Tải bản đầy đủ (.doc) (113 trang)

Dạy học nhóm bài luyện tập từ ngữ cho học sinh lớp 10 theo hướng tích hợp và tích cực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (486.6 KB, 113 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1 . LÍ DO CHỌN ĐỀTÀI
1.1. Trong hệ thống ngôn ngữ, từ là đơn vị tín hiệu đích thực. Bản chất tín
hiệu đã tạo điều kiện cho ngôn ngữ trở thành công cụ giao tiếp của xã hội loài
người. Từ vựng là một trong những bộ phận không thể thiếu của hệ thống ngôn
ngữ. Nếu như âm vị chỉ là đơn vị một mặt không có khả năng sử dụng độc lập thì
từ là đơn vị hai mặt đầu tiên được sử dụng độc lập trong ngôn ngữ với số lượng
lớn. Thực chất của việc nắm hệ thống ngôn ngữ chính là nắm chắc việc sử dụng
từ ngữ.
Thực tế cho thấy, việc dạy từ ngữ liên quan trực tiếp và nhiều nhất đến
việc dạy văn trong nhà trường.Văn học xây dựng các hình tượng văn học bằng
phương tiện ngôn từ. Các nhà văn, nhà thơ lớn đều quan tâm nhiều nhất đến việc
lựa chọn từ ngữ, hao tốn bao nhiêu công sức để làm việc này. Nhiều khi chỉ một
“ nhãn tự” cũng làm cho hình tượng văn học khắc sâu vào tâm khảm người đọc,
nêu bật được tứ thơ, câu thơ. Do vậy, dạy học từ ngữ tốt sẽ giúp cho học sinh
cảm nhận được cái hay, cái đẹp trong các tác phẩm. Nội dung dạy học từ ngữ là
một bộ phận không thể thiếu trong chương trình sách giáo khoa nói chung và
sách giáo khoa Ngữ văn ở phổ thông nói riêng.
1.2. Trong nội dung dạy học từ ngữ, dạy học nghĩa của từ là quan trọng
nhất. Mục đích của dạy tiếng Việt trong nhà trường là dạy cách sử dụng tiếng
Việt cho học sinh, trong đó có sử dụng từ tiếng Việt. Sử dụng từ chủ yếu là sử
dụng nghĩa, chọn nghĩa. Đặc biệt là trong mọi hoạt động giao tiếp, việc nắm
được nghĩa và sử dụng đúng nghĩa của từ càng giữ một vai trò quan trọng. Vì thế
việc nắm được nghĩa của từ rất quan trọng. Nghĩa của từ trong tiếng Việt rất
phong phú và đa dạng. Nắm được nghĩa của từ và sử dụng có hiệu quả là điều
không phải dễ. Nó phải trải qua một quá trình tích luỹ và luyện tập. Điều đó đặt
ra một yêu cầu là chương trình sách giáo khoa của phần Tiếng Việt phải có phần
luyện tập sử dụng nghĩa của từ và các biện pháp tu từ cần thiết. Bởi điều đó
quyết định việc dạy học Tiếng Việt có hướng vào hoạt động giao tiếp hay không.
1
1.3. Việc dạy từ ngữ đã có từ lâu, nhưng đến sách Ngữ văn 10 vấn đề dạy


Tiếng Việt theo hướng tích hợp và tích cực mới đặt ra rõ ràng và toàn diện. Đây
là một quan điểm dạy học mới, hiện đại, hứa hẹn nhiều triển vọng tốt. Song cũng
vì tính chất mới mẻ này nên nhiều giáo viên chưa quen (trước kia Tiếng Việt còn
là một phân môn, thời lượng dành cho nó có nhiều thì trong Ngữ văn 10, Tiếng
Việt được dạy theo hướng tích hợp, thời gian bị thu hẹp lại). Về phía học sinh,
lâu nay môn Tiếng Việt đối với các em là môn học vừa “khó”, vừa “ khổ”. Do
vậy các em rất ngại và sợ học tiếng Việt. Mặt khác, trong chương trình Ngữ văn
10, việc dạy học Tiếng Việt phải tích hợp với phần Đọc hiểu và Làm văn. Dạy từ
là dạy kỹ năng dùng từ khi tạo lập văn bản. Dạy từ là dạy học sinh hiểu cách
dùng từ của nhà văn trong các tác phẩm văn chương. Trong thực tế phần văn học
trung đại chiếm một thời lượng không nhỏ trong sách Ngữ văn 10. Đặc điểm của
văn học giai đoạn này là ngôn từ hàm súc, có những từ hiện nay không còn được
sử dụng phổ biến, cũng không tìm thấy trong từ điển tiếng Việt. Điều đó càng
khó cho học sinh thời nay có thể hiểu nghĩa của từ. Những điều đó làm cho
nguời giáo viên không khỏi cảm thấy lúng túng, vướng mắc về phương pháp,
cách thức giảng dạy ở những tiết hình thành khái niệm và đặc biệt là hình thành
kỹ năng theo hướng tích hợp và tích cực. Họ rất mong muốn có những biện
pháp, cách thức cụ thể để quá trình dạy học có hiệu quả hơn, chất lượng hơn, góp
phần vào quá trình đổi mới dạy học nói chung và dạy tiếng Việt nói riêng ở nhà
trường phổ thông.
Xuất phát từ những lý do trên và thông qua thực tiễn dạy học ở trường phổ
thông, chúng tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài:“ Dạy học nhóm bài luyện tập từ
ngữ cho học sinh lớp 10 theo hướng tích hợp và tích cực”.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Quá trình tổ chức dạy học nhóm bài luyện tập từ ngữ cho học sinh lớp 10
THPT theo hướng tích hợp và tích cực.
2
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Quá trình tổ chức dạy học nhóm bài luyện tập từ ngữ cho học sinh bao

gồm nhiều yếu tố. Nhưng chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu việc lựa chọn nội
dung, phương pháp, hệ thống dạy học phần từ ngữ có trong sách Ngữ văn lớp 10.
3. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
3.1. Về dạy học tích hợp và tích cực trong môn Ngữ văn
Tiếng Việt là một hợp phần trong môn Ngữ văn. Vì vậy, việc tổ chức dạy
học tiếng Việt cũng tuân theo phương hướng chung của môn Ngữ văn (dạy học
theo hướng tích hợp và tích cực). Để nghiên cứu vấn đề dạy học tích hợp và tích
cực trong phần Tiếng Việt trước hết phải tìm hiểu như thế nào là tích hợp và tích
cực trong dạy học Ngữ văn. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này.
Tiêu biểu như:“ Tích hợp trong việc dạy học Ngữ văn bậc THCS” [4]; “ Những
đổi mới của chương trình SGK và yêu cầu dạy học Ngữ văn 10” [13]; “ Tích hợp
trong dạy học Ngữ văn”[14]; “ Tích hợp và liên hội hướng tới kết nối trong dạy
học Ngữ văn” [ 12].
Mặc dù mỗi công trình kể trên bàn đến một góc độ của dạy học tích hợp và
tích cực trong môn Ngữ văn, nhưng nhìn chung các tác giả đều khẳng định vai
trò quan trọng và tính tất yếu và khách quan của quan điểm dạy học này. Qua
đây chúng tôi thấy được những kiến thức lí luận, những ví dụ minh hoạ cùng với
những giải pháp cụ thể trong dạy học tích hợp và tích cực trong môn Ngữ
văn.Tuy nhiên, những công trình đó có tính khái quát, chưa bàn cụ thể vấn đề
dạy học từ ngữ theo hướng tích hợp và tích cực cho học sinh lớp 10. Chúng tôi
xin tiếp thu những thành tựu của các công trình trên.
3.2. Dạy học tích hợp và tích cực trong phần tiếng Việt
Như đã nói ở trên, vì là một phần của môn Ngữ văn nên Tiếng Việt cũng
thể hiện tính tích hợp và tích cực. Nhưng đây là một phần riêng, có tính độc lập
tương đối, có đặc thù riêng.Vì thế cũng có những công trình nghiên cứu riêng,
tiêu biểu như: “ Phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong giờ học tiếng
3
Việt” [20]; “ Về việc hình thành và phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy
học tiếng Việt” [30]. Trong các công trình, các tác giả đã đưa ra được thực trạng
dạy học phần Tiếng Việt ở phổ thông, nhấn mạnh đến vấn đề đổi mới dạy học

phần này theo hướng tích cực hoá hoạt động của học sinh, và cuối cùng là đề
xuất qui trình hướng dẫn học sinh tìm hiểu một vấn đề tiếng Việt, đưa ra những
dẫn chứng cụ thể. Đây là những tài liệu cần thiết cho luận văn của chúng tôi. Tuy
nhiên các tác giả đó cũng vẫn chưa bàn một cách cụ thể vấn đề dạy học luyện tập
từ ngữ cho học sinh THPT.
3.3. Dạy học từ ngữ theo hướng tích hợp và tích cực
Dạy học từ ngữ không phải là vấn đề mới, đã có nhiều cuốn sách bàn tới nó.
Ví dụ như cuốn: “ Rèn luyện ngôn ngữ” [ 31]; “ Mấy vấn đề lí luận và phương
pháp dạy học từ ngữ tiếng Việt trong nhà trường”[29]. Và đặc biệt là cuốn
“ Phương pháp dạy học tiếng Việt” [1]. Các tác giả trong các cuốn sách này đã
đưa ra phương pháp dạy học cụ thể cho mỗi hợp phần tiếng Việt trong chương
trình phổ thông trong đó có “ Phương pháp dạy luyện tập từ ngữ” với những
dạng bài tập cụ thể. Các tài liệu này đã định hướng cho chúng tôi cách thức tổ
chức dạy học từ ngữ. Đây là cơ sở quan trọng để chung tôi phát triển luận văn ở
vấn đề cụ thể hơn.
Nhìn chung những công trình trên có vai trò định hướng, mở đường cho đề
tài mà chúng tôi đang quan tâm.Vì thế việc nghiên cứu vấn đề “ Dạy học nhóm
bài luyện tập từ ngữ cho học sinh lớp 10 theo hướng tích hợp và tích cực” là
mong muốn góp phần cụ thể hoá các phương pháp, biện pháp, hình thức dạy học
theo hướng tích hợp để quá trình dạy học của giáo viên và học sinh lớp 10 đạt
hiệu quả cao.
4
4. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
4.1.Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu quá trình tổ chức dạy học nhóm bài luyện tập từ ngữ cho học
sinh lớp 10 THPT theo hướng tích hợp và tích cực nhằm nâng cao chất lượng
dạy học luyện tập từ ngữ nói riêng và dạy học tiếng Việt nói chung.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.2.1. Tìm hiểu cơ sở lí luận và thực tiễn cho việc tổ chức dạy học luyện tập
từ ngữ cho học sinh lớp 10. Đánh giá thực trạng nghiên cứu và dạy học nghĩa

của từ hiện nay.
4.2.2. Đề xuất những giải pháp có tính chất thực thi, có hiệu quả cho việc
dạy nhóm bài này ở lớp 10.
4.2.3. Tổ chức thực nghiệm sư phạm nhằm kiểm tra đánh giá khả năng thực
thi, hiệu quả của việc dạy học nhóm bài luyện tập từ ngữ ở lớp 10 mà luận văn
đề xuất.
5. GIẢ THIẾT KHOA HỌC
Nếu tổ chức quá trình dạy học luyện tập từ ngữ cho học sinh lớp 10 bằng
những phương pháp, hình thức học tập nhằm tích cực hoá hoạt động nhận thức
của học sinh, đồng thời vận dụng quan điểm tích hợp, gắn phần luyện tập trong
Tiếng Việt một cách chặt chẽ với phần Đọc hiểu và Làm văn thì sẽ góp phần
nâng cao hiệu quả dạy học nhóm bài luyện tập từ ngữ, tăng cường năng lực sử
dụng từ tiếng Việt của học sinh vào trong giao tiếp và trong việc cảm thụ tác
phẩm văn chương.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng những phương pháp nghiên cứu
chủ yếu sau :
6.1. Phương pháp tổng hợp lí luận và thực tiễn
Đây là phương pháp cơ bản trong nghiên cứu khoa học, mà bản chất của nó
là dựa trên các thông tin đã có, bằng các thao tác tư duy lô gíc để rút ra kết luận
khoa học. Phương pháp này được sử dụng để thu thập nguồn tư liệu, nghiên cứu
lịch sử vấn đề, cơ sở lí thuyết của đề tài.
5
Chúng tôi sử dụng phương pháp này để phân tích tổng hợp các quan điểm,
luận điểm khoa học trong các tài liệu thuộc nghành khoa học có liên quan để xác
lập cơ sở khoa học cho việc tổ chức quá trình dạy học nhóm bài luyện tập từ ngữ
cho học sinh lớp 10 theo hướng tích hợp và tích cực.
6.2. Phương pháp điều tra, khảo sát
Phương pháp này dùng để điều tra, khảo sát thực trạng dạy học nhóm bài
luyện tập từ ngữ ở lớp 10 THPT. Chúng tôi tiến hành khảo sát như sau:

- Điều tra chất lượng dạy học nhóm bài luyện tập từ ngữ ở lớp 10 THPT.
- Khả năng vận dụng từ ngữ của học sinh trong hoạt động giao tiếp.
- Năng lực tổ chức hoạt động dạy học phần luyện tập từ ngữ của giáo viên.
Dựa trên kết quả phân loại các số liệu khảo sát, chúng tôi đề xuất phương
pháp tổ chức dạy học luyện tập từ ngữ ở lớp 10 theo hướng tích hợp và tích cực.
6.3. Phương pháp thực nghiệm
Đây là phương pháp được sử dụng trong giai đoạn thực nghiệm sư phạm
phục vụ cho đề tài. Công cụ chủ yếu để trắc nghiệm là các phiếu điều tra với
nội dung và hình thức khác nhau, hướng tới đích điều tra về trình độ tư duy,
kết quả học tập của học sinh. Phương pháp này giúp chúng tôi có cơ sở để
đánh giá sự thành công và tính khả thi của đề tài.
- Thực nghiệm đối chứng: thực nghiệm được sử dụng để kiểm tra các giả
thuyết của đề tài.
- Qui trình thực nghiệm được tiến hành theo ba bước:
+ Thực nghiệm đối chứng.
+ Thực nghiệm triển khai.
+ Kiểm tra đánh giá.
6
Tổ chức dạy thực nghiệm nhằm xác định tính hiệu quả, tính khả thi của việc tổ
chức dạy học nhóm bài luyện tập từ ngữ theo hướng tích hợp và tích cực. Tiến hành
thực nghiệm ở một số lớp 10 thuộc hai tỉnh khác nhau. Đối chiếu kết qủa thực
nghiệm của mỗi lớp trong một trường và các trường với nhau. Từ đó xác định mô
hình thiết kế hiệu quả nhất cho giờ dạy học luyện tập từ ngữ ở lớp 10 THPT.
7. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN.
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Thư mục tham khảo, phần Nội dung gồm
3 chương :
Chương 1: Một số cơ sở lí luận và thực tiễn của dạy học nhóm bài luyện tập
từ ngữ cho học sinh lớp 10 theo hướng tích hợp và tích cực
Trong chương này, chúng tôi tập trung trình bày những cơ sở lí thuyết và
thực tiễn cho việc tìm hiểu quan điểm tích hợp và tích cực, nghĩa của từ và thực

trạng việc dạy học luyện tập từ ngữ ở lớp 10 THPT. Để thực hiện được điều đó,
chúng tôi triển khai những nội dung sau:
- Những luận điểm cơ bản về dạy học tích hợp và tích cực trong Ngữ văn
và phần tiếng Việt.
+ Dạy học tích hợp và tích cực trong Ngữ văn.
+ Dạy học tích hợp và tích cực trong phần Tiếng Việt.
- Nghĩa của từ trong hệ thống ngôn ngữ và trong hoạt động giao tiếp.
+ Nghĩa của từ trong hệ thống ngôn ngữ.
+Nghĩa của từ trong hoạt động giao tiếp.
- Khảo sát thực trạng dạy học từ ngữ.
+ Chương trình sách giáo khoa.
+ Phương pháp dạy học từ ngữ.
+ Năng lực sử dụng từ ngữ ở học sinh.
7
Chương 2 : Tổ chức dạy học nhóm bài luyện tập từ ngữ cho học sinh lớp 10
theo hướng tích hợp và tích cực.
Chúng tôi tập trung trình bày cách tổ chức cho học sinh hoạt động củng cố
và nâng cao các tri thức lí thuyết về từ ngữ. Đồng thời, tổ chức rèn luyện các khả
năng nhận diện, phân tích và năng lực sử dụng từ ngữ của học sinh trong học
văn, hành văn và trong giao tiếp. Từ đó góp phần nâng cao năng lực ngôn ngữ
cho học sinh. Chương này gồm những nội dung sau:
- Xác định mục tiêu dạy học luyện tập tữ ngữ ở lớp 10 theo hướng tích hợp
và tích cực.
+ Cơ sở để xác định mục tiêu dạy học luyện tập tữ ngữ ở lớp 10 theo hướng
tích hợp và tích cực.
+ Mục tiêu cần đạt của bài luyện tập từ ngữ.
- Xác định nội dung dạy học luyện tập từ ngữ ở lớp 10 theo hướng tích hợp
và tích cực.
+ Sách giáo khoa Ngữ văn 10 cơ bản.
+ Sách giáo khoa Ngữ văn 10 nâng cao.

- Lựa chọn phương tiện và hình thức dạy học luyện tập từ ngữ ở lớp 10 theo
hướng tích hợp và tích cực.
+ Lựa chọn và xây dựng hệ thống bài tập từ ngữ.
+ Lựa chọn hình thức tổ chức luyện tập từ ngữ cho học sinh lớp 10 theo
hướng tích hợp và tích cực.
+ Kết hợp luyện tập từ ngữ với Làm văn.
Chương 3 : Thực nghiệm sư phạm
Chương này nêu rõ mục đích, đối tượng và phương pháp thực nghiệm, mô
tả toàn bộ quá trình thực nghiệm và bước đầu có những đánh giá nhất định về
tính khả thi của đề tài.
- Mục đích và ý nghĩa thực nghiệm.
8
- Đối tượng và địa bàn thực nghiệm.
- Phương pháp thực nghiệm.
- Nội dung thực nghiệm.
- Đánh giá kết quả thực nghiệm.
- Kết luận chung về thực nghiệm.
Phần kết luận
Chúng tôi khái quát lại những nội dung cơ bản đã trình bày trong luận văn,
khẳng định khả năng thực thi những vấn đề đã nêu trên trong thực tế giảng dạy.
Ngoài ra, chúng tôi còn nêu một số nhận xét và đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả
trong dạy học luyện tập từ ngữ cho học sinh lớp 10 THPT.
9
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA DẠY HỌC NHÓM BÀI
LUYỆN TẬP TỪ NGỮ CHO HỌC SINH LỚP 10 THEO HƯỚNG
TÍCH HỢP VÀ TÍCH CỰC
1.1. NHỮNG LUẬN ĐIỂM CƠ BẢN VỀ DẠY HỌC TÍCH HỢP VÀ TÍCH CỰC
TRONG NGỮ VĂN VÀ PHẦN TIẾNG VIỆT
1.1.1. Dạy học tích hợp và tích cực trong môn Ngữ văn

1.1.1.1. Dạy học tích hợp trong Ngữ văn
a. Khái niệm về tích hợp
Tích hợp là một tư tưởng sư phạm đã trở thành xu hướng chung của
nhiều nước trên thế giới có nền giáo dục tiên tiến. Quan điểm dạy học này đã
được nghiên cứu và được sử dụng để xây dựng chương trình, biên soạn sách giáo
khoa phổ thông ở nước ta những năm gần đây. Đây là vấn đề khá mới nên đã có
những quan niệm khác nhau về tích hợp.
Theo từ điển tiếng Việt, tích hợp là “Lắp ráp, nối kết các thành phần của
một hệ thống theo quan điểm tạo nên một hệ thống toàn bộ” [21, tr. 981].
“ Tích hợp là sự phối hợp những tri thức gần gũi, có quan hệ mật thiết với
nhau trong thực tiễn, để chúng hỗ trợ và tác động vào nhau, phối hợp với nhau,
nhằm tạo nên kết quả tổng hợp nhanh chóng và vững chắc”[3, tr. 35].
“ Tích hợp là sự phối hợp các tri thức thuộc một số môn học có những nét
tương đồng vào một lĩnh vực chung, thường là quanh những chủ đề”[4, tr.25].
Mặc dù mỗi người có một cách thể hiện về tích hợp nhưng các tác giả đều có
một điểm chung khi cho rằng: Tích hợp không phải là vấn đề cắt xén chương
trình, cắt xén nội dung học tập, mà thực chất của vấn đề tích hợp mà sách giáo
khoa mới vận dụng là sự phối hợp kiến thức, kĩ năng thuộc các môn học hoặc
các phân môn khác nhau nhằm hình thành kiến thức liên thông, rèn luyện bốn kĩ
năng nghe - nói - đọc - viết cho học sinh.
10
b. Tích hợp trong môn Ngữ văn
Tích hợp là điểm nổi bật nhất của chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn
mới. Nó chi phối cách xây dựng chương trình, chỉ đạo nội dung và phương pháp
dạy học Ngữ văn. Có thể hiểu tích hợp một cách chung nhất đó là phương hướng
phối hợp một cách tốt nhất các quá trình học tập của nhiều môn cũng như phần
Đọc văn, Tiếng Việt, Làm văn trong một môn như Ngữ văn. Nhờ tích hợp mà
kết quả nắm vững kiến thức, thành thạo kĩ năng, phát triển phương pháp làm việc
của môn học và các phần tốt hơn nhiều.
So với các môn học khác trong chương trình, việc thực hiện tích hợp ở

môn Ngữ văn có nhiều thuận lợi riêng. Cái gốc của quan niệm tích hợp trong dạy
học Ngữ văn là ở chỗ :
“- Ngôn ngữ đã được mô hình hoá và lời nói thông dụng giàu sắc thái biểu
cảm là phương tiện, công cụ và nội dung giao tiếp của cả phân môn Văn học,
phân môn Tiếng Việt và phân môn Tập làm văn.
- Văn bản là tính chất chung của cả ba phân môn. Dù là bài Văn, Tiếng
Việt hay Làm văn đều là những phát ngôn hoàn chỉnh làm nên đơn vị hiểu được
trong hoàn cảnh giao tiếp. Có thể xem tác phẩm văn học là văn bản sáng tạo,
Tiếng Việt là văn bản khai thác, Làm văn là văn bản luyện tập kĩ năng trong
quá trình tích hợp. Văn bản của cả 3 phân môn đều chứa đựng những mức độ
khác nhau của tính khoa học, tính nghệ thuật, tính xã hội và tính sáng tạo của
nó. Đó cũng là cơ sở chung để suy nghĩ về sự quy tụ những giao điểm của quá
trình tích hợp.
- Cuối cùng là sự tích hợp bên trong vừa tự nhiên vừa năng động của chủ
thể giáo viên và học sinh, mà ở đó trí thông minh, sức tưởng tượng, trực
giác và sự suy luận tỉnh táo đóng góp rất nhiều vào con đường tích hợp
Ngữ văn.” [14, tr. 9- 13].
11
Quan điểm tích hợp được vận dụng vào chương trình Ngữ văn 10 THPT
là sự tiếp tục và thể hiện tinh thần tích hợp đã có ở THCS : Tích hợp ba phần
Văn học, Tiếng Việt, Làm văn trong môn Ngữ văn (không gọi là ba phần với ý
nghĩa là những môn học như quan niệm trước đây mà gọi là ba phần hoặc ba bộ
phận của môn Ngữ văn). Như vậy, việc tích hợp được thể hiện ngay từ tên gọi
môn học và tên SGK. Các soạn giả chú ý cả tích hợp ngang và tích hợp dọc.
Chương trình đã thể hiện rõ định hướng giảng dạy đi theo quan điểm tích hợp,
liên thông kiến thức ba phần trên. Theo quan điểm tích hợp, các phần Văn
học, Tiếng Việt, Làm văn phải gắn kết nhau, hỗ trợ nhau. Đây là nguyên tắc
đã thực hiện có hiệu quả ở môn Ngữ văn THCS. Tiếp tục thành quả đó,
chương trình Ngữ văn THPT hợp nhất ba phần vào một chương trình chung.
Làm văn kết hợp với kiểu văn bản ở phần Đọc văn, lấy ngữ liệu ở phần Đọc

văn. Phần Tiếng Việt cũng lấy ngữ liệu ở phần Đọc văn, khai thác các hiện
tượng ngôn ngữ để nâng cao năng lực đọc văn. Việc tích hợp trong chương
trình và SGK Ngữ văn được thể hiện trên các phương diện cụ thể như : Tích hợp
các nội dung dạy học của phần Văn học với nội dung dạy học của các phần
Tiếng Việt và Làm văn; tích hợp dạy kiến thức với thực hành luyện tập các kĩ
năng quan sát, nghe, nói, đọc, viết và rèn luyện tư duy; tích hợp dạy các kiến
thức, kĩ năng của môn Ngữ văn với các kiến thức kĩ năng thuộc các ngành khoa
học, nghệ thuật khác và thực tiễn đời sống; tích hợp việc dạy của giáo viên với
việc học của học sinh.
Thực hiện việc tích hợp trong chương trình Ngữ văn là góp phần giải
quyết những bài toán muôn thủa của giáo dục như : Mâu thuẫn giữa lượng kiến
thức, kĩ năng cần đưa vào nhà trường với quỹ thời gian có hạn, mâu thuẫn giữa
việc học (nhận thức) và hành (hoạt động) của người học, mâu thuẫn giữa sự tiếp
nối hệ thống của kiến thức và sự trùng lặp kiến thức.
12
Đồng thời việc tích hợp phần học vào trong cùng một bài dạy là nhằm
mục đích hình thành bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết và hình thành cho học sinh
năng lực phân tích, bình giá, cảm thụ văn học một cách chủ động, sáng tạo. Dựa
trên một văn bản để dạy các kiến thức, kĩ năng của từng phần, giúp học sinh biết
vận dụng linh hoạt những kiến thức, kĩ năng của các phần vào việc giải mã và
tạo lập văn bản. Trong đó đặc biệt chú ý tới sự hỗ trợ lẫn nhau giữa hai nhóm kĩ
năng: Kĩ năng về tiếng Việt và kĩ năng về văn học.
Như vậy, tích hợp trong môn Ngữ văn có thể hiểu là sự hợp nhất ba phần Văn
- Tiếng Việt - Làm văn lại, “hoà trộn” trong nhau, học cái này thông qua cái kia và
ngược lại. Cả ba phần đều dựa vào một văn bản chung để khai thác, hình thành
kiến thức và rèn luyện kĩ năng theo yêu cầu của mỗi phần trong hệ thống kiến
thức của cả ba phần có mối liên hệ chặt chẽ, phụ thuộc vào nhau, ủng hộ lẫn nhau
và làm sáng tỏ cho nhau, tránh được sự chồng chéo và thiếu tính thống nhất.
Trong chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn 10 chúng tôi nhận thấy có
kiểu tích hợp sau :

Tích hợp ngang: “Là tích hợp kiến thức tiếng Việt với các mảng kiến thức về
văn học, thiên nhiên, con người và xã hội theo nguyên tắc đồng quy” [32, tr. 12].
Đó là kiểu tích hợp kiến thức của ba phần: Văn học - Tiếng Việt - Làm văn trong
một bài học.
Tích hợp dọc: “Là tích hợp ở một đơn vị kiến thức và kĩ năng với những
kiến thức và kĩ năng đã học trước đó, theo nguyên tắc đồng tâm (còn gọi là đồng
trục hay vòng tròn xoáy trôn ốc), cụ thể là: Kiến thức và kĩ năng của lớp trên bậc học
trên bao hàm kiến thức và kĩ năng của lớp dưới, bậc học dưới, nhưng cao hơn, sâu hơn
kiến thức và kĩ năng của lớp dưới, bậc học dưới” [ 32, tr. 13].
Tích hợp đồng tâm: “Là tích hợp theo từng vấn đề, tích hợp ở một đơn vị
kiến thức và kĩ năng mới với những kiến thức được học trước đó theo nguyên tắc
đồng trục. Nói một cách tổng quát, việc giảng dạy theo nguyên tắc hàng ngang
(tích hợp ngang) là cách tổ chức giảng dạy theo nguyên tắc đồng tâm (tích hợp
đồng tâm) có nâng cao[ 3, tr. 39].
13
Trong các kiểu tích hợp trên, các nhà biên soạn chương trình và sách giáo
khoa đặc biệt lưu tâm đến kiểu tích hợp ngang, coi đây như là nguyên tắc chính
để tổ chức nội dung giảng dạy.
1.1.1.2. Dạy học tích cực trong Ngữ văn
a. Quan điểm dạy học theo hướng tích cực
Hiểu một cách chung nhất thì bản chất của quan điểm dạy học tích cực là
người dạy phải tính đến nhu cầu, nguyện vọng của người học, đến những đặc
điểm tâm sinh lí và các cấu trúc tư duy của từng người. Đó là chiến lược, phương
pháp, thủ pháp dạy của thầy giáo sao cho phù hợp với chiến lược, phương pháp,
thủ pháp của học trò. Việc dạy phải xuất phát từ người học, vì người học, phải
đáp ứng được những yêu cầu của người học cũng như của xã hội. Tích cực ở đây
là tích cực hoá hoạt động ở cả hai chủ thể người dạy và người học. Chính vì thế,
việc sắp xếp các nội dung học tập, phương pháp và mục tiêu dạy học phải thực
hiện theo cách tăng cường tính chủ động, sáng tạo, rèn luyện kĩ năng tự học ở
người học, tạo điều kiện cho người dạy có thể thực hiện được vai trò tổ chức,

dẫn dắt các hoạt động học tập ở người học.
Dạy học theo hướng tích cực không phải là một phương pháp cụ thể, đặt
ngang tầm với các phương pháp dạy học đã có. Đó là một tư tưởng, một quan
điểm giáo dục chi phối tất cả các yếu tố của quá trình dạy học như: Mục tiêu, nội
dung, phương pháp, phương tiện, tổ chức, đánh giá, hiệu quả.
Nếu thực hiện dạy học theo hướng tích cực thì sẽ mang lại hiệu quả trong
giáo dục. Nhiệm vụ truyền thống trước đây của người giáo viên là chuyển giao
thông tin, nay được điều chỉnh và mở rộng thành một nhiệm vụ tạo các điều kiện
học tập và hỗ trợ quá trình học tập của học sinh. Học sinh được thách thức tham
gia một cách tích cực trong xây dựng sự hiểu biết và quan niệm của hoạt động
học( tự suy nghĩ và tìm hiểu bên cạnh việc chăm chú nghe giảng, làm bài tập và
ghi nhớ thông tin). Bản chất của dạy học theo hướng tích cực nằm trong khái
niệm học như một quá trình tích cực và kiến tạo, thông qua đó người học xây
dựng mối liên hệ giữa thông tin mới và những kiến thức, kĩ năng sẵn có.
14
Điều này có thể đạt được thông qua rất nhiều các phương pháp dạy và các
hoạt động học tập khác nhau, bao gồm các chiến lược và công cụ dạy học truyền
thống cũng như các chiến lược và công cụ đổi mới. Sự lựa chọn một phương
pháp hay hoạt động cụ thể phụ thuộc vào các mục tiêu cụ thể và các kết quả
mong muốn trong một nội dung bài học cụ thể.
Những đặc trưng của dạy học theo hướng tích cực là: Dạy học thông qua
tổ chức các hoạt động của học sinh ; dạy học chú trọng rèn luyện phương pháp tự
học; tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác; kết hợp đánh giá
của thầy với tự đánh giá của trò.
Một số phương pháp dạy học tích cực cần được phát triển ở trường THPT
là: Vấn đáp tìm tòi; dạy và học phát hiện và giải quyết vấn đề; dạy và học hợp
tác trong nhóm nhỏ; dạy học theo dự án.
b. Quan điểm dạy học Ngữ văn THPT theo hướng tích cực
Trong quá trình dạy học nói chung và dạy học Ngữ văn nói riêng, tích cực
và tích hợp là hai quan điểm chi phối toàn bộ các yếu tố của quá trình này. Mặc

dù mỗi quan điểm có những đặc điểm và yêu cầu riêng song chúng lại có mối
quan hệ gắn bó, hỗ trợ nhau, cùng thực hiện mục tiêu chung là đào tạo ra những
con người năng động, sáng tạo, có khả năng giải quyết những vấn đề do thực tế
đặt ra.
Chính vì thế, mặc dù chương trình và SGK Ngữ văn THPT hiện nay được
biên soạn theo nguyên tắc tích hợp. Nhưng trong quá trình thực hiện tích hợp,
vai trò của phương pháp của dạy học theo hướng tích cực lại càng được đề cao.
Bởi vì xu hướng tích hợp không chỉ nhằm mục đích rút ngắn thời lượng trình bày
các tri thức mà quan trọng hơn là tập dượt cho học sinh vận dụng tổng hợp các
tri thức vào thực tiễn đời sống. Trong giáo dục, chương trình được xây dựng theo
quan điểm tích hợp trước hết phải dựa trên quan điểm giáo dục nhằm vào việc
phát triển năng lực người học. Theo quan điểm này “chương trình Ngữ văn tạo
điều kiện để học sinh hoà nhập một cách chủ động, tích cực hơn với môi trường
15
của các em đang học tập, với xã hội tương lai khi các em ra trường”[ 7]. Do vậy,
một trong những điểm mới của chương trình Ngữ văn 10 mà đã kế thừa từ Ngữ
văn THCS là đưa một số văn bản nhật dụng vào giảng dạy. Đây là những văn
bản rất gần gũi và thường gặp trong cuộc sống hằng ngày, học các văn bản này
học sinh có cơ hội và khả năng phân tích, đánh giá, sử dụng các văn bản nhật
dụng khác trong cuộc sống.
Chương trình và SGK Ngữ văn THPT coi trọng việc rèn luyện và nâng
cao các kĩ năng quan sát, nghe, nói, đọc, viết (chú trọng nhiều hơn đến nói và
viết) là mục tiêu và cũng là căn cứ để gắn bó việc đọc hiểu văn bản với nội dung
Làm văn trong chương trình, SGK Ngữ văn THPT. Các nội dung Làm văn được
đến với học sinh qua con đường qui nạp và thực hành vận dụng: Từ phân tích
ngữ liệu rút ra những kiến thức, kĩ năng cần ghi nhớ và quay trở lại thực hành
luyện tập củng cố và nâng cao kĩ năng sử dụng tiếng Việt gắn với những tình
huống giao tiếp thông dụng và gần gũi với đa số học sinh lứa tuổi THPT. Các
ngữ liệu để dạy Làm văn phần lớn được lấy từ các văn bản Đọc hiểu.
Phương hướng chủ đạo để đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn bậc

THPT là chuyển trọng tâm của hoạt động dạy từ thầy sang trò. Quán triệt tinh
thần lấy học sinh làm trung tâm. Mọi hoạt động trong giờ học Ngữ văn đều nhằm
phát huy tính tích cực chủ động của người học. Khâu then chốt của quá trình dạy
học này chính là việc tổ chức cho học sinh hoạt động tự phát hiện, tự chiếm lĩnh
tri thức ngữ văn và hình thành các kĩ năng, kĩ xảo cần thiết (đây cũng chính là
nhiệm vụ của quan điểm dạy học theo hướng tích cực).
Một quan điểm cần được quán triệt là thực hiện dạy học theo hướng tích
cực không có nghĩa là gạt bỏ các phương pháp truyền thống mà phải vận dụng
một cách hiệu quả các phương pháp dạy học hiện có theo quan điểm dạy học tích
cực kết hợp với các phương pháp hiện đại. Trong hệ thống các phương pháp dạy
học Ngữ văn được đào tạo trong nhà trường sư phạm trước đây cũng đã có nhiều
phương pháp mang tính tích cực, ngay cả phương pháp thuyết trình cũng sẽ
16
mang lại tính tích cực nếu người giáo viên văn biết sử dụng đúng lúc, đúng chỗ
với mức độ phù hợp. Những đổi mới trên của chương trình và SGK Ngữ văn 10
đã chi phối trực tiếp đến phương pháp dạy học của người giáo viên. Trước hết là
sự chú trọng đến việc tích hợp các nội dung kiến thức, kĩ năng với nhau trong
từng hoạt động dạy học để hình thành và phát triển tốt các năng lực đọc văn và
làm văn cho học sinh. Sau đó là cách thức dạy học theo tinh thần đổi mới
phương pháp dạy học. Mục đích của việc dạy học Ngữ văn đã có sự thay đổi
theo định hướng người học được thực sự hoạt động (tìm tòi, suy nghĩ, nghe nói,
đọc viết…) dưới sự hướng dẫn của giáo viên chứ không thuần tuý chỉ là thụ
động tiếp nhận những thông tin áp đặt từ phía người thầy. Giáo viên đóng vai trò
là người tổ chức, hướng dẫn chứ không phải là người làm thay, nói hộ các em.
Giờ học Ngữ văn là giờ học được tiến hành theo phương thức đối thoại, trao đổi
và chia sẻ kinh nghiệm giữa giáo viên với học sinh và giữa học sinh với nhau.
Cần hạn chế lối giảng giải, trong đó các hoạt động của giáo viên (đọc, phân tích,
làm mẫu, ghi bảng…) chiếm vai trò chỉ đạo. Vì vậy, có thể nói rằng, khâu đột
phá về chất lượng đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn ở trường THPT là bồi
dưỡng năng lực thực hành nghề nghiệp của đội ngũ giáo viên. Trước hết đội ngũ

giáo viên phải nhận thức việc đổi mới phương pháp dạy học bộ môn thường
xuyên là lẽ sống, là trách nhiệm, lương tâm và danh dự của người thầy.
Đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn nếu dừng lại ở những nội dung dạy
học lí luận bộ môn, những quan niệm, nguyên tắc, yêu cầu, phương pháp … thì
không thể đổi mới lâu dài và triệt để . Đổi mới phương pháp dạy học phải gắn
liền với đổi mới về nội dung. Đối với giáo viên trung học phổ thông, đó là cách
hiểu mới về môn học, về bản chất khoa học và nghệ thuật của văn chương. Yêu
cầu nắm vững kiến thức cơ bản về Ngữ văn vẫn là một trong những nhân tố quan
trọng về tiềm năng của người giáo viên trong quá trình thực hiện đổi mới phương
pháp dạy học.
17
Một điểm nữa là, muốn dạy học Ngữ văn theo hướng tích cực có hiệu quả
lâu dài cần phải xem trọng quan điểm đồng bộ. Từ đổi mới mục tiêu đào tạo,
chương trình, sách giáo khoa đến nội dung và phương pháp, từ người lãnh đạo
quản lí giáo dục các cấp cho đến giáo viên và học sinh phải đổi mới nhận thức,
đổi mới hoạt động (quản lí dạy, học). Phải kết hợp đổi mới nghiên cứu lí luận
sâu, toàn diện, kết hợp với vận dụng, thực nghiệm kĩ lưỡng và lâu dài. Tổ chức
hoạt động đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn cần phải kết hợp với đôn đốc,
theo dõi, đánh giá nghiêm túc, công phu, khoa học thực sự.
1.1.2. Dạy học tích hợp và tích cực trong phần Tiếng Việt
1.1.2.1. Dạy học tích hợp trong phần Tiếng Việt
Tiếng việt là một phần trong chương trình và SGK Ngữ văn 10, cho nên
nó cũng vận dụng quan điểm tích hợp trong quá trình đổi mới. Trên cơ sở lấy
quan điểm tích hợp làm nguyên tắc xây dựng chương trình và SGK THPT, tính
tích hợp của phần Tiếng Việt được thể hiện như sau:
Tích hợp theo chiều dọc: Là tích hợp một đơn vị kiến thức và kĩ năng với
những kiến thức và kĩ năng đã được học trước đó theo nguyên tắc đồng trục. Cụ
thể là kiến thức, kĩ năng ở bài học lớp sau cao hơn và sâu hơn lớp trước. Về cơ
bản, kiến thức đã học đầy đủ ở THCS, lên THPT học sinh chỉ còn học về các
phong cách ngôn ngữ để hỗ trợ cho việc làm văn và học một số kiến thức về

tiếng Việt, như lịch sử tiếng Việt, loại hình tiếng Việt. Ngoài ra phần thời lượng
còn lại dùng vào các bài tập sử dụng tiếng Việt. Như vậy, chương trình không
còn là một giáo trình ngữ học thu nhỏ như trước đây. Giáo viên THPT cần tìm
hiểu chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn THCS mới có thể dạy tốt sách giáo
khoa THPT.
Tích hợp theo chiều ngang: Là tích hợp kiến thức Tiếng Việt với các mảng
kiến thức về văn học, thiên nhiên, con người, xã hội… theo nguyên tắc đồng tâm
dựa trên việc lấy các kiểu văn bản để định trục đồng qui của chương trình. Tiếng
Việt là công cụ hữu hiệu và phương tiện đắc lực để giải mã tác phẩm và lập mã
18
mới cho Làm văn. Tri thức và kĩ năng sử dụng tiếng Việt được xem là phần
mang đặc tính trung gian nổi bật nhất, nó càng thấm vào nhận thức của học sinh
bao nhiêu thì họ càng có cơ sở khám phá, cảm thụ được đầy đủ nội dung tư
tưởng và hình thức nghệ thuật của tác phẩm văn học được tác giả xây dựng từ
năng lực vận dụng ngôn từ.
Vì là một phần của môn Ngữ văn nên trong khi thực hiện tích hợp cũng
Tiếng Việt cùng một lúc phải thực hiện hai nhiệm vụ: Vừa phải đảm bảo tính
tích hợp theo hệ thống ngang song song với các phần Văn học và Làm văn vừa
phải đảm bảo cung cấp kiến thức theo hệ thống dọc của riêng phần Tiếng Việt.
Chính vì thế mà hệ thống bài học Tiếng Việt được chia thành các nhóm bài cụ
thể (nhóm bài về Phong cách ngôn ngữ, nhóm bài về Hoạt động giao tiếp, bài về
Lịch sử tiếng Việt, nhóm bài về Luyện tập thực hành sử dụng tiếng Việt).
Quan điểm dạy học tích hợp trong phần Tiếng Việt đã chỉ đạo cho việc tổ
chức dạy học nhóm bài luyện tập từ ngữ. Cụ thể là, dạy luyện tập từ ngữ phải
gắn với phần Đọc hiểu và Làm văn. Giờ luyện tập từ ngữ phải cố gắng chọn các
ngữ liệu có trong phần Đọc hiểu. Ngược lại, những hiểu biết về từ ngữ, đặc biệt
là những kĩ năng sử dụng từ ngữ sẽ được vận dụng tối đa khi học Đọc hiểu văn
bản và Làm văn. Chẳng hạn, khi dạy bài “ Luyện tập về nghĩa của từ” chúng ta
phải trích được các ngữ liệu từ các bài Đọc hiểu (các bài ca dao, tục ngữ hay
trong Truyện Kiều ). Từ đó cho học sinh vận dụng những hiểu biết về từ đồng

nghĩa, từ trái nghĩa, từ đồng âm vào tìm hiểu các văn bản. Đặc biệt, những năng
lực từ ngữ đó được thể hiện rõ nhất trong bài viết của các em. Như vậy, giờ dạy
học luyện tập từ ngữ mới đạt được hiệu quả cao.
1.1.2.2. Dạy học tích cực trong phần Tiếng Việt
Cũng vì là một bộ phận của môn Ngữ văn, nên Tiếng Việt cũng đứng trước
yêu cầu đổi mới về phương pháp dạy học theo hướng tích cực. Có thể hiểu tích
cực trong giờ học Tiếng Việt chính là sự tích cực hoá của cả hai chủ thể người
dạy và người học nhằm hướng tới hoạt động học tập chủ động, chống lại thói
quen học tập thụ động ở học sinh.
19
Trong các giờ học Tiếng Việt, học sinh cần được giáo viên hướng vào nhiều
hoạt động khác nhau. Song hai hoạt động được quan tâm nhất là hoạt động chiếm
lĩnh tri thức mới và hoạt động sử dụng tiếng Việt vào thực tế giao tiếp. Vấn đề
quan trọng trong dạy học Tiếng Việt là cần phải tổ chức cho học sinh tận dụng
tiềm năng tư duy, tiềm năng ngôn ngữ của mình để độc lập và chủ động chiếm
lĩnh tri thức mà các nhà ngôn ngữ đã phát hiện. Tổ chức quá trình này như thế nào
để chuyển tri thức từ ngoài vào trong, biến tri thức chung thành “tài sản riêng” của
mỗi học sinh, góp phần rèn luyện tư duy sáng tạo cho học sinh chính là nhiệm vụ
quan trọng của quá trình dạy học Tiếng Việt.
Đối với quá trình dạy học Tiếng Việt theo hướng tích cực thì việc đa dạng
hóa các hoạt động của học sinh dưới sự tổ chức, dẫn dắt, giao nhiệm vụ của giáo
viên, phù hợp với trình độ, năng lực của từng học sinh chính là con đường tối ưu
để đạt tới hiệu quả dạy học. Muốn làm được điều này, trước hết, người giáo viên
một mặt phải nắm vững tri thức tiếng Việt, mặt khác phải nắm vững bản chất của
quá trình hình thành khái niệm và qui tắc mới, phải nắm được bản chất và quy luật
tiếng Việt mà các nhà nghiên cứu đã tiến hành. Đồng thời, người giáo viên phải
nhận thức rõ vai trò định hướng và chỉ đạo của mình trong quá trình dạy học. Phải
tìm mọi cách để phát huy cao nhất tiềm năng của học sinh, phải kích thích học
sinh say mê học tập, tự đào sâu, phát triển, mở rộng kiến thức, giúp học sinh
không chỉ nắm kiến thức trong bài giảng mà còn cả những kiến thức có ích khác

ngoài bài giảng. Có như vậy, quá trình dạy học sẽ không chỉ dễ hiểu, dễ nhớ mà
cao hơn là rèn cho học sinh năng lực làm việc độc lập, sáng tạo, phát huy tối đa
khả năng của cá nhân.
Như vậy, yêu cầu của dạy học tích cực trong dạy học Tiếng Việt là phải đi từ
việc huy động các ngữ liệu để tìm ra dấu hiệu cơ bản của khái niệm, các yếu tố nội
dung của qui tắc, trên cơ sở đó khái quát hoá thành khái niệm và qui tắc mới tiến
tới hoàn thành nhiệm vụ nhận thức cho học sinh. Xây dựng mô hình dạy học theo
qui trình dạy học nêu vấn đề: Tạo tình huống có vấn đề - phát hiện và giải bài toán
có vấn đề - hoàn thành nhiệm vụ nhận thức là cách giải quyết có hiệu quả rõ rệt
nhằm tiến đến qui trình hoạt động nhận thức tiếng Việt cho học sinh.
20
Trong việc thực hiện phát huy tính tích cực trong quá trình dạy học, bản
thân phần Tiếng Việt mang một thuận lợi lớn cho sự chủ động tích cực của học
sinh. Vì đó là tiếng mẹ đẻ của các em - thứ tiếng mà các em đã được làm quen và
sử dụng từ khi bắt đầu tập nói.
“ Với vốn từ ngữ sẵn có từ trước tuổi tới trường cùng với những tri thức
khoa học về tiếng Việt đã được tiếp nhận từ lớp học trước, học sinh có thể chủ
động trong việc tự tìm hiểu bài. Do đó, có một số vấn đề cần được quán triệt
trong quá trình dạy học Tiếng Việt ở trương phổ thông là:
- Tất cả các đối tượng học sinh (từ yếu kém đến khá giỏi) đều phải được
chú ý phát huy tiềm năng và hoạt động tư duy tích cực nhằm chiếm lĩnh tri thức
và hình thành kĩ năng giao tiếp bằng tiếng Việt.
- Năng lực và vốn ngôn ngữ của học sinh cần được phát huy tối đa trong giờ
học Tiếng Việt.
- Học sinh được hướng dẫn động nhận thức, hoạt động luyện kĩ năng
sử dụng tiếng Việt theo một qui trình có thể kiểm soát được mà giáo viên
đã vạch ra.
- Học sinh được trực tiếp tham gia vào quá trình kiểm tra, đánh giá hoạt
động học tập của mình” [ 30, tr. 18].
Dạy học tích cực đối với phần Tiếng Việt tựu chung là huy động, xây dựng

ngữ liệu, tổ chức cho học sinh quan sát, phân tích và sau đó củng cố, khắc sâu
kiến thức bằng hệ thống bài tập. Trong quá trình này có thể tiến hành một số
thao tác cơ bản sau: Thao tác phân tích, thao tác phát hiện, thao tác khái quát
hoá. Sau khi sơ bộ hình thành tri thức, học sinh sẽ được củng cố, khắc sâu bằng
các thao tác: Thao tác chứng minh, thao tác phân tích phán đoán và phân tích
tổng hợp. Khi học sinh tiến hành phân tích - chứng minh, giáo viên có thể kiểm
tra mức độ nắm kiến thức của học sinh. Và khi học sinh thực hiện thao tác phân
tích - tổng hợp là học sinh đã bước sang lĩnh vực sử dụng ngôn ngữ và hoạt động
giao tiếp.
21
Nhằm đa dạng hoá hoạt động nhận thức và gây hứng thú cho học sinh, giáo
viên có thể sử dụng mô hình dạy học nêu vấn đề, sử dụng graph… Điều cốt yếu
ở đây là giáo viên tìm ra cách hướng dẫn học sinh giải bài toán và tự rút ra nội
dung tri thức chứ không làm thay cho các em.
Trong chương trình và SGK Ngữ văn 10, nhóm bài luyện tập từ ngữ tiếng
Việt chiếm một dung lượng và thời lượng đáng kể. Do vậy nó cũng chịu ảnh
hưởng sâu sắc của quan điểm dạy học theo hướng tích cực. Điều đó thể hiện rõ
trong mục tiêu, nội dung của từng tiết học, bài học cụ thể.
Nhóm bài này nhằm mục đích nâng cao năng lực sử dụng tiếng Việt cho
học sinh, phục vụ trực tiếp cho việc hiểu văn và làm văn trong chương trình. Từ
đó các em hiểu được tầm quan trọng của việc trau dồi và phát triển vốn ngôn ngữ
của bản thân theo các yêu cầu chung về sử dụng tiếng Việt, biết vận dụng những
hiểu biết vào thực tiễn nghe, nói, đọc viết và cả đọc tiếng Việt. Để làm được điều
đó, hơn lúc nào hết cần phải vận dụng quan điểm dạy học tích cực vào quá trình
dạy học nhóm bài luyện tập nói chung và dạy học luyện tập từ ngữ nói riêng.
Cần phải tổ chức việc luyện tập sao cho phát huy hết năng lực của học sinh.
Chúng ta phải tạo điều kiện cho học sinh được hoạt động nhiều, hoạt động tích
cực, chủ động và mang lại hiệu quả rõ rệt trong giờ học. Tổ chức giờ luyện tập
sao cho mọi học sinh được tham gia vào học tập. Muốn vậy, hệ thống bài tập
phải được xây dựng cho nhiều đối tượng, nhiều học sinh, kết hợp được giữa

luyện tập cá nhân và luyện tập nhóm nhỏ, luyện tập cá nhân với luyện tập tập
thể. Phải có hoạt động trao đổi, toạ đàm giữa giáo viên và học sinh.
Qua giờ học, các em có thể phát huy tối đa những tiềm năng về từ ngữ tiếng
Việt vốn có. Có những khả năng sử dụng từ ngữ nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Đó
cũng là một trong những nhiệm vụ quan trọng mà phần Tiếng Việt trong chương
trình THPT cần thực hiện và phải thực hiện tốt.
22
1.2. NGHĨA CỦA TỪ TRONG HỆ THỐNG NGÔN NGỮ VÀ TRONG HOẠT
ĐỘNG GIAO TIẾP
1.2.1. Nghĩa của từ trong hệ thống ngôn ngữ
1.2.1.1. Bản chất tín hiệu ngôn ngữ của từ
Từ và các ngữ cố định là đơn vị ngôn ngữ với tư cách là một hệ thống tín
hiệu. Trong hệ thống ngôn ngữ, từ là đơn vị tín hiệu đích thực. Bản chất tín hiệu
là tạo điều kiện cho ngôn ngữ trở thành công cụ giao tiếp của xã hội loài người.
Theo các nhà ngôn ngữ, từ là đơn vị hiển nhiên, thực tại có hai mặt hình thức và
nội dung dùng để tạo câu. Đó là đơn vị mà với chúng ngôn ngữ thực hiện chức
năng giao tiếp và thông báo thông qua thao tác kết hợp chúng với nhau. Vì là
một công cụ giao tiếp nên ngôn ngữ phải được xem xét dưới góc độ tín hiệu học
vì bản chất tín hiệu là nhân tố thứ nhất quyết định tính đặc thù của các đơn vị và
lí giải quy tắc hoạt động của ngôn ngữ.
Với tư cách là một tín hiệu, từ gồm hai mặt: Cái được biểu đạt và cái biểu
đạt. Trong đó cái biểu đạt là hình thức âm thanh, vỏ vật chất của từ, còn cái được
biểu đạt là nội dung ý nghĩa mà vỏ âm thanh chứa đựng. Hai mặt này luôn gắn
bó với nhau như hai mặt của một tờ giấy. Không thể nói mặt nào là quan trọng
hơn bởi “tín hiệu ngôn ngữ được đặc trưng bởi sự gắn bó, qui định lẫn nhau giữa
ngoại biểu và nội dung”[1].
Vỏ âm thanh của từ là quan trọng. Bởi không có nó thì từ không tồn tại
được và nghĩa cũng không có. Có vỏ âm thanh thì nội dung muốn diễn đạt mới
được thể hiện và truyền đạt cho người khác. Nhưng nghĩa của từ là nội dung, nếu
không có nội dung thì âm chỉ là cái vỏ mà thôi. Do đó, khi dạy từ và dạy nghĩa

của từ, chúng ta phải dạy học sinh nắm được âm gắn với nghĩa vì nghĩa nằm
trong âm và âm thể hiện nghĩa. Hay nói một cách khái quát thì những tri thức về
cấu tạo từ tiếng Việt và quan hệ giữa chúng với nghĩa của từ, những hiểu biết về
ngữ nghĩa từ tiếng Việt là cơ sở khoa học chính yếu tạo nên nội dung dạy học từ
ngữ trong chương trình THPT.
23
1.2.1.2. Nghĩa của từ là một cấu trúc
Nghĩa của từ là một vấn đề phức tạp, không thể nhận diện và hiểu nó một
cách dễ dàng. Vì thế đã có nhiều cách hiểu khác nhau về nghĩa của từ: Nghĩa
của từ là “cái sự vật, hoạt động, tính chất, số lượng…v.v. mà từ biểu thị”[ 22] ;
“Nghĩa của từ về phương diện tâm lí (…) là thuộc tính thiên hướng của kí hiệu
mà với thuộc tính thiên hướng đó các quá trình tâm lí diễn ra ở người nghe là
phản ứng được thay đổi phụ thuộc vào các hoàn cảnh đi kèm, còn kích thích là
sự tri giác kí hiệu bằng thính giác” (CH. Stevenson); “Nghĩa của từ là cái xuất
hiện (hay được gợi lên) trong trí óc mọi người khi nghe thấy (hoặc đọc) từ ấy”
[ 29, tr. 120].
Nếu xét trong mối tương quan với nhiều phương diện khác của từ thì ý
nghĩa của từ chính là nội dung tinh thần mà từ đó gợi ra. Ý nghĩa của từ vừa là
cái riêng của từng từ vừa là cái chung cho từ cùng loại. Nắm được cái chung, cái
riêng trong ý nghĩa của từ thì mới thực sự hiểu từ, thực sự hiểu được cái tinh tế
trong từ và mới hiểu được những đặc sắc của ngôn ngữ ở phương diện nội dung.
Từ là tín hiệu ngôn ngữ và đảm nhiệm chức năng tín hiệu học nhất định.
Mặt khác, ý nghĩa học ngày nay cho thấy rằng cái là nghĩa của từ không phải là
một khối thuần nhất mà là tập hợp các thành phần nhất định. Tuỳ theo chức năng
mà từ đảm nhiệm, các thành phần ý nghĩa của từ được tách ra.
Từ nào cũng có nghĩa, nghĩa của từ là sự kết hợp chặt chẽ giữa nghĩa từ
vựng và nghĩa ngữ pháp. Nghĩa của từ vựng là ý nghĩa cụ thể riêng cho từng từ,
chỉ ra nội dung cụ thể của một từ này với từ khác. Còn ý nghĩa ngữ pháp là ý
nghĩa chung cho từng loại từ, có hình thức biểu thị nhất định, nó ứng với chức
năng ngữ pháp của từ. Theo Đỗ Hữu Châu, ý nghĩa từ vựng và ý nghĩa ngữ pháp

được phân biệt bởi hai tiêu chí: Tính đồng loạt và tính bắt buộc của ngoại biểu.
Ý nghĩa ngữ pháp có tính đồng loạt chung cho từng từ cùng loại, ý nghĩa từ vựng
có tính đồng loạt riêng cho từng từ. Ý nghĩa ngữ pháp phải được diễn đạt bởi
những hình thức ngữ pháp cũng có tính đồng loại. Còn ý nghĩa từ vựng không
diễn đạt bởi những hình thức chung.
24
Hai loại nghĩa này gắn bó thành một chỉnh thể: Ý nghĩa ngữ pháp có chức
năng tổ chức câu, nhờ chúng mà các từ liên kết lại thành thông điệp. Ý nghĩa từ
vựng có chức năng đưa chính hiểu biết về sự vật, hiện tượng thành các đơn vị
ngữ nghĩa để tạo ra nội dung miêu tả cụ thể của câu. Ý nghĩa từ vựng của từ bao
gồm các thành phần ý nghĩa cơ bản:
Ý nghĩa biểu vật: Là nghĩa ứng với sự vật hiện tượng, trạng thái tính chất
được từ gọi tên. Ý nghĩa biểu vật qui định phạm vi sự vật mà từ dùng để biểu
hiện. Có những từ chỉ có ý nghĩa biểu vật hẹp, chỉ ứng với một sự vật hiện tượng
duy nhất trong thực tế. Ví dụ, từ “gật ” chỉ hành động của đầu người. Nhưng có
những từ lại có tính khái quát lớn bao hàm một phạm vi sự vật to lớn, ví dụ như
từ “chỗ” chỉ mọi nơi mọi chốn. Có những từ có nhiều nghĩa biểu vật, tức là từ đó
ứng với nhiều loại sự vật hiện tượng. Chẳng hạn từ đầu của tiếng Việt trước hết
chỉ bộ phận của cơ thể người hoặc động vật (bộ phận ở trên cùng hay trước hết
của cơ thể, thường chứa bộ não có chức năng điều khiển cơ thể). Từ đầu còn chỉ
bộ phận trước hết có chức năng điều khiển của vật (đầu máy, đầu tàu hoả…), chỉ
bộ phận ở vị trí trước hết của vật thể (đầu nhà, đầu bàn, đầu ngón tay…), chỉ vị
trí trước hết trong không gian (đầu làng, đầu sông, đầu chợ…), hoặc thời gian
(đầu tháng, đầu mùa, đầu năm…).
Nghĩa biểu vật là thành phần nghĩa giúp chúng ta hiểu từ một cách chính
xác. Song, không nên hiểu lầm ý nghĩa biểu vật trùng hoàn toàn với sự vật, hiện
tượng, tính chất… trong thực tế khách quan. Bởi ý nghĩa biểu vật là sự phản ánh
sự vật, hiện tượng trong thực tế vào ngôn ngữ. Đó là những mẩu, những mảnh,
những đoạn cắt của thực tế nhưng không hoàn toàn trùng với thực tế. Ý nghĩa
biểu vật tuy bắt nguồn từ sự vật, hiện tượng khách quan, song do chịu sự tác

động qua lại của các từ khác, do chịu sự khái quát hoá và chịu tác động của
những qui tắc cấu tạo từ, cho nên trở thành sự kiện ngôn ngữ, chứ không còn là
những sự kiện ngoài ngôn ngữ nữa. Vì thế, để hiểu từ, việc nắm được các ý
nghĩa biểu vật của nó là cần thiết (Tuy nhiên không nên hiểu một cách đơn giản
25

×