Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

Một số giải pháp giải quyết việc làm của tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2009-2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (371.77 KB, 62 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Trong thời gian qua cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước thì quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng diễn ra mạnh mẽ, từ
khu vực nông nghiệp sang khu vực phi nông nghiệp, trong đó đáng chú ý là
sự phát triển của các ngành công nghiệp chế tạo, láp ráp sản phẩm linh kiện
điện tử, công nghiệp chế biến. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế tất yếu
dẫn tới quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động.
Thực tế cho thấy giai đoạn vưa qua sự xuất hiện ngày càng nhiều các
khu công nghiệp, doanh nghiệp quy mô lớn, doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh
nghiệp liên doanh 100% vốn đầu tư nước ngoài và hàng ngàn doanh nghiệp
hoạt động theo quy mô hộ gia đình khác… đã và đang không ngừng thu hút
một bộ phận không nhỏ lao động trong và ngoài tỉnh tìm đến tỉnh Vĩnh Phúc
dẫn tới hiện tượng giao lưu và mở rộng thị trường lao động của tỉnh. Sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng dẫn tới việc chuyển đổi mục đích
sử dụng đất, đất nông nghiệp bị thu hẹp lại. Người dân tại các vùng nông thôn
của tỉnh phải di chuyển đến các khu công nghiệp, khu đô thị để kiếm việc
làm. Thị trường lao động của tỉnh đang chịu áp lức lớn về tăng dân số và tăng
cung lao động. Tình trạng người lao động mất việc và không có việc làm đang
là vấn đề cấp thiết nhất là trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế như hiện nay.
Khi mà các doanh nghiệp luôn phải đối mặt với những khó khăn tài chính
cũng như thị trường tiêu thụ. Giải pháp mà các doanh nghiệp hay sử dụng là
cắt giảm nhân công làm cho tình trạng thất nghiệp của tỉnh ngày càng trở nên
trầm trọng hơn. Những người công nhân mất việc, những người lao động
chưa có việc đang đứng trước những khó khăn tìm được việc làm phù hợp.
Lê Thị Hiếu Lớp: Kế hoạch 47B
2. Mục đích nghiên cứu
Phân tích thực trạng giải quyết việc làm giai đoạn 2006-2008 và đưa ra
các giải pháp giải quyết việc làm cho lao động tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2010.
3. Kết cấu dự kiến của đề tài
Gồm 3 chương:


Chương I: Một số vấn đề cơ bản về việc làm và tạo việc làm
Chương II: Đánh giá thực trạng giải quyết việc làm cho người lao động
của tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2009-2010
Chương III: Một số giải pháp giải quyết việc làm của tỉnh Vĩnh Phúc
giai đoạn 2009-2010
4. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu của chuyên đề
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn
2006-2008
Phương pháp nghiên cứu: Chuyên đề sử dụng những phương pháp
nghiên cứu sau:
Phương pháp duy vật biện chứng
Phương pháp tổng hợp và phân tích thống kê
Phương pháp phân tích thực chứng dựa trên những số liệu điều tra về
lao động việc làm của tỉnh đã được công bố
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành tốt bài chuyên đề thực tập này, tôi xin được gửi lời cảm
ơn tới giảng viên hướng dẫn Th.s Nguyễn Thị Hoa và các anh chị trên Viện
khoa học xã hội - động thương binh xã hội, đặc biệt là các anh chị thuộc trung
tâm nghiên cứu lao động nữ và giới thuộc viện khoa học xã hội - bộ lao động
thương binh xã hội đã nhiệt tình huớng dẫn và giúp đỡ tôi rất nhiều trong quá
trình nghiên cứu và hoàn thành chuyên đề thực tập này.
Lê Thị Hiếu Lớp: Kế hoạch 47B
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ VIỆC LÀM VÀ TẠO
VIỆC LÀM
I. VIỆC LÀM VÀ CƠ CẤU VIỆC LÀM
1. Khái niệm việc làm
Việc làm là mối quan tâm lớn nhất của mỗi quốc gia, của mọi người
dân. Nhìn chung các lý thuyết về việc làm, các học giả đều thống nhất rằng
một hoạt động được coi là việc làm khi đáp ứng được các yêu cầu sau:
Thứ nhất: đó là các hoạt động không bị pháp luật ngăn cấm

Thứ hai: hoạt động đó phải đem lại thu nhập cho người lao động hoặc
tạo điều kiện cho người lao động tham gia để tạo ra thu nhập hoặc giảm chi phí
trong gia đình hoặc tạo ra quyền có thể mang lại thu nhập trong tương lai.
Việc làm là những hoạt động cần thiết của người lao động, trong khuôn
khổ pháp luật cho phép và có thu nhập chính đáng cho bản thân, gia đình và
đóng góp cho sự phát triển của xã hội. Hoạt động đem lại thu nhập có thể
lượng hóa hoặc cụ thể hóa dưới dạng như: người lao động được nhận tiền
công, tiền lương bằng tiền hoặc hiện vật từ người sử dụng lao động, tự đem
lại thu nhập cho bản thân thông qua các hoạt động kinh tế mà bản thân người
lao động làm chủ, đem lại thu nhập cho hộ gia đình mà bản thân người thực
hiện công việc đó là thành viên của hộ gia đình, do gia đình quản lý. Như vậy
một hoạt động được coi là việc làm hay không phải được xem xét chủ yếu
dựa trên tính hợp pháp và kết quả hoạt động đó.
Theo các nhà kinh tế học lao động thì việc làm được hiểu là sự kết hợp
giữa sức lao động với tư liệu sản xuất nhằm biến đổi tư liệu lao động theo mục
đích của con người. Theo quan điểm này việc làm có những đặc trưng sau:
Trước hết việc làm là sự biểu hiện quan hệ của hai yếu tố sức lao động
và tư liệu sản xuất(C)
Lê Thị Hiếu Lớp: Kế hoạch 47B
Hai là lấy lợi ích( vật chất, tinh thần) mà các hoạt động đem lại cho cá
nhân, xã hội và không bị ngăn cấm để xem xét hoạt động đó có được coi là
việc làm hay không. Trạng thái phù hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất
được thể hiện bằng công thức sau:
VL= C/L
Trong đó: VL: Việc làm
C : Tư liệu sản xuất
V : Lượng lao động
Còn theo bộ luật lao động nước ta, khái niệm việc làm được xác định
là: “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm
đều dược thừa nhận là việc làm”.

2. Cơ cấu việc làm
Cơ cấu việc làm là sự tương quan giữa các bộ phận hợp thành tổng thể
việc làm trong nền kinh tế, thể hiện mối quan hệ hữu cơ và sự tác động qua lại
về số lượng và chất lượng giữa các bộ phận việc làm với nhau.
Xu hướng chuyển dịch của cơ cấu việc làm phản ánh sự thay đổi về
chất, là dấu hiệu đánh giá, so sánh các giai đoạn với nhau. Cơ cấu việc làm
biểu hiện dưới nhiều dạng khác nhau như: cơ cấu việc làm theo ngành, cơ cấu
việc làm theo khu vực, Cơ cấu việc làm theo thành phần kinh tế, cơ cấu việc
làm theo khu vực thể chế... Trong phạm vi nghiên cứu của chuyên đề, tôi chỉ
đi sâu phân tích hai loại cơ cấu là cơ cấu việc làm theo ngành và cơ cấu việc
làm theo khu vực.
Cơ cấu việc làm theo ngành: Cơ cấu việc làm theo ngành là sự tương
quan giữa việc làm trong các ngành với nhau, thể hiện mối quan hệ hữu cơ và
mối quan hệ qua lại cả về số và chất lượng giữa việc làm của các ngành với
nhau.
Lê Thị Hiếu Lớp: Kế hoạch 47B
Cơ cấu việc làm theo ngành bao gồm ba bộ phận cấu thành, bộ phận
thứ nhất là việc làm trong ngành nông nghiệp- đó là các việc làm được tạo ra
trên cơ sở các hoạt động sản xuất kinh doanh trong ngành nông lâm nghiệp
như: hoạt động sản xuất trong chăn nuôi, trồng trọt, trồng rừng và các hoạt
động kinh doanh dịch vụ phục vụ cho sản xuất nông lâm nghiệp. Bộ phận thứ
hai là việc làm trong ngành công nghiệp xây dựng- đó là các việc làm được
tạo ra trên cơ sở các hoạt động sản xuất kinh doanh trong ngành công nghiệp
xây dựng như: hoạt động khai thác và chế biến các nguồn tài nguyên thiên
nhiên sẵn có trong lòng đất, hoạt động gia công và chế biến sản phẩm có
nguồn gốc từ nông lâm nghiệp, hoạt động xây dựng trong các ngành xây dựng
và các dịch vụ phục vụ cho các hoạt động sản xuất trên. Bộ phận thứ ba là
việc làm trong ngành dịch vụ- đó là các việc làm được tạo ra trên cơ sở các
hoạt động kinh doanh thương mại, dịch vụ nhà hàng, du lịch, khách sạn…
Trong quá trình hoạt động sản xuất các ngành kinh tế có mối quan hệ

tác động qua lại, thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển dẫn tới việc làm giữa các
ngành kinh tế cũng có có mối quan hệ tác động qua lại, thúc đẩy lẫn nhau
cùng phát triển và hướng tới mục tiêu chung là tạo ra nhiều việc làm trong
nền kinh tế. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành là tăng nhanh tỷ trọng việc
làm trong ngành công nghiệp- xây dựng và dịch vụ và giảm dần tỷ trọng việc
làm trong ngành nông- lâm nghiệp.
Cơ cấu việc làm theo khu vực: Cơ cấu việc làm theo khu vực là sự
tương quan giữa việc làm theo khu vực với nhau, thể hiện mối quan hệ hữu cơ
và mối quan hệ qua lại cả về số lượng và chất lượng giữa việc làm trong khu
vực này với việc làm trong khu vực kia.
Nếu như cơ cấu việc làm theo ngành được hình thành trên cơ sở chuyên
môn hóa sản xuất thì cơ cấu việc làm theo khu vực lại được hình trên cơ sở
việc bố trí sản xuất theo không gian địa lý. Mỗi khu vực kinh tế là một bộ
Lê Thị Hiếu Lớp: Kế hoạch 47B
phận tổ hợp của nền kinh tế quốc dân, do đó sự khác nhau về điều kiện tự
nhiên, kinh tế, kết cấu hạ tầng và các điều kiện xã hội khác tạo cho mỗi khu
vực có những đặc thù, những thế mạnh riêng trong việc tạo ra việc làm cho
người lao động. Cơ cấu việc làm theo khu vực phản ánh thế mạnh của từng
khu vực, nó bao gồm hai bộ phận như sau: bộ phận thứ nhất là việc làm trong
khu vực nông thôn- đó là các việc làm được tạo ra chủ yếu dựa trên thế mạnh
sản xuất nông lâm nghiệp. Bộ phận thứ hai là việc làm trong khu vực thành
thị- đó là các việc làm được tạo ra chủ yếu dựa trên thế mạnh trong hoạt động
sản xuất công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Các bộ phận có mối quan hệ tác
động qua lại lẫn nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển, mối quan hệ này bao
hàm cả về số lượng và chất lượng.
3. Thất nghiệp và các hình thức thất nghiệp
3.1. Khái niệm thất nghiệp
Thất nghiệp là một hiện tượng kinh tế xã hội tồn tại trong nhiều chế độ
xã hội.
Thất nghiệp theo đúng nghĩa của từ là, mất việc làm hay là sự tách rời

sức lao động khỏi tư liệu sản xuất.
Một số quan niệm khác cho rằng thất nghiệp là hiện tượng gồm những
người mất thu nhập do không có khả năng tìm được việc làm, trong khi họ
còn trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, muốn làm việc và đã đăng
ký ở trung tâm môi giới nhưng chưa được giải quyết.
Theo tổ chức lao động quốc tế( ILO): thất nghiệp là tình trạng tồn tại
khi một số người trong lực lượng lao động muốn làm việc nhưng không thể
tìm được việc làm ở mức tiền lương đang thịnh hành.
Bên cạnh thất ngiệp còn tồn tại những người có việc làm không đầy đủ
hay còn gọi là thiếu việc làm, đó là những người đang có việc làm nhưng do
nguyên nhân nào đó họ không sử dụng hết thời gian lao động theo quy định
Lê Thị Hiếu Lớp: Kế hoạch 47B
hoặc làm những công việc có thu nhập thấp, không đủ sống, muốn tìm thêm
việc làm. Hiện tượng này tương đối phổ biến ở các nước đang phát triển như
Việt Nam.
3.2. Phân loại thất nghiệp
Thất nghiệp hữu hình: Thất nghiệp hữu hình là tình trạng thất nghiệp
xảy ra khi một bộ phận lực lượng lao động có khả năng và sẵn sàng làm việc
nhưng không tìm được việc làm. Đây là hình thức thất nghiệp mà ta có thể
nhìn thấy, hình thức thất nghiệp này chủ yếu xảy ra đối với lao động ở khu
vực thành thị, nơi hình thức lao động làm công ăn lương là chủ yếu.
Thất nghiệp trá hình: Hay còn gọi là thiếu việc làm là một trong những
đặc trưng cơ bản của của nền kinh tế nông nghiệp, chậm phát triển. Đây là
tình trạng xảy ra khi người lao động được sử dụng dưới mức khả năng mà
bình thường người lao động sẵn sàng làm việc, hay nói cách khác là tình trạng
sử dụng không hết thời gian lao động. Hình thức thất nghiệp này xảy ra đối
với cả lao động làm việc ở khu vực thành thị và nông thôn.
Trong khu vực thành thị hình thức thất nghiệp này tồn tại dưới các
dạng khác nhau như: làm việc với năng suất thấp, không góp phần tạo ra thu
nhập cho xã hội mà chủ yếu là tạo ra thu nhập đủ sống( nhiều khi dưới mức

sống tối thiểu). Trong khu vực nông thôn thất nghiệp trá hình chủ yếu tồn tại
dưới dạng thiếu việc làm. Nguyên nhân là do giới hạn của đất đai nông
nghiệp, do khu vực kinh tế phi nông nghiệp nông thông phát triển chậm và do
tính thời vụ của việc làm nông nghiệp. Tuy nhiên trong thời gian gần đây, ở
một số vùng nông thôn do lấy đất nông nghiệp để xây dựng các công trình
công cộng, phát triển công nghiệp và nhà ở nên đã xuất hiện tình trạng thất
nghiệp trá hình.
Lê Thị Hiếu Lớp: Kế hoạch 47B
Thất nghiệp tạm thời: hay còn gọi là thất nghiệp cơ cấu, là hình thức
thất nghiệp trong thời gian chuyển đổi nghề nghiệp, thay đổi nơi làm việc vì
muốn tìm việc làm tốt hơn, sinh viên ra trường đi tìm việc.
Thất nghiệp tự nguyện: là hình thức thất nghiệp ẩn náu trong những
người làm nội trợ trong gia đình do các mức tiền công thấp không đủ bù đắp,
thường là phụ nữ.
II. TẠO VIỆC LÀM VÀ MỘT SỐ NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN GIẢI
QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG
1. Tạo việc làm
Thực chất của việc làm là trạng thái phù hợp giữa hai yếu tố sức lao
động và tư liệu sản xuất bao gồm cả về mặt số lượng và chất lượng. Tuy
nhiên đó mới chỉ là những điều kiện cần thiết để có được việc làm. Hay nói
cách khác những điều kiện về tư liệu sản xuất và sức lao động mới tồn tại như
một khả năng. Muốn biến khả năng thành hiện thực cần phải có môi trường
thuận lợi cho sự kết hợp hai yếu tố đó. Việc tạo ra môi trường là vai trò quản
lý nhà nước trong lĩnh vực việc làm. Thực tế chỉ ra rằng, khi khả năng quản lý
nhà nước yếu kém nhiều việc làm được tạo ra nhưng không hiệu quả, năng
suất thấp.
Do vậy, tạo việc làm là một quá trình tạo ra môi trường hình thành
các chỗ làm việc và sắp xếp người lao động phù hợp với chỗ làm việc để
có các việc làm chất lượng, đảm bảo nhu cầu của cả người lao động và
người sử dụng lao động đồng thời phải đáp ứng được mục tiêu phát triển

đất nước.
Hình thành môi trường cho sự kết hợp các yếu tố sức lao động và tư
liệu sản xuất: Môi trường cho sự kết hợp các yếu tố bao gồm hệ thống các
chính sách phát triển kinh tế xã hội, chính sách khuyến khích thu hút người
Lê Thị Hiếu Lớp: Kế hoạch 47B
lao động, chính sách bảo hộ sản xuất, chính sách thất nghiệp, chính sách
khuyến khích và thu hút vốn đầu tư, hệ thống các dịch vụ việc làm…
Thực hiện các giải pháp để phát triển việc làm và việc làm có hiệu quả
cao: Các giải pháp này có thể kể đến các nhóm giải pháp về quản lý và điều
hành, các biện pháp khai thác có hiệu quả công suất của máy móc thiết bị cải
tiến công nghệ, duy trì và nâng cao chất lượng của sức lao động, kinh nghiệm
quản trị kinh doanh của người sử dụng lao động…
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến tạo việc làm cho người lao động
2.1. Điều kiện tự nhiên
Điều kiện tự nhiên bao gồm vị trí địa lý, khí hậu thổ nhưỡng, đất đai…
có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội, trong đó có công tác tạo
việc làm của mỗi quốc gia, mỗi vùng, mỗi địa phương.
2.1.1. Vị trí địa lý:
Do đặc điểm tự nhiên mà mỗi địa phương đều nằm trên những vị trí
địa lý nhất định, từ đó mà có những đặc điểm khác biệt về khí hậu, thời tiết,
nhiệt độ, lượng gió, lượng mưa, bão lụt…ảnh hưởng đến điều kiện sản xuất,
kinh doanh, đặc biệt là sản xuất nông lâm ngư nghiệp vì thế nó có thể cho
phép mỗi địa phương hình thành một phương thức tổ chức sản xuất, lao động
khác nhau.
Những vùng có vị trí thuận lợi thì cây cối xanh tươi, bốn mùa hoa trái,
có các loại cây con hải sản hết sức đa dạng phong phú. Với điều kiện đất đai
màu mỡ con người có thể phát triển sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, công
nghiệp chế biến… xuất khẩu các mặt hàng đặc sản quý hiếm trên thị trường
quốc tế. Đây cũng chính là những lợi thế nhất định của mỗi địa phương trong
việc tạo ra công ăn việc làm thu hút người lao động.

Tuy nhiên có những vùng vị trí không thuận lợi sẽ ảnh hưởng xấu đến
lao động sản xuất: hạn hán, lũ lụt…những vùng địa hình chia cắt, giao thông
Lê Thị Hiếu Lớp: Kế hoạch 47B
không thuận lợi, vùng không chịu sự phát triển lan tỏa từ các vùng kinh tế lân
cận cũng gây khó khăn cho phát triển kinh tế, thu hút đầu tư giải quyết công
ăn việc làm.
2.1.2. Khí hậu
Ở mỗi vùng, địa phương, quốc gia có những đặc điểm tự nhiên ảnh
hưởng rất lớn tới khí hậu của mỗi quốc gia. Ngay trong một quốc gia những
vùng khác nhau cũng có khí hậu khác nhau. Nhiệt độ nóng lạnh, mưa gió bão
lụt, độ ẩm… là những đặc trưng cơ bản của khí hậu của mỗi vùng, miền, quốc
gia. Ở mỗi quốc gia khí hậu ảnh hưởng mang tính chất quyết định đến các vấn
đề kinh tế xã hội, khí hậu có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của dân cư, phát
triển hoạt động sản xuất kinh doanh. Đặc biệt khí hậu ảnh hưởng đến sự phát
triển của nông nghiệp, quyết định cây con mùa vụ, canh tác, năng suất cây
trồng… do đó khí hậu ảnh hưởng đến công ăn việc làm của người lao động.
Với những địa phương mà khí hậu ưu đãi có thể tạo ra nhiều công ăn
việc làm một cách dễ dàng qua việc phát triển nông, công nghiệp chế biến
bằng cách thâm canh tăng vụ, tạo ra nhiều ngành nghề mới gắn bó chặt chẽ
với nông nghiệp.
Tuy nhiên những địa phương có khí hậu không thuận lợi thường xuyên
hạn hán lũ lụt, mưa gió bất thường… như các tỉnh miền trung cũng gây không
ít khó khăn cho việc tổ chức sản xuất, làm giảm sút thậm chí cướp không
những thành quả lao động của mọi người. Vì vậy tổ chức tạo việc làm cho
người lao động ở các địa phương này gặp không ít khó khăn.
2.1.3. Đất đai, hầm mỏ, sông ngòi, núi non
Đất đai, hầm mỏ, sông ngòi núi non là những đối tượng lao động sẵn có
của thiên nhiên cho mỗi địa phương. Có thể nói đất đai, như William petty đã
viết “ lao động là cha và đất đai là mẹ của của cải”. Các nguồn tài nguyên này
Lê Thị Hiếu Lớp: Kế hoạch 47B

phong phú sẽ có cơ hội phát triển nhiều khu công nghiệp, trang trại nông lâm
nghiệp chiếm ưu thế của vùng.
Vai trò của đất đối với lao động việc làm cực kỳ quan trọng. Đất đai
giúp phát triển nông, lâm nghiệp và các ngành công nghiệp chế biến từ các
sản phẩm nông nghiệp; đất đai cho phép xây dựng các công trình xây dựng,
nhà ở, cụm công nghiệp. Từ đó gián tiếp tạo ra rất nhiều công việc khác nhau
cho con người.
Về tài nguyên dưới lòng đất, hầm mỏ cũng rất quan trọng với việc tạo
ra việc làm cho con người. Các loại khoáng sản dưới lòng đất như than đá,
vàng, thiếc, sắt nhôm… Giúp con người phát triển các ngành công nghiệp
khai thác, chế biến từ các sản phẩm khai thác, từ đó tạo nhiều việc làm cho
con người.
Các loại tài nguyên khác như sông ngòi, núi non cũng giúp con người
tạo ra nhiều công ăn việc làm bằng cách phát triển các ngành nghề khai thác,
nuôi trồng thủy sản, trồng cây công nghiệp…
Như vậy có thể nói những tiềm năng trên cho phép chúng ta tổ chức
phân công lao động tạo ra hàng trăm nghìn loại hình công việc khai thác từ
các lợi thế tài nguyên trên. Với các địa phương có các điều kiện ưu đãi về tài
nguyên thiên nhiên sẽ có cơ hội tạo ra nhiều việc làm hơn cho con người, và
ngược lại với những địa phương không có các điều kiện ưu đãi về tài nguyên
thiên nhiên sẽ ít có cơ hội tạo ra nhiều việc làm cho con người.
2.2. Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế: Kinh tế tăng trưởng ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ lệ
tiết kiệm dành cho tái sản xuất và do đó ảnh hưởng vốn đầu tư sản xuất cho
giai đoạn sau của nền kinh tế. Kinh tế tăng trưởng cao, tỷ lệ tiết kiệm dành
cho tái suất cao, vốn đầu tư sản xuất cho giai đoạn sau cao, và như như vậy
quy mô sản xuất nền kinh tế được mở rộng, quy mô việc làm cũng được tăng
Lê Thị Hiếu Lớp: Kế hoạch 47B
theo. Và ngược lại tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp, tỷ lệ tiết kiệm cho tái sản
xuất thấp, vốn đầu tư thấp, quy mô sản xuất không được mở rộng thêm thậm

chí bị thu hẹp để cắt giảm chi phí, việc làm mới không được tạo thêm thậm
chí còn gia tăng tỷ lệ mất việc làm do bị sa thải.
Xuất khẩu sản phẩm: Các địa phương có lợi thế về xuất khẩu sản phẩm
sẽ giúp các địa phương đó phát triển những ngành có lợi thế riêng. Kim ngạch
xuất khẩu sản phẩm cao sẽ đóng góp vào GDP cao, góp phần tăng trưởng
kinh tế, mở rộng quy mô các ngành có lợi thế riêng, từ đó mở rộng quy mô
việc làm góp phần giải quyết công ăn việc làm cho lao động.
Và ngược lại các địa phương nào không có lợi thế để xuất khẩu sản
phẩm thì ít có cơ hội phát triển kinh tế, mở rộng quy mô ngành kinh tế có lợi
thế, từ đó ít có điều kiện tạo nhiều việc làm cho người lao động.
Tái cơ cấu kinh tế: Việc cơ cấu lại kinh tế có ảnh hưởng đến việc bố trí,
sắp xếp lại lao động trong toàn bộ nền kinh tế. Một mặt tái cơ cấu kinh tế làm
giảm số lượng việc làm trong nền kinh tế quốc dân. Thực chất của tái cơ cấu
kinh tế là việc bố trí sắp xếp lại ngành nghề sản xuất kinh doanh sao cho hợp
lý, cân đối phù hợp với thế mạnh của từng vùng, miền. Như vậy trong một
chừng mực nào đó thì tái cơ cấu sẽ giảm nhu cầu về lao động hoặc dôi dư một
số lao động do không đáp ứng được yêu cầu của ngành nghề mới.
Mặt khác tái cơ cấu kinh tế cũng có tác dụng làm tăng thêm nhu cầu về
lao động, tức là tăng thêm nhu cầu về việc làm. Việc cơ cấu lại kinh tế góp
phần phát triển, mở rộng quy mô trong mỗi ngành nghề mà mỗi vùng, địa
phương có thế mạnh. Nhiều ngành nghề mới ra đời nhờ lợi thế so sánh và đầu
tư của chính phủ nhằm tăng cường năng lực sản xuất phục vụ trong nước và
xuất khẩu. Đương nhiên nhu cầu lao động tăng thêm và từ đó tạo thêm việc
làm cho người lao động.
Lê Thị Hiếu Lớp: Kế hoạch 47B
2.3. Nhân tố về công nghệ, chính sách thu hút vốn đầu tư tạo việc làm
Khoa học công nghệ: Khoa học công nghệ là nhân tố quan trọng ảnh
hưởng lớn đến việc tổ chức lao động sản xuất. Hoạt động lao động của con
người phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố, tiến bộ khoa học kỹ thuật, máy móc
thiết bị, công cụ lao động và công nghệ sản xuất. Để có việc làm với năng

suất chất lượng cao, cần phải có kỹ thuật, máy móc thiết bị, công cụ lao động,
công nghệ tiên tiến. Khoa học công nghệ cải tiến quy mô sản xuất, nâng cao
năng suất lao động giúp kinh tế phát triển, quy mô nền kinh tế mở rộng tạo
điều kiện giải quyết được nhiều việc làm cho lao động. Nhưng khoa học công
nghệ phát triển cũng sẽ góp phần tạo ra nhiều việc làm có năng suất chất
lượng cao, sử dụng ít lao động chân tay và đòi hỏi người lao động phải có
trình độ chuyên môn, hay đòi hỏi trình độ chất xám từ người lao động nhiều
hơn. Và như vậy người lao động không có trình độ sẽ có nguy cơ mất việc và
không tìm được việc làm cao hơn. Nhưng tác động tiêu cực này chỉ có thể xảy
ra khi nền kinh tế áp dụng trình độ khoa học công nghệ ở mức cao.
Tuy nhiên có một tác dụng tích cực nữa là việc ứng dụng khoa học
công nghệ đã và đang tạo ra nhiều ngành nghề mới trong xã hội, mà trước đây
loài người chưa từng biết tới( công nghệ điện tử và tin học). Ngành nghề mới
và quy mô của mỗi ngành không ngừng mở rộng đã tạo cho con người những
việc làm mới trong rất nhiều lĩnh vực khác nhau. Ngoài lĩnh vực truyền thống
như công, nông nghiệp còn phát triển nhiều lĩnh vực mới về công nghệ mới,
dịch vụ… Tuy nhiên ngành nghề mới này cũng đòi hỏi người lao động phải
có trình độ, tiêu chuẩn nghề nghiệp cao hơn nhiều so với trước.
Chính sách thu hút vốn đầu tư tạo việc làm: Vốn đầu tư là nhân tố quan
trọng hàng đầu để mở rộng quy mô sản xuất trong nền kinh tế. Trong lĩnh vực
sản xuất vật chất muốn tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động yếu tố
đầu tiên là vốn đầu tư. Việc thu hút vốn đầu tư phụ thuộc rất lớn vào chính
Lê Thị Hiếu Lớp: Kế hoạch 47B
sách thu hút vốn. Nếu chính sách thu hút vốn đầu tư thông thoáng thì càng thu
hút được nhiều vốn, càng có điều kiện tạo ra nhiều chỗ việc làm mới. Ngược
lại chính sách thu hút vốn không thông thoáng, vốn đầu tư càng ít và càng ít
có điều kiện tạo ra nhiều việc làm mới.
2.4. Tốc độ đô thị hóa
Tốc độ đô thị hóa tăng nhanh sẽ có cơ hội tạo ra nhiều việc làm cho
người lao động do các trung tâm công nghiệp, trường học, dịch vụ mọc lên

nhiều. Nhưng đô thị hóa kèm theo dân số nhập cư tăng nhanh gây khó khăn
cho giải quyết việc làm, đồng thời đất đai được chuyển đổi mục đích sử dụng
từ đất nông nghiệp thành đất xây dựng các cụm khu công nghiệp, công trình
công cộng… đã khiến không ít người lao động dựa vào canh tác đất rơi vào
tình trạng mất việc và khó tìm được việc làm mới.
Tóm lại, khung lý thuyết được trình bày trong chương này sẽ cung cấp
đầy đủ những cơ sở lý luận cần thiết về việc làm, tạo việc làm và các nhân tố
ảnh hưởng đến tạo việc làm để nghiên cứu, phân tích thực trạng của giải quyết
việc làm và từ đó có cơ sở đưa ra những giải pháp cần thiết để giải quyết việc
làm cho người lao động của tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2010. Cụ thể phần lý
thuyết này sẽ được sử dụng làm cơ sở để phân tích đánh giá trong chương hai.
Lê Thị Hiếu Lớp: Kế hoạch 47B
CHƯƠNG II: ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT
VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG CỦA TỈNH
VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN 2006-2008
I. TÌNH HÌNH GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN
2006-2008
Trong giai đoạn 2006-2008 vừa qua, Vĩnh Phúc đã thực hiện một loạt các giải
pháp, chính sách sau để tạo việc làm cho người lao động của tỉnh:
1. Chính sách khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng đầu tư
Chính sách khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng đầu tư của Vĩnh
Phúc bước đầu đem lại hiệu quả rõ rệt. Ngoài những chính sách đầu tư xây
dựng cơ sở hạ tầng thuận lợi, thông thoáng, chính sách phát huy mọi nguồn
lực thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước; đặc biệt là kể từ thời điểm các
luật khuyến khích đầu tư, luật doanh nghiệp được sửa đổi ban hành; khu vực
doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đã và đang phát triển mạnh
mẽ( trên 1700 doanh nghiệp năm 2007 và theo thống kê mới nhất cho tới thời
điểm tháng 10/2008 là 2500 doanh nghiệp). Các doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế đã góp phần giải quyết việc làm cho hàng vạn lao động.
Nhiều doanh nghiệp được cấp giấy phép đầu tư vào Vĩnh Phúc, nhiều nhà

máy đã xây dựng xong và bắt đầu đi vào hoạt động, thu hút nhiều lao động.
Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đang trên đà phát triển trong
hai năm qua( doanh thu bình quân hàng năm đã tăng từ 116,57 tỷ năm 2006
lên 137,2 tỷ năm 2008). Tổng số lao động và số lao động làm việc bình
quân/doanh nghiệp đã tăng lên đáng kể trong giai đoạn 2006-2008. Cụ thể,
tổng số lao động trong các doanh nghiệp năm 2006 là 14972 người và năm
2008 là 20785 người. Quy mô số lao động bình quân/doanh nghiệp đã tăng
lên từ 155,96 lao động/doanh nghiệp năm 2006 lên 173,20 lao động/doanh
nghiệp năm 2008. Đặc biệt mức độ thu hút lao động vào làm việc trong các
Lê Thị Hiếu Lớp: Kế hoạch 47B
doanh nghiệp mới được thành lập thời kỳ này cao hơn nhiều so với trước đây,
lao động địa phương chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số lao động làm việc trong
các doanh nghiệp.
Đó là kết quả cho thấy các chính sách khuyến khích doanh nghiệp mở
rộng đầu tư có hiệu quả cao. Các doanh nghiệp mới đầu tư đi vào hoạt động
thu hút nhiều lao động, các doanh nghiệp cũ hoạt động có doanh thu tăng cao
qua các năm và do đó cơ hội tiết kiệm cho tái đầu tư mở rộng quy mô sẽ cao,
là điều kiện để góp phần giải quyết việc làm cho lao động của tỉnh.
2. Chính sách về đào tạo nghề trong các doanh nghiệp
Một trong những chính sách mà Vĩnh Phúc đã sử dụng trong giải quyết
việc làm là Vĩnh Phúc đã khuyến khích các công ty, doanh nghiệp tự mở các
lớp, các trung tâm đào tạo để chủ động về nhân lực. Một số công ty, doanh
nghiệp lớn như Toyota, Honda, VinaKorea…cũng có những mô hình này.
Công ty Toyota mỗi năm đã tổ chức 25-30 khoa học, đào tạo được khoảng
300 kỹ thuật viên, cố vấn dịch vụ cho công ty. Nhằm nâng cao năng lực quản
lý cho các chủ doanh nghiệp, các cán bộ quản lý, cán bộ nòng cốt, năm 2007
các doanh nghiệp đã phối hợp cùng trung tâm khuyến công của tỉnh hợp tác
với viện kinh tế và phát triển- trường Đại học kinh tế quốc dân và trung tâm
dạy nghề và giới thiệu việc làm- Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh tổ chức 4 lớp bồi
dưỡng kiến thức cho 198 lãnh đạo, cán bộ quản lý doanh nghiệp và một số

đoàn viên. Ngoài ra một số doanh nghiệp còn phối hợp với trường cao đẳng
công nghiệp thực phẩm tổ chức 2 lớp tin học văn phòng và ứng dụng thương
mại điện tử cho 22 cán bộ quản lý doanh nghiệp.
Kết quả của chính sách này là chất lượng lao động làm việc trong các
doanh nghiệp tốt hơn so với chất lượng của lực lượng lao động toàn tỉnh với
trên 50% lao động đã qua đào tạo( trong đó chủ yếu là đã qua đào tạo nghề-
23,21% năm 2006 và 35,71% năm 2008).
Lê Thị Hiếu Lớp: Kế hoạch 47B
3. Tạo việc làm thông qua trung tâm giới thiệu việc làm, xuất khẩu lao
động, hội chợ việc làm
Hình thức tuyển dụng lao động phổ biến nhất vẫn là “ qua các mối quan
hệ cá nhân” và tiếp theo đó là hình thức “lao động tự tìm đến”. Hình thức
tuyển dụng tiếp theo là “ thông qua thông báo tuyển dụng lao động gián tại
các doanh nghiệp”. Trong khi hình thức tuyển dụng lao động thông qua hệ
thống trung tâm dịch vụ việc làm, sàn giao dịch/ hội chợ việc làm vẫn chưa
được doanh nghiệp quan tâm nhiều. Các trung tâm môi giới ở trên địa bàn
tỉnh hoạt động vẫn chưa nhiều và hiệu quả hoạt động kém. Đến năm 2008, số
người được trung tâm tư vấn giới thiệu việc làm là 20.000 người trong đó chỉ
có 5000 người là tìm được việc làm. Một kết quả cho thấy hiệu quả hoạt động
của trung tâm giới thiệu việc làm còn kém. Do sự lắm bắt thông tin của các
trung tâm về hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động tuyển dụng của các
doanh nghiệp chưa cao cũng như chưa lắm bắt rõ nhu cầu cầu của người lao
động, vì vậy việc đưa thông tin đến người lao động và các nhà tuyển dụng gặp
nhiều khó khăn.
Tuy tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị của Vĩnh Phúc thấp( tỷ lệ thất
nghiệp khu vực thành thị là 1.74%) nhưng tiếp cận dịch vụ giới thiệu việc làm
của người thất nghiệp không đáng kể( chỉ có 3% trong số người thất nghiệp
đến trung tâm giới thiệu việc làm).
Như vậy nhìn từ góc độ tuyển dụng lao động qua các kênh giao dịch
chính thức trên thị trường lao động vẫn chưa thực sự phát triển trên địa bàn

tỉnh Vĩnh Phúc. Mặc dù các kênh giao dịch chính thức trên thị trường lao
động vẫn chưa được các doanh nghiệp sử dụng nhiều, nhưng trong thực tế các
doanh nghiệp cũng không thực sự gặp nhiều khó khăn trong tuyển dụng lao
động, số doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong tuyển dụng lao động chỉ
chiếm 30% tổng số doanh nghiệp. Nhưng nhìn góc độ này về lâu dài thì đó là
Lê Thị Hiếu Lớp: Kế hoạch 47B
một hạn chế cần khắc phục trong tương lai khi mà diễn biến trên thị trường
lao động ngày càng phức tạp. Trong số những khó khăn mà doanh nghiệp gặp
phải trong quá trình tuyển dụng lao động, khó khăn lớn nhất đối với họ là
không tìm được lao động có tay nghề và cấp trình độ chuyên môn kỹ thuật
phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chất lượng của
lao động tuyển mới cũng không được doanh nghiệp đánh giá cao.
Xuất khẩu lao động là một trong những chủ trương cơ bản nhằm xóa
đói giảm nghèo, tạo việc làm cho người lao động hiện đang được thực hiện
một cách có hiệu quả không chỉ ở Vĩnh Phúc mà là chủ chương cơ bản của cả
quốc gia. Chính vì thế công tác quản lý nhà nước về xuất khẩu lao động đã
được tỉnh quan tâm. Đến nay Vĩnh Phúc có 27 đơn vị tham gia tuyển dụng lao
động đi xuất khẩu, trong đó 4 đơn vị nhà nước, còn lại là các công ty cổ phần,
công ty trách nhiệm hữu hạn, các doanh nghiệp tư nhân. Kết quả năm 2006
tỉnh đã đưa đi xuất khẩu lao động 1536 người, năm 2007 là 1634 người( tăng
6,38% so với năm 2006), năm 2008 là 1036 người( giảm 36,7% so với năm
2007). Nhìn chung cả giai đoạn 2006-2008 số lao động đi xuất khẩu là giảm
và đạt thấp chưa tương xứng với tiềm năng của tỉnh, do thu nhập của lao động
ở khu vực Đông nam á thấp, một số doanh nghiệp không thực hiện đúng cam
kết theo hợp đồng với người lao động, trình độ lao động còn thấp, một số lao
động bỏ trốn, vi phạm pháp luật gây tác động tiêu cực và ảnh hưởng về tâm lý
đối với lao động khác.
4. Phát triển đa dạng các thành phần kinh tế để thu hút lao động
Các thành phần kinh tế tiếp tục phát triển, nhất là kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài, khu vực tư nhân. Khu vực kinh tế nhà nước tiếp tục được đổi

mới, sản xuất kinh doanh có hiệu quả, năm 2008 tăng trưởng 15,65%, tỷ trọng
chiếm 18,5% trong GDP( theo giá cố định 1994). Cơ bản việc hoàn thành sắp
xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn tỉnh. Kinh tế hợp tác xã tiếp
Lê Thị Hiếu Lớp: Kế hoạch 47B
tục phát triển với nhiều loại hình, hoạt động từng bước có hiệu quả. Kinh tế tư
nhân phát triển nhanh, đóng góp quan trọng cho tăng trưởng kinh tế và giải
quyết việc làm, năm 2008 chiếm tỷ trọng 29,11 % GDP( theo cố định 1994),
tăng trưởng 14,59%. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng trưởng
cao, năm 2008 tăng 32,27%, chiếm 44,7% GDP. Quy mô kinh tế hộ gia đình
lớn nhưng kém phát triển.
Các thành phần kinh tế phát triển đa dạng góp phần giải quyết nhiều
việc làm cho lao động của tỉnh. Lao động có việc làm cũng có sự chuyển dịch
về khu vực kinh tế. Xu hướng chuyển dịch là tăng tỷ trọng lao động làm việc
trong khu vực nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài , giảm tỷ trọng
lao động trong khu vực cá thể hộ gia đình. Tỷ trọng lao động trong khu vực
kinh tư nhân có xu hướng giảm.
Biểu đồ 2.1: Tỷ trọng lao động làm việc trong các thành phần kinh tế qua
các năm
Lê Thị Hiếu Lớp: Kế hoạch 47B
tỉ trọng lao động(%)
Nguồn: Báo cáo tổng hợp viện khoa học lao động và xã hội
5. Chính sách về giáo dục đào tạo của tỉnh
Đào tạo nghề là một trong những hình thức nâng cao chất lượng nguồn
lao động nhằm thỏa mãn và đáp ứng nhu cầu lao động có trình độ trên thị
trường lao động. Chính vì vậy, công tác này đã được tỉnh quan tâm đầu tư cơ
sở vật chất, số lượng cơ sở dạy nghề, quy mô và chất lượng đào tạo cũng đã
có sự thay đổi để từng bước đáp ứng nhu cầu trên thị trường lao động và phù
hợp với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Vĩnh Phúc, góp phần giải quyết
công ăn việc làm cho nhiều lao động.
Phát triển mạnh về mạng lưới dạy nghề và quy mô dạy nghề:

Mạng lưới dạy nghề: phát triển theo đúng định hướng quy hoạch phát
triển hệ thống đào tạo nghề, từng bước khắc phục tình trạng mất cân đối về
phân bố giữa các vùng và các ngành. Năm 2006 toàn tỉnh có 52 cơ sở dạy
nghề, thì đến năm 2008 trên địa bàn tỉnh có 55 cơ sở dạy nghề bao gồm: 4
trường cao đẳng dạy nghề, 4 trường trung cấp dạy nghề, 8 trung tâm dạy nghề
Lê Thị Hiếu Lớp: Kế hoạch 47B
và 29 cơ sở dạy nghề khác. Nhìn chung các cơ sở dạy nghề vẫn còn thiếu so
với yêu cầu thực tế.
Quy mô nghề: Quy mô đào tạo của các cơ sở dạy nghề tăng từ 22550
học viên năm 2006 lên 36400 học viên năm 2008. Hàng năm số học viên
được đào tạo nghề tương đối lớn được thể hiện qua bảng số liệu sau:
Lê Thị Hiếu Lớp: Kế hoạch 47B
Bảng 2.1: Số học sinh được đào tạo nghề ra trường hàng năm
Đơn vị: người
Năm
Số học sinh
2006 2007 2008
Sơ cấp nghề 13180 17840 19076
Dạy nghề thường xuyên 4100 8626 8700
Dạy nghề dài hạn 3207 3593 4712
Tổng số học sinh 20487 30059 32488
Nguồn: sở lao động thương binh Xã hội Vĩnh Phúc
Qua bảng số liệu ta thấy quy mô dạy nghề tăng qua các năm thể hiện
qua số học sinh được đào tạo nghề tốt nghiệp ra trường. Năm 2007 số học
sinh ra trường tăng mạnh 46,72%, năm 2008 có tăng nhưng tăng nhẹ 8,1%.
Nhìn chung bình quân mỗi năm Vĩnh Phúc đã đào tạo nghề cho 27678 người/
năm. Tuy nhiên quy mô số học sinh dạy nghề tốt nghiệp của dạy nghề dài hạn
và dạy nghề thường xuyên vẫn chiếm tỷ lệ thấp trong cơ cấu dạy nghề đặc
biệt là dạy nghề dài hạn, sơ cấp dạy nghề vẫn chiếm tỷ lệ cao nhất qua các
năm. Điều này cho thấy quy mô dạy nghề dài hạn vẫn còn thấp so với tổng số

lao động được đào tạo nghề ra trường hàng năm.
Mở rộng ngành nghề, đa dạng hóa các loại hình, hình thức đào tạo
nghề: Để đáp ứng nhu cầu học nghề của người lao động, cũng như nhu cầu
của thị trường lao động, một số cơ sở dạy nghề đã chủ động xây dựng kế
hoạch mở rộng đào tạo các nghề mới, nâng cao quy mô năng lực đào tạo
nghề.
Bên cạnh việc đào tạo nghề cho người lao động thường xuyên, dạy
nghề dài hạn, ngắn hạn; sơ cấp nghề; các cơ sở dạy nghề còn tổ chức đào tạo
nghề cho người lao động dưới nhiều hình thức như: dạy nghề gắn với giải
quyết việc làm, dạy nghề theo hợp đồng lao động của các doanh nghiệp, dạy
Lê Thị Hiếu Lớp: Kế hoạch 47B
nghề theo hình thức vừa học vừa làm tại các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất
kinh doanh, các làng nghề truyền thống, dạy nghề lưu động tại các địa
phương, các khu, cụm công nghiệp.
Tăng cường đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý: Đội ngũ giáo viên
phát triển về số lượng, chất lượng từng bước được nâng cao. Đại bộ phận cán
bộ quản lý tại các trường dạy nghề, trung tâm dạy nghề là những giáo viên có
trình độ có kinh nghiệm nhưng nhìn chung năng lực tổ chức quản lý đào tạo
còn hạn chế.
Đầu tư nguồn lực, tăng cường cơ sở vật chất và thiết bị dạy nghề:
Việc xây dựng các cơ sở dạy nghề được đẩy mạnh, trường đào tạo nghề
Vĩnh Phúc, trung tâm dạy nghề thị xã Phúc Yên, trung tâm dạy nghề Lập
Thạch và Vĩnh Tường cơ bản đã hoàn thành và đưa vào sử dụng, các cơ sở
dạy nghề này đã cơ bản có đủ phòng học lý thuyết, xưởng thực hành.
Để đáp ứng công tác đào tạo nghề được thực hiện tốt, Vĩnh Phúc đã
đầu tư vào cơ sở vật chất thiết bị dạy nghề. Năm 2006, tỉnh đã đầu tư trên 70
tỷ đồng cho đào tạo nghề trong đó mua sắm máy móc thiết bị dạy nghề cho
các cơ sở đào tạo nghề công lập gần 15 tỷ đồng. Năm 2007 chỉ đầu tư được
gần 4 tỷ đồng cho cơ sở vật chất đào tạo nghề, không đạt chỉ tiêu kế hoạch đề
ra( kế hoạch là 14,5 tỷ). Đến năm 2008, kinh phí hỗ trợ đào tạo nghề là 7,1 tỷ

đồng, đạt mục tiêu kế hoạch đề ra. Tuy nhiên trang thiết bị dạy và học nghề
của nhiều cơ sở, nhất là trung tâm dạy nghề vẫn còn thiếu và lạc hậu.
Chất lượng đào tạo nghề:. Chất lượng đào tạo nghề cũng chưa được sát
với yêu cầu công việc trong thực tế và kỹ năng nghề, ý thức kỷ luật, tác phong
công nghiệp, sức khỏe và ngoại ngữ của các học viên học nghề còn nhiều hạn
chế.
Nguồn kinh phí cho dạy nghề: Kinh phí cho đào tạo nghề thời gian qua
theo xu hướng, nguồn từ ngân sách giảm và đóng góp của học viên tăng. Năm
Lê Thị Hiếu Lớp: Kế hoạch 47B
2006 là kinh phí sự nghiệp đào tạo nghề là 10,5 tỷ đồng trong đó ngân sách là
7,8 tỷ đồng, đóng góp của học viên là 2,5 tỷ, nguồn khác 0,2 tỷ. Nhưng đến
năm 2007 kinh phí là 11,3 tỷ trong đó ngân sách là 4,9 tỷ( giảm 2,9 tỷ), đóng
góp của học viên là 3,8 tỷ( tăng 1,3 tỷ), nguồn khác 2,7 tỷ. Như vậy kinh phí
cho học nghề do học viên đóng góp tăng cao, và do đó sẽ hạn chế số học theo
học đào vì không có đủ kinh phí theo học.
Tóm lại, chính sách giáo dục đào tạo của tỉnh cho người lao động đã có
bước phát triển, cụ thể là phát triển về mạng lưới dạy nghề, quy mô dạy nghề
được mở rộng, đội ngũ giáo viên dạy nghề được tăng cường cả về số và chất
lượng, cũng như đầu tư vào các trang thiết bị dạy nghề. Các chính sách giáo
dục đào tạo này đã tác động đến chất lượng nguồn lao động của tỉnh, từng
bước đáp ứng nhu cầu tuyển dụng lao động của các doanh nghiệp, từ đó gián
tiếp góp phần giải quyết việc làm cho người lao động của tỉnh.
6. Giải quyết việc làm thông qua chương trình vay vốn giải quyết việc
làm
Cho vay vốn hỗ trợ giải quyết việc làm theo nghị quyết 120/HĐBT
( nay là chính phủ) ra đời năm 1992 nhằm thực hiện chính sách tín dụng hỗ
trợ cho các đối tượng tạo việc làm, tăng thu nhập với lãi suất ưu đãi khuyến
khích mọi thành phần kinh tế phát triển, tạo ra nhiều việc làm mới và ổn định
việc làm cho người lao động trong các cơ sở sản xuất. Thực hiện chủ trương
đó trong những năm qua Vĩnh Phúc đã triển khai nguồn vốn cho vay đối với

các đối tượng lao động trong tỉnh. Trong giai đoạn 2006-2008:
Lê Thị Hiếu Lớp: Kế hoạch 47B
Bảng 2.2: Quỹ quốc gia cho vay hỗ trợ việc làm giai đoạn 2006-2008
Đơn vị 2006 2007 2008
1. Tổng nguồn quỹ( cả TW-ĐP) Triệu đồng 12000 11500 11500
Trong đo: tổng số vốn thu hồi Triệu đồng 8000 8000 8000
Triệu đồng 4000 3500 3500
2. Số dự án được duyệt vay vốn Dự án 49 60 54
Triệu đồng 12000 11500 11500
3. Số lao động được tạo việc làm Người 600 1855
Nguồn: Sở lao động thương binh và xã hội Vĩnh Phúc
Qua bảng số liệu cho thấy, quỹ quốc gia giải quyết việc làm năm 2006
đã duyệt được 49 dự án với tổng số tiền cho vay là 12 tỷ đồng trong đó vốn
mới bổ sung là 4 tỷ đồng. Năm 2007, quỹ đã duyệt được 60 dự án với tổng số
tiền cho vay 11,5 tỷ đồng trong đó vốn mới bổ sung là 3,5 tỷ đồng. Như vậy
năm 2007 số dự án được duyệt cho vay đã tăng thêm 11 dự án so với năm
2006 nhưng số tiền cho vay lại giảm 0,5 tỷ đồng. Năm 2008, quỹ đã duyệt
được 54 dự án với tổng số tiền cho vay 11,5 tỷ đồng trong đó vốn mới bổ
sung là 3,5 tỷ đồng. Năm 2008, số dự án được duyệt lại giảm so với năm 2007
là 6 dự án nhưng quy mô tiền vốn cho vay lại không đổi. Nhìn chung cả thời
kỳ 2006-2008, quy mô vay vốn của tỉnh đã mở rộng hơn về số dự án, thu hẹp
hơn về số tiền vay. Năm 2008, số dự án cho vay tăng thêm nhưng số tiền vay
không đổi và số lao động được tạo việc làm từ nguồn vốn cho vay này tăng
thêm 1255 lao động so với năm 2007, có được điều này là do sự thay đổi
chính sách cho vay vốn của tỉnh, các dự án tỉnh duyệt đều là các dự án sử
dụng ít vốn nhưng lại sử dụng nhiều lao động. Đó là một một giải pháp tốt mà
tỉnh đã sử dụng, góp phần giải quyết được nhiệu việc làm cho lao động, tuy
nhiên tổng số tiền cho vay còn thấp và trong thời gian tới cần tăng quy mô số
tiền cho vay lên.
Tóm lại, qua một loạt những cố gắng trong công tác giải quyết việc làm

của tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2006-2008, và để thấy rõ hơn những kết quả đạt
Lê Thị Hiếu Lớp: Kế hoạch 47B

×