Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

tăng cường quản lý nhà nước về công tác xuất bản trên địa bàn thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 119 trang )



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM




TRẦN THỊ DIỆU THÚY



TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CÔNG TÁC
XUẤT BẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI



CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KINH TẾ
MÃ SỐ: 60.34.04.10


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN TUẤN SƠN




HÀ NỘI, NĂM 2015


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế


Page ii

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn
này là của riêng tôi, trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một
học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ trong việc thực hiện luận văn
này đã được cảm ơn và thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ
rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày tháng năm 2015
Tác giả luận văn


Trần Thị Diệu Thúy






Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page iii

LỜI CẢM ƠN

Trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện luận văn này tôi đã
nhận được sự giúp đỡ tận tình của nhiều thầy cô giáo, cá nhân, các cơ quan và tổ
chức. Tôi xin được bày tỏ lòng cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất tới tất cả các
thầy cô giáo, cá nhân, các cơ quan và tổ chức đã quan tâm giúp đỡ, tạo mọi điều

kiện cho tôi hoàn thành luận văn này.
Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn thầy giáo, PGS. TS. Nguyễn Tuấn Sơn,
người đã trực tiếp hướng dẫn và tận tình giúp đỡ, động viên tôi trong suốt quá trình
nghiên cứu và hoàn thành luận văn này. Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc
Học viện Nông nghiệp Việt Nam, Ban Chủ nhiệm Khoa Kinh tế và Phát triển nông
thôn, Bộ môn Kế hoạch và Đầu tư, các thầy cô giáo Khoa Kinh tế và Phát triển
nông thôn, đã tạo điều kiện thuận lợi, giúp đỡ tôi về nhiều mặt trong quá trình học
tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Cục Xuất bản, In và Phát hành, Sở Thông tin
và Truyền thông Hà Nội, Lãnh đạo và cán bộ của ba Nhà xuất bản: Khoa học xã
hội, Đại học Quốc gia Hà Nội, Chính trị quốc gia – Sự thật đã nhiệt tình giúp đỡ
tôi trong quá trình điều tra thực tế để nghiên cứu đề tài và hoàn thành luận văn
này.
Tôi xin chân thành cảm ơn những người thân và bạn bè đã chia sẻ cùng tôi
những khó khăn, động viên và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi học tập, nghiên
cứu và hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2015
Tác giả


Trần Thị Diệu Thúy

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page iv

MỤC LỤC
Lời cam đoan ii
Lời cảm ơn iii
Mục lục iv

Danh mục viết tắt vii
Danh mục bảng viii
PHẦN I. MỞ ĐẦU 1
1.1. Tính cấp thiết của đề tài 1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu 2
1.2.1. Mục tiêu chung 2
1.2.2. Mục tiêu cụ thể 2
1.3. Câu hỏi nghiên cứu 2
1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3
1.4.1. Đối tượng nghiên cứu 3
1.4.2. Phạm vi nghiên cứu 3
PHẦN II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI CÔNG TÁC XUẤT BẢN 4
2.1. Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với công tác xuất bản 4
2.1.1. Một số khái niệm liên quan đến quản lý nhà nước về xuất bản 4
2.1.2. Đặc điểm và vai trò cơ bản của quản lý nhà nước về xuất bản ở
Việt Nam hiện nay 9
2.1.3. Các nguyên tắc và nội dung của quản lý nhà nước về xuất bản ở
Việt Nam hiện nay………………………………………………… 15
2.1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý nhà nước về xuất bản 20
2.2. Cơ sở thực tiễn về quản lý nhà nước đối với công tác xuất bản 23
2.2.1. Kinh nghiệm QLNN về công tác xuất bản ở một số nước trên thế giới 23
2.2.2. Bài học kinh nghiệm rút ra cho công tác quản lý nhà nước về xuất
bản tại Hà Nội 30
2.3. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài 31
PHẦN III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 33

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page v


3.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu 33
3.1.1. Khái quát thị trường xuất bản ở Hà Nội 33
3.1.2. Đặc điểm của Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Nhà xuất bản Đại học
quốc gia Hà Nội và Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật 34
3.2. Phương pháp nghiên cứu 39
3.2.1 Chọn điểm và chọn mẫu nghiên cứu 39
3.2.2. Phương pháp thu thập số liệu 40
3.2.3. Phương pháp tổng hợp và xử lý số liệu 41
3.2.4. Phương pháp phân tích 41
3.2.5. Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu 42
PHẦN IV. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 43
4.1. Thực trạng quản lý nhà nước về công tác xuất bản trên địa bàn thành
phố Hà Nội 43
4.1.1. Tổ chức bộ máy và phân cấp QLNN về xuất bản 43
4.1.2. Về các loại hình tổ chức và hoạt động của nhà xuất bản 46
4.1.3. Thực trạng hoạt động QLNN về xuất bản trên địa bàn Tp. Hà Nội 47
4.2. Những nhân tố ảnh hưởng tới QLNN về xuất bản 70
4.2.1. Hệ thống văn bản pháp quy về quản lý công tác xuất bản 71
4.2.2. Công tác tổ chức thực hiện quản lý nhà nước về xuất bản 72
4.2.3. Việc thích ứng với cơ chế thị trường và yêu cầu hội nhập kinh tế 74
4.2.4. Việc chấp hành pháp luật xuất bản 76
4.2.5. Việc xử lý vi phạm trong hoạt động xuất bản 77
4.3. Đánh giá chung về công tác QLNN về xuất bản trên địa bàn thành
phố Hà Nội trong những năm qua 78
4.3.1. Những thành tựu đạt được 78
4.3.2. Những tồn tại, hạn chế 80
4.4. Quan điểm và giải pháp tăng cường QLNN về xuất bản trên địa bàn
thành phố Hà Nội 84
4.4.1. Yêu cầu khách quan và các quan điểm của việc tăng cường QLNN
về xuất bản ở Hà Nội hiện nay 84


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page vi

4.4.2. Một số giải pháp tăng cường QLNN về xuất bản trên địa bàn thành
phố Hà Nội 89
PHẦN V. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 99
5.1. Kết luận 99
5.2. Kiến nghị 101
5.2.1. Đối với Chính phủ và Bộ TT-TT, Sở TT-TT Hà Nội 101
5.2.2. Đối với các Nhà xuất bản trên địa bàn thành phố Hà Nội 103
TÀI LIỆU THAM KHẢO 105
PHỤ LỤC I 107




Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page vii

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CTQG-ST Chính trị quốc gia – Sự thật
ĐHQGHN Đại học Quốc gia Hà Nội
KHXH Khoa học xã hội
Nxb Nhà xuất bản
QLNN Quản lý nhà nước
Tp. Thành phố
TT-TT Thông tin – Truyền thông
UBND Uỷ ban nhân dân

XBIPH Xuất bản, In và Phát hành

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page viii

DANH MỤC BẢNG

STT Tên bảng
Trang
3.1. Phân bổ mẫu điều tra năm 2014 40
4.1. Tổ chức loại hình Nhà xuất bản trên địa bàn thành phố Hà Nội giai
đoạn 2012-2014 47
4.2. Kết quả hoạt động sản xuất – kinh doanh của Nhà xuất bản CTQG-
ST giai đoạn 2012-2014 49
4.3. Kết quả hoạt động sản xuất – kinh doanh của Nhà xuất bản Khoa
học xã hội giai đoạn 2012-2014 53
4.4. Số lượng đề tài khoa học nghiên cứu về ngành xuất bản trên địa bàn
thành phố Hà Nội giai đoạn 2012-2014
60
4.5. Đánh giá của cán bộ quản lý tại các nhà xuất bản về tình hình cơ sở
vật chất và trang thiết bị trên địa bàn thành phố Hà Nội 62
4.6. Tình hình tập huấn, đào tạo về công tác QLNN về xuất bản, in, phát
hành cho các nhà xuất bản trên địa bàn Tp. Hà Nội giai đoạn 2012-
2014 64
4.7. Tình hình cấp giấy phép trong công tác quản lý hợp tác quốc tế trong
hoạt động xuất bản của Sở TT-TT Hà Nội giai đoạn 2012-2014 66
4.8. Tình hình thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật trong hoạt
động XB trên địa bàn Tp. Hà Nội giai đoạn 2012-2014 68
4.9. Đánh giá của các cán bộ quản lý về hiệu quả các văn bản pháp quy
đã ban hành về quản lý hoạt động xuất bản năm 2014 71

4.10. Hiệu quả QLNN về công tác xuất bản trên địa bàn thành phố Hà Nội
thời gian qua 73
4.11. Đánh giá vai trò của các giải pháp tăng cường QLNN về xuất bản
trên địa bàn thành phố Hà Nội 97



Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 1

PHẦN I
MỞ ĐẦU

1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Sau gần 30 năm đổi mới đất nước, hoạt động xuất bản đã đạt được những
thành tựu quan trọng, đóng góp không nhỏ cho quá trình phát triển kinh tế - xã
hội ở nước ta. Hoạt động xuất bản có vai trò đặc biệt trong đời sống xã hội nói
chung, văn hóa nói riêng. Các quan hệ xã hội về xuất bản rất đa dạng, phong phú
và phức tạp, đan xen giữa văn hóa - tư tưởng với kinh tế, giữa lao động sáng tạo
của tư duy với lao động sản xuất vật chất, nó xuyên suốt quá trình sản xuất - lưu
thông và tiêu dùng xuất bản phẩm. Hoạt động xuất bản là kênh thông tin quan
trọng để tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, góp phần ổn
định chính trị, phát triển văn hóa và kinh tế, nâng cao dân trí, đời sống tinh thần
của nhân dân Song hoạt động xuất bản ở nước ta cũng còn nhiều hạn chế như:
chưa mang tính chuyên nghiệp, công tác chỉ đạo, quản lý nhà nước chưa bám
sát thực tiễn, chất lượng về nội dung và hình thức của xuất bản phẩm chưa đáp
ứng nhu cầu ngày càng cao của bạn đọc, một số sai phạm diễn ra trong thời
gian dài… Do đó, tăng cường quản lý nhà nước (QLNN) về xuất bản là vấn đề
quan trọng luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm.
Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, tháng 11 năm 1946 Quốc hội

họp khóa thứ 2 đã thông qua Hiến pháp, bảo đảm các quyền tự do dân chủ cho
nhân dân, trong đó có quyền tự do xuất bản: "Công dân Việt Nam có quyền tự
do ngôn luận, tự do xuất bản ". Kể từ đó, Đảng và Nhà nước ta thường xuyên
sửa đổi, hoàn thiện các chủ trương, đường lối QLNN đối với xuất bản nhằm
phát triển kinh tế - xã hội. Hoạt động QLNN về xuất bản đã có những đổi mới
đáng kể, mang lại những kết quả tích cực, đặc biệt là từ khi Luật Xuất bản năm
1993 và năm 2004 có hiệu lực thi hành và hiện nay là Luật Xuất bản số
19/2012/QH13 của Quốc hội. Tuy nhiên, QLNN đối với xuất bản ở Việt Nam nói
chung và hoạt động xuất bản tại Hà Nội nói riêng hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế:
Mô hình tổ chức và cơ chế chính sách cho hoạt động xuất bản còn nhiều bất cập,
hoạt động xuất bản còn nhiều khó khăn, thách thức gay gắt, hoạt động kém hiệu
quả; còn nặng về trông chờ, bao cấp; thị trường xuất bản phẩm chưa được quản lý

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 2

chặt chẽ, hệ thống phát hành xuất bản phẩm chưa được quan tâm, củng cố đúng
mức, đang có nguy cơ bị thu hẹp.
Ngoài ra, trong bối cảnh kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, hoạt động
xuất bản còn chịu tác động mạnh từ nhiều phía, việc duy trì hoạt động xuất bản
lành mạnh, đảm bảo chất lượng là điều không đơn giản. Từ những hạn chế trên
đòi hỏi phải tăng cường QLNN đối với hoạt động xuất bản tại Việt Nam nói
chung và tại Hà Nội nói riêng. Tăng cường QLNN đối với xuất bản được tiến
hành trên nhiều phương diện và pháp luật xuất bản là công cụ quan trọng nhất
trong QLNN về xuất bản. Tuy nhiên, thực tế thời gian qua cho thấy, bên cạnh
những mặt ưu điểm, tích cực, QLNN về xuất bản còn chung chung, hiệu quả
chưa cao, lạc hậu, nhiều nội dung không phù hợp với thực tiễn hoạt động xuất
bản hiện nay của các Nhà xuất bản. Chính vì vậy, tăng cường QLNN về công
tác xuất bản là một đòi hỏi khách quan, vừa có ý nghĩa cấp thiết vừa mang tính
lâu dài. Từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài: “Tăng cường quản lý nhà

nước về công tác xuất bản trên địa bàn thành phố Hà Nội” để nghiên cứu luận
văn thạc sĩ.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Trên cơ sở đánh giá thực trạng hoạt động QLNN về công tác xuất bản những
năm qua trên địa bàn thành phố (tp) Hà Nội, đề xuất phương hướng và giải pháp
nhằm tăng cường QLNN về công tác xuất bản tại địa bàn này.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về công tác QLNN trong
lĩnh vực xuất bản;
- Đánh giá thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến công tác QLNN về
xuất bản ở Hà Nội trong những năm qua;
- Đề xuất định hướng và giải pháp tăng cường QLNN về công tác xuất bản ở
Hà Nội trong thời gian tới.
1.3 Câu hỏi nghiên cứu
Nghiên cứu này nhằm trả lời các câu hỏi sau đây liên quan đến vai trò của
quản lý nhà nước đối với công tác xuất bản tại Hà Nội:
1. Quản lý nhà nước đối với công tác xuất bản hiện nay như thế nào, cụ thể

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 3

bằng những công cụ nào?
2. Vì sao phải tăng cường quản lý nhà nước đối với công tác xuất bản?
3. Công tác xuất bản sẽ có thuận lợi khó khăn gì sau khi được quản lý chặt
chẽ bởi các quy định của luật xuất bản?
4. Cần những giải pháp gì nhằm tăng cường quản lý nhà nước đối với công
tác xuất bản?
1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.4.1 Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề lý luận và thực tiễn của công tác
QLNN về hoạt động xuất bản trên địa bàn thành phố Hà Nội bao gồm 3 lĩnh vực:
xuất bản, in và phát hành. Mỗi lĩnh vực có một vị trí, đặc trưng riêng, song không
thể tách rời nhau, trong đó xuất bản sách là trọng tâm.
Đối tượng khảo sát: cán bộ Cục Xuất bản, In và Phát hành, Sở Thông tin và
Truyền thông Hà Nội, của 3 Nhà xuất bản trên địa bàn Tp. Hà Nội được lựa chọn
nghiên cứu.
1.4.2 Phạm vi nghiên cứu
 Phạm vi về không gian
Nghiên cứu về quản lý nhà nước về công tác xuất bản trên địa bàn thành phố
Hà Nội, trong đó tập trung nghiên cứu 3 Nhà xuất bản: Khoa học xã hội, Đại học
quốc gia Hà Nội và Chính trị Quốc gia - Sự thật.
 Phạm vi về thời gian
Nghiên cứu công tác QLNN về xuất bản trên địa bàn thành phố Hà Nội
trong 3 năm 2012-2014.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 4

PHẦN II
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÔNG TÁC XUẤT BẢN

2.1 Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với công tác xuất bản
2.1.1 Một số khái niệm liên quan đến quản lý nhà nước về xuất bản
2.1.1.1 Khái niệm quản lý
Theo Hoàng Phê (2007) định nghĩa “quản lý” là tổ chức và điều khiển các
hoạt động theo các yêu cầu nhất định
Dưới góc độ khoa học, khái niệm về “quản lý” có nhiều cách tiếp cận khác
nhau. Với ý nghĩa thông thường, phổ biến thì quản lý có thể hiểu là hoạt động tác

động một cách có tổ chức và định hướng của chủ thể quản lý tới những đối tượng
quản lý để điều chỉnh chúng vận động và phát triển với nguồn lực hiện có theo
những mục tiêu nhất định đã đề ra (Nguyễn Đình Nhã, 2004). Với cách hiểu trên,
quản lý bao gồm các yếu tố sau:
- Chủ thể quản lý: là tác nhân tạo ra các tác động quản lý. Chủ thể có thể là
cá nhân hoặc tổ chức. Chủ thể quản lý tác động lên đối tượng quản lý bằng các
công cụ, hình thức và phương pháp thích hợp, cần thiết và dựa trên cơ sở những
nguyên tắc nhất định.
- Đối tượng quản lý (khách thể quản lý): Tiếp nhận sự tác động của chủ thể
quản lý với những yếu tố thuộc về đối tượng và có liên quan đến đối tượng quản
lý (nội dung quản lý).
- Mục tiêu quản lý: là cái đích cần phải đạt tới tại một thời điểm nhất định
do chủ thể quản lý đề ra. Đây là căn cứ để chủ thể quản lý thực hiện các tác động
quản lý cũng như lựa chọn các hình thức, phương pháp thích hợp.
Ở các doanh nghiệp, công ty hoạt động theo cơ chế hoạt động kinh tế thì
khái niệm quản lý thường được hiểu là quản trị doanh nghiệp.
2.1.1.2 Khái niệm về quản lý nhà nước
Trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, con người muốn tồn tại và
phát triển phải nhờ vào sự hỗ trợ của một tổ chức, từ một nhóm nhỏ đến phạm vi

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 5

rộng lớn hơn ở tầm quốc gia, quốc tế và chịu một sự quản lý nào đó. Hiện nay, có
rất nhiều định nghĩa khác nhau về quản lý, theo Đỗ Quốc Sam (2007) cho rằng
quản lý là hoạt động nhằm bảo đảm sự hoàn thành công việc thông qua sự nỗ lực
của người khác. Quan điểm của Mai Thanh (2004) cho rằng quản lý là một hoạt
động thiết yếu bảo đảm phối hợp những nỗ lực cá nhân nhằm đạt được mục đích
của nhóm. Quan điểm của Trương Thị Văn (2007) lại cho rằng quản lý là sự điều
hành, điều khiển, chỉ huy Tuy nhiên, theo quan niệm của chúng tôi “Quản lý là

sự tác động có định hướng bất kỳ lên một hệ thống nào đó nhằm trật tự hóa nó
và hướng nó phát triển phù hợp với những quy luật nhất định”.
Do vậy, QLNN chính là một loại hình quản lý xã hội nói chung. Theo quan
niệm này thì: QLNN là sự tác động có định hướng (chỉ huy, điều hành, hướng
dẫn ) lên các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người làm cho
chúng vận động và phát triển phù hợp với quy luật, đạt được mục đích và theo ý
chí của người quản lý.
Trong công tác quản lý nói chung và QLNN nói riêng, dù có nội dung phức
tạp đến đâu cũng luôn phải bao gồm các yếu tố cơ bản sau:
Thứ nhất, yếu tố con người. Theo C.Mác - Ph.Ăngghen (1994) Toàn tập,
tập 6, "Bản chất của con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội". Mọi sự phát
triển của xã hội đều thông qua hoạt động của con người. Do đó, đánh giá đúng về
con người, hiểu được tâm lý, nguyện vọng của con người thì hoạt động quản lý
mới thực hiện được quan điểm "vì con người, do con người".
Thứ hai, yếu tố chính trị. Là việc một người, nhiều người, hay một cơ quan,
một tổ chức đặt ra các mục tiêu, đường lối và tạo ra một môi trường chính trị
nhằm đạt được những mục tiêu đặt ra (C.Mác - Ph.Ăngghen, 1994) Toàn tập,
tập 6).
Thứ ba, yếu tố quyền uy. Đó là tổng thể của quyền lực và uy tín, quyền lực
là công cụ để quản lý, nó bao gồm hệ thống pháp luật, điều lệ, kỷ luật, kỷ
cương hoạt động theo một nguyên tắc nhất định, có sự phân công rõ ràng trên
cơ sở khoa học quản lý; uy tín là phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị, kiến
thức, năng lực của người quản lý (C.Mác - Ph.Ăngghen, 1994 Toàn tập, tập 6).

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 6

Thứ tư, yếu tố thông tin. Trong công tác quản lý, thông tin là căn cứ để ra
quyết định và tổ chức thực hiện quyết định có hiệu quả (C.Mác - Ph.Ăngghen
(1994) Toàn tập, tập 6).

Từ những vấn đề trên, có thể hiểu QLNN theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng: QLNN là hoạt động của toàn thể bộ máy nhà nước nhằm
thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại. Như vậy, hoạt động của tất cả các cơ
quan nhà nước (Chính phủ, các Bộ, Ủy ban nhân dân, Tòa án nhân dân, Viện
Kiểm sát nhân dân các cấp) đều là hoạt động QLNN (Trương Thị Văn, 2007).
Theo nghĩa hẹp: QLNN là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền
lực nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người do
các cơ quan hành chính Nhà nước (còn gọi là cơ quan QLNN) thực hiện để duy
trì và phát triển các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật nhằm thực hiện các
chức năng, nhiệm vụ nhà nước (Trương Thị Văn, 2007).
Như vậy, QLNN là hình thức biểu hiện và thực hiện quyền làm chủ của
nhân dân lao động, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đó là tính chính trị của
QLNN và là quyền lợi chính trị của nhân dân.
Từ khái niệm QLNN như trên có hiểu rằng không phải quản lý nào cũng là
QLNN, và Nhà nước quản lý toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội không có
nghĩa là các cơ quan QLNN điều chỉnh mọi khía cạnh của đời sống xã hội, mà
chỉ điều chỉnh các khía cạnh do luật định.
Với quan niệm trên, theo Trương Thị Văn (2007) QLNN là một dạng quản
lý đặc biệt, thể hiện ở các đặc trưng sau:
Một là, QLNN mang tính chất quyền lực Nhà nước. QLNN được thực hiện
dựa trên cơ sở quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước mang tính mệnh lệnh đơn
phương đòi hỏi phải được chấp hành nghiêm chỉnh, mọi người bình đẳng, không
cho phép bất cứ ai dựa vào quyền thế để làm trái với các quyết định quản lý.
Pháp luật là công cụ quản lý của nhà nước, để QLNN đối với xã hội có hiệu
quả thì pháp luật phải đúng đắn. Nghĩa là pháp luật phải xuất phát từ đường lối
chính trị trong từng thời kỳ, phải phù hợp với các quy luật khách quan, phù hợp
với điều kiện, hoàn cảnh thực tế của đất nước. Việc quản lý bằng pháp luật đòi

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 7


hỏi các cơ quan, các cán bộ, công chức trong tổ chức và hoạt động điều hành phải
căn cứ vào luật, phải làm theo đúng quy trình pháp luật, đảm bảo nguyên tắc pháp
chế và kết hợp đúng đắn giữa pháp lý và đạo lý.
Hai là, QLNN mang tính tổ chức và điều chỉnh là chủ yếu. Tổ chức là một
khoa học về sự thiết lập các mối quan hệ xã hội giữa con người, giữa các tập thể
để thực hiện một quá trình quản lý xã hội. Tổ chức được hình thành do nhu cầu
quản lý, nó phải hoạt động và hoạt động có hiệu quả. Trong QLNN chức năng tổ
chức là quan trọng, vì không có tổ chức thì không quản lý được. Nhà nước phải
tổ chức hợp lý để mỗi người đều có một vị trí tích cực và đóng góp đối với xã
hội. Lênin đã từng viết: "Để quản lý tốt cần phải biết tổ chức về mặt thực tiễn"
(Cục Xuất bản, Bộ Thông tin và Truyền thông, 2008).
QLNN nhằm tác động, điều chỉnh bằng pháp luật và các quyết định, quản lý
dưới hình thức các quy chế, tiêu chuẩn, biện pháp; nhằm tạo sự phù hợp giữa
các chủ thể và khách thể quản lý, tạo sự cân bằng, cân đối giữa các mặt hoạt
động của các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người.
Ba là, QLNN mang tính khoa học, kế hoạch. Hoạt động QLNN là hoạt động
mang tính chủ quan của con người, nhưng dựa trên những yêu cầu khách quan. Vì
vậy, QLNN phải mang tính khoa học, chủ động, sáng tạo trong việc điều hành,
phối hợp, huy động mọi lực lượng, phát huy sức mạnh tổng hợp để tổ chức lại nền
sản xuất xã hội và cuộc sống của con người trên địa bàn mình theo sự phân công,
phân cấp, đúng thẩm quyền, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Trong QLNN
được quyền năng động, sáng tạo để tổ chức thực hiện pháp luật, nhưng không trái
với đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước. QLNN cũng cần có
mục tiêu chiến lược, có chương trình, kế hoạch để thực hiện mục tiêu. Vì vậy, đòi
hỏi các cơ quan QLNN phải có kế hoạch dài hạn, trung hạn và hàng năm. Có chỉ
tiêu định hướng chủ yếu, có biện pháp cân đối để thực hiện chỉ tiêu, hoàn thành có
hiệu quả các chương trình mục tiêu chiến lược của nhà nước.
Bốn là, hoạt động QLNN mang tính liên tục và ổn định. Sự tác động của
QLNN phải thực hiện liên tục, thường xuyên, các quyết định QLNN phải tương

đối ổn định, tránh sự thay đổi quá nhanh chóng và phải được giữ gìn. Đây là một

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 8

đặc điểm quan trọng thể hiện tính trách nhiệm của nhà nước đối với xã hội, với
nhân dân. Nhà nước là người thay mặt cho nhân dân, là công cụ mạnh mẽ của
nhân dân lao động thực hiện quyền lực chính trị. Do đó, mọi quyết định quản lý
phải phù hợp với lợi ích, nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Chỉ như vậy và
khi đạt được như vậy thì các quyết định quản lý nhà nước mới có hiệu lực và
hiệu quả, mới trở thành hiện thực cuộc sống.
2.1.1.3 Khái niệm QLNN về xuất bản
Trong quá trình thực hiện quản lý, Nhà nước sử dụng nhiều công cụ quản lý
khác nhau. Mỗi một công cụ có vai trò, vị trí độc lập tương đối và được sử dụng
phù hợp với hoàn cảnh, thời điểm nhất định của hoạt động quản lý. Hiến pháp
1992 của nước ta đã ghi nhận: "Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân
bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách " ( Trích trong Nguyễn Đình Nhã, 2004).
Như vậy, Hiến pháp cũng đã công nhận có nhiều công cụ QLNN. Tuy nhiên, với
những đặc thù riêng của mình, pháp luật có khả năng triển khai trên quy mô rộng
các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước một cách có hệ thống, nhanh và
hiệu quả nhất.
QLNN được thực hiện trên nhiều lĩnh vực của đời sống. Trong mỗi một
lĩnh vực quản lý, Nhà nước tác động vào những nhóm quan hệ xã hội cơ bản
bằng hệ thống pháp luật tương ứng. Bởi vậy, theo Nguyễn Đình Nhã (2004)
QLNN về xuất bản cũng chỉ là một nội dung của QLNN được hiểu theo hai
nghĩa rộng và hẹp.
- Theo nghĩa rộng: QLNN về xuất bản là toàn bộ hoạt động của các cơ quan
trong bộ máy nhà nước dựa trên cơ sở pháp luật xuất bản để điều chỉnh hoạt động
xuất bản, giữ gìn trật tự, kỷ cương trong hoạt động xuất bản, bảo vệ pháp luật
xuất bản, nhằm đạt được các mục tiêu trong hoạt động xuất bản mà nhà nước đã

đề ra.
- Theo nghĩa hẹp: QLNN về xuất bản là hoạt động của Chính phủ, các bộ,
các cơ quan ngang bộ, UBND cấp tỉnh và các cơ quan quản lý chuyên môn về
xuất bản trong việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật xuất bản (văn bản
dưới luật), dựa trên cơ sở pháp luật để quản lý hoạt động xuất bản như: đăng ký

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 9

kế hoạch xuất bản; nhận, đọc, kiểm tra nội dung xuất bản phẩm lưu chiểu; xây
dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển sự nghiệp xuất bản
đồng thời thực hiện kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại tố cáo và xử lý vi
phạm pháp luật trong hoạt động xuất bản.
Như vậy, trong khuôn khổ nghiên cứu của đề tài này, khái niệm QLNN về
xuất bản được hiểu theo nghĩa rộng.
2.1.2 Đặc điểm và vai trò cơ bản của quản lý nhà nước về xuất bản ở Việt Nam
hiện nay
2.1.2.1 Đặc điểm của quản lý nhà nước về xuất bản ở Việt Nam hiện nay
Hiện nay, công tác QLNN về xuất bản đã nhiều sự thay đổi so với những
năm trước đây và có những đặc điểm cơ bản như sau (Trương Thị Văn, 2007)
Thứ nhất, QLNN về xuất bản là mở đường cho hoạt động sáng tạo ra các tác
phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học để công bố dưới hình thức xuất bản.
Trong nền kinh tế thị trường, các quan hệ xuất bản rất đa dạng, phong phú
và phức tạp. Nhu cầu về tự do, sáng tạo ra các giá trị khoa học, văn học, nghệ
thuật là nhu cầu tự nhiên. Các sản phẩm sáng tạo có giá trị chỉ được thực hiện khi
tư duy trong tình trạng hưng phấn cao. Mọi sự gò bó và khống chế là ngăn chặn
hoạt động sáng tạo. Nhà nước khẳng định các giá trị xã hội của quyền con người,
nên đã ghi nhận và thể chế hóa các quyền con người, quyền công dân và bảo đảm
về mặt pháp lý cho các quyền đó được thực hiện. Do được ghi nhận một cách
chính thức các giá trị về quyền tự do ngôn luận, tự do nghiên cứu, sáng tác, bình

đẳng trong công bố và phổ biến tác phẩm, pháp luật trở thành phương tiện để các
tác giả bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình.
Tuy nhiên, mọi sự tự do đều phải là tự do trong khuôn khổ pháp luật. Nhà
nước ta không chấp nhận thứ tự do hỗn loạn, đặc biệt là tự do "loạn ngôn", "loạn
khẩu". Công dân nói chung, nghệ sĩ, trí thức và những người hoạt động trong lĩnh
vực xuất bản nói riêng, được giải phóng tư duy, hoàn toàn tự do sáng tạo khuôn
khổ pháp luật.
Nhà nước quản lý hoạt động của tư duy sáng tạo trong xuất bản bằng pháp
luật, là khuyến khích tài năng sáng tạo và đề cao các tác phẩm có giá trị về khoa

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 10

học, về nghệ thuật. Chính từ cơ chế thị trường được pháp luật thừa nhận, là nơi
đánh giá công minh các tác phẩm. Ở đó, công chúng với tư cách là người tiêu dùng
sẽ là thước đo về năng lực sáng tạo của tác giả qua tác phẩm.
Thứ hai, QLNN về xuất bản là bảo tồn, phát triển nền văn hóa dân tộc, hiện
đại, nhân văn; tiếp thu tinh hoa văn hóa và tiến bộ và tiến bộ về khoa học - công
nghệ của nhân loại.
Văn minh của loài người được nhân loại đánh giá ở các nền văn hóa có bản
sắc, ở các cuộc cách mạng khoa học đã diễn ra trong lịch sử. Mỗi dân tộc có cội
nguồn, có truyền thống riêng, được phản chiếu lên tấm gương văn hóa. Nó là gia
sản quá khứ, tạo nên dòng chảy cho hiện tại và tương lai dân tộc. Vì vậy, việc bảo tồn,
kế thừa, phát triển những giá trị trong di sản văn hóa dân tộc là quốc sách, được ghi
nhận trong các bản Hiến pháp.
Nhà nước khuyến khích và bồi dưỡng tài năng nghiên cứu, sáng tạo ra các
giá trị tinh thần mới, làm giàu vốn văn hóa dân tộc. Đồng thời, trao vào tay họ
các quyền cao cả mang tính nhân văn sâu sắc trong hoạt động văn hóa nói chung,
xuất bản nói riêng. Và cũng vì vậy, QLNN về xuất bản đã đưa ra các chế tài
nghiêm khắc đối với những hành vi truyền bá xuất bản phẩm có nội dung trái với

thuần phong mỹ tục, truyền thống văn hóa, đạo đức tốt đẹp của dân tộc, nhằm
bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc.
Nhu cầu giao lưu văn hóa, tiếp thu tinh hoa từ các nền văn hóa của nhân
loại là nhu cầu của bản thân nền văn hóa dân tộc. Mặt khác, trong thời đại bùng
nổ thông tin hiện nay, với sự phát triển nhảy vọt của Internet, của khoa học và
công nghệ, thì việc nhận thức và ứng dụng các tiến bộ mới của khoa học là đòi
hỏi bức thiết. Mỗi dân tộc phải biết làm giàu bởi trí thức của nhân loại. Điều đó
chỉ được thực hiện khi nhà nước trao cho các chủ thể được xác định các quyền và
nghĩa vụ trong các quan hệ quốc tế về xuất bản.
Thứ ba, QLNN về xuất bản là quản lý thuộc lĩnh vực văn hóa - tư tưởng,
đồng thời là hoạt động sản xuất kinh doanh.
Với thuộc tính là hoạt động văn hóa - tư tưởng, hoạt động sản xuất kinh
doanh, xuất bản chịu sự tác động đồng thời của hệ thống các quy luật phát triển
văn hóa và hệ thống các quy luật kinh tế. Do tính chất phức tạp như vậy, nên yêu

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 11

cầu quản lý nhà nước được đặt ra bức thiết hơn. QLNN phải mở đường cho tự do
sáng tạo, đồng thời phải ngăn chặn những độc hại, tiêu cực do xuất bản gây ra
đối với văn hóa, tư tưởng; phải định hướng cho xuất bản phát triển theo đúng quy
luật kinh tế, ngăn ngừa những tác hại từ mặt trái của cơ chế thị trường. Trong
QLNN, nếu coi xuất bản như các tổ chức kinh tế đơn thuần sẽ dẫn đến tình trạng
hoạt động xuất bản bị thương mại hóa, chỉ chạy theo lợi nhuận kinh doanh;
ngược lại, chỉ đề cao vai trò của xuất bản ở phương diện văn hóa, tư tưởng sẽ dẫn
đến khả năng bất chấp quy luật kinh tế. Như vậy, hoạt động xuất bản sẽ phá sản
trong điều kiện kinh tế thị trường.
Có thể nói, QLNN về xuất bản là quản lý hoạt động kinh tế trong văn hóa,
tư tưởng, đồng thời quản lý hoạt động văn hóa, tư tưởng trong cơ chế thị trường.
Đó là hai mặt của một số vấn đề phải được quản lý một cách hài hòa, đảm bảo

cho xuất bản hoạt động đúng quy luật, phát triển theo trật tự của pháp luật.
2.1.2.2 Vai trò của quản lý nhà nước về xuất bản ở Việt Nam hiện nay
Xuất bản là công cụ truyền bá thông tin, công cụ giáo dục, nên có tác động
to lớn đối với sự phát triển kinh tế trên nhiều phương diện, cả với lực lượng sản
xuất lẫn quan hệ sản xuất. Xuất bản góp phần xây dựng nền tảng tri thức cho xã
hội. Thông qua sách – xuất bản phẩm chủ yếu, xuất bản giữ vai trò là một kênh
cơ bản phổ biến khoa học kỹ thuật công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực cho xã hội,
nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài. Sách được xuất bản cung cấp cơ sở khoa
học và thực tế cho việc xây dựng chiến lược kinh tế, thể chế kinh tế, hoạch định
kế hoạch sản xuất kinh doanh. Xuất bản là phương tiện quan trọng trong hoạt
động thông tin hai chiều của đời sống kinh tế xã hội, tạo ra sự thông suốt về
thông tin trong hoạt động quản lý kinh tế, chuyển gia công nghệ; góp phần nâng
cao hiệu quả quản lý kinh tế cả ở tầm vĩ mô lẫn tầm vi mô. Do vậy, QLNN về
xuất bản có những vai trò cụ thể như sau (Trương Thị Văn, 2007):
Thứ nhất, QLNN luôn là phương tiện triển khai thực hiện chủ trương,
đường lối của Đảng đối với hoạt động xuất bản.
Tương ứng với từng thời kỳ phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của đất
nước, Đảng ta có những chủ trương, đường lối trong QLNN đối với xuất bản. Lịch

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 12

sử QLNN đối với xuất bản đã cho thấy điều đó. Ngay sau tháng 8/1945, quan điểm
của Đảng và Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa là bảo đảm quyền tự do dân
chủ cho nhân dân, trong đó có quyền tự do xuất bản, thể hiện trong Hiến pháp đầu
tiên (1946): "công dân Việt Nam có quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản ".
Sau cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, cách mạng Việt Nam
chuyển sang giai đoạn mới với hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng, củng cố miền
Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Từ đó, chế độ tự do
xuất bản được thi hành rộng rãi. Ngày 18/6/1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban

hành sắc luật số 003/SLt về chế độ xuất bản, đặt cơ sở pháp lý đầu tiên cho sự phát
triển nền xuất bản Việt Nam. Từ khi có Sắc luật 003/SLt, hoạt động xuất bản luôn
phát triển đúng định hướng của Đảng, từng bước thỏa mãn nhu cầu hưởng thụ xuất
bản phẩm của nhân dân, góp phần đắc lực vào sự nghiệp giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.
Luật Xuất bản đầu tiên đã được Quốc hội khóa IX kỳ họp thứ 3 thông qua
ngày 07/7/1993. Việc ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ mới, đặc biệt là
tin học đã dẫn đến sự phát triển nhảy vọt trong ngành in và xuất bản với sự đa
dạng của loại hình xuất bản phẩm, nhiều quan hệ xã hội mới được hình thành
trong hoạt động xuất bản. Sách có nội dung không lành mạnh xuất hiện và lưu
hành tràn lan trên thị trường, tình trạng thương mại hóa đã trở thành xu thế trong
hoạt động xuất bản, gây tác hại không nhỏ tới nhận thức, tư tưởng, tình cảm và
đời sống tinh thần của nhân dân. Trong khi đó các cơ quan Nhà nước liên quan
để xảy ra tình trạng buông lỏng quản lý, thiếu những biện pháp hữu hiệu để ngăn
chặn và lập lại trật tự. Để thể chế hóa các quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà
nước đối với hoạt động xuất bản thể hiện trong Nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ IX, Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về xây dựng và phát triển
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Chỉ thị 22 của Bộ Chính
trị về tiếp tục đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo, quản lý công tác báo chí, xuất
bản nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất bản phát triển đúng định
hướng chính trị của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đồng thời nâng cao hiệu quả
công tác quản lý xuất bản và chất lượng xuất bản phẩm. Bên cạnh đó, trong xu

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 13

thế giao lưu và hội nhập quốc tế hiện nay, việc giao lưu văn hóa giữa các quốc
gia, các dân tộc là rất cần thiết. Đó là những đòi hỏi đã được đáp ứng từ việc ban
hành Luật Xuất bản 2004, và gần đây nhất là Luật Xuất bản 2012.
Thứ hai, là phương tiện tạo lập môi trường tự do sáng tạo, bình đẳng cho

các chủ thể trong hoạt động xuất bản.
Với đặc trưng của lao động sáng tạo nói chung, đặc biệt là lao động sáng tạo
ra tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học thì nhu cầu về tự do sáng tạo, bình
đẳng trong việc công bố và phổ biến tác phẩm là một đòi hỏi khách quan. Tuy
nhiên, tự do và bình đẳng trong sáng tạo phải vì lợi ích xã hội, vì lợi ích cộng
đồng, không thể có tự do vượt quá giới hạn cho phép. Vì vậy, tự do và bình đẳng
trong hoạt động sáng tạo, công bố và phổ biến tác phẩm là tự do trong khuôn khổ
pháp luật. Ở đó, các chủ thể tham gia hoạt động xuất bản sẽ được làm tất cả
những gì pháp luật cho phép. Đồng thời, pháp luật đề ra các nghĩa vụ tương ứng
cho các chủ thể của hoạt động sáng tạo và quản lý. Đó là hành lang pháp lý, là
"cái khung" do pháp luật tạo lập. Tư tưởng tự do ngôn luận của Hiến pháp Việt
Nam, được thể hiện trong pháp luật xuất bản bằng chế độ không kiểm duyệt tác
phẩm trước khi in là ý tưởng nhân văn sâu sắc, mở đường cho tư duy sáng tạo.
Như vậy, QLNN tạo ra môi trường thuận lợi, tin cậy và chính thức cho tác giả và
các tổ chức tự do sáng tạo, bình đẳng trong hoạt động xuất bản.
Thứ ba, bảo vệ lợi ích hợp pháp của những người sáng tạo ra các tác phẩm
văn học, nghệ thuật và khoa học.
Hoạt động sáng tạo ra các sản phẩm văn hóa tinh thần được xã hội xếp vào
loại lao động đặc biệt. Các quốc gia trên thế giới đều coi các sản phẩm của trí tuệ
là tài sản. Vì vậy, các tác giả được bảo hộ quyền sở hữu. Berne là công ước quốc
tế đầu tiên về quyền tác giả, dưới sự điều hành của tổ chức quyền sở hữu trí tuệ
thế giới (WIPO) ra đời từ năm 1886 (là tổ chức của Liên hợp quốc từ 1974) để
bảo vệ quyền tác giả thuộc gần 100 nước thành viên.
Ở Việt Nam, các tác giả được Nhà nước tạo phương tiện để đấu tranh bảo
vệ lợi ích chính đáng của mình. Các tranh chấp về quyền tác giả, các hành vi xâm
hại lợi ích vật chất và tinh thần của tác giả được xét xử tại Tòa án dân sự. Như

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 14


vậy, thông qua việc bảo hộ quyền tác giả, Nhà nước tiếp tục khuyến khích năng
lực sáng tạo của văn nghệ sĩ, trí thức để có nhiều sản phẩm văn hóa tinh thần có
giá trị phục vụ xã hội.
Thứ tư, góp phần giữ vững ổn định chính trị và trật tự xã hội trong quá trình
phát triển đất nước.
Hoạt động xuất bản là lĩnh vực rất nhạy cảm về mặt chính trị, xã hội, là
phương tiện lợi hại trong cuộc đấu tranh giai cấp. Trong nền kinh tế thị trường
hiện nay, việc đảm bảo nội dung xuất bản phẩm lành mạnh, phù hợp với pháp
luật, phù hợp với truyền thống văn hóa Việt Nam là rất cần thiết.
Các sản phẩm văn hóa nói chung, xuất bản nói riêng thuộc hàng hóa công
cộng, được mọi tầng lớp nhân dân tiêu dùng, nó tác động trực tiếp đến ý thức, tình
cảm, suy nghĩ của từng người dân. Vì vậy, bằng những xuất bản phẩm của mình,
hoạt động xuất bản chuyển tải tới công chúng các ý tưởng cao cả của giai cấp, về
việc xây dựng một xã hội tương lai với một bộ máy chính quyền vững mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh và thịnh vượng. Thông tin và giải đáp kịp thời
các vấn đề quốc gia và quốc tế. Như vậy, hoạt động xuất bản đã góp phần giữ
vững ổn định chính trị và trật tự xã hội trong quá trình phát triển đất nước.
Nhận thức rõ vai trò quan trọng của xuất bản, Luật Xuất bản 2004 đã đề ra
những chính sách cụ thể, như: Chính sách đặt hàng; trợ cước vận chuyển; mua
bản thảo những tác phẩm có giá trị Tất cả những chính sách đó nhằm đảm bảo
cho mọi tầng lớp nhân dân hiểu được mọi chủ trương, đường lối đúng đắn của
Đảng và Nhà nước nhằm xây dựng một đất nước Việt Nam phồn thịnh, hòa bình,
ổn định.
Thứ năm, góp phần thúc đẩy quá trình hợp tác và hội nhập quốc tế.
Thực hiện chính sách mở cửa hội nhập và hợp tác quốc tế với phương
châm: Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước, Việt Nam đã thiết lập quan
hệ với nhiều nước, vùng lãnh thổ và tổ chức trên thế giới. Để quá trình hợp tác,
hội nhập quốc tế diễn ra thuận lợi, đạt mục đích đặt ra một cách tốt nhất, hai bên
đều phải tìm hiểu truyền thống văn hóa, mọi lĩnh vực đời sống xã hội của nhau
và cách tìm hiểu đạt hiệu quả cao và phổ biến là trao đổi các xuất bản phẩm cho


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 15

nhau. QLNN về xuất bản ở Việt Nam có vai trò giải quyết vấn đề này thông qua
việc xác định rõ các tổ chức quốc tế, cá nhân nước ngoài được xuất bản các tài
liệu, tác phẩm tại Việt Nam; điều kiện để các nhà xuất bản nước ngoài đặt văn
phòng đại diện tại Việt Nam; quy định rõ các thủ tục về xuất nhập khẩu và xuất
bản phẩm.
Nhằm giới thiệu văn hóa Việt Nam với thế giới, góp phần tuyên truyền
đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, Nhà nước ta khuyến khích các nhà
xuất bản, các cơ sở phát hành xuất bản phẩm xuất khẩu xuất bản phẩm ra nước
ngoài. Việc xuất khẩu các xuất bản phẩm hợp pháp ra nước ngoài không phải xin
phép các cơ quan QLNN về hoạt động xuất bản. Đây là một điểm mới cơ bản
nhằm đưa hoạt động xuất bản phát triển.
Như vậy, QLNN về xuất bản vừa có vai trò tạo điều kiện thuận lợi cho các
nhà xuất bản, các tổ chức, cá nhân nước ngoài làm thủ tục đặt văn phòng đại
diện, xuất bản các tài liệu, tác phẩm tại Việt Nam, đồng thời giảm bớt các thủ tục
hành chính để việc xuất khẩu các xuất bản phẩm của Việt Nam ra nước ngoài đạt
hiệu quả cao. Điều đó có ý nghĩa quan trọng thúc đẩy quá trình hội nhập, hợp tác
quốc tế của Việt Nam diễn ra thuận lợi.
2.1.3 Các nguyên tắc và nội dung của quản lý nhà nước về xuất bản ở Việt Nam
hiện nay
2.1.3.1 Các nguyên tắc quản lý nhà nước về xuất bản
Thứ nhất, QLNN về xuất bản phải đảm bảo quyền tự do sáng tạo, công bố,
phổ biến xuất bản phẩm.
Quyền tự do sáng tạo, công bố, phổ biến xuất bản phẩm là quyền con người,
quyền công dân đã được Hiến pháp 1992 ghi nhận: QLNN về xuất bản bản tạo
lập một hành lang, một môi trường an toàn, thuận lợi cho công dân, các tổ chức
tự do sáng tạo, công bố, phổ biến xuất bản phẩm, đồng thời, nhà nước bảo vệ môi

trường tự do cho hoạt động nghiên cứu, sáng tạo, công bố và phổ biến xuất bản
phẩm. Tuy nhiên, QLNN về xuất bản phẩm đảm bảo sự tự do xuất bản là tự do
trong khuôn khổ pháp luật, những hoạt động sáng tạo, công bố, phổ biến xuất bản

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 16

phẩm trái với quy định của pháp luật đều phải có những biện pháp, chế tài xử lý
thỏa đáng.
Thứ hai, bảo đảm quyền tự do, bình đẳng trong hoạt động xuất bản. QLNN về
xuất bản phải đảm bảo cho các tổ chức và cá nhân có quyền bình đẳng trong việc
công bố và phổ biến tác phẩm của mình, đồng thời phải chịu trách nhiệm về tác
phẩm của mình trước pháp luật. QLNN về xuất bản ở đây phải có các yêu cầu cơ
bản sau:
- Các chủ thể xuất bản đều được pháp luật trao cho các quyền nhất định,
trong đó có những quyền giống nhau và có những quyền khác nhau do tính chất,
đặc điểm hoạt động của các chủ thể quy định. Vì vậy, mọi nhà xuất bản chỉ được
phép xuất bản những xuất bản phẩm đã đăng ký và được cơ quan QLNN có thẩm
quyền cho phép. Mọi cơ sở in, tổ chức phát hành chỉ được phép kinh doanh những
mặt hàng đã đăng ký và được cơ quan QLNN có thẩm quyền cho phép.
Thứ ba, bảo đảm định hướng XHCN đối với xuất bản trong nền kinh tế thị
trường.
Định hướng XHCN trong xuất bản là định hướng nhằm đảm bảo không
ngừng nâng cao chất lượng chính trị, tư tưởng, khoa học và nghệ thuật của xuất
bản phẩm, với chi phí thấp nhất, hiệu quả nhanh nhất để từng bước thỏa mãn nhu
cầu đa dạng và phong phú của nhân dân, góp phần mở rộng giao lưu với các
nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để thực hiện được định
hướng này, các cơ quan QLNN phải:
- Kết hợp chặt chẽ giữa việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch xuất bản với
việc hoạch định chính sách và thể chế dẫn dắt, điều hành ngành xuất bản theo

định hướng chính trị.
- Khai thác triệt để những mặt tích cực của kinh tế thị trường nhằm phát
triển xuất bản. Điều tiết, ngăn ngừa để hạn chế tối đa mặt trái của cơ chế thị
trường tác động vào xuất bản. Như vậy mới có thể giữ vững được định hướng
xuất bản.
Thực hiện nguyên tắc này, các cơ quan QLNN cần đề phòng hai khuynh
hướng: i) Chủ quan, duy ý chí khi xác định mục tiêu, định hướng xuất bản.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 17

Khuynh hướng này xuất phát từ sự non kém về tri thức, cộng với năng lực tự tin
thái quá; ii) Tự phát, vô chính phủ trong hoạt động xuất bản, đưa hoạt động xuất
bản chạy theo lợi ích trước mắt bất chấp những hậu quả không có lợi xảy ra.
Trên đây là các nguyên tắc cơ bản trong QLNN về xuất bản chúng ta cần
quan tâm. Ngoài ra, để quản lý đạt hiệu quả cao, các cơ quan QLNN trong lĩnh
vực xuất bản còn phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của QLNN nói chung như:
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân tham gia quản lý, nguyên tắc pháp
chế, nguyên tắc dân chủ
2.1.3.2 Nội dung của quản lý nhà nước về xuất bản
Theo tinh thần Điều 6, Luật Xuất bản 2012, có thể nói đến một số nội dung
chủ yếu về QLNN trong lĩnh vực xuất bản như sau:
Một là, xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch,
chính sách phát triển hoạt động xuất bản; ban hành theo thẩm quyền văn bản
quy phạm pháp luật về hoạt động xuất bản và bản quyền tác giả trong hoạt động
xuất bản
a. Về xuất bản:
Xây dựng định hướng xuất bản về loại sách, mảng sách trọng điểm, các
chương trình nghiên cứu khoa học cấp nhà nước, cấp bộ, cấp cơ sở về sự phát triển
văn học nghệ thuật, khoa học, kỹ thuật và các loại sách giáo khoa ở bậc phổ thông,

giáo trình cho các trường cao đẳng, đại học và sau đại học. Chú trọng các sách
khoa học kỹ thuật phục vụ cho nghiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đào
tạo nghề; sách dành cho thanh, thiếu niên, nhi đồng nhằm giáo dục lòng yêu nước,
tự hào về truyền thống văn hoá dân tộc, lòng nhân ái, ý chí tự lực tự cường hình
thành nhân cách và lối sống lành mạnh cho thế hệ trẻ.
b. Về in:
- Xác định chỉ tiêu nhịp độ tăng trưởng bình quân hàng năm, số lượng đầu
sách, số lượng trang in.
- Xác định tỉ lệ tăng trưởng sản lượng in cho từng loại sản phẩm: sách, báo
chí, bao bì, nhãn mác, quảng cáo, nhu cầu về giấy tờ quản lý, hành chính, dịch vụ
khác.

×