TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
NGUỒN NHÂN LỰC TRONG LĨNH VỰC KHOA HỌC VÀ
CÔNG NGHỆ Ở TỈNH BẾN TRE GIAI ĐOẠN 2011-2015
Chuyên ngành: Sư phạm GDCD
Mã ngành: 52140204
Giảng viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện:
ThS. Gvc. Nguyễn Đại Thắng Nguyễn Thị Mỹ Lệ
MSSV: 6106624
Cần Thơ, 11/2013
1
LỜI CẢM ƠN
Trong bốn năm học vừa qua, được sự hướng dẫn tận tình của quý thầy,
cô bản thân tôi đã học hỏi được rất nhiều kiến thức hữu ích. Để hoàn thành
luận văn tốt nghiệp này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của quý thầy,
cô của Khoa Khoa học chính trị, đặc biệt là thầy Nguyễn Đại Thắng, người
đã hướng dẫn tôi rất nhiệt tình để luận văn được hoàn thành.
Bên cạnh đó, tôi còn nhận được sự giúp đỡ, động viên rất nhiều của bạn
bè, thầy cô và gia đình trong việc tìm tài liệu và có những ý kiến đóng góp
chân thành cho tôi, tôi xin chân thành cảm ơn.
Tuy nhiên, do kiến thức bản thân còn nhiều hạn chế, nên quá trình thực
hiện luận văn vẫn còn nhiều thiếu sót. Vì vậy, tôi rất mong nhận được sự
thông cảm và đóng góp ý kiến của quý thầy, cô và bạn bè, tôi xin ghi nhận
lại và khắc phục để luận văn của tôi được hoàn thiện hơn.
Sau cùng, xin kính chúc toàn thể quý Thầy, Cô trong Khoa Khoa học
chính trị luôn luôn dồi dào sức khỏe, vui vẻ và thành công trong sự nghiệp
trồng người!
Cần Thơ, tháng 11 năm 2013
Người viết
Nguyễn Thị Mỹ Lệ
2
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 4
1. Lý do chọn đề tài 4
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 6
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 6
5. Kết cấu của luận văn 6
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUỒN NHÂN
LỰC VÀ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ 7
1.1. Lý luận chung về nguồn nhân lực và vai trò của nguồn nhân lực 7
1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực 7
1.1.2. Vai trò của nguồn nhân lực 11
1.2. Lý luận chung về nguồn nhân lực khoa học công nghệ và vai trò của nguồn
nhân lực khoa học công nghệ 10
1.2.1. Khái niệm và vai trò của khoa học công nghệ 10
1.2.2.Khái niệm và vai trò của nguồn nhân lực khoa học công nghệ 15
1.3. Vai trò của nguồn nhân lực trong lĩnh vực khoa học và công nghệ tỉnh Bến
Tre trong công cuộc đổi mới và sự nghiệp CNH, HĐH 20
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC HOẠT ĐỘNG
TRONG LĨNH VỰC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Ở TỈNH BẾN TRE
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 28
2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế, văn hóa - xã hội và con
người tỉnh Bến Tre 27
2.1.1. Điều kiện tự nhiên và đặc điểm kinh tế 28
2.1.2. Văn hóa xã hội và con người tỉnh Bến Tre 30
2.2. Thực trạng nguồn nhân lực hoạt động trong lĩnh vực khoa học công nghệ ở
tỉnh Bến Tre hiện nay 31
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN
LỰC TRONG LĨNH VỰC KHOA HỌC CÔNG NGHỆ Ở TỈNH BẾN
TRE GIAI ĐOẠN 2011-2015 47
3
3.1. Phương hướng phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực khoa học và công
nghệ ở tỉnh Bến Tre trong giai đoạn hiện nay 47
3.2. Những giải pháp phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực khoa học công
nghệ ở tỉnh Bến Tre giai đoạn 2011 – 2015 54
3.2.1. Đa dạng hóa các hình thức và nâng cao chất lượng đào tạo ở các cơ
sở giáo dục và đào tạo trên địa bàn tỉnh Bến Tre nhằm nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực khoa học và công nghệ 54
3.2.2. Mở rộng hợp tác với các trường cao đẳng, đại học và các cơ quan
khoa học và công nghệ trong nước và quốc tế 57
3.2.3. Đánh giá, tuyển dụng, thu hút và đãi ngộ cán bộ khoa học và công
nghệ 62
KẾT LUẬN 69
TÀI LIỆU THAM KHẢO 70
4
PHẦN A: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phát triển kinh tế - xã hội bao giờ cũng là mục tiêu cao nhất của mỗi quốc
gia. Muốn làm được điều đó các nước cần phải có những nguồn lực cơ bản như:
nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn vốn, khoa học kĩ thuật,… và đặc biệt là
nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực giữ vai trò quyết định, bởi vì tài năng và trí
tuệ của con người là chủ thể sáng tạo ra khoa học kĩ thuật, vốn,… và sử dụng
những nguồn lực ấy vào trong sản xuất. Do đó, việc phát triển nguồn nhân lực
luôn là giải pháp tối ưu của mọi quốc gia khi muốn đẩy nhanh tốc độ phát triển
kinh tế - xã hội.
Nước ta đang trong thời kì hội nhập quốc tế và đẩy mạnh tiến trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cần phải huy động tối đa mọi nguồn lực
phục vụ cho sự phát triển. Đặc biệt với mục tiêu đi tắt đón đầu về khoa học và
công nghệ hiện đại thì việc phát triển nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân
lực khoa học công nghệ nói riêng là điều tất yếu khách quan. Phát triển nguồn
nhân lực được đặt ra như là một chiến lược để phát triển kinh tế - xã hội vừa
cấp bách vừa lâu dài. Đồng thời đây cũng được xem là giải pháp tốt nhất để đẩy
nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhanh chóng đưa nước ta bắt
kịp, hội nhập với các nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới, phấn đấu đến
năm 2020 về cơ bản nước ta là một nước công nghiệp.
Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng ta xác định “cùng với giáo dục đào tạo,
khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ XI đã khẳng định: “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn
nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền
giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển
và ứng dụng khoa học, công nghệ”. Khoa học và công nghệ có tác động to lớn
tới toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần của xã hội. Phát triển giáo dục và đào
tạo, khoa học và công nghệ là cơ sở để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội, xây dựng chiến lược con người, phát triển văn hoá của Đảng và Nhà
nước ta.
5
Bến Tre là một tỉnh thuộc Đồng bằng sông Cửu Long, những năm vừa
qua, cùng với quá trình đổi mới của đất nước, Bến Tre đã đạt được nhiều thành
tựu quan trọng trên các lĩnh vực: kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục,… Trong
lịch sử chính điều kiện tự nhiên nơi đây đã góp phần tạo nên con người, vùng
đất phương nam đặc sắc và cũng chính con người đã cải tạo thiên nhiên, đứng
lên “Đồng khởi” viết nên những trang sử vẻ vang trong cuộc đấu tranh chống
giặc ngoại xâm. Bến Tre là vùng đất giàu tiềm năng, nhiều nguồn lực phát triển.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển vừa qua đã bộc lộ những hạn chế và bất
cập, trong đó đáng quan tâm nhất là nguồn nhân lực trong lĩnh vực khoa học và
công nghệ chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu cho phát triển nhanh và bền
vững, chất lượng nguồn nhân lực trong lĩnh vực khoa học công nghệ còn thấp,
hoạt động nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ chưa thực sự được
phổ biến rộng rãi. Do Bến Tre có nền sản xuất nông nghiệp đa dạng và đang
trên đường hội nhập kinh tế thế giới nên không thể tránh khỏi ảnh hưởng của
những xu thế đang thay đổi.
Với những vấn đề nêu trên và với mong muốn đưa ra những giải pháp để
phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ tỉnh Bến Tre phục vụ quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nên tác giả lựa chọn vấn đề “Thực trạng và
giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong lĩnh vực khoa học và
công nghệ ở tỉnh Bến Tre giai đoạn 2011 - 2015” làm đề tài nghiên cứu của
mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở làm rõ thực trạng nguồn nhân lực hoạt
động trong lĩnh vực khoa học và công nghệ ở tỉnh Bến Tre giai đoạn 2011 -
2015. Đề tài đề xuất một số giải pháp cụ thể để góp phần vào việc nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực khoa học công nghệ của tỉnh.
Nhiệm vụ nghiên cứu: để đạt được mục đích trên, luận văn giải quyết
những nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, trình bày những lý luận chung về nguồn nhân lực khoa học
công nghệ.
Thứ hai, trình bày thực trạng nguồn nhân lực khoa học công nghệ tỉnh
Bến Tre giai đoạn hiện nay.
6
Thứ ba, trên cơ sở trình bày những lý luận và thực trạng nguồn nhân lực
hoạt động trong lĩnh vực khoa học công nghệ tỉnh Bến Tre qua đó luận văn
đề ra những phương hướng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực khoa học
công nghệ tỉnh Bến Tre giai đoạn 2011 - 2015.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung làm rõ thực trạng công tác nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực hoạt động trong lĩnh vực khoa học công nghệ ở
tỉnh Bến Tre.
Phạm vi nghiên cứu: tác giả chỉ tìm hiểu thực trạng nguồn nhân lực hoạt
động trong lĩnh vực khoa học công nghệ ở tỉnh Bến Tre trong giai đoạn hiện
nay và trên cơ sở đó đề ra phương hướng, giải pháp phát triển nguồn nhân lực
khoa học và công nghệ tỉnh Bến Tre giai đoạn 2011 - 2015.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối
cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu của đề tài: tác giả sử dụng phương pháp của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử trong việc nghiên cứu đề tài đồng
thời kết hợp các phương pháp lôgíc - lịch sử, phân tích - tổng hợp, so sánh -
đánh giá để giải quyết vấn đề đặt ra.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 7 tiết.
7
PHẦN B: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUỒN NHÂN LỰC KHOA
HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
1.1. Lý luận chung về nguồn nhân lực
1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực
Nhân lực là sức lực con người, nằm trong mỗi con người và làm cho con
người hoạt động. Sức lực đó ngày càng phát triển cùng với sự phát triển của cơ
thể con người, và đến một mức độ nào đó, con người đủ điều kiện tham gia vào
quá trình lao động – con người có sức lao động.
Khái niệm nguồn nhân lực được sử dụng rộng rãi ở các nước có nền kinh
tế phát triển từ những năm giữa thế kỷ XX, với ý nghĩa là nguồn lực con người,
thể hiện một sự nhìn nhận lại vai trò yếu tố con người trong quá trình phát triển.
Ở nước ta, khái niệm nguồn nhân lực được sử dụng rộng rãi từ khi bắt đầu công
cuộc đổi mới. Điều này được thể hiện rõ trong các công trình nghiên cứu về
nguồn nhân lực. Theo giáo sư viện sỹ Phạm Minh Hạc, nguồn lực con người
được thể hiện thông qua số lượng dân cư, chất lượng con người (bao gồm thể
lực, trí lực và năng lực phẩm chất). Như vậy, nguồn nhân lực không chỉ bao
hàm chất lượng nguồn nhân lực hiện tại mà còn bao hàm cả nguồn cung cấp
nhân lực trong tương lai [12,tr.13].
Khi đưa ra khái niệm nguồn nhân lực, có rất nhiều ý kiến khác nhau.
Trong lý luận về lực lượng sản xuất, con người được coi là lực lượng sản xuất
hàng đầu, là yếu tố quan trọng nhất, quyết định sự vận động và phát triển của
lực lượng sản xuất, quyết định quá trình sản xuất và do đó, quyết định năng suất
lao động và tiến bộ xã hội. Theo định nghĩa của Liên Hợp Quốc: “Nguồn nhân
lực là trình độ lành nghề, là kiến thức và năng lực của toàn bộ cuộc sống con
người hiện có thực tế cũng như tiềm tàng để phát triển kinh tế - xã hội trong
cộng đồng”.
Ở nước ta, theo giáo trình nguồn nhân lực của nhà xuất bản Lao động xã
hội định nghĩa: Nguồn nhân lực (human resources): Là nguồn lực con người,
yếu tố quan trọng, năng động nhất của tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội.
8
Nguồn nhân lực có thể xác định cho một quốc gia, vùng lãnh thổ, địa phương,
(tỉnh, thành phố,…) và nó khác với các nguồn lực khác (tài chính, đất đai, công
nghệ,…) ở chỗ nguồn lực con người với hoạt động lao động sáng tạo, tác động
vào thế giới tự nhiên và trong quá trình lao động nảy sinh các quan hệ lao động
và quan hệ xã hội [11,tr.7]. Cụ thể hơn, nguồn nhân lực của một quốc gia biểu
hiện ở các khía cạnh sau đây:
- Trước hết với tư cách là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội, ở
nghĩa rộng nhất thì nguồn nhân lực bao gồm toàn bộ dân cư có khả năng lao
động, không phân biệt người đó đang được phân bố vào ngành nghề, lĩnh vực,
khu vực nào và có thể coi đây là nguồn nhân lực xã hội.
- Nguồn nhân lực với tư cách là một yếu tố của sự phát triển kinh tế - xã
hội là khả năng lao động của xã hội được hiểu theo nghĩa hẹp hơn, bao gồm
nhóm dân cư trong độ tuổi lao động có khả năng lao động. Hiện nay trong lĩnh
vực lao động còn có khái niệm “nguồn lao động” là toàn bộ dân số trong độ
tuổi lao động có khả năng lao động. Do đó, với khái niệm này thì nguồn nhân
lực tương đương với khái niệm nguồn lao động.
Nguồn nhân lực thể hiện toàn bộ những con người cụ thể tham gia vào quá
trình lao động, với cách hiểu này nguồn nhân lực bao gồm những người từ giới
hạn dưới của độ tuổi lao động trở lên và có khả năng lao động (ở nước ta hiện
nay là những người đủ 15 tuổi trở lên có khả năng lao động).
Nguồn nhân lực còn có thể hiểu là tổng hợp cá nhân những con người cụ
thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể chất và tinh
thần được huy động vào quá trình lao động. Với cách hiểu này, nguồn nhân lực
bao gồm những người từ giới hạn dưới độ tuổi lao động trở lên.
Ngày nay, khi vai trò của nguồn nhân lực đang ngày càng được thừa nhận
như một yếu tố quan trọng bên cạnh vốn và công nghệ cho mọi sự tăng trưởng
thì một trong những yêu cầu để hoà nhập vào nền kinh tế khu vực cũng như thế
giới là phải có được một nguồn nhân lực có đủ sức đáp ứng được những yêu
cầu của trình độ phát triển của khu vực, của thế giới, của thời đại.
Nguồn nhân lực được xem xét trên giác độ số lượng và chất lượng. Số
lượng nguồn nhân lực được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu quy mô và tốc độ
tăng nguồn nhân lực. Các chỉ tiêu này có quan hệ mật thiết với chỉ tiêu quy mô
9
và tốc độ tăng dân số. Quy mô dân số càng lớn, tốc độ tăng dân số càng cao thì
dẫn đến quy mô và tốc độ tăng nguồn nhân lực càng lớn và ngược lại. Tuy
nhiên, mối quan hệ dân số và nguồn nhân lực được biểu hiện sau một thời gian
nhất định. Khi tham gia vào các quá trình phát triển kinh tế - xã hội, con người
đóng vai trò chủ động, là chủ thể sáng tạo và chi phối toàn bộ quá trình đó,
hướng nó tới mục tiêu nhất định. Vì vậy, nguồn nhân lực không chỉ đơn thuần
là số lượng lao động đã có và sẽ có mà nó còn phải bao gồm một tổng thể các
yếu tố thể lực, trí lực, kỹ năng làm việc, thái độ và phong cách làm việc, tất cả
các yếu tố đó ngày nay đều thuộc về chất lượng nguồn nhân lực và được đánh
giá là một chỉ tiêu tổng hợp là văn hoá lao động. Ngoài ra, khi xem xét nguồn
nhân lực, cơ cấu của lao động - bao gồm cả cơ cấu đào tạo và cơ cấu ngành
nghề cũng là một chỉ tiêu rất quan trọng.
Cũng giống như các nguồn lực khác, số lượng và đặc biệt là chất lượng
nguồn nhân lực đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc tạo ra của cải vật
chất và tinh thần cho xã hội.
Để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và nhu cầu sử dụng lao động, những
người lao động phải được đào tạo, phân bổ và sử dụng theo cơ cấu hợp lý, đảm
bảo tính hiệu quả cao trong sử dụng. Một quốc gia có lực lượng lao động đông
đảo, nhưng nếu phân bổ không hợp lý giữa các ngành, các vùng, cơ cấu đào tạo
không phù hợp với nhu cầu sử dụng thì lực lượng lao động đông đảo đó không
những không trở thành nguồn lực để phát triển mà nhiều khi còn là gánh nặng
cản trở sự phát triển.
Ngày nay, trước sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học
công nghệ và thông tin, sự giao lưu trí tuệ và tư tưởng liên minh kinh tế giữa
các khu vực trên thế giới. Sự ra đời của nhiều công ty xuyên quốc gia đã tạo ra
tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa từng thấy. Tình hình đó đã dẫn đến sự quốc tế
hoá kinh tế thế giới, gây nên những đảo lộn về chính trị xã hội sâu sắc mang
tính toàn cầu và đang đi đến thiết lập một trật tự thế giới mới. Trong bối cảnh
đó, khu vực Châu Á - Thái Bình Dương đang nổi lên là khu vực kinh tế năng
động nhất. Một trong những yếu tố chủ chốt thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh
chóng là vai trò của nguồn nhân lực.
10
Việt Nam là nước đang phát triển có lực lượng sản xuất ở trình độ thấp,
nền kinh tế tri thức đối với Việt Nam là khái niệm tương đối mới mẻ. Do vậy,
có ý kiến cho rằng nền kinh tế tri thức đối với Việt Nam hiện nay quá xa và
không hiện thực; cho rằng Việt Nam phải xây dựng xong CNH, HĐH để làm
tiền đề cho kinh tế tri thức ra đời và phát triển, kinh tế tri thức không chỉ bao
gồm các ngành mới xuất hiện dựa trên công nghệ cao, mà còn cả các ngành
truyền thống được cải tạo bằng khoa học công nghệ cao. Do đó,không nên chờ
cho đến khi sự nghiệp CNH, HĐH kết thúc mới tiến hành xây dựng kinh tế tri
thức, mà ngay trong giai đoạn này, để phát triển và theo kịp các nước trên thế
giới, chúng ta phải đồng thời quan tâm tới những lĩnh vực mà chúng ta có thể
tiếp cận. Đối với Việt Nam, một đất nước nông nghiệp, rõ ràng chúng ta không
thể xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức như các nước công nghiệp phát
triển. Thực ra đó là sự tiếp tục quá trình CNH, HĐH đất nước ở một trình độ
cao hơn, dựa trên chất xám của con người. Mặt khác,do xuất phát điểm của lực
lượng sản xuất của ta thấp, mà tiếp cận kinh tế tri thức ở Việt Nam phải phù
hợp với điều kiện của Việt Nam, tức mang những đặc thù của mình. Do đó,việc
xác định nội dung các ngành kinh tế trong quá trình CNH, HĐH, chuẩn bị các
điều kiện vật chất và con người để tiếp cận kinh tế tri thức trở thành nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu của mọi cấp, mọi ngành, nhất là các cấp hoạch định chiến
lược. Trong việc chuẩn bị ấy việc nghiên cứu thực trạng mạnh, yếu và tìm ra
giải pháp phát triển nguồn nhân lực là quan trọng và cấp bách nhất trong giai
đoạn hiện nay.
Để đảm bảo thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, phải
bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người. Với tư cách là mục tiêu và động lực
phát triển, con người có vai trò to lớn không những trong đời sống kinh tế mà
còn trong lĩnh vực hoạt động khác. Bởi vậy phải quan tâm, nâng cao chất lượng
con người, không chỉ với tư cách là người lao động sản xuất, mà với tư cách là
công dân trong xã hội, một cá nhân trong tập thể, một thành viên trong cộng
đồng nhân loại không thể thực hiện được công nghiệp hoá, hiện đại hoá nếu
không có đội ngũ đông đảo những công nhân lành nghề, những nhà khoa học
kỹ thuật tài năng, giỏi chuyên môn nghiệp vụ, những nhà doanh nghiệp tháo
vát, những nhà lãnh đạo, quản lý tận tuỵ, biết nhìn xa trông rộng.
11
Một trong những hạn chế trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực ở
nước ta là chính sách của Nhà nước còn thiếu đồng bộ, nhất là chính sách thuế,
đất đai, tín dụng…chưa khuyến khích và tạo ra động lực đẩy mạnh đầy tư trong
nước để phát triển sản xuất, tạo mở việc làm, trong khi nguồn vốn trong dân
còn rất lớn, nhưng dân chưa đầu tư vào các ngành chính sản xuất, mà chủ yếu là
đầu tư vào dịch vụ, buôn bán, phi sản xuất. Trong hoạt động mở rộng thị
trường, kể cả thị trường nội địa và ngoài nước thì năng lực tổ chức thị trường
còn yếu kém, chưa có chính sách khuyến khích tiêu dùng đúng hướng, nhất là
khuyến khích tiêu dùng hàng nội, để kích thích sản xuất trong nước phát triển,
từ đó tạo thêm nhiều chỗ làm việc mới giải quyết được vấn đề việc làm cho
nguồn nhân lực.
Với những lợi thế trên, Việt Nam có nhiều cơ hội để tiến tới nền kinh tế tri
thức vào những thập kỷ tới của thế kỷ XXI. Tuy nhiên, bước đột phá sẽ phải từ
việc đổi mới tư duy của quốc gia trong điều kiện mới của đất nước và thế giới.
Đồng thời tập trung cao vào việc giáo dục đào tạo nguồn nhân lực mới đạt chất
lượng cao, phù hợp và đón đầu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt
Nam tới những năm 2020. Nguồn nhân lực Việt Nam hơn bao giờ hết cần được
đào tạo để phát triển nội lực với giá trị mới và vượt qua được những thách thức
mới của thị trường lao động trong nền kinh tế tri thức tương lai.
Tóm lại, mặc dù có các biểu hiện khác nhau nhưng nguồn nhân lực của
một quốc gia phản ánh các đặc điểm quan trọng nhất sau đây:
- Nguồn nhân lực là nguồn lực con người;
- Nguồn nhân lực là bộ phận của dân số, gắn với cung lao động;
- Nguồn nhân lực phản ánh khả năng lao động của một xã hội.
1.1.2. Vai trò nguồn nhân lực
Như đã biết, xét đến cùng yếu tố giữ vai trò chi phối, quyết định sự vận
động, phát triển của xã hội chính là lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất bao
gồm sức lao động và tư liệu sản xuất trong đó người lao động là yếu tố quan
trọng hàng đầu. Ph. Ăngghen đã từng nhấn mạnh rằng muốn nâng nền sản xuất
lên thì một mình tư liệu lao động, dù là tư liệu cơ giới hay bất kỳ tư liệu nào
khác cũng không đủ mà cần có những người có năng lực tương xứng sử dụng
những tư liệu đó. Như vậy, vai trò của nguồn nhân lực xuất phát từ vai trò quan
12
trọng của con người trong sự phát triển của lực lượng sản xuất đối với sự phát
triển của kinh tế - xã hội.
*Con người là động lực của sự phát triển
Các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất, vị trí
địa lý…là những khách thể chịu sự khai thác cải tạo của của con người. Các
nguồn lực này tự nó chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng, muốn phát huy tác dụng
phải có sự kết hợp với nguồn lực con người, thông qua hoạt động có ý thức của
con người. Con người với tất cả những năng lực, phẩm chất tích cực của mình,
bao gồm trí tuệ, kinh nghiệm, kỹ năng, tính năng động, sáng tạo…tác động vào
các nguồn lực khác nhau và gắn kết chúng lại để tạo ra hoạt động lao động phục
vụ cho nhu cầu của xã hội. Chính con người là nhân tố làm thay đổi tính chất
của lao động từ lao động thủ công sang lao động cơ khí và lao động trí tuệ.
Nhất là trong giai đoạn hiện nay khi mà khoa học và công nghệ đã trở thành bộ
phận trực tiếp của lượng sản xuất thì con người lại là nhân tố tạo ra các tư liệu
lao động hiện đại, sử dụng, khai thác đưa chúng vào hoạt động lao động nếu
không những nguồn lực khác đó chỉ là những vật chất vô tri, vô giác.
Như vậy, để xã hội thực sự phát triển thì động lực lớn nhất, quan trọng
nhất đó chính là năng lực của con người. Chính vì vậy, cần phải sử dụng và
khai thác hợp lý sao cho nguồn nhân lực thực sự là động lực to lớn, hữu ích cho
sự phát triển.
*Con người là mục tiêu của sự phát triển
Con người luôn hướng tới cái chân - thiện - mỹ, chính vì vậy, bất kể một
hoạt động nào của con người đều có mục đích cụ thể, rõ ràng. Mọi hoạt động
sản xuất hàng hoá đang diễn ra cũng nhằm mục đích cuối cùng là thoã mãn tối
ưu lợi ích của người tiêu dùng, làm cho cuộc sống của con người không những
đầy đủ về vật chất mà còn thỏa mãn cả về tinh thần. Như vậy, nhu cầu tiêu
dùng tức là lượng tiêu dùng của cải vật chất, tinh thần của con người có tác
động quyết định tới việc cung hàng hoá trên thị trường. Việc sản xuất cung ứng
nhiều hay ít hàng hoá phụ thuộc vào nhu cầu của con người, mà theo thời gian
nhu cầu của con người lại vô cùng phong phú, đa dạng nên đặt ra yêu cầu hàng
hoá sản xuất phải phong phú về số lượng cũng như chủng loại. Do vậy, phát
triển kinh tế xã hội suy cho cùng là vì con người.
13
Nói đến vai trò của nguồn nhân lực đối với sự phát triển là nói đến vai trò
của con người trong sự nghiệp phát triển. Vai trò của con người đối với sự phát
triển thể hiện ở hai mặt, thứ nhất, con người với tư cách là người tiêu dùng sản
phẩm, dịch vụ và kho tàng văn hóa; thứ hai, với tư cách là người lao động, tạo
ra tất cả các sản phẩm đó với sức lực và óc sáng tạo của họ.
Để tồn tại và phát triển, con người phải được đáp ứng các nhu cầu về vật
chất. Sự tiêu dùng của con người không chỉ là sự tiêu hao kho tàng vật chất và
văn hóa do con người tạo ra, mà chính là nguồn gốc của động lực phát triển xã
hội. Để không ngừng thỏa mãn những nhu cầu vật chất, tinh thần ngày càng
được nâng cao về số lượng và chất lượng trong điều kiện các nguồn lực đều có
hạn, con người ngày càng phải phát huy đầy đủ hơn khả năng về thể lực và trí
tuệ cho việc phát triển không ngừng kho tàng vật chất và tinh thần đó. Chính vì
vậy, sự tiêu dùng của con người, sự đáp ứng ngày càng tốt hơn những nhu cầu
của con người là động lực phát triển. Suy cho cùng, mục đích của sản xuất là để
tiêu dùng. Trong nền kinh tế thị trường, khối lượng và cơ cấu tiêu dùng là một
yếu tố quyết định quy mô và cơ cấu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.
Đảng ta xác định nhân tố con người chính xác là vốn con người, vốn nhân
lực bao gồm cả sức lao động, trí tuệ và tinh thần gắn với truyền thống của dân
tộc là vốn quý nhất, quyết định sự phát triển của đất nước trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì
thế, giải phóng tiềm năng con người để phát huy tối đa nguồn nhân lực trong
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một trong những quan điểm đổi mới
có tính đột phá trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Đảng ta trong thời
kỳ đổi mới. Con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng đã được Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 5 - Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII xác định
xây dựng với những đức tính “Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp,
có kỹ thuật sáng tạo, năng suất cao. Vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và
xã hội, thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ
thẩm mỹ và thể lực” [3,tr.27].
Chăm lo đến sự phát triển toàn diện của con người là chăm lo cho phát
triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững, là yếu tố bảo đảm chắc chắn nhất cho
sự phát triển phồn vinh và thịnh vương của đất nước, thì đầu tư cho phát triển
14
nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, là đầu tư chiến lược,
đầu tư có hiệu quả nhất để khai thác và sử dụng nội lực cho phát triển, là cơ sở
chắc chắn nhất cho phát triển kinh tế - xã hội không chỉ ngày một nhanh, mà
còn bền vững.
1.2. Lý luận chung về nguồn nhân lực khoa học - công nghệ và vai trò của
nguồn nhân lực khoa học - công nghệ
1.2.1. Khái niệm và vai trò của khoa học và công nghệ
*Khái niệm khoa học công nghệ
Tập hợp từ “khoa học - công nghệ” nếu diễn đạt đầy đủ sẽ là “ khoa học -
kỹ thuật - công nghệ”. Đây là ba lĩnh vực khác nhau về đặc điểm, tính chất và
do đó, chúng có vai trò và tác dụng khác nhau trong đời sống xã hội, trong sự
phát triển kinh tế - xã hội. Những sự khác nhau này sẽ quy định một cách tất
yếu những sự khác nhau tương ứng trong cơ chế, chính sách và các biện pháp
quản lý của nhà nước nhằm thúc đẩy sự phát triển khoa học - kỹ thuật - công
nghệ phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Khoa học là hệ thống những tri thức về mọi loại quy luật của vật chất và
sự vận động của vật chất, những quy luật của tự nhiên, xã hội, tư duy. Khoa học
là một hoạt động xã hội nhằm tìm tòi, phát hiện quy luật của sự vật và hiện
tượng và vận dụng các quy luật ấy để sáng tạo ra nguyên lý các giải pháp tác
động vào các sự vật và hiện tượng nhằm biến đổi trạng thái của chúng. Khoa
học còn được xem là một hình thái ý thức xã hội, tồn tại mang tính độc lập
tương đối với các hình thái ý thức xã hội khác. Vai trò của khoa học đối với con
người và xã hội là vũ trang tri thức để nhận thức thế giới, là trau dồi trí tuệ, phát
triển năng lực tinh thần làm cho con người và xã hội có hiểu biết, có học vấn,
học thức, trở thành chủ thể hoạt động có lý trí sáng suốt chứ không mù quáng,
tự giác chứ không tự phát, hành động dưới sự dẫn dắt của lý luận và phương
pháp chứ không giam hãm mình bởi kinh nghiệm thông thường hoặc bị thống
trị bởi chủ nghĩa kinh nghiệm.
Khoa học là biểu tượng về sức mạnh trí tuệ của con người và xã hội. Nhờ
có khoa học mà con người không ngừng khám phá những bí mật của tự nhiên,
khám phá ra quy luật của nó và làm chủ nó. Khoa học còn phát hiện bản chất,
quy luật vận động của xã hội, giúp con người có hiểu biết đúng và hành động
15
đúng. Khoa học còn nghiên cứu chính bản thân con người, đặt con người vào
đối tượng nghiên cứu của rất nhiều ngành khoa học khác nhau, đem lại cho con
người những tri thức để hiểu biết chính mình và đồng loại. Khoa học cung cấp
nhận thức và thúc đẩy hành động của con người, đảm bảo cho con người không
chỉ nhận thức thế giới mà còn cải tạo thế giới một cách đúng quy luật.
Công nghệ là một tập hợp các phương pháp, các quy tắc, các kỹ năng
được sử dụng để tác động vào đối tượng lao động nhằm tạo ra một sản phẩm
nào đó. Sự tác động đó thường phải thông qua các phương tiện vật chất (máy
móc, trang thiết bị, công cụ,…)
Công nghệ có thể hiểu theo nghĩa rộng là sự ứng dụng các tri thức khoa
học vào giải quyết một nhiệm vụ thực tiễn nào đó. Như vậy, công nghệ là một
sản phẩm do con người tạo ra làm công cụ để tạo ra của cải vật chất. Cho đến
hiện nay, khái niệm công nghệ chưa thực sự được thống nhất bởi vì số lượng
các công nghệ quá lớn không thể thống kê một cách tuyệt đối, người sử dụng
công nghệ trong các điều kiện và hoàn cảnh khác nhau dẫn đến sự hiểu biết về
công nghệ cũng khác nhau. Tất cả những thành tựu về công nghệ đã dẫn đến
kết quả làm cho lực lượng sản xuất phát triển năng suất lao động tăng cao. Nhờ
đó mà loài người chuyển từ phương thức sản xuất này sang phương thức sản
xuất khác cao hơn, chuyển từ nền văn minh này sang nền văn minh khác tiên
tiến hơn.
Cuộc cách mạng công nghệ diễn ra hơn nữa thế kỉ nay cũng đã gây ra
những biến đổi sâu sắc trong các lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội,
sản xuất tự động hóa ngày càng phát triển, năng suất lao động ngày càng cao,
sản phẩm dồi dào. Tỷ lệ lao động trí óc ngày càng được tăng lên trong khi đó tỷ
lệ lao động chân tay giảm xuống làm nảy sinh tình trạng thất nghiệp.
*Vai trò của khoa học công nghệ
Thứ nhất, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nói đến vai trò nền tảng và động lực của khoa
học và công nghệ trong tiến trình CNH, HĐH dựa trên cơ sở khoa học và công
nghệ, quan điểm này được thể hiện rõ trong các văn kiện của Đảng, đặc biệt là
trong nghị quyết của các Hội nghị Trung ương bảy khóa VII, Hội nghị Trung
ương hai khóa VIII và kết luận của Hội nghị Trung ương sáu khóa IX về phát
16
triển khoa học và công nghệ. Ở các nước phát triển, vai trò của khoa học công
nghệ ngày càng thể hiện rõ là lực lượng sản xuất trực tiếp quan trọng hàng đầu,
hay nói một cách khác là nền tảng, động lực cho phát triển kinh tế - xã hội. Vai
trò nền tảng của khoa học và công nghệ chỉ được phát huy khi có một nền khoa
học và công nghệ phát triển, đủ khả năng giải quyết được những nhiệm vụ chủ
yếu về khoa học và công nghệ do yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của quốc
gia đặt ra. Vai trò, động lực của khoa học và công nghệ được thể hiện thông
qua sự đổi mới không ngừng của công nghệ và sản phẩm, tạo ra năng suất, chất
lượng và sức cạnh tranh cao của nền kinh tế, đặc biệt là trong bối cảnh toàn cầu
hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Chỉ khi nào khoa học và công nghệ thực sự trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp hàng đầu thì vai trò nền tảng và động lực của
nó đối với phát triển kinh tế xã hội mới trở nên vững chắc và mạnh mẽ.
Đối với các nước đang phát triển, muốn đẩy nhanh tiến trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa để phát triển đất nước thì đây là vấn đề nan giải, đầy khó khăn
và thách thức, bởi lẽ phải tiến hành song song cả hai quá trình: vừa thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa vừa xây dựng và phát triển nền khoa học và công
nghệ trong khi tiềm lực kinh tế quốc gia còn nhỏ bé. Vai trò động lực của khoa
học và công nghệ chỉ có thể thực hiện được một khi hoạt động khoa học và
công nghệ gắn liền với hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh
tế - xã hội; khoa học và công nghệ phải là nhân tố động lực của quá trình
chuyển đổi từ lao động thủ công sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động
cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên
sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học và công nghệ, tạo ra năng
suất lao động xã hội cao. Thế giới trong thế kỉ XX đã chứng kiến những thay
đổi to lớn do khoa học và công nghệ mang lại không chỉ đối với các nước phát
triển mà cả những nước đang phát triển.
Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà
nước, khoa học và công nghệ nước ta đã có những bước tiến tích cực. Trải qua
vài thập kỷ xây dựng và phát triển, đến nay, nước ta đã có một tiềm lực khoa
học và công nghệ đáng kể, lực lượng khoa học và công nghệ tương đối đông
đảo trên 1,5 triệu cán bộ có trình độ đại học và cao đẳng, 30 nghìn cán bộ có
trình độ trên đại học và khoảng 2 triệu công nhân kỹ thuật. Thực tế cho thấy đội
17
ngũ này có khả năng tiếp thu tương đối nhanh và làm chủ được tri thức, công
nghệ hiện đại trên một số ngành và lĩnh vực. Cùng với đội ngũ cán bộ khoa học
và công nghệ đông đảo đó, chúng ta đã xây dựng được một mạng lưới khoảng
1050 tổ chức khoa học và công nghệ thuộc mọi thành phần kinh tế, trong đó có
hơn 450 tổ chức ngoài nhà nước. Kết cấu hạ tầng kỹ thuật của các viện, trung
tâm nghiên cứu, các phòng thí nghiệm, các trung tâm thông tin khoa học và
công nghệ, thư viện cũng được tăng cường và nâng cấp [9,tr.11].
Thứ hai, khoa học và công nghệ là động lực để phát triển kinh tế - xã hội
trong những năm đổi mới. Khoa học và công nghệ hướng mạnh vào việc đổi
mới, thay thế công nghệ trong các ngành sản xuất, dịch vụ, nâng cao năng suất,
hiệu quả kinh tế. Việc ứng dụng tiến bộ các công nghệ góp phần nâng cao chất
lượng sản phẩm hàng hóa được sự quan tâm của nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều
tập thể và tổ chức xã hội, đặc biệt dần dần đã trở thành một phong trào quần
chúng sâu rộng:
- Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đến sự phát triển của khoa học và
công nghệ, đã ban hành nhiều chính sách đúng đắn nhằm phát triển và ứng
dụng khoa học và công nghệ vào kinh tế - xã hội. Đồng thời nhận thức của toàn
xã hội về vai trò, vị trí của khoa học và công nghệ đã được nâng lên đáng kể.
- Đội ngũ cán bộ hoạt động trong lĩnh vực khoa học và công nghệ phát
triển cả về số lượng và trình độ; có khả năng tiếp thu và làm chủ công nghệ
hiện đại trên một số lĩnh vực.
Khoa học và công nghệ ngày càng được xem là nhân tố hàng đầu trong
cuộc chạy đua phát triển kinh tế - xã hội trên thế giới hiện nay, chạy đua nâng
cao chất lượng và hiệu quả lao động trên cơ sở hiện đại hóa nguồn nhân lực.
Khoa học và công nghệ giữ vai trò then chốt trong việc phát triển lực
lượng sản xuất hiện đại, bảo vệ tài nguyên và môi trường nâng cao năng suất,
chất lượng, hiệu quả, tốc độ phát triển và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Khoa
học và công nghệ không chỉ có ý nghĩa lớn lao trong lĩnh vực sản xuất vật chất
mà còn là cơ sở để xây dựng nền văn hóa tinh thần của chế độ chủ nghĩa xã hội.
Ngày nay, muốn đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng như
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thì phải phát triển nhanh và mạnh hơn nữa
khoa học và công nghệ vì chỉ có như thế mới có thể phát huy hết khả năng của
18
nhân tố con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển của xã hội, tăng trưởng kinh
tế nhanh và bền vững.
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ trong thời kỳ toàn cầu hóa đã và
đang diễn ra mạnh mẽ, tác động đến mọi quốc gia, dân tộc. Tốc độ phát minh
khoa học công nghệ ngày càng tăng. Khoảng cách từ phát minh đến ứng dụng
rút ngắn, sự cạnh tranh về công nghệ cao diễn ra quyết liệt, truyền thông về
khoa học công nghệ diễn ra sôi động. Nhiều tri thức về công nghệ mới ra đời
đòi hỏi nguồn nhân lực phải học tập và lao động thường xuyên, liên tục để thích
nghi với những biến đổi mới của khoa học và công nghệ. Khoa học và công
nghệ phải được chuẩn hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu. Trong tiến trình lãnh đạo
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, nhất là từ
khi tiến hành sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam
đã có những nhận thức đúng đắn và sâu sắc về vị trí, vai trò của khoa học và
công nghệ đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời luôn coi trọng và tạo
điều kiện thuận lợi để phát triển nền khoa học và công nghệ của nước nhà. Sinh
thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng nhấn mạnh rằng, chúng ta phải tiến
lên chủ nghĩa xã hội, phải xây dựng và phát triển nền kinh tế quốc dân với công
nghiệp và nông nghiệp hiện đại bằng cách dựa vào một nền khoa học và kỹ
thuật tiên tiến.
Quan điểm coi khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, giữ vai trò
then chốt trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là nền tảng và động lực
cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nhanh và bền vững được thể hiện,
khẳng định và quán triệt trong nhiều văn kiện hội nghị Trung ương cũng như
các văn kiện đại hội Đảng trong thời kỳ đổi mới. Tại Đại hội lần thứ VII, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã đưa ra đường lối quan trọng về thực hiện công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nhằm phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Bản chất của
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, theo quan điểm của Đảng, là quá trình chuyển
đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, quản lý kinh
tế - xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang một cách phổ biến sức
lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại
dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ nhằm tạo
19
ra năng suất lao động của xã hội cao. Kinh nghiệm phát triển của các nước trên
thế giới cũng như của Việt Nam đã chứng minh rằng, khoa học công nghệ là bộ
phận, nguồn lực không thể thiếu trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đặc
biệt là với các nước đang phát triển như nước ta. Vai trò hết sức quan trọng của
khoa học và công nghệ, xét về phương diện phát triển kinh tế, thể hiện trên một
số khía cạnh chủ yếu: phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất nhằm thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững; đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng công nghiệp hiện đại cũng như cơ cấu lao động xã hội; nâng
cao hàm lượng trí tuệ và tăng sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa trong điều
kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế.
1.2.2. Khái niệm và vai trò của nguồn nhân lực khoa học - công nghệ
*Khái niệm nguồn nhân lực khoa học - công nghệ
Hiện nay có nhiều cách tiếp cận khác nhau về thuật ngữ nguồn nhân lực
khoa học và công nghệ. Theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực khoa học và công
nghệ (Human Resources for Science and Technology) bao gồm những người sở
hữu tri thức và tham gia vào các hoạt động khác nhau. Hàm lượng tri thức tích
lũy trong nhân lực khoa học và công nghệ có thể nhận được thông qua đào tạo
chính thức hoặc thông qua tích lũy kinh nghiệm và các công việc liên quan đến
đổi mới. Có 2 cách tiếp cận phổ biến về nhân lực khoa học và công nghệ:
Thứ nhất, nhân lực khoa học và công nghệ được mô tả trong cuốn sổ tay
của OECD năm 1995 với tên gọi “OECD’s Canberra Manual” [19,tr.61] và đã
được sử dụng phổ biến trong các quốc gia cũng như các tài liệu nghiên cứu.
Theo đó, nguồn nhân lực khoa học và công nghệ gồm những người đáp ứng
được một trong những điều kiện sau:
- Đã tốt nghiệp cao đẳng hoặc đại học về một lĩnh vực khoa học và công
nghệ.
- Tuy chưa đạt được điều kiện nêu trên, nhưng làm việc trong một lĩnh
vực khoa học và công nghệ đòi hỏi phải có trình độ tương đương.
Trên cơ sở này cách hiểu về nhân lực khoa học và công nghệ được diễn
giải gồm những người: đã tốt nghiệp đại học hoặc cao đẳng và làm việc trong
một ngành khoa học và công nghệ; đã tốt nghiệp đại học hoặc cao đẳng, nhưng
không làm việc trong một ngành khoa học và công nghệ nào; chưa tốt nghiệp
20
đại học hoặc cao đẳng, nhưng làm một công việc trong lĩnh vực khoa học và
công nghệ đòi hỏi trình độ tương đương.
Cũng theo tài liệu này của OECD thì nhân lực khoa học và công nghệ có
thể chia thành 2 loại:
- Nhân lực khoa học và công nghệ cấp độ đại học là những người hoàn
thành một trong các điều kiện: Có bằng cao đẳng, đại học hoặc sau đại học về
một lĩnh vực khoa học và công nghệ; tuy chưa đạt được điều kiện nêu trên,
nhưng làm việc trong một lĩnh vực khoa học và công nghệ đòi hỏi phải có trình
độ tương đương.
- Nhân lực khoa học và công nghệ cấp độ kỹ thuật viên là những người
hoàn thành một trong các điều kiện: có chứng nhận tham gia các chương trình
học mức độ thấp hơn cao đẳng, đại học về một lĩnh vực khoa học và công nghệ;
tuy chưa đạt được điều kiện nêu trên, nhưng làm việc trong một lĩnh vực khoa
học và công nghệ đòi hỏi phải có trình độ tương đương.
Ngoài ra, OECD còn nhấn mạnh vào nhân lực nghiên cứu và triển khai và
coi như một khái niệm hiểu theo nghĩa hẹp của nhân lực khoa học và công
nghệ. Nhân lực nghiên cứu và triển khai được xác định như “tất cả những người
làm việc trực tiếp về nghiên cứu và triển khai cũng như những người cung cấp
các dịch vụ trực tiếp như người quản lý, hành chính và thư ký nghiên cứu và
triển khai”. Theo chuyên môn thì nhân lực nghiên cứu và triển khai gồm các
nghiên cứu viên – những người có chuyên môn tham gia vào việc hình thành và
tạo ra tri thức, sản phẩm, qui trình, phương pháp và hệ thống mới cũng như
quản lý các dự án liên quan; Kỹ thuật viên và tương đương - những người mà
công việc chính của họ đòi hỏi tri thức công nghệ và kinh nghiệm trong một
hoặc nhiều lĩnh vực kỹ thuật, vật lý, khoa học sự sống hoặc khoa học xã hội và
nhân văn. Các cán bộ tương đương thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu và triển
khai tương ứng dưới sự hướng dẫn của các nghiên cứu viên. Cán bộ hỗ trợ khác
- những người có kỹ năng, không có kỹ năng, thư ký tham gia vào các dự án
nghiên cứu và triển khai hoặc trực tiếp phối hợp trong các dự án đó. Theo bằng
cấp chính thức thì nhân lực nghiên cứu và triển khai gồm những người có bằng
tiến sỹ, những người có bằng thạc sỹ và đại học dưới tiến sỹ, những người có
chứng chỉ đào tạo nghề và những người có bằng cấp kỹ thuật khác.
21
Thứ hai, theo UNESCO thì nhân lực khoa học và công nghệ được xác
định như “…tổng số những người tham gia trực tiếp vào hoạt động khoa học và
công nghệ và các dịch vụ khoa học và công nghệ trong một tổ chức hoặc một
đơn vị. Nhóm này gồm cả những nhà khoa học và kỹ sư, kỹ thuật viên và nhân
lực hỗ trợ…”. Nhà khoa học và kỹ sư đề cập đến những người sử dụng năng
lực của họ để tạo ra tri thức khoa học, các nguyên lý kỹ thuật và công nghệ, có
nghĩa là những người được đào tạo về khoa học và công nghệ tham gia vào
công việc chuyên môn về các hoạt động khoa học và công nghệ, những người
quản lý cấp cao và những người hướng dẫn thực hiện các hoạt động khoa học
và công nghệ. Kỹ thuật viên đề cập đến những người tham gia vào các hoạt
động khoa học và công nghệ, những người đã qua đào tạo nghề hoặc đào tạo kỹ
thuật trong một ngành tri thức hoặc công nghệ nhất định. Nhân lực hỗ trợ đề
cập đến những người mà công việc của họ trực tiếp liên quan đến việc thực
hiện các hoạt động khoa học và công nghệ, có nghĩa là các cán bộ hành chính,
thư ký, cán bộ có kỹ năng, có ít kỹ năng và chưa có kỹ năng trong các nghề
khác nhau và tất cả các cán bộ hỗ trợ khác.
Như vậy, ở đây có một sự khác nhau về cách tiếp cận nhân lực khoa học
và công nghệ giữa UNESCO và OECD. Khái niệm nhân lực khoa học và công
nghệ của UNESCO nhấn mạnh vào hoạt động khoa học và công nghệ (nghề
nghiệp) không phân biệt bằng cấp, kể cả những cán bộ hỗ trợ cũng được tính
vào nhân lực khoa học và công nghệ (những người này lại không được tính vào
nhân lực khoa học và công nghệ trong định nghĩa của OECD). Ngược lại,
những người có bằng cấp không tham gia vào hoạt động khoa học và công nghệ
thì được tính vào nhân lực khoa học và công nghệ theo OECD nhưng lại không
được tính vào nhân lực khoa học và công nghệ theo UNESCO. Như vậy, khái
niệm của OECD nhấn mạnh vào tiềm năng nhân lực khoa học và công nghệ.
Ở Việt Nam, thuật ngữ “nguồn nhân lực khoa học và công nghệ” người ta
thường thống nhất nó với toàn bộ lực lượng lao động xã hội đã qua đào tạo, từ
công nhân tới kỹ thuật viên, kỹ sư và những người có trình độ đào tạo cao hơn
nữa (thạc sĩ, tiến sĩ), đó là cách tiếp cận theo trình độ đào tạo. Trên thực tế, đội
ngũ này có ít nhiều đóng góp cho sự phát triển khoa học và công nghệ. Tuy
nhiên, trong số đó chỉ có một số ít là có đóng góp trực tiếp, còn đa số thuộc về
22
lực lượng chủ yếu phục vụ trực tiếp cho việc tạo ra của cải vật chất cho xã hội.
Do đó để xem xét nguồn nhân lực trực tiếp phục vụ cho việc tạo ra những tiến
bộ của khoa học và công nghệ, ta cần xem xét đội ngũ này theo các chức năng
nghề nghiệp mà họ đóng góp trong việc tạo ra tiến bộ khoa học và công nghệ,
cần phân biệt hai loại hình nhân lực sau đây:
- Nhân lực kỹ thuật: Bao gồm toàn bộ lực lượng lao động xã hội đã qua
đào tạo, từ công nhân tới kỹ thuật viên, kỹ sư và cả những người có trình độ
đào tạo cao hơn nữa (thạc sĩ, tiến sĩ) tham gia trong các hoạt động sản xuất ra
của cải vật chất cho xã hội.
- Nhân lực khoa học và công nghệ: bao gồm toàn bộ lực lượng lao động
xã hội trực tiếp góp phần tạo ra sự tiến bộ của khoa học và công nghệ nhằm
thúc đẩy phát triển sản xuất, đời sống và tiến bộ xã hội.
Như vậy đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ bao gồm các loại nhân lực
tham gia vào các hoạt động khoa học công nghệ với các chức năng:
- Nghiên cứu sáng tạo (các nhà khoa học và kỹ sư);
- Giảng dạy khoa học và công nghệ;
- Quản lý (trong khoa học và công nghệ, sản xuất, kinh doanh,…);
- Khai thác và sử dụng công nghệ (các kỹ thuật viên, các đốc công, giám
sát viên, công nhân lành nghề,…);
- Trực tiếp tác nghiệp, vận hành thiết bị, máy móc (công nhân kỹ thuật).
*Vai trò của nguồn nhân lực khoa học - công nghệ
Lý thuyết và thực tiễn phát triển ở tất cả các nước trên thế giới cho thấy,
nguồn nhân lực đóng vai trò hết sức quan trọng đối với quá trình tăng trưởng và
phát triển kinh tế. Trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển, mô hình tăng
trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào tích lũy vốn vật chất. Tuy nhiên, quá trình tăng
trưởng và phát triển kinh tế trong giai đoạn sau sẽ chủ yếu dựa trên cải tiến
công nghệ và phát triển vốn con người hay vốn nhân lực, đặc biệt là nhân lực
cho phát triển khoa học và công nghệ.
Không chỉ có vai trò quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế, nguồn nhân
lực cho phát triển khoa học và công nghệ có chất lượng cao còn có ý nghĩa
trong việc giải quyết các vấn đề xã hội, như bất bình đẳng, đói nghèo, các vấn
đề về môi trường và sự tiến bộ về mọi mặt của xã hội. Trong bối cảnh hội nhập
23
kinh tế, khi mà sự cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt, nguồn nhân lực đóng
vai trò ngày càng quan trọng.
Nghị quyết số 27 Hội nghị Trung ương 7 khóa X về trí thức cũng khẳng
định: “ đầu tư cho nhân lực khoa học và công nghệ, đãi ngộ người tài là đầu tư
cho phát triển bền vững, trực tiếp nâng tầm trí tuệ và sức mạnh của dân tộc”.
Đảng và Nhà nước có trách nhiệm và chính sách đặc biệt phát triển, trọng dụng
và phát huy tiềm năng sáng tạo của đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ để
khoa học và công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp quan trọng, đưa
nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020
và là nước công nghiệp hiện đại vào giữa thế kỷ XXI.
Quan điểm của Đảng ta về nhân lực khoa học và công nghệ đã được khẳng
định ngay từ những năm đầu tiên Việt Nam giành được độc lập. Chủ tịch Hồ
Chí Minh là tấm gương về trọng dụng nhân tài khoa học, đặc biệt quan tâm tới
việc tạo điều kiện và môi trường làm việc tốt nhất cho các nhân tài hoạt động
khoa học. Theo Người, phát hiện nhân tài đã khó nhưng việc khó hơn là làm thế
nào để đức, tài của họ được phát huy cao nhất trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Từ những năm 40-50 của thế kỷ XX, đã có nhiều nhân tài người
Việt, khâm phục lý tưởng, hoài bão và nhân cách Hồ Chí Minh, đã từ bỏ cuộc
sống giàu sang ở nước ngoài, đi theo Người vào cuộc kháng chiến trường kỳ,
gian khổ như Viện sĩ Trần Đại Nghĩa, Tiến sĩ Lương Định Của, nhà văn hóa
Phạm Huy Thông… Nhiều người trong số đó sau này đã đảm nhận cương vị
chủ chốt về các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, văn hóa của đất nước và được tôn
vinh bằng Giải thưởng Hồ Chí Minh ngay từ đợt xét tặng đầu tiên cho những
công trình khoa học xuất sắc của họ cho đất nước.
Tuy nhiên, trong giai đoạn kinh tế thị trường hiện nay, mặc dù các Nghị
quyết của Đảng, các văn bản pháp luật luôn quan tâm và đề cao vai trò của
nhân tài khoa học, nhưng trên thực tế chúng ta hầu như chưa có chính sách cụ
thể nào để thực sự trọng dụng, sử dụng và tôn vinh cán bộ khoa học. Đã đến lúc
phải thay đổi tư duy về chính sách đãi ngộ và trọng dụng cán bộ khoa học và
công nghệ, phải coi đây là một vấn đề cấp bách cần được giải quyết kịp thời.
Nhân lực khoa học và công nghệ là yếu tố quan trọng nhất trong các
nguồn lực, là yếu tố quyết định đối với sự phát triển của đất nước. Từ ngàn xưa
24
ông cha ta đã rất coi trọng lực lượng này, như câu nói nổi tiếng của nhà bác học
Lê Quý Đôn “Phi trí bất hưng”, câu nói của Nhà sử học Thân Nhân Trung đời
nhà Lê, thế kỷ XV: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Nguyên khí thịnh thì
thế nước mạnh rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu rồi thấp. Cho nên
các bậc thánh Đế, minh Vương chẳng ai không lấy việc bồi dưỡng nhân tài, kén
chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí làm việc đầu tiên…”. Trong tờ Báo Cứu quốc
số 91 ra ngày 14/11/1945, Bác Hồ đã từng kêu gọi “…Kiến thiết cần có nhân
tài. Nhân tài ở nước ta dù chưa có nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa
chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài càng ngày càng phát triển càng
thêm nhiều….”. Điều này cũng có nghĩa đất nước không có nguồn nhân lực
khoa học và công nghệ đủ mạnh thì không thể phát triển được. Sức mạnh của
một quốc gia tùy thuộc chủ yếu vào năng lực khoa học và công nghệ.
Đảng và Nhà nước ta cũng luôn đặt đội ngũ tri thức nói chung, đội ngũ
cán bộ khoa học và công nghệ nói riêng ở vị trí rất quan trọng, nó được thể hiện
qua nhiều Nghị quyết của Đảng và đặc biệt là sau Đại hội VIII, Đảng ta có
Nghị quyết Trung ương 2 trong đó có đề cập đến vấn đề khoa học và công
nghệ, giáo dục và đào tạo. Điều này một lần nữa đã khẳng định vai trò, vị trí
của nhân lực khoa học và công nghệ trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước mà toàn Đảng, toàn dân đang nổ lực thực hiện.
1.3. Vai trò nguồn nhân lực trong lĩnh vực khoa học và công nghệ tỉnh Bến
Tre trong công cuộc đổi mới và sự nghiệp CNH, HĐH
*Là lực lượng đi đầu trong phong trào tiến quân vào khoa học và
công nghệ, trước hết là địa bàn nông nghiệp và nông thôn
Thực chất của quá trình CNH, HĐH là quá trình vận dụng thành tựu khoa
học và công nghệ nhằm chuyển hệ thống kinh tế xã hội của đất nước, địa
phương từ trạng thái năng suất thấp, hiệu quả thấp, từ chủ yếu dựa vào vốn và
lao động thủ công là chính sang một hệ thống có năng suất cao, hiệu quả cao,
chủ yếu dựa trên năng suất yếu tố tổng hợp bao gồm yếu tố khoa học và công
nghệ, chất lượng nguồn nhân lực, phương pháp công nghiệp và kỹ năng sản
xuất hiện đại. Trong phong trào tiến quân vào khoa học và công nghệ thì đội
ngũ cán bộ khoa học và công nghệ phải là lực lượng xung kích thúc đẩy quá
trình CNH, HĐH, trước hết ở khu vực nông nghiệp và nông thôn. Trên trận địa