Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

thực trạng và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại và tranh chấp đất đai trên địa bàn huyện thanh trì, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.62 MB, 92 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM




VƯƠNG TIẾN QUYỀN


THỰC TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VÀ TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THANH TRÌ,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI


LUẬN VĂN THẠC SĨ





HÀ NỘI, NĂM 2015

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM




VƯƠNG TIẾN QUYỀN


THỰC TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VÀ TRANH CHẤP
ĐẤT ĐAI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THANH TRÌ,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI


CHUYÊN NGÀNH : QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
MÃ SỐ : 60.85.01.03



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHAN THỊ THANH HUYỀN



HÀ NỘI, NĂM 2015
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page i

LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là
trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được
cám ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn này đều được chỉ rõ nguồn gốc.


Hà Nội, ngày tháng năm 2015
Tác giả



Vương Tiến Quyền



Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page ii

LỜI CẢM ƠN


Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy giáo, cô giáo Khoa Quản lý đất đai - Học
viện Nông nghiệp Việt Nam đã tạo mọi điều kiện thuận lợi và nhiệt tình giảng dạy,
hướng dẫn tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu luận văn này.
Đặc biệt tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới TS. Phan Thị Thanh Huyền, là
người trực tiếp hướng dẫn khoa học, đã tận tình giúp đỡ và hướng dẫn tôi hoàn
thành luận văn này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ủy ban nhân dân huyện Thanh Trì, phòng Tài
nguyên và Môi trường huyện Thanh Trì, Thanh tra huyện Thanh Trì, Ủy ban nhân
dân các xã thuộc huyện Thanh Trì, nhân dân trong vùng nghiên cứu đã tạo mọi điều
kiện thuận lợi và cung cấp đầy đủ các thông tin, số liệu, tư liệu, bản đồ trong quá
trình nghiên cứu luận văn này.
Cuối cùng tôi trân trọng cảm ơn các bạn học viên cùng lớp, những người
thân trong gia đình và bạn bè đã giúp đỡ và động viên tôi trong quá trình học tập,
nghiên cứu hoàn thành luận văn này.


Hà Nội, ngày tháng năm 2015
Tác giả



Vương Tiến Quyền





Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iii

MỤC LỤC

Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục các chữ viết tắt vi
Danh mục bảng vii
Danh mục hình viii
MỞ ĐẦU 1
Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1 Cơ sở lý luận về khiếu nại và tranh chấp đất đai 3
1.1.1 Một số khái niệm 3
1.1.2 Các dạng khiếu nại, tranh chấp đất đai 10
1.2 Cơ sở thực tiễn liên quan đến vấn đề nghiên cứu của một số nước trên
thế giới 14

1.2.1 Anh 14
1.2.2 Pháp 15
1.2.3 Mỹ 16
1.2.4 Trung Quốc 16
1.2.5 Hàn Quốc 16
1.2.6 Singapore 17
1.3 Cơ sở thực tiễn của giải quyết khiếu nại và tranh chấp đất đai tại Việt Nam 17
1.3.1 Cơ sở pháp lý về giải quyết khiếu nại và tranh chấp đất đai 17
1.3.2 Khái quát về chủ trương, chính sách của Đảng và công tác chỉ đạo về
giải quyết khiếu nại, tranh chấp về đất đai 26
1.3.3 Tình hình giải quyết khiếu nại và tranh chấp đất đai trên địa bàn cả
nước và thành phố Hà Nội 28
Chương 2 NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 32
2.1 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 32
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iv

2.2 Nội dung nghiên cứu 32
2.2.1 Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và tình hình quản lý
đất đai của huyện Thanh Trì. 32
2.2.2 Thực trạng giải quyết khiếu nại và tranh chấp đất đai trên địa bàn
huyện Thanh Trì giai đoạn 2009 - 2013. 32
2.2.3 Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại và
tranh chấp đất đai trên địa bàn huyện Thanh Trì. 32
2.3 Phương pháp nghiên cứu 33
2.3.1 Phương pháp điều tra, thu thập số liệu thứ cấp 33
2.3.2 Phương pháp chọn điểm nghiên cứu 33
2.3.3 Phương pháp điều tra, thu thập số liệu sơ cấp 33
2.3.4 Phương pháp thống kê, tổng hợp số liệu 33
2.3.5 Phương pháp phân tích so sánh 33

2.3.6 Phương pháp chuyên khảo 34
2.3.7 Phương pháp minh họa bằng biểu đồ, đồ thị 34
Chương 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 35
3.1 Đánh giá điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và tình hình quản lý và sử
dụng đất đai của huyện Thanh Trì 35
3.1.1 Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện Thanh Trì 35
3.1.2 Tình hình quản lý và sử dụng đất đai huyện Thanh Trì 41
3.2 Thực trạng giải quyết khiếu nại và tranh chấp đất đai huyện Thanh Trì
giai đoạn 2009 - 2013 53
3.2.1 Thực trạng giải quyết khiếu nại về đất đai trên địa bàn huyện Thanh
Trì giai đoạn 2009 - 2013 56
3.2.2 Thực trạng giải quyết tranh chấp về đất đai huyện Thanh Trì giai đoạn
2009 - 2013 62
3.2.3 Đánh giá chung về thực trạng giải quyết khiếu nại và tranh chấp đất
đai trên địa bàn huyện Thanh Trì giai đoạn 2009 - 2013 67
3.3 Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại và
tranh chấp đất đai trên địa bàn huyện Thanh Trì 70
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page v

3.3.1 Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về
khiếu nại, tranh chấp đất đai 70
3.3.2 Nâng cao vai trò của công tác hòa giải cấp cơ sở 71
3.3.3 Hoàn thiện hệ thống hồ sơ địa chính, tăng cường công tác cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất 71
3.3.4 Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc quản lý và sử dụng đất 72
3.3.5 Xử lý dứt điểm các vụ việc tồn đọng, phức tạp, khiếu kiện kéo dài 72
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 74
1 Kết luận 74
2 Đề nghị 75

TÀI LIỆU THAM KHẢO 76


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vi

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Ký hiệu Diễn giải
CP Chính phủ
GCN Giấy chứng nhận
KN Khiếu nại
QSDĐ Quyền sử dụng đất
SDĐ Sử dụng đất
TC Tranh chấp
TN&MT Tài nguyên và Môi trường
TP Thành phố
UBND Ủy ban nhân dân
VPĐK Văn phòng đăng ký
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vii

DANH MỤC BẢNG


STT Tên bảng Trang

3.1 Thực trạng dân số và lao động huyện Thanh Trì giai đoạn 2011 - 2013 39
3.2 Diện tích và cơ cấu đất đai huyện Thanh Trì năm 2013 52
3.3 Thực trạng tiếp nhận đơn thư khiếu nại, tranh chấp đất đai huyện

Thanh Trì giai đoạn 2009 - 2013 54
3.4 Thực trạng tiếp nhận đơn thư khiếu nại, tranh chấp đất đai trên địa bàn
các xã thuộc huyện Thanh Trì giai đoạn 2009 - 2013 55
3.5 Phân loại khiếu nại về đất đai giai đoạn 2009 - 2013 57
3.6 Kết quả giải quyết khiếu nại về đất đai huyện Thanh Trì giai đoạn
2009 - 2013 59
3.7 Kết quả đánh giá của người dân về công tác giải quyết khiếu nại về
đất đai huyện Thanh Trì 61
3.8 Tổng hợp các dạng tranh chấp đất đai huyện Thanh Trì giai đoạn
2009 - 2013 62
3.9 Kết quả hòa giải tranh chấp đất đai giai đoạn 2009 - 2013 63
3.10 Thực trạng giải quyết tranh chấp đất đai tại huyện Thanh Trì giai
đoạn 2009 - 2013 64
3.11 Tổng hợp kết quả giải quyết tranh chấp đất đai và ý kiến, nhận thức
của người dân về tranh chấp đất đai 66


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page viii

DANH MỤC HÌNH

STT Tên hình Trang

3.1 Sơ đồ và vị trí huyện Thanh Trì 35
3.2 Tăng trưởng kinh tế huyện Thanh Trì giai đoạn 2009 - 2013 38
3.3 Biểu đồ cơ cấu đất đai huyện Thanh Trì năm 2013 52










Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Đối với mỗi quốc gia, đất đai là hiện thân của chủ quyền lãnh thổ, là nguồn
tài nguyên vô cùng quý giá và trở thành nguồn nội lực cho sự phát triển kinh tế, xã
hội, an ninh và quốc phòng. Đối với mỗi người dân, đất đai không chỉ là nơi ăn,
chốn ở mà còn là tư liệu sản xuất không gì thay thế được trong sản xuất nông
nghiệp, là tư liệu lao động chung trong các ngành sản xuất khác. Ở khía cạnh kinh
tế, đất đai đối với mỗi người dân đã và đang trở thành một phương thức tích lũy của
cải lâu dài và vững chắc nhất. Đất đai không chỉ phục vụ cho các mục đích hiện hữu
cho nhu cầu đời sống hàng ngày mà đã trở trở thành loại tài sản đặc biệt, hàng hóa
đặc biệt được sử dụng để trao đổi, lưu thông trên thị trường và chịu sự tác động
mạnh mẽ của các quy luật của thị trường.
Xã hội ngày càng phát triển, theo đó, các quan hệ đất đai cũng ngày càng được
thiết lập đa dạng và phong phú hơn cả bề rộng lẫn chiều sâu. Đặc biệt, với sự phát triển
nhanh chóng của nền kinh tế thị trường, các quan hệ đất đai cũng ngày càng lan rộng
nhanh chóng ở phạm vi quy mô cũng như độ phức tạp của nó. Kéo theo đó, các tranh
chấp, mâu thuẫn, bất đồng của các chủ thể tham gia quan hệ cũng phát sinh và phát
triển theo chiều hướng đa dạng và phức tạp về tính chất, mức độ và ngày càng phổ biến
hơn. Dẫu vẫn hiểu và ý thức được rằng, tranh chấp đất đai là hiện tượng xuất hiện bình
thường trong đời sống xã hội, ở mọi thời kỳ lịch sử và chúng cũng tồn tại ở bất kỳ chế

độ sở hữu nào, song điều không thể phủ nhận được rằng, ở mỗi quốc gia khác nhau,
với chế độ chính trị khác nhau, đặc biệt là với chế độ sở hữu về đất đai khác nhau thì
tính chất, đặc điểm của tranh chấp đất đai xảy ra cũng có những đặc điểm không giống
nhau, và điều quan trọng hơn là sự chi phối của chủ thể sở hữu đối với việc giải quyết
các tranh chấp, mâu thuẫn, bất đồng về tranh chấp cũng hết sức khác nhau.
Nhiều năm nay trên địa bàn đất nước ta, tình hình khiếu nại và tranh chấp đất
đai luôn là vấn đề cấp thiết được Đảng, Nhà nước và toàn xã hội quan tâm. Đảng và
Nhà nước đã có nhiều Chỉ thị, Nghị quyết về vấn đề này. Các văn bản đó đã và
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 2

đang được triển khai thực hiện, có tác động tích cực đến tình hình khiếu nại, tranh
chấp đất đai và giải quyết khiếu nại, tranh chấp đất đai. Nhờ vậy, nhiều “điểm
nóng”, nhiều vụ việc phức tạp đã được giải quyết, góp phần ổn định tình hình an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của đất nước. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân,
thời gian gần đây tình hình khiếu nại và tranh chấp đất đai của công dân diễn ra
không bình thường, số lượng gia tăng, tính chất phức tạp, trong đó khiếu nại và
tranh chấp đất đai chiếm số lượng lớn, khoảng 80% so với các khiếu nại và tranh
chấp trong cả nước, có những tỉnh, thành phố riêng về đất đai chiếm số lượng rất
lớn như: thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng, Hải Phòng, Thái Bình, Cần
Thơ, Hải Dương, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu, Long An, Bến Tre,
Đồng Tháp, An Giang, Sóc Trăng
Huyện Thanh Trì là một huyện ngoại thành thuộc thành phố Hà Nội, có diện
tích tự nhiên 6.292,71 ha, có vị trí thuận lợi cho việc phát triển và giao lưu kinh tế,
văn hóa - xã hội. Trong những năm gần đây, tình hình quản lý đất đai đã đi vào nề
nếp. Tuy nhiên, trên địa bàn huyện vẫn còn diễn ra tình trạng người dân khiếu nại và
tranh chấp đất đai. Xuất phát từ thực

tế trên, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:


“Thực
trạng và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại và tranh chấp đất
đai trên địa bàn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội”.
2. Mục đích đề tài
- Đánh giá thực trạng giải quyết khiếu nại và tranh chấp đất đai trên địa bàn
huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại và
tranh chấp đất đai trên địa bàn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội.
3. Yêu cầu của đề tài
- Nguồn số liệu, tài liệu điều tra thu thập phải có độ tin cậy, chính xác, trung
thực và khách quan, phản ánh đúng quá trình thực hiện giải quyết khiếu nại và tranh
chấp đất đai của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
- Những kiến nghị, đề xuất đưa ra phải có tính khả thi, phù hợp với thực tế
của địa phương.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 3



Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Cơ sở lý luận về khiếu nại và tranh chấp đất đai
1.1.1. Một số khái niệm
1.1.1.1 Khái niệm về khiếu nại và tranh chấp đất đai
a. Khái niệm về khiếu nại về đất đai
Nhà nước thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật. Trong quá trình tiến hành
các hoạt động quản lý, các cơ quan Nhà nước ban hành các văn bản, các quyết định
quản lý theo thẩm quyền để thực hiện quyền lực Nhà nước, buộc mọi người phải tuân
theo. Tuy vậy, các văn bản hay quyết định đó có sự sai sót hoặc do cán bộ, công chức

thi hành công vụ có hành vi vi phạm pháp luật xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp
của công dân, cơ quan, tổ chức nên có khiếu nại phát sinh.
Vì vậy, khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức
theo thủ tục do Luật này quy định, đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền
xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà
nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc quyết định kỷ
luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp
luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình (Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam, 2011).
Từ khái niệm này cho ta thấy: Chủ thể khiếu nại bao gồm: công dân, cơ
quan, tổ chức và cán bộ công chức; đối tượng khiếu nại là quyết định hành chính và
hành vi hành chính. Quyết định hành chính là văn bản do cơ quan hành chính nhà
nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước ban hành để
quyết định về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước được
áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể. Hành vi hành chính là
hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 4

hành chính nhà nước thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy
định của pháp luật.
Thực tế, bất kỳ một hành vi vi phạm pháp luật nào cũng có thể dẫn đến khiếu
nại, nhưng ở đây, chúng ta nghiên cứu khái niệm khiếu nại ở nghĩa hẹp, có nội hàm
được quy định trong Luật Khiếu nại.
Nguyên nhân phát sinh khiếu nại có nhiều vấn đề như: Cơ chế chính sách
của Nhà nước bất cập, không phù hợp với thực tế; tình hình chính trị, kinh tế xã hội
tác động và tạo điều kiện dễ dàng để thực hiện khiếu nại; người khiếu nại không
nắm vững các quy định của pháp luật, chính sách của Nhà nước; cán bộ công chức,
người thi hành công vụ yếu kém về năng lực trình độ, tha hoá về đạo đức phẩm
chất… đều dẫn đến phát sinh khiếu nại.

Trong quá trình thực hiện chức năng quản lý, các cơ quan hành chính nhà
nước tác động đến đối tượng quản lý thông qua quyết định hành chính, hành vi
hành chính, nên khi quyết định hành chính, hành vi hành chính trái pháp luật là
nguyên nhân phát sinh khiếu nại hành chính.
Quyết định hành chính trái pháp luật thể hiện chủ yếu là vi phạm về: Hình
thức, thủ tục của quyết định hành chính; thẩm quyền ban hành quyết định hành chính;
nội dung, phạm vi điều chỉnh của quyết định hành chính. Thực tế, một quyết định
hành chính trái Pháp luật có thể vi phạm một hoặc cả hai, ba dạng trên, về phương
diện pháp lý không chấp nhận bất kỳ một dạng vi phạm nào. Tuy nhiên, những khiếu
nại về vi phạm pháp luật của quyết định hành chính thường tập trung vào những vi
phạm nội dung, phạm vi điều chỉnh của quyết định. Bởi vì vi phạm về nội dung,
phạm vi điều chỉnh của quyết định hành chính trực tiếp tác động, gây thiệt hại đối với
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.
Người thừa hành công vụ có thể có hành vi trái Pháp luật và bị khiếu nại khi thực
hiện nhiệm vụ theo thẩm quyền, hoặc trực tiếp thi hành các quyết định hành chính. Hành
vi hành chính được biểu thị bằng hành động. Hành vi hành chính có thể do hành động
hoặc không hành động mà vi phạm Pháp luật, khi đó là đối tượng của khiếu nại.
Luật khiếu nại chỉ quy định các quyết định hành chính hoặc hành vi hành
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 5

chính trái pháp luật trong các cơ quan hành chính Nhà nước, xâm hại đến các
quyền, lợi ích công dân, cơ quan, tổ chức được pháp luật bảo vệ là đối tượng của
khiếu nại hành chính.
b. Khái niệm về tranh chấp đất đai
Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử với những chính sách pháp luật đất đai khác
nhau, cho dù đất đai là tài sản thuộc sở hữu tư nhân, hay chỉ được giao quyền sử dụng
cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân thì ở nước ta, hiện tượng tranh chấp đất đai vẫn xảy
ra phổ biến, diễn biến phức tạp, ảnh hưởng xấu đến công tác quản lý nhà nước về đất
đai nói chung và việc sử dụng đất nói riêng, gây ra nhiều bất ổn nhất định đối với đời

sống kinh tế - xã hội. Nhà nước phải ban hành nhiều quy định pháp luật để giải quyết
vấn đề trên. Vậy tranh chấp đất đai là gì? Khái niệm này tưởng chừng đơn giản nhưng
nhưng lại có nhiều ý nghĩa trong việc phân định thẩm quyền, xác định nội dung cần
giải quyết đối với các tranh chấp đất đai
Theo Từ điển tiếng Việt thông dụng: “Tranh chấp: 1. Giành giật, giằng co nhau cái
không rõ thuộc về bên nào. 2. Bất đồng, trái ngược nhau” (Nguyễn Như Ý, 2001).
Trước khi Luật Đất đai 2003 ra đời, thuật ngữ “tranh chấp đất đai” chưa được
chính thức giải thích, mà chủ yếu là chỉ được “hiểu ngầm” qua các quy định của pháp
luật về giải quyết tranh chấp đất đai, quy định về giải quyết các tranh chấp khác có
liên quan đến quyền sử dụng đất. Lần đầu tiên tại khoản 26 Điều 4 của Luật Đất đai
2003 đã định nghĩa “tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của người
sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai” (Quốc hội nước Cộng hòa
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, 2003).
Theo khái niệm này, đối tượng tranh chấp trong tranh chấp đất đai là quyền
và nghĩa vụ của người sử dụng đất. Nhưng, đây là tranh chấp tổng thể các quyền
và nghĩa vụ hay chỉ là tranh chấp từng quyền và nghĩa vụ “đơn lẻ” của người sử
dụng đất do pháp luật đất đai quy định, hay bao gồm cả tranh chấp những quyền
và nghĩa vụ mà người sử dụng đất có được khi tham gia vào các quan hệ pháp
luật khác cho đến nay vẫn chưa được chính thức xác định. Bên cạnh đó, chủ thể
tranh chấp vốn được gọi là “hai hay nhiều bên” cũng không được xác định rõ
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 6

ràng: chỉ bao gồm người sử dụng đất hay là tất cả các chủ thể có liên quan đến
quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất trong quan hệ tranh chấp đất đai. Chính
sự chung chung này đã khiến cho nội dung của tranh chấp đất đai nhiều lúc được
mở rộng tối đa ở mức độ có thể.
Dẫn chiếu tới quy định của Luật Đất đai năm 2003 về giải quyết tranh chấp
đất đai có thể thấy, các chủ thể tham gia tranh chấp đất đai chỉ bao gồm những
người sử dụng đất. Mặc dù, Điều 135 và Điều 136 của Luật Đất đai năm 2003 sử

dụng cả hai khái niệm “tranh chấp đất đai” và “tranh chấp quyền sử dụng đất”
nhưng khái niệm “tranh chấp đất đai” rộng hơn khái niệm “tranh chấp quyền sử
dụng đất”. Chính do chế độ sở hữu toàn dân về đất đai ở Việt Nam nên nội dung
chính của quan hệ tranh chấp đất đai chỉ bó hẹp lại là tranh chấp về quyền sử
dụng đất. Nhà nước không thừa nhận và đứng ra là một bên chủ thể ngang hàng
với người sử dụng đất trong các vụ tranh chấp đất đai. Theo đó, nếu người sử
dụng đất thấy quyền lợi của mình bị ảnh hưởng bởi các quyết định của cơ quan
nhà nước, hành vi hành chính của cán bộ công chức thì có quyền khiếu nại theo
thủ tục khiếu nại, tố cáo.
Ở một khía cạnh khác, khoản 26 Điều 4 Luật Đất đai 2003 cũng có thể được
hiểu ở phạm vi khác. Cụ thể, tranh chấp đất đai là tranh chấp về “quyền” và tranh chấp
về “nghĩa vụ” liên quan đến đất đai của người hiện đang quản lý, sử dụng đất với
những người có liên quan trong quan hệ đất đai. Theo đó, tất cả các giao dịch dân sự
giữa các chủ thể mà đối tượng của giao dịch đó là đất đai, quyền và nghĩa vụ về đất đều
được hiểu là quan hệ đất đai. Và theo cách hiểu này, các tranh chấp liên quan đến việc
thực hiện các hợp đồng về đất đai sẽ được hiểu là tranh chấp đất đai, chẳng hạn tranh
chấp về nghĩa vụ nộp thuế chuyển quyền sử dụng đất giữa các bên tham gia quan hệ
chuyển nhượng - nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hay tranh chấp về quyền yêu
cầu trả công trong hợp đồng ủy quyền quản lý, sử dụng đất… Rõ ràng, các tranh chấp
dạng này là những tranh chấp dân sự thuần túy, và thực tiễn các vụ việc này đều không
được các cơ quan hành chính thụ lý mà được Tòa án nhân dân thụ lý, giải quyết theo
thủ tục tố tụng dân sự.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 7

Định nghĩa tranh chấp đất đai theo khoản 26 Điều 4 Luật Đất đai 2003 do có nội
hàm rất rộng nên đã gây nhiều cách hiểu không chính xác. Nhiều quan điểm đã đồng
tình với cách hiểu rằng, tranh chấp đất đai là tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể tham
gia quan hệ pháp luật đất đai về quyền và nghĩa vụ trong quá trình quản lý và sử dụng
đất. Hơn nữa, các tranh chấp có liên quan đến quyền sử dụng đất của người sử dụng đất

cũng đã từng được quy định cụ thể trong một số văn bản hướng dẫn về thẩm quyền giải
quyết các tranh chấp liên quan đến đất đai với tên gọi là tranh chấp liên quan đến quyền
sử dụng đất chứ không phải tranh chấp đất đai một cách chung chung. Vì vậy, tranh
chấp đất đai cần được hiểu là tranh chấp quyền sử dụng đối với diện tích đất cụ thể
giữa các chủ thể trong hoạt động quản lý, sử dụng đất. Các dạng tranh chấp khác đều
được hiểu là tranh chấp liên quan đến đất đai và được giải quyết bởi cơ quan Tòa án
theo thủ tục tố tụng dân sự.
Như vậy, nên hiểu tranh chấp đất đai ở nước ta chính là tranh chấp quyền
sử dụng đất hay bao gồm cả tranh chấp quyền sử dụng đất và các tranh chấp liên
quan đến quyền sử dụng đất, vì làm rõ khái niệm tranh chấp đất đai có thể giúp
xác định chính xác đối tượng tranh chấp trong tranh chấp đất đai, góp phần áp
dụng pháp luật một cách chính xác và thống nhất, góp phần hoàn thiện pháp luật
đất đai, tránh được trường hợp quy định của luật này chồng chéo lên quy định của
luật kia. Hiện nay, ngành tòa án ở nước ta vẫn thống kê các tranh chấp liên quan
đến quyền sử dụng đất vào mục tranh chấp đất đai nói chung. Vì vậy theo tôi,
tranh chấp đất đai là bao gồm tranh chấp quyền sử dụng đất và tất cả các tranh
chấp liên quan đến quyền sử dụng đất và trong điều kiện của nước ta hiện nay,
cũng nên hiểu tranh chấp đất đai chính là tranh chấp quyền sử dụng đất và các
tranh chấp khác liên quan đến quyền sử dụng đất thì phù hợp hơn. Tóm lại, có thể
hiểu như sau: “Tranh chấp đất đai là sự bất đồng, mâu thuẫn hay xung đột về mặt
lợi ích, về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia vào quan hệ đất đai trong
quá trình quản lý và sử dụng đất đai”.
1.1.1.2. Khái niệm về giải quyết khiếu nại, tranh chấp đất đai
a. Khái niệm về giải quyết khiếu nại về đất đai
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 8

Theo quy định Luật Khiếu nại năm 2011 thì giải quyết khiếu nại là việc thụ
lý, xác minh, kết luận và ra quyết định giải quyết khiếu nại (Quốc hội nước Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, 2011).

Giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai: là việc cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền tiến hành kiểm tra, xác minh, kết luận về tính hợp pháp của hành vi bị
khiếu nại liên quan đến lĩnh vực đất đai để có biện pháp giải quyết theo quy định
của pháp luật nhằm bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, cơ quan, tổ chức.
b. Khái niệm về giải quyết tranh chấp đất đai
Theo từ điển giải thích thuật ngữ luật học, "Giải quyết tranh chấp đất đai là
giải quyết bất đồng, mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, tổ chức và trên cơ sở đó phục
hồi các quyền lợi hợp pháp bị xâm hại đồng thời truy cứu trách nhiệm pháp lý đối
với hành vi vi phạm pháp luật về đất đai" (Nguyễn Ngọc Hoà, 1999).
Theo Trần Minh Hương (2007), việc giải quyết tranh chấp đất đai là tìm ra
giải pháp đúng đắn trên cơ sở pháp luật nhằm giải quyết những bất đồng, mâu
thuẫn trong nội bộ nhân dân. Trên cơ sở đó, phục hồi các quyền lợi hợp pháp cho
bên bị xâm phạm đồng thời bắt buộc bên vi phạm phải gánh chịu những hậu quả
pháp lý do hành vi của họ gây ra.
Như vậy, giải quyết tranh chấp đất đai là việc vận dụng đúng đắn các quy định của
pháp luật để bảo vệ tốt nhất các quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất.
Theo Điều 135, Luật Đất đai 2003: Nhà nước khuyến khích các bên tranh
chấp đất đai tự hoà giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hoà giải ở cơ
sở (Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, 2003).
Theo quy định của pháp luật hiện hành, có những tranh chấp phải thực hiện
hòa giải cơ sở trước khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết. Đó là các
tranh chấp đất đai phát sinh giữa những người sử dụng đất với nhau, cụ thể: các
tranh chấp về quyền chiếm hữu, quản lý và sử dụng đất; các tranh chấp về tài sản
liên quan đến đất đai; các tranh chấp về chuyển quyền sử dụng đất.
Xét về bản chất thì đây là những tranh chấp dân sự phát sinh giữa những người
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 9

sử dụng đất với nhau trong quá trình sử dụng đất, bình đẳng với nhau về quyền và

nghĩa vụ. Nguyên tắc tự do, bình đẳng, thỏa thuận ý chí chi phối các giao dịch dân sự
về quyền sử dụng đất. Vì vậy, khi loại tranh chấp này phát sinh thì việc hòa giải được
ưu tiên và khuyến khích áp dụng. Hơn nữa, các tranh chấp đất đai phát sinh giữa
những người sử dụng đất với nhau ban đầu thường là những bất đồng, mâu thuẫn
nhỏ, tính chất đơn giản nên chỉ cần tiến hành hòa giải là có thể hóa giải các mâu
thuẫn này mà chưa phải đưa đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền để giải quyết.
1.1.1.3. Khái niệm hòa giải tranh chấp đất đai
Hòa giải là việc hướng dẫn, giúp đỡ, thuyết phục các bên đạt được thỏa thuận,
tự nguyện giải quyết với nhau những tranh chấp, xung đột nhằm giữ gìn sự đoàn kết
trong nội bộ nhân dân (Nguyễn Tiến Sỹ và Phan Thị Thanh Huyền, 2014).
Hoà giải là tự chấm dứt việc xích mích, tranh chấp giữa các bên bằng sự
thương lượng với nhau hoặc qua sự trung gian của một người khác. Hoà giải thành
thì giữ gìn được sự đoàn kết giữa các bên, tránh được việc kiện tụng kéo dài, tốn
kém và những trường hợp chỉ vì mâu thuẫn nhỏ mà biến thành việc hình sự (The
Asian Foundation, 2013).
“Hoà giải tranh chấp đất đai” là một thuật ngữ được sử dụng trong các văn
bản pháp Luật Đất đai. Tuy nhiên, thuật ngữ này lại không được giải thích cụ thể
trong Luật Đất đai năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Căn cứ vào quan
niệm chung về hoà giải, có thể đưa ra khái niệm về hoà giải tranh chấp đất đai như
sau: “Hoà giải tranh chấp đất đai là tự chấm dứt việc xích mích, tranh chấp trong sử
dụng đất giữa các bên bằng sự thương lượng với nhau hoặc qua sự trung gian của
một người khác” (The Asian Foundation, 2013).
Hòa giải tranh chấp đất đai đã được cụ thể hóa trong Luật Đất đai năm 1993
(Điều 38): "Nhà nước khuyến khích việc hòa giải các tranh chấp đất đai trong nhân
dân. Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn có trách nhiệm phối hợp với Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, Hội Nông dân, các tổ chức thành viên khác của Mặt trận, các tổ
chức xã hội khác, tổ chức kinh tế ở cơ sở và công đoàn hòa giải các tranh chấp đất
đai" (Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, 1993). Luật Đất đai
2003 (Điều 135) tiếp tục khẳng định: "Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 10

đất đai tự hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải ở cơ sở"
(Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, 2003).
Hòa giải thành công không chỉ đem lại lợi ích vật chất cho các bên tranh
chấp mà còn giúp họ giải quyết được mâu thuẫn, xung đột, hàn gắn được tình làng
nghĩa xóm, tình anh em, thân tộc, tình cảm bà con khối phố, làng trên xóm dưới,
giúp cho các bên thông cảm chia sẻ, bỏ qua quá khứ xích lại gần nhau, cùng nhau
hướng tới cuộc sống tốt đẹp, phát triển kinh tế bền vững, góp phần xây dựng xã hội
đoàn kết, dân chủ và thân thiện (Nguyễn Tiến Sỹ và Phan Thị Thanh Huyền, 2014).
1.1.2. Các dạng khiếu nại, tranh chấp đất đai
1.1.2.1. Các dạng khiếu nại đất đai
Theo Nguyễn Uyên Minh (2010), khiếu nại về đất đai ở nước ta hiện nay
gồm một số dạng chủ yếu sau:
- Khiếu nại về bồi thường, hỗ trợ tái định cư.
Để thực hiện chính sách phát triển kinh tế, xã hội đất nước, Nhà nước đã tiến
hành thu hồi đất, giải phóng mặt bằng phục vụ cho các dự án phát triển. Tuy nhiên,
vấn đề bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho những diện bị thu hồi đất ở nhiều địa
phương gặp không ít khó khăn, vướng mắc vì một số lý do sau: Một số dự án chưa
có khu tái định cư hoặc chưa giải quyết tái định cư đã quyết định thu hồi đất ở.
Những trường hợp bị thu hồi đất ở thì tiền bồi thường không đủ để mua nhà ở mới
tại khu tái định cư; giá đất bồi thường thấp hơn giá đất cùng loại trên thị trường, đặc
biệt là đối với đất nông nghiệp trong khu vực đô thị, khu dân cư nông thôn; tiền bồi
thường đất nông nghiệp thường không đủ để nhận chuyển nhượng diện tích đất
nông nghiệp tương tự hoặc không đủ để nhận chuyển nhượng đất sản xuất kinh
doanh phi nông nghiệp để chuyển sang làm ngành nghề khác. Nhìn chung, các địa
phương chưa coi trọng việc lập khu tái định cư chung cho các dự án trên cùng địa
bàn, một số khu tái định cư đã được lập nhưng không bảo đảm điều kiện tốt hơn
hoặc bằng nơi ở cũ, giá nhà ở tại khu tái định cư còn tính quá cao nên tiền nhận bồi
thường không đủ trả cho nhà ở tại khu tái định cư. Các quy định của pháp luật về

đất đai để giải quyết vấn đề tái định cư đã khá đầy đủ nhưng các địa phương thực
hiện chưa tốt, thậm chí một số địa phương chưa quan tâm giải quyết nhiệm vụ này
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 11

dẫn đến tình trạng khiếu nại kéo dài.
- Khiếu nại về việc cấp, thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Đây là dạng khiếu nại rất phổ biến hiện nay. Dạng khiếu nại này phát sinh một
phần từ sai sót của cơ quan có thẩm quyền, như: Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất sai sót về tên chủ sử dụng, sơ đồ thửa đất, diện tích… Có những trường hợp, không
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà không có lý do chính đáng hoặc lý do
không rõ ràng. Các cơ quan có thẩm quyền trong quá trình giải quyết lại không giải
thích rõ cho dân hiểu lý do tại sao không cấp giấy. Quá trình giải quyết hồ sơ diễn ra
chậm, gây phiền hà, sách nhiễu… gây khó khăn cho người sử dụng đất. Một nguyên
nhân khác là do quy hoạch treo hoặc do người dân không chấp nhận dù lý do không
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là chính đáng….
- Khiếu nại quyết định xử phạt vi phạm hành chính về vi phạm chế độ quản
lý, sử dụng đất đai.
Nội dung khiếu nại này cũng có nhiều dạng. Một số bộ phận người dân
không nắm rõ về Luật Đất đai và Luật Khiếu nại nên phát sinh tình trạng vi phạm
pháp luật hoặc các trường hợp lấn chiếm, vi phạm quy tắc xây dựng. Một số người
mặc dù khá am hiểu pháp luật nhưng vẫn cố tình vi phạm, khi bị phát hiện và xử
phạt thì ngoan cố khiếu nại. Bên cạnh đó, cũng có phần trách nhiệm của các cơ
quan có thẩm quyền trong quá trình giải quyết, như: ra quyết định xử phạt sai đối
tượng, bị nhầm lẫn, sai tên chủ sử dụng; việc thi hành quyết định xử phạt có sai sót
hoặc sai pháp luật; việc ra quyết định không đúng căn cứ pháp luật; việc ra quyết
định quá nhẹ hoặc quá nặng (về mức phạt hoặc hình thức phạt) hoặc thiếu trách
nhiệm, thiếu khách quan.
- Khiếu nại việc giải quyết các tranh chấp về đất đai của các cơ quan nhà
nước: Khiếu nại trong lĩnh vực này cũng rất phức tạp và đa dạng như:

+ Khiếu nại việc giải quyết tranh chấp đòi lại đất cũ: (i) Đòi lại đất, tài sản
của dòng họ, của người thân trong các giai đoạn khác nhau, qua các cuộc điều chỉnh
đã giao cho người khác sử dụng; (ii) Đòi lại đất cũ do trước kia thực hiện chính sách
"nhường cơm sẻ áo” của Nhà nước trong những năm 1981 - 1986 (đã nhường đất
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 12

cho người khác sử dụng nay họ đòi lại); (iii) Đòi lại đất khi thực hiện hợp tác hóa
nông nghiệp, theo mô hình sản xuất tập thể quản lý tập trung;
+ Khiếu nại việc giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất, thừa kế tài
sản gắn liền với quyền sử dụng đất;
+ Khiếu nại việc giải quyết tranh chấp ranh giới sử dụng đất;
+ Khiếu nại việc giải quyết tranh chấp nhà đất do đã cho mượn, cho thuê,
cho ở nhờ;
+ Khiếu nại việc giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất;
+ Khiếu nại việc giải quyết tranh địa giới hành chính: Loại tranh chấp này
thường xảy ra giữa 2 tỉnh, 2 huyện, 2 xã với nhau tập trung ở những nơi có vị trí
quan trọng trong việc phát triển kinh tế, văn hoá, bên cạnh những vị trí dọc theo
triền sông, những vùng có địa giới không rõ ràng, không có mốc giới nhưng là vị trí
quan trọng. Các tranh chấp có thể diễn ra ở những nơi có tài nguyên thiên nhiên
quý, hiếm, nơi có nguồn lâm thổ sản có giá trị lớn. Khi Nhà nước tiến hành phân
tách các đơn vi hành chính tỉnh, huyện, thị xã, xã mới thì tranh chấp đất đai liên
quan đến địa giới hành chính diễn ra ở nhiều địa phương trên cả nước …
1.1.2.2. Các dạng tranh chấp đất đai
Các dạng tranh chấp đất đai phổ biến trên thực tế nảy sinh thuộc các dạng
chủ yếu sau đây (The Asian Foundation, 2013):
- Nhóm tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất. Các tranh chấp đất đai
thuộc nhóm này bao gồm: (i) Tranh chấp về ranh giới sử dụng đất (SDĐ); (ii) Tranh
chấp về ngõ đi. Nhóm tranh chấp liên quan đến chuyển quyền sử dụng đất. Các
tranh chấp đất đai thuộc nhóm này bao gồm: (i) Tranh chấp về thừa kế quyền sử

dụng đất; (ii) Tranh chấp về tặng cho quyền sử dụng đất; (iii) Tranh chấp về chuyển
nhượng quyền sử dụng đất; (iv) Tranh chấp về cho thuê quyền sử dụng đất; (v)
Tranh chấp về thế chấp quyền sử dụng đất.
- Nhóm tranh chấp liên quan đến thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
Các tranh chấp đất đai thuộc nhóm này bao gồm: (i) Tranh chấp về việc thu hồi đất
sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế; (ii) Tranh chấp về việc thực hiện phương
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 13

án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
- Nhóm tranh chấp liên quan đến giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Các
tranh chấp đất đai thuộc nhóm này bao gồm: (i) Tranh chấp về điều kiện cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất; (ii) Tranh chấp về đối tượng được cấp giấy chứng
nhận quyền SDĐ; (iii) Tranh chấp về nghĩa vụ tài chính khi cấp giấy chứng nhận
quyền SDĐ; (iv) Tranh chấp về diện tích đất ghi trong giấy chứng nhận quyền SDĐ
so với diện tích đất thực tế người dân đang sử dụng.
- Nhóm tranh chấp về tài sản gắn liền với đất. Các tranh chấp đất đai thuộc
nhóm này bao gồm: (i) Tranh chấp về chia tài sản chung là nhà, đất của vợ, chồng
khi ly hôn; (ii) Tranh chấp về chia thừa kế nhà ở gắn liền với đất.
Các tranh chấp đất đai trên đây phát sinh giữa những chủ thể sau: Thứ nhất,
tranh chấp đất đai phát sinh giữa những người sử dụng đất với nhau (bao gồm giữa hộ
gia đình, cá nhân với nhau; giữa hộ gia đình, cá nhân với tổ chức; giữa tổ chức với tổ
chức) liên quan đến quyền và nghĩa vụ sử dụng đất. Các tranh chấp đất đai này mang
tính phổ biến và tồn tại ở cả khu vực nông thôn và khu vực thành thị. Đặc biệt đối với
khu vực ven đô thị nơi có tốc độ đô thị hóa hoặc công nghiệp hóa tăng nhanh làm cho
đất đai ngày càng có giá thì loại tranh chấp đất đai này gia tăng cả về số lượng vụ
việc cũng như tính chất gay gắt, phức tạp; ví dụ: ở Quận Bình Thủy (thành phố Cần
Thơ); huyện Bến Cát (tỉnh Bình Dương); Quận Hải An (thành phố Hải Phòng).
Thứ hai, tranh chấp giữa người SDĐ với cơ quan nhà nước (cơ quan công
quyền) liên quan đến việc thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất

đai bao gồm: (i) Tranh chấp liên quan đến bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất; (ii) Tranh chấp liên quan đến việc cấp, đổi, sửa chữa và
thu hồi giấy chứng nhận quyền SDĐ. Loại tranh chấp này xuất hiện ở cả khu
vực nông thôn và khu vực đô thị. Nếu không giải quyết dứt điểm, kịp thời các
tranh chấp đất đai này dễ dẫn đến việc phát sinh thành “điểm nóng” tiềm ẩn
nguy cơ gây mất ổn định chính trị. Tham khảo nghiên cứu của Quỹ Châu Á về
tranh chấp đất đai có tính chất công ở Việt Nam để có thêm thông tin về các vụ
việc tranh chấp thuộc loại hình này.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 14

1.2. Cơ sở thực tiễn liên quan đến vấn đề nghiên cứu của một số nước trên thế
giới
1.2.1. Anh
Ở Vương quốc Anh, việc giải quyết khiếu kiện hành chính bằng cơ quan giải
quyết khiếu nại và cơ quan tài phán hành chính chiếm tỉ lệ đa số. Bên cạnh đó, một
số cơ quan khác cũng tham gia thực hiện công việc này để giải quyết một số loại
khiếu kiện hành chính hoặc giải quyết theo trình tự, thủ tục khác biệt với trình tự,
thủ tục thông thường hoặc nhằm bổ sung cho thiết chế chính làm nhiệm vụ giải
quyết khiếu kiện hành chính, bao gồm (
Nguyễn Văn Quang, 2012):

- Cơ quan thanh tra (Ombudsman): Cơ quan này độc lập tiến hành giải quyết
khiếu nại hành chính và là cấp giải quyết khiếu nại hành chính cuối cùng sau khi
người khiếu nại không thoả mãn với kết quả kiểm tra, xem xét lại quyết định đã ban
hành của cơ quan có thẩm quyền. Khi giải quyết khiếu nại hành chính, cơ quan thanh
tra đưa ra báo cáo và kiến nghị đề xuất đối với cơ quan đã ban hành quyết định bị
khiếu nại. Mặc dù về nguyên tắc, cơ quan đã ban hành quyết định bị khiếu nại không
bắt buộc phải thực hiện theo kiến nghị, đề xuất của cơ quan thanh tra nhưng trên thực
tế những đề xuất, kiến nghị này luôn được các cơ quan tôn trọng thực hiện (

Nguyễn
Văn Quang, 2012).

- Cơ quan giải quyết khiếu nại và trung gian độc lập: Ngoài các cơ quan thanh
tra, gần đây ở Vương quốc Anh còn thành lập một số thiết chế khác làm nhiệm vụ giải
quyết khiếu kiện hành chính trong một số lĩnh vực, được gọi là cơ quan giải quyết
khiếu nại và trung gian độc lập. Những thiết chế này chủ yếu thực hiện việc điều tra,
xem xét và đưa ra cách thức giải quyết các khiếu nại hành chính; trong nhiều trường
hợp, cơ quan này cũng sử dụng các biện pháp trung gian, hoà giải để quyết khiếu nại
hành chính giữa người khiếu nại và người bị khiếu nại (
Nguyễn Văn Quang, 2012).

- Toà án: Ở Vương quốc Anh, dù có nhiều thiết chế giải quyết khiếu
kiện hành chính và người ta thường tìm đến toà án với tư cách là phương thức
cuối cùng để giải quyết khiếu kiện hành chính nhưng toà án luôn đứng ở vị trí
trung tâm của hệ thống bảo vệ công lí hành chính. Trên thực tế, số lượng khiếu
kiện hành chính được giải quyết bởi các thiết chế ngoài toà án là tương đối lớn
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 15

nhưng con số khiếu kiện hành chính được xét xử tại toà án ở Vương quốc Anh
ngày càng gia tăng (
Nguyễn Văn Quang, 2012)
.
Khi giải quyết khiếu kiện hành chính, toà án đóng vai trò kiểm tra, đánh giá
tính hợp pháp của quyết định hành chính bị khiếu kiện chứ không phải là thực
hiện giải quyết khiếu nại hành chính. Điều này có nghĩa, khi quyết định hành
chính được xác định là có nội dung trái pháp luật, toà án sẽ tuyên huỷ quyết định
đó và yêu cầu người đã ban hành quyết định ra quyết định mới trên cơ sở pháp
luật (

Nguyễn Văn Quang, 2012).

1.2.2. Pháp
Ở Pháp, người dân có thể vừa kiện ra tòa án hành chính đòi hỏi huỷ bỏ các
văn bản trái pháp luật (khiếu kiện về tính hợp pháp), đồng thời có thể đòi được bồi
thường những thiệt hại mà họ phải gánh chịu. Khiếu kiện về tính hợp pháp lại bao
gồm bốn loại, ứng với bốn dạng cơ sở pháp lý để khiếu kiện: (1) Khiếu kiện về
thẩm quyền ban hành; (2) Khiếu kiện về thủ tục ban hành; (3) Khiếu kiện về lạm
dụng quyền lực; và (4) khiếu kiện về vi phạm quy định của pháp luật. Đặc biệt,
khác với Việt Nam, các văn bản phải hủy bỏ là bất kỳ văn bản nào, dù đó là văn bản
pháp luật áp dụng chung hay văn bản hành chính “cá biệt” áp dụng riêng cho từng
cá nhân, và hủy bỏ này có hiệu lực đối với những trường hợp tương tự xảy ra sau
này (Lê Vũ Tuấn Anh và cs, 2012).
Khiếu kiện đòi bồi thường áp dụng đối với một loạt hành động hay không
hành động của cơ quan nhà nước gây ra thiệt hại cho nguyên đơn. Thậm chí, thực
tiễn xét xử của Conseil d’Etat (Tham chính viện - cấp xét xử hành chính cao nhất ở
Pháp) qua nhiều năm cho thấy, trong nhiều trường hợp, các cơ quan nhà nước phải
bồi thường ngay cả khi không có yếu tố lỗi, nhưng do những hành động của mình,
cơ quan nhà nước gây thiệt hại cho công dân. Một tác giả nhấn mạnh, trên phương
diện này, hệ thống tố tụng hành chính của Pháp đã vượt lên trước hệ thống của các
nước theo mô hình Anh - Mỹ, nơi tòa án chỉ buộc các cơ quan công quyền bồi
thường khi chứng minh được yếu tố lỗi trong hành động gây ra thiệt hại (Lê Vũ
Tuấn Anh và cs, 2012).
Về phạm vi áp dụng, dựa trên các cơ sở pháp lý này, Tham chính viện thậm chí

×