 47D
Phát hiện rủi ro
Đánh giá rủi ro
Quản trị rủi ro
Tránh
rủi ro
Hạn chế
rủi ro
Tự bảo
hiểm
Phong tỏa
rủi ro
Chuyển
giao rủi ro
20
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tổng thể đối với mọi dự án đầu tư nói chung và trên mọi giai đoạn, mọi khía
cạnh của dự án đầu tư dựa trên mọi dấu hiệu có liên quan.
Nguồn thông tin mà ngân hàng có thể dựa vào để phát hiện rủi ro là:
– Thông tin từ hồ sơ dự án.
– Thông tin ngân hàng tự thu thập, điều tra và tổng hợp được từ việc
phỏng vấn chủ đầu tư, kiểm tra thực tế dự án hay khai thác thông tin từ trung
tâm thông tin phòng ngừa rủi ro của Ngân hàng Nhà nước.
– Thông tin từ tổ chức tín dụng khác có quan hệ với khách hàng, thông
tin từ báo chí, dư luận, internet và các cơ quan quản lý khác.
1.3.2.2. Đánh giá rủi ro của một dự án đầu tư.

Tìm hiểu, đo lường và phân tích là những bước tiếp theo sau khi đã
phát hiện được dự án đầu tư có những nguy cơ rủi ro để đánh giá rủi ro. Trên
thực tế những bước này có liên kết khá chặt chẽ với nhau và thường được gộp
chung lại. Mục tiêu của các bước này là giúp cho bộ máy quản trị rủi ro hiểu
chính xác và nhất quán nguy cơ rủi ro đã xác định, phân tích rõ nguyên nhân
của rủi ro và quan trọng nhất là lượng hóa được mức độ rủi ro có thể xảy ra
cho ngân hàng.
Để xác định mức độ rủi ro của một dự án đầu tư, có thể áp dụng một số
mô hình cụ thể đánh giá rủi ro.
* Mô hình chất lượng 6C:
- Character ( tư cách chủ đầu tư):
Tiêu chuẩn này thể hiện tinh thần trách nhiệm, tính trung thực, mục
đích rõ ràng và thiện chí của chủ đầu tư trong việc đầu tư thực hiện dự án
cũng như vay nợ ngân hàng.
Cán bộ tín dụng phải làm rõ mục đích thực hiện dự án cũng như mục
đích xin vay vốn của chủ đầu tư có phù hợp với chính sách pháp luật của nhà
nước cũng như chính sách tín dụng hiện hành của ngân hàng hay không, đồng
thời phải xem xét về lịch sử hoạt động kinh doanh, lịch sử đi vay và trả nợ
Nguyễn Thị Ngọc Yến Kinh tế đầu tư 47D
21
Website: Email : Tel : 0918.775.368
của khách hàng. Ngân hàng cần thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau
để đánh giá được chính xác. Thậm chí khi mục đích thực hiện dự án và mục
đích xin vay tốt thì cán bộ tín dụng cũng phải xem xét chủ đầu tư có tỏ thái độ
trách nhiệm trong việc sử dụng vốn vay, có trả lời các câu hỏi một cách trung
thực, có thiện chí và nỗ lực hết sức để dự án hoạt động có hiệu quả và hoàn
trả khoản vay đúng hạn. Nếu phát hiện chủ đầu tư giả dối trong kế hoạch sử
dụng và trả nợ vốn vay như đã thỏa thuận thì cán bộ tín dụng phải từ chối cho
vay, nếu không thì khả năng xảy ra rủi ro sẽ là rất cao.
- Capacity ( năng lực của người vay):

Cán bộ tín dụng phải chắc chắn rằng người xin vay phải có đủ năng
lực, hành vi cũng như năng lực pháp lý để thực hiện dự án cũng như ký kết
hợp đồng. Ngân hàng phải căn cứ vào các giấy phép thực hiện của dự án.
- Cash (thu nhập của dự án):
Dự án đầu tư có khả năng tạo ra đủ tiền để trả nợ hay không? Đây là
một câu hỏi mà ngân hàng luôn tìm cách trả lời. Nhìn chung, dự án có ba
nguồn để tạo tiền đó là: dòng tiền từ doanh thu bán hàng, dòng tiền từ phát
hành chứng khoán và dòng tiền từ bán hàng thanh lý tài sản. Bất cứ nguồn thu
nào từ ba nguồn thu trên đều có thể dùng để trả nợ vay. Tuy nhiên khi xem
xét khả năng trả nợ của dự án người ta thường ưu tiên nguồn thứ nhất hơn cả
và coi đây là nguồn thu đầu tiên và căn bản để trả nợ. Có sự ưu tiên này vì
việc bán thanh lý tài sản có thể làm cho năng lực tài chính của dự án đầu tư
yếu đi, khiến cho ngân hàng và chủ nợ ít được đảm bảo.
- Collateral ( tài sản đảm bảo):
Một khoản tín dụng được đảm bảo bằng tài sản cầm cố hay thế chấp sẽ
gắn chặt trách nhiệm và nghĩa vụ trả nợ của người đi vay. Khi rủi ro tín dụng
xảy ra, dự án không trả được nợ thì tài sản cầm cố, tài sản thế chấp sẽ trở
thành nguồn thu nợ thứ 2 của ngân hàng. Chính vì vai trò quan trọng này của
nó mà tài sản thế chấp, cầm cố phải đáp ứng được những yêu cầu nhất định.
Nguyễn Thị Ngọc Yến Kinh tế đầu tư 47D
22
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Ngoài các tài sản tự có của chủ đầu tư đem cầm cố, thế chấp, ngân hàng còn
cho phép dự án đầu tư được dùng tài sản hình thành từ vốn vay để thế chấp,
cầm cố. Khi đó vốn tự có của chủ đầu tư tham gia vào dự có thể chỉ là 15% đã
được vay vốn thực hiện dự án. Một tỷ lệ rất thấp nên dễ nảy sinh tâm lý chủ
quan, rủi ro cao cho ngân hàng. Vì vậy, khi đánh giá giá trị tài sản bảo đảm,
cán bộ tín dụng phải đặc biệt chú ý đến những yếu tố nhạy cảm như: tuổi thọ,
điều kiện và mức độ chuyên dụng của tài sản. Khía cạnh công nghệ cũng phải
đặc biệt chú ý tới bởi nếu tài sản của người vay có công nghệ lạc hậu thì giá

trị sẽ bị giảm sút rất nhiều và rất khó tìm được người mua khi công nghệ lại
thay đổi hàng ngày.
- Conditions ( các điều kiện).
Các điều kiện này bao gồm điều kiện bên trong ( chính sách tín dụng
từng thời kỳ của ngân hàng, việc mua sắm, đầu tư, chính sách lương
thưởng…) và các điều kiện bên ngoài ( định hướng phát triển xã hội của Nhà
nước, chính sách thuế, tiêu chuẩn về công nghệ môi trường…)
* Mô hình điểm số Z.
Mô hình này do nhà kinh tế E.I.Altman dùng để cho điểm tín dụng đối
với các doanh nghiệp và dự án vay vốn:
Z = 1,2 X
1
+ 1,4 X
2
+ 3,3 X
3
+ 0,6 X
4
+ 1,0 X
5

Trong đó:
X
1
= Vốn lưu động / Tổng tài sản.
X
2
= Lợi nhuận chưa chia / Tổng tài sản.
X
3

= Lợi nhuận trước thuế và lãi / Tổng tài sản.
X
4
= Giá thị trường của tổng tài sản / Giá trị hạch toán của tổng nợ.
X
5
= Doanh thu / Tổng tài sản.
Theo mô hình này, nếu trị số Z càng cao thì dự án có xác suất vỡ nợ
càng thấp. Theo mô hình của Altmat:
Nếu Z > 2,675 ---> Mức độ rủi ro thấp.
Nguyễn Thị Ngọc Yến Kinh tế đầu tư 47D
23
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Nếu 1,8 < Z < 2,675 ---> Mức độ rủi ro trung bình.
Nếu Z < 1,8 ---> Mức độ rủi ro cao.
Mô hình này có ưu điểm là giúp nhanh chóng định lượng được rủi ro
của doanh nghiệp cũng như dự án. Tuy nhiên, bên cạnh đó, mô hình này cũng
có những hạn chế:
- Chỉ cho phép phân biệt dự án, khách hàng “ vỡ nợ”, và “ không
vỡ. Trong thực tế vỡ nợ được chia thành nhiều loại. Vì vậy, để có thể phân
biệt chính xác dự án, doanh nghiệp thuộc loại nào thì mô hình cần có nhiều
thang điểm hơn tương ứng với các mức vỡ nợ khác nhau.
- Trong công thức không tính đến nhiều yếu tố rất quan trọng và
ảnh hưởng đáng kể tới mức độ rủi ro của dự án nhưng khó lượng hóa.
1.3.2.3. Quản trị rủi ro.
Các biện pháp được ngân hàng dùng để quản trị rủi ro các dự án đầu tư là:
– Tránh rủi ro: không cho vay các dự án đầu tư cảm thấy khả năng
rủi ro cao, tính khả thi thấp.
– Hạn chế rủi ro:
+ Thực hiện các quy định về an toàn tín dụng được ghi trong Luật

các tổ chức tín dụng và trong các Nghị định của Ngân hàng Nhà nước. Các
quy định nêu rõ trường hợp cấm các ngân hàng không được tài trợ, điều kiện
ngân hàng phải thực hiện khi tài trợ.
+ Xác định danh mục các dự án tài trợ với mức độ rủi ro khác nhau.
Các loại khách hàng khác nhau, các đối tượng cho vay khác nhau, các loại dự
án khác nhau … sẽ có rủi ro khác nhau.
+ Xây dựng chính sách tín dụng và quy trình phân tích tín dụng.
Hoạt động tín dụng liên quan tới nhiều bộ phận trong ngân hàng, đòi hỏi phải
có sự kết hợp và chỉ đạo chung thông qua chính sahcs, quy tắc và kiểm soát
chung. Các chính sách tín dụng nhằm hạn chế rủi ro như: Chính sách tài sản
đảm bảo, chính sách đồng tài trợ…Quy trình phân tích tín dụng thể hiện
Nguyễn Thị Ngọc Yến Kinh tế đầu tư 47D
24
Website: Email : Tel : 0918.775.368
những nội dung mà cán bộ tín dụng phải thực hiện khi cho vay nhằm hạn chế
rủi ro như phân tích tình hình sản xuất kinh doanh, thẩm định dự án vay vốn,
lịch sử của người vay, mục đích vay, kiểm soát trong khi cho vay….
+ Xác định dấu hiệu của khoản cho vay có vấn đề, giới hạn các
khoản tín dụng và đa dạng hóa.
+ Quản lý các dự án đầu tư cho vay vốn, hỗ trợ hoạt động các dự
án như cho vay thêm, gia hạn nợ, giảm lãi …
+ Quản lý nợ quá hạn, nợ khó đòi, các khoản nợ có vấn đề. Rủi ro
là tất yếu của quá trình kinh doanh. Do vậy, ngân hàng luôn xây dựng chính
sách sống chung cùng với rủi ro: Hạn chế rủi ro, chấp nhận rủi ro, khai thác
hoặc thanh lý nợ quá hạn, nợ khó đòi hoặc nợ có vấn đề.
– Tự bảo hiểm: Mua bảo hiểm tín dụng. Ngân hàng có thể mua bảo
hiểm cho các khoản cho vay của mình tại các công ty bảo hiểm để trường hợp
xấu nhất là khi xảy ra rủi ro thì người chịu rủi ro là công ty bảo hiểm chứ
không phải ngân hàng. Ngoài ra ngân hàng còn yêu cầu dự án tham gia đầy
đủ các loại bảo hiểm. Đây vừa là cách để các dự án giảm thiểu rủi ro cho

mình và cũng là cho chính ngân hàng.
– Phong tỏa rủi ro.
– Chuyển giao rủi ro: Bán nợ. Ngân hàng khi thấy các dự án không
còn có khả năng thu hồi nợ thì có thể bán khoản nợ đó cho các công ty mua
bán và quản lý nợ.
Nguyễn Thị Ngọc Yến Kinh tế đầu tư 47D
25

×