Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Thực thi pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện trên địa bàn tỉnh thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 83 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



ĐỒNG ĐỨC DUY



THỰC THI PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ
NGUYỆN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Hà Nội – 2015



2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



ĐỒNG ĐỨC DUY



THỰC THI PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ
NGUYỆN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN

Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN HỮU CHÍ


Hà Nội – 2015




3
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Kính đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


NGƯỜI CAM ĐOAN



Đồng Đức Duy





MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG
MỞ ĐẦU
Chương 1:KHÁI QUÁT PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI
TỰ NGUYỆN 6
1.1. Khái niệm về Bảo hiểm xã hội tự nguyện 6
1.2. Pháp luật về Bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam 8
1.2.1. Các nguyên tắc của bảo hiểm xã hội tự nguyện 8
1.2.1.1.Nguyên tắc Nhà nước thống nhất quản lý bảo hiểm xã hội 8
1.2.1.4. Nguyên tắc đảm bảo quyền tự do ý chí của người tham gia bảo
hiểm 12
1.2.2. Chủ thể trong quan hệ Pháp luật về bảo hiểm xã hội tự
nguyện 13
1.2.2.1. Người thực hiện bảo hiểm xã hội tự nguyện 14
1.2.2.3. Người được bảo hiểm xã hội tự nguyện 18
1.2.3. Các chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện 18
1.2.3.1. Chế độ hưu trí 22
1.2.4.1. Nguồn hình thành 28

1.2.4.3. Sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội tự nguyện 33
Chương 2: THỰC TIỄN THỰC HIỆN BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ
NGUYỆN Ở TỈNH THÁI NGUYÊN 34
2.1. Tổng quan tình hình kinh tế - xã hội ở Tỉnh Thái Nguyên 34
2.2. Đối tượng tham gia. 36
2.3. Các chế độ 42
2.3.1. Chế độ hưu trí 42


2
2.3.2. Chế độ tử tuất 47
2.4. Thực trạng về quỹ Bảo hiểm xã hội tự nguyện trên địa bàn
Tỉnh Thái Nguyên 49
2.4.1. Thực trạng thu quỹ Bảo hiểm xã hội tự nguyện. 51
Chương 3 :MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU
QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI
TỰ NGUYỆN TỪ THỰC TIỄN THỰC HIỆN Ở THÁI
NGUYÊN 62
3.1. Các yêu cầu cơ bản của việc nâng cao hiệu quả thực thi Pháp
luật về BHXH tự nguyện. 62
3.1.1. Tăng cường tính linh hoạt cho các quy định về BHXH tự
nguyện. 62
3.1.2. Phù hợp với xu thế hội nhập. 63
3.2. Một số kiến nghị cụ thể 63
3.2.1. Ban hành văn bản hướng dẫn Luật BHXH 63
3.2.3. Kiến nghị một số biện pháp tổ chức thực hiện pháp luật
BHXH tự nguyện từ thực tế trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. 67
KẾT LUẬN 73













3



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

ASXH
:
An sinh xã hội
BHXH
:
Bảo hiểm xã hội
BHYT
:
Bảo hiểm y tế
HCSN
:
Hành chính sự nghiệp
HĐND
:

Hội đồng Nhân dân
ILO
:
Tổ chức lao động quốc tế
KCB
:
Khám chữa bệnh
KH
:
Kế hoạch
LĐTB&XH
:
Lao động, Thương binh và xã hội
NĐCP
:
Nghị định Chính phủ
NLĐ
:
Người lao động
UBND
:
Ủy ban Nhân dân
XKLĐ
:
Xuất khẩu lao động

DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu bảng
Tên bảng

Tramg
Bảng 2.1:
Số đối tượng tham gia qua các năm (2009-
2014)

Bảng 2.2:
Thống kê các trường hợp nhận trợ cấp theo
2 chế độ từ 2009 - 2014

Bảng 2.3:
Số thu vào của Quỹ BHXH tự nguyện từ
đóng góp của người tham gia giai đoạn 2009-
2014



1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước Việt Nam thời gian qua đã
mang lại những thành tựu to lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội của đất
nước. Tuy nhiên, cuộc sống của người dân vẫn còn gặp nhiều khó khăn đặc
biệt là dân cư khu vực nông thôn, miền núi: thu nhập thấp, việc làm không ổn
định, hoạt động sản xuất phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, chịu nhiều
rủi ro do thiên tai. Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một trong những chính sách
an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Tại kỳ họp thứ IX Quốc hội khoá XI
đã thông qua luật Bảo hiểm xã hội có hiệu lực thi hành từ 01/01/2007. BHXH
tự nguyện là một phần của luật BHXH có hiệu lực thi hành từ 01/01/2008.
Sau hơn 5 năm thực hiện, đối tượng tham gia BHXH tự nguyện còn ít, mới có

khoảng 150.000 lao động, chiếm 0,57% số lao động thuộc đối tượng tham gia
BHXH tự nguyện, đặc biệt là đối với những vùng khó khăn, dân số chủ yếu
làm nông nghiệp, mức sống thấp.
Tỉnh Thái Nguyên, là trung tâm chính trị, kinh tế của khu Việt Bắc nói
riêng, của vùng trung du miền núi đông bắc nói chung, là cửa ngõ giao lưu
kinh tế xã hội giữa vùng trung du miền núi với vùng đồng bằng Bắc Bộ. Địa
hình Thái Nguyên có nhiều rừng núi cao với nhiều dân tộc sinh sống trên địa
bàn. Trong những năm qua, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, Thái
Nguyên đã đạt được nhiều thành tựu, kinh tế phát triển nhưng còn chưa đồng
đều, một số vùng núi cao còn gặp nhiều khó khăn, người dân có thu nhập còn
thấp. Việc thực hiện BHXH cho người lao động trên địa bàn còn nhiều khó
khăn, đặc biệt là phát triển BHXH tự nguyện.
Để có thể làm tốt hơn công tác thực hiện pháp luật về BHXH tự
nguyện, góp phần đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn Tỉnh, đề tài “Thực thi
pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên” có


2
thể sẽ đưa ra được những giải pháp tích cực và phù hợp để tăng cường tính
hiệu BHXH tự nguyện cho người dân. Góp phần nâng cao hiệu quả của việc
áp dụng dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội trong những năm sắp tới.
2. Tình hình nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trong thời điểm BHXH tỉnh Thái Nguyên đang
tiến hành một loạt các biện pháp an sinh xã hội nhằm đảm bảo cho đời sống
của nhân dân trên địa bàn Tỉnh, chất lượng phục vụ cũng như công tác thực
hiện pháp luật về BHXH nói chung đã có những bước tiến đáng ghi nhận
Nhìn chung trong những năm gần đây một số biện pháp tổ chức thực
hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện mà cơ quan BHXH Thái Nguyên
đã áp dụng mang lại sự đổi mới nhất định trong việc thực hiện các chính sách
về Bảo hiểm xã hội trên địa bàn Tỉnh, nhằm góp phần từng bước ổn định tình

hình an sinh xã hội ở địa phương, tuy nhiên kết quả đạt được vẫn còn nhiều
mặt hạn chế cần có giải pháp để khắc phục. Bên cạnh đó thì Bảo hiểm xã hội
tự nguyện lại là một vấn đề mới ở Thái Nguyên nên những công trình nghiên
cứu đã được công bố về mảng đề tài này chiếm một phần rất nhỏ chủ yếu là
trong một số lĩnh vực về kinh tế như "Tổ chức thực hiện bảo hiểm xã hội trên
địa bàn thành phố Thái Nguyên, thực trạng và giải pháp" của tác giả Đinh
Văn Sơn (thực hiện năm 2012); " Phát triển bảo hiểm xã hội tự nguyện trên
địa bàn Võ Nhai Tỉnh Thái Nguyên" tác giả Nguyễn Thị Lệ Hằng (thực hiện
2014); tuy vậy đây cũng là những nguồn tài liệu tham khảo quý giá bổ trợ cho
tôi hoàn thành được đề tài nghiên cứu của mình. Những bài viết này đã bổ
sung cho tôi một số những kiến thức nhất định về lý luận và thực tiễn của các
vấn đề về BHXH tự nguyện dưới góc nhìn Kinh tế thế nhưng chưa có đề tài
nào trên địa bàn Tỉnh (đặc biêt là đề tài ở lĩnh vực Pháp Luật) đánh giá về tình
hình thực hiện Pháp luật trên thực tiễn ở Tỉnh Thái Nguyên.


3
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu chung
Đề tài nghiên cứu các giải pháp thực hiện pháp luật về BHXH tự
nguyện của người dân tỉnh Thái Nguyên nói chung và các đối tượng tham gia
BHXH tự nguyện khác nói riêng.
3.2. Mục tiêu cụ thể
Hệ thống hoá những vấn đề lý luận và thực tiễn về chính sách BHXH ở
Việt Nam và trên thế giới. Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật BHXH nói
chung, trong đó đi sâu nghiên cứu đánh giá thực trạng, một số yếu tố liên
quan đến pháp luật BHXH tự nguyện và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả thực thi pháp luật về BHXH tự nguyện trên địa bàn Tỉnh Thái
Nguyên.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

* Đối tượng nghiên cứu: Tình hình triển khai thực hiện pháp luật về
BHXH tự nguyện tại Tỉnh Thái Nguyên.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi về thời gian: Số liệu phục vụ phân tích đánh giá thực trạng
trong thời kỳ 2008-2014 và số liệu do cơ quan BHXH Tỉnh Thái Nguyên
cung cấp.
- Phạm vi về nội dung:
+ Các vấn đề liên quan tới việc phát triển đối tượng tham gia BHXH tự
nguyện, tại Tỉnh Thái Nguyên
+ Xác định các yếu tố ảnh hưởng tới việc tham gia BHXH tự nguyện
như: Chính sách của nhà nước, thu nhập của người dân, sự quan tâm và nhận
thức của người tham gia, mức phí tham gia, tổ chức thực hiện và tuyên
truyền, thủ tục tham gia.
- Phạm vi về không gian: Đề tài được thực hiện ở Tỉnh Thái Nguyên.


4
5. Phương Pháp nghiên cứu
* Phương pháp tổng hợp thông tin
Để đạt được mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra, tác giả đã sử dụng
phương pháp này nhằm tổng hợp các thông tin, số liệu liên quan được dùng cho
việc phân tích, đánh giá tình hình tham gia BHXH tự nguyện tại tỉnh Thái Nguyên
được lấy trong khoảng thời gian từ năm 2008 – 2014.
- Đối với những thông tin và số liệu thứ cấp
Là thông tin đã có sẵn và đã qua tổng hợp được thu thập từ các tài liệu
đã công bố như: Báo cáo nội bộ cơ quan gồm báo cáo quyết toán của BHXH
tỉnh Thái theo quý, theo năm; Tài liệu từ các tạp chí khoa học, tạp chí chuyên
ngành BHXH; các bài báo chuyên ngành đăng trên các mạng internet; Số liệu
thứ cấp có ưu điểm là kinh phí tìm hiểu ít, được cập nhật kịp thời. Tuy nhiên,
đây là những thông tin cơ bản đã được tổng hợp qua xử lý nên ít được sử dụng

để dự báo, số liệu này thường là cơ sở để phát hiện ra vấn đề nghiên cứu.
* Phương pháp phân tích thông tin
Tác giả sử dụng phương pháp này dùng để so sánh đối chiếu các chỉ
tiêu thống kê, so sánh sự khác nhau về tình hình tham gia BHXH tự nguyện.
6. Ý nghĩa khoa học của luận văn
Đề tài "Thực thi pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện trên địa bàn
tỉnh Thái Nguyên" là một đề tài còn mới, chưa có nhiều đề tài nghiên cứu
trong lĩnh vực Pháp luật về BHXH tự nguyện cụ thể trên địa bàn tỉnh Thái
Nguyên.
Với đề tài này hướng nghiên cứu của tác giả chủ yếu tập trung vào đối
tượng tham gia BHXH tự nguyện, cách thức thực tiễn thực hiện Pháp luật về
mặt văn bản trên cả nước cũng như ở tỉnh Thái Nguyên và làm rõ việc tại sao
chính sách, áp dụng pháp luật về BHXH tự nguyện của nhân dân trên địa bàn
tỉnh vẫn còn thấp. Căn cứ vào kết quả nghiên cứu đề tài tác giả đề xuất một số


5
giải pháp phát triển việc áp dụng có hiệu quả pháp luật hơn nữa nhằm nâng
cao tỷ lệ người tham gia với mục tiêu đảm bảo an sinh xã hội tốt hơn cho
người dân, đây cũng là một trong những chính sách an sinh xã hội của Đảng
và Nhà nước.
Kết quả nghiên cứu của đề tài, là tài liệu tham khảo cho chương trình
giảng dạy bậc Đại học và Cao học trong chuyên ngành Luật học, Quản lý kinh
tế. Đồng thời, kết quả nghiên cứu còn là cơ sở để các nhà hoạch định chính
sách tham khảo để đề ra các chính sách cho phù hợp với điều kiện thực tế.
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, luận
văn có kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát Pháp luật về Bảo hiểm xã hội tự nguyện
Chương 2: Thực tiễn thực hiện Pháp luật về Bảo hiểm xã hội tự nguyện

ở Tỉnh Thái Nguyên.
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật
về bảo hiểm xã hội tự nguyện từ thực tiễn thực hiện ở Thái Nguyên














6
Chương 1
KHÁI QUÁT PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN
1.1. Khái niệm về Bảo hiểm xã hội tự nguyện
Bảo hiểm xã hội tự nguyện được hiểu như là một công cụ bảo đảm tối
thiểu để người lao động duy trì và tái tạo khả năng lao động mà không phải là
các khoản chi trả trực tiếp để người lao động chữa bệnh khi ốm đau, tai nạn.
Các khoản chi trả trực tiếp như vậy do các quỹ bảo hiểm y tế thực hiện.
Từ khi triển khai đến nay bảo hiểm xã hội tự nguyện luôn phát huy
tác dụng trong những lúc người lao động gặp khó khăn hiểm nghèo trên cơ
sở những đóng góp của người lao động trước khi xảy ra những biến cố rủi
ro đó. Tuy nhiên, bảo hiểm xã hội tự nguyện cũng giống như bảo hiểm xã
hội bắt buộc chỉ giúp đỡ người lao động giữ thăng bằng phần thu nhập bị

giảm, bị mất hoặc giúp họ trang trải một phần chi tiêu trong cuộc sống khi
có những biến cố.Và thực chất Bảo hiểm xã hội tự nguyện là quá trình tổ
chức và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung được tích lũy dần do sự đóng góp
tự nguyện của người lao động nhằm đảm bảo thu nhập để thoả mãn nhu cầu
sinh sống thiết yếu cho người lao động và gia đình họ khi gặp phải những rủi
ro làm giảm hoặc mất thu nhập, góp phần đảm bảo an toàn xã hội. Cùng với
sự phát triển của xã hội, các hình thức bảo hiểm ngày càng phong phú và đa
dạng. Bên cạnh bảo hiểm xã hội còn có các hình thức bảo hiểm dân sự (Hay
còn gọi là các hình thức bảo hiểm thương mại).
Mặt khác, Bảo hiểm xã hội là một trong những nội dung quan trọng của
an toàn xã hội hay an sinh xã hội. Theo định nghĩa của Tổ chức Lao động
Quốc tế (ILO), an toàn xã hội là:
Sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông
qua một loạt các biện pháp công cộng, để đối phó với khó khăn về
kinh tế xã hội do bị ngừng hoặc bị giảm nhiều về thu nhập, gây ra


7
bởi ốm đau, mất khả năng lao động, tuổi già và chết, việc cung cấp
chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con [17].
Qua đây, chúng ta thấy những cơ chế cơ bản của hệ thống an toàn xã hội
bao gồm cả bảo hiểm xã hội (hình thức bắt buộc và tự nguyện), ưu đãi xã hội,
cứu trợ xã hội. Bảo hiểm xã hội tự nguyện cũng có nội dung gần gũi với bảo
trợ xã hội nhưng bảo hiểm xã hội không đồng nghĩa với bảo trợ xã hội. Bảo
hiểm xã hội tự nguyện có thể được hiểu như sau:
Bảo hiểm xã hội tự nguyện là một hình thức bảo hiểm xã hội do Nhà
nước tổ chức và quản lý hoặc do cộng đồng người lao động tổ chức với sự
tham gia tự nguyện của các thành viên nhằm đảm bảo thu nhập để thoả mãn
nhu cầu sinh sống thiết yếu người lao động và gia đình họ khi gặp phải những
rủi ro làm giảm hoặc mất thu nhập, góp phần đảm bảo an toàn xã hội.

Trong khoản 3 điều 3 Luật Bảo hiểm xã hội 2006 thì Bảo hiểm xã hội
tự nguyện được định nghĩa:
“Bảo hiểm xã hội tự nguyện là loại hình bảo hiểm xã hội mà người lao
động tự nguyện tham gia, được lựa chọn mức đóng và phương thức đóng phù
hợp với thu nhập của mình để hưởng bảo hiểm xã hội” [20]
Với định nghĩa này, BHXH tự nguyện được nhìn nhận đơn giản dưới
hình thức mà do người lao động tham gia dựa trên tinh thần tự nguyện của
chính họ, nhằm đảm bảo nhu cầu cuộc sống khi họ không còn khả năng làm
việc trong tương lai. Đồng thời, người lao động được lựa chọn mức, phương
thức đóng do Luật BHXH đã giới hạn sẵn được quy định dựa trên sự tiên liệu
trước về khả năng đóng quỹ phụ thuộc chủ yếu vào mức thu nhập của người
lao động khi tham gia loại hình này. Tuy nhiên, định nghĩa BHXH tự nguyện
theo Luật BHXH 2006 lại chưa thực sự chỉ rõ được tính chất, tầm quan trọng
và tính cụ thể của loại hình này; gây khó khăn nhất định trong việc hình dung
cũng như nắm bắt của người tham gia đối với loại hình này. Để giải quyết


8
những vướng mắc còn tồn tại trong luật BHXH 2006; luật BHXH 2014 đã có
một quy định mới với nhiều nét cụ thể và rõ ràng hơn đó là:
“Bảo hiểm xã hội tự nguyện là loại hình bảo hiểm xã hội do Nhà nước
tổ chức mà người tham gia, được lựa chọn mức đóng và phương thức đóng
phù hợp với thu nhập của mình và Nhà nước có chính sách hỗ trợ tiền đóng
Bảo hiểm xã hội để người tham gia hưởng chế độ hưu trí và tử tuất”[22].
Như vậy, có thể xác định được rõ ràng chủ thể tổ chức thực hiện
BHXH tự nguyện là Nhà nước thông qua cơ chế đại diện là các cơ quan
BHXH ở các cấp. Bên cạnh việc giữ nguyên quyền được chọn mức và
phương thức đóng phù hợp với thu nhập của người tham gia thì định nghĩa về
BHXH tự nguyện theo Luật mới còn đề cập đến chính sách hỗ trợ của Nhà
nước nhằm khuyến khích thêm nhiều các đối tượng khác trong xã hội tham

gia BHXH tự nguyện, đồng thời thể hiện đây là một chính sách BHXH có ý
nghĩa sâu sắc của Nhà nước nhằm tạo cơ hội cho người tham gia đều có thể
được hưởng hai chế độ cốt lõi của BHXH tự nguyện.
1.2. Pháp luật về Bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam
1.2.1. Các nguyên tắc của bảo hiểm xã hội tự nguyện
Là một loại hình bảo hiểm xã hội, nên bảo hiểm xã hội tự nguyện cũng có
những nguyên tắc chung giống như bảo hiểm xã hội bắt buộc, song do có những
đặc trưng riêng nên để đảm bảo việc thực hiện BHXH tự nguyện cũng cần phải
chú trọng các nguyên tắc sau:
1.2.1.1.Nguyên tắc Nhà nước thống nhất quản lý bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội là một chính sách lớn ảnh hưởng đến nhiều mặt của
đời sống xã hội, nó chứa đựng cả một nội dung kinh tế, nội dung xã hội và nội
dung pháp lý. Để đảm bảo thực hiện hài hoà các nội dung nói trên và đạt được
mục tiêu mà bảo hiểm xã hội đặt ra thì việc thực hiện bảo hiểm xã hội trước
hết là trách nhiệm thuộc về Nhà nước.


9
Vai trò của Nhà nước đã thể hiện thông qua việc Nhà nước giữ vai trò
trực tiếp tổ chức, chỉ đạo và quản lý toàn bộ sự nghiệp bảo hiểm xã hội trong
đó có cả BHXH tự nguyện và BHXH bắt buộc. Trách nhiệm đã thể hiện: Nhà
nước là người trực tiếp tổ chức, chỉ đạo và quản lý toàn bộ sự nghiệp bảo
hiểm xã hội thông qua việc ban hành các quy định pháp luật về bảo hiểm xã
hội và kiểm tra việc thực hiện các quy định đó. Nhà nước tuỳ theo điều kiện
kinh tế xã hội định chính sách quốc gia về bảo hiểm xã hội, nhằm từng bước ở
từng thời kỳ mà quy mở rộng và nâng cao việc bảo đảm vật chất, góp phần ổn
định đời sống cho người lao động và gia đình họ khi người lao động bị suy
giảm khả năng lao động hoặc gặp các rủi ro, khó khăn khác như: chết, tai nạn,
thất nghiệp …
Nguyên tắc này đã được ghi nhận tại Hiến pháp 1992, điều 56. Tuy

nhiên, Điều 55, 56 Hiến pháp 1992 đã được sửa đổi, bổ sung thành điều 35
Hiến pháp 2013 đã bỏ quy định “Nhà nước và xã hội có kế hoạch tạo ngày
càng nhiều việc làm cho người lao động” [21]. Điều này cho thấy, BHXH tự
nguyện dựa trên sự tự nguyện tham gia của người lao động là chủ yếu, mặc dù
là tự nguyện nhưng theo quy định của pháp luật thì Nhà nước vẫn nắm giữ vai
trò quản lý và tổ chức thực hiện loại hình BHXH này.
Như vậy, có thể nói người lao động được Nhà nước tạo đầy đủ các điều
kiện để có thể thực hiện tốt công việc của mình, ngoài việc tổ chức thực hiện
BHXH tự nguyện thì Nhà nước còn có chính sách hỗ trợ để người lao động để
có thể thu hút thêm số lượng người tham gia loại hình BHXH này, nhằm đảm
bảo tốt hơn cho đời sống của chính người lao động.
1.2.1.2. Nguyên tắc thực hiện bảo hiểm xã hội cho mọi trường hợp
giảm hoặc mất khả năng lao động và cho mọi người lao động
Quyền được hưởng BHXH của người lao động là một trong những biểu


10
hiện cụ thể của quyền con người. Biểu hiện cụ thể quyền được hưởng BHXH
của người lao động là việc họ được hưởng chế độ trợ cấp BHXH theo các chế
độ xác định. Các chế độ này gắn với các trường hợp người lao động hoặc bị
giảm khả năng lao động hoặc mất việc làm do đó bị giảm hoặc mất nguồn
sinh sống. Trong nền kinh tế thị trường các trường hợp đó có thể có rất nhiều
và xảy ra một cách ngẫu nhiên. Về nguyên lí thì mọi trường hợp như thế,
người lao động đều phải được BHXH. BHXH là thu nhập khách quan, đa
dạng và phức tạp của xã hội, nhất là trong xã hội mà sản xuất hàng hóa hoạt
động theo cơ chế thị trường, mối quan hệ thuê mướn lao động phát triển đến
mức nào đó. Nền kinh tế càng phát triển thì BHXH càng đa dạng và hoàn
thiện, càng chứng tỏ được những mặt ưu điểm hơn. Vì vậy có thể nói kinh tế
là nền tảng của BHXH hay BHXH không vượt quá trạng thái kinh tế của mỗi
nước. Đóng vai trò như một vị cứu tinh cho NLĐ khi họ gặp phải những rủi

ro làm giảm thu nhập trong cuộc sống. Có thể nói nhu cầu về BHXH thuộc về
nhu cầu tự nhiên của con người. Xuất phát từ nhu cầu cần thiết để đảm bảo
cho các tiêu chuẩn hay giá trị cho cuộc sống tối thiểu.
Ý nghĩa xã hội của bảo hiểm xã hội tự nguyện thể hiện ở chỗ người lao
động có quyết định tham gia hay không, chính vì lẽ đó BHXH tự nguyện
được thực hiện với nguyên tắc là không bắt buộc người lao động phải tham
gia, đây vừa là nguyên tắc vừa là mục tiêu chung hướng tới việc người lao
động ai cũng có cơ hội được hưởng BHXH. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo
cho người lao động làm việc trong bất kỳ thành phần kinh tế nào, bất kỳ loại
hình tổ chức lao động nào. Khi có đủ điều kiện, dấu hiệu phát sinh quan hệ
bảo hiểm xã hội thì đều được hưởng quyền lợi về bảo hiểm xã hội không phân
biệt hình thức pháp lý làm phát sinh quan hệ lao động, giới tính, tuổi tác …
Mặt khác, việc quy định số lượng các chế độ bảo hiểm xã hội hay nói cách


11
khác khả năng khống chế, khắc phục các rủi ro đến đâu còn phụ thuộc vào
điều kiện kinh tế xã hội cụ thể.
1.2.1.3. Đảm bảo sự linh hoạt trong quy định nội dung và thực hiện
chế độ BHXH tự nguyện
Đối tượng tham gia BHXH tự nguyện thường là những người nông
dân, người lao động trong khu vực kinh tế phi chính thức và người nghèo, đời
sống và thu nhập của họ bấp bênh, không ổn định. Vì vậy, để tạo điều kiện
cho những đối tượng này có đủ điều kiện tham gia BHXH tự nguyện thì các
quy định về BHXH tự nguyện phải linh hoạt. Sự linh hoạt thể hiện rõ nhất ở
các quy định về mức đóng, phương thức đóng, và mức hưởng bảo hiểm Khác
với BHXH bắt buộc, mức đóng được tính trên cơ sở tiền công, tiền lương,
mức đóng trong BHXH tự nguyện thường được tính trên cơ sử mức thu nhập
của người lao động. Người lao động tham gia BHXH tự nguyện thường có
quan hệ lao động không ổn định. Để có một mức thu nhập nhất định trong

một tháng họ phải làm nhiều công việc khác nhau, ở nhiều nơi khác nhau, thu
nhập giữa các tháng cũng khác nhau. Bởi vậy để thuận tiện cho người lao
động thì việc quy định mức đóng của BHXH tự nguyện dựa trên cơ sở mức
thu nhập là phù hợp và linh hoạt. Phương thức đóng cũng phải linh hoạt để
người lao động tham gia có thể lựa chọn. Họ có thể đóng bảo hiểm hàng
tháng, hàng quý, hoặc sáu tháng một lần, thậm chí một năm một lần. Vì thu
nhập bấp bênh, nên họ không thể có mức đóng ổn định, họ có thể tạm ngừng
đóng BHXH mà không cần lý do. Chính vì vậy, mức hưởng của người tham
gia BHXH tự nguyện cũng rất đa dạng, cần được tính toán phù hợp, đảm bảo
lợi ích của người tham gia bảo hiểm. Mức hưởng BHXH tự nguyện cần được
tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng BHXH. Quy định mức hưởng như
vậy mới phù hợp, vừa đảm bảo quyền lợi của người tham gia bảo hiểm, vừa
cân đối được thu – chi của quỹ BHXH tự nguyện.


12
Tuy nhiên, không có quyền lợi nào là tuyệt đối, ngoài việc quy định về
BHXH tự nguyện một cách linh hoạt, cũng cần trong một giới hạn nhất định,
như vậy mới cân đối được lợi ích của các chủ thể trong quan hệ BHXH tự
nguyện, lợi ích của người lao động mới được lâu dài, bền vững. Ví dụ như
theo quy định của Pháp luật Việt Nam, mức đóng BHXH tự nguyện được tính
trên cơ sở mức thu nhập tháng đóng BHXH nhưng thấp nhất bằng mức lương
tối thiểu chung và cao nhất bằng 20 mức lương tối thiểu chung. Sở dĩ phải
quy định mức thấp nhất bằng mức lương tối thiểu chung để tin tưởng rằng
cuộc sống của người lao động khi về già và nghỉ hưu vẫn được đảm bảo dù họ
làm công việc giản đơn nhất. Pháp luật giới hạn mức đóng bảo hiểm để tránh
tình trạng hưởng bảo hiểm nhưng phải đóng thuế thu nhập.
1.2.1.4. Nguyên tắc đảm bảo quyền tự do ý chí của người tham gia bảo
hiểm
Theo nguyên tắc này, việc tham gia hay không tham gia là hoàn toàn do

người tham gia quyết định. Mức đóng được tính dựa trên cơ sở mức thu nhập
tháng do người tham gia lựa chọn, phương thức đóng theo nhu cầu và khả
năng của bản thân trên cơ sở những khung quy định.Với đối tượng tham gia
bảo hiểm xã hội tự nguyện là hầu hết người lao động không có quan hệ lao
động, cho nên nguồn hình thành quỹ bảo hiểm xã hội tự nguyện không phải
do nhiều bên đóng góp mà sự đóng góp của chính bản thân người lao động và
khả năng đầu tư phần tiền nhàn rỗi của Quỹ.
Luật Bảo hiểm xã hội 2006 quy định mức đóng và phương thức đóng
bảo hiểm xã hội tự nguyện của người lao động cũng thể hiện rõ nguyên tắc tự
do ý chí của người tham gia BHXH tự nguyện như sau: Mức đóng hàng tháng
bằng 16% mức thu nhập của người lao động lựa chọn đóng bảo hiểm xã hội;
từ năm 2010 trở đi, cứ 2 năm một lần đóng tăng thêm 2% cho đến khi đạt
mức đóng là 22%. Cụ thể hơn như sau:


13
- Từ tháng 01/2008 – 12/2009 = 16%
- Từ tháng 01/2010 – 12/2011 = 18%
- Từ tháng 01/2012 – 12/2013 = 20%
- Từ tháng 01/2014 trở đi = 22%
Mức thu nhập làm cơ sở để đóng bảo hiểm xã hội được thay đổi tuỳ
theo khả năng của người lao động ở từng thời kỳ, nhưng thấp nhất bằng mức
lương tối thiểu chung và cao nhất bằng 20 tháng lương tối thiểu chung [20].
Người lao động được chọn một trong các phương thức đóng sau: lựa chọn
hàng tháng hoặc hàng quý hoặc 6 tháng một lần.
Thời điểm phải đóng:
- 15 ngày đầu tháng đối với phương thức đóng hàng tháng.
- 45 ngày đầu quý đối với phương thức đóng hàng quý.
- 03 tháng đầu đối với phương thức đóng 6 tháng một lần.
Trường hợp đã đóng theo phương thức đóng hàng quý hoặc 6 tháng

một lần, mà trong thời gian đó chính phủ điều chỉnh mức lương tối thiểu
chung thì không phải truy đóng số tiền chênh lệch so với mức lương tối thiểu
mới.
Đây là nguyên tắc đặc trưng của BHXH tự nguyện xuất phát từ đối
tượng của loại hình BHXH này do rất khó quản lý những lao động ở khu vực
phi chính thức, cũng như các đối tượng này thường là những người có thu
nhập không ổn định, do đó cần tạo điều kiện để phù hợp với nhu cầu tham gia
của họ.
1.2.2. Chủ thể trong quan hệ Pháp luật về bảo hiểm xã hội tự
nguyện
Quan hệ Pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện cũng giống như bảo
hiểm xã hội nói chung đều có sự tham gia của ba bên chủ thể đó là: "Người
thực hiện bảo hiểm xã hội tự nguyện; Người tham gia bảo hiểm xã hội tự
nguyện; Người được bảo hiểm xã hội tự nguyện" [13].


14
1.2.2.1. Người thực hiện bảo hiểm xã hội tự nguyện
Người thực hiện bảo hiểm là người đại diện cho cơ quan bảo hiểm xã hội
do Nhà nước thành lập. Hoạt động của cơ quan bảo hiểm xã hội được Nhà
nước giám sát, kiểm tra chặt chẽ. Hệ thống cơ quan bảo hiểm xã hội được
thành lập thống nhất từ trung ương đến địa phương. Trong đó, hệ thống bảo
hiểm xã hội ở địa phương, ở cơ sở có ý nghĩa quan trọng. Bởi vì, nhiệm vụ
chính của tổ chức bảo hiểm xã hội là cấp phát đúng đắn, nhanh chóng, kịp
thời các khoản trợ cấp cho người được hưởng bảo hiểm theo quy định của
pháp luật. Các nhiệm vụ khác đều rất cần thiết nhưng đều phụ thuộc hoặc bổ
sung cho nhiệm vụ trên. Như vậy, cơ quan bảo hiểm xã hội chịu trách nhiệm
trước Nhà nước về thực hiện bảo hiểm xã hội đối với mọi người lao động theo
quy định của pháp luật, đồng thời chịu trách nhiệm về vật chất và tài chính
đối với người được bảo hiểm khi họ có đủ điều kiện theo quy định của pháp

luật. Các thành viên tham gia quan hệ bảo hiểm xã hội có mối quan hệ mật
thiết với nhau. Việc thực hiện quyền và nghĩa vụ các bên được đặt trong mối
quan hệ thống nhất với nhau. Song cũng như bất cứ một quan hệ pháp luật
nào, trong quá trình phát sinh, tồn tại các quan hệ bảo hiểm xã hội giữa các
chủ thể không tránh khỏi có sự bất đồng với nhau dẫn đến tranh chấp. Nếu
tranh chấp giữa người lao động và người sử dụng lao động về bảo hiểm xã hội
thì giải quyết theo quy định về giải quyết tranh chấp lao động Nếu tranh chấp
giữa người lao động, người sử dụng lao động với cơ quan bảo hiểm xã hội thì
giải quyết theo Điều 130, Luật Bảo hiểm Xã hội 2006.
1.2.2.2. Người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện
Người tham gia bảo hiểm xã hội là người đóng góp phí bảo hiểm xã hội
để bảo hiểm cho mình hoặc cho người khác được bảo hiểm xã hội. Như vậy,
người tham gia bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật chủ yếu là người


15
lao động có đủ những điều kiện mà Pháp luật quy định để tham gia BHXH tự
nguyện . Đối tượng áp dụng BHXH theo loại hình BHXH tự nguyện quy định
tại Điều 2 Nghị định số 190/2007/NĐ-CP và hướng dẫn tại Phần I Thông tư
số 02/2008/TT-BLĐTBXH là công dân Việt Nam từ đủ 15 tuổi đến đủ 60 tuổi
đối với nam và từ đủ 15 tuổi đến đủ 55 tuổi đối với nữ, không thuộc diện áp
dụng của pháp luật về BHXH bắt buộc, bao gồm: “Người lao động làm việc
theo hợp đồng lao động có thời hạn dưới 3 tháng; Cán bộ không chuyên trách
ở cấp xã, ở thôn và tổ dân phố; Người tham gia các hoạt động sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ; Xã viên không hưởng tiền lương, tiền công làm việc trong
hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; Người lao động tự tạo việc làm bao gồm
những người tự tổ chức hoạt động lao động để có thu nhập cho bản thân;
Người lao động làm việc có thời hạn ở nước ngoài mà trước đó chưa tham
gia BHXH bắt buộc hoặc tham gia BHXH bắt buộc nhưng đã nhận BHXH
một lần; Người tham gia khác. Các đối tượng quy định trên gọi chung là

người tham gia BHXH tự nguyện”[10].
Theo Khoản 5 Điều 2 Luật BHXH 2006 cho rằng: “Người tham gia
bảo hiểm xã hội tự nguyện là công dân Việt Nam trong độ tuổi lao động,
không thuộc đối tượng được quy định tại khoản 1 điều này”[20]. Vậy có thể
hiểu là, để trở thành chủ thể tham gia BHXH tự nguyện theo Pháp luật Việt
Nam phải là công dân Việt Nam trong độ tuổi lao động từ đủ 15 – 60 tuổi đối
với nam hoặc từ 15 – 55 đối với nữ.
Đến dự thảo Luật BHXH 2014, các nhà làm luật đã chú ý sửa đổi bổ
sung một cách có cụ thể hơn như sau: Theo Khoản 4 Điều 2 Luật BHXH
2014 cho rằng: “Người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện là công dân Việt
Nam từ đủ 15 tuổi trở lên và không thuộc đối tượng được quy định tại khoản
1 điều này”[22]. Có nghĩa là, điều kiện để trở thành chủ thể tham gia BHXH
tự nguyện theo Pháp luật Việt Nam phải là công dân Việt Nam từ đủ 15 tuổi


16
trở lên (trong độ tuổi lao động) và không thuộc các diện tham gia BHXH bắt
buộc theo khoản 1 Luật BHXH 2014. Như vậy, có thể thấy rằng người tham
gia BHXH tự nguyện là tất cả người lao động trong độ tuổi lao động (từ đủ 15
tuổi trở lên), kể cả thuộc diện tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc. Một số ít
người lao động có quan hệ lao động nhưng quan hệ này không bền vững,
không ổn định, còn hầu hết đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện
không có quan hệ lao động, chủ yếu họ là nông dân, xã viên hợp tác xã, người
tự tạo việc làm. Cụ thể là các dối tượng người lao động sau đây:
- Người lao động thuộc diện tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc nhưng
thực tế họ lại không được tham gia vì nhiều lý do khác nhau.
Theo thống kê năm 2012, cả nước có 52,3 triệu người từ 15 tuổi trở lên
thuộc lực lượng lao động, bao gồm 51,4 triệu người có việc làm và 925,6
ngàn người thất nghiệp. 69,7% lực lượng lao động ở nông thôn. Tính đến cuối
năm 2012, tức là qua 6 năm thực hiện Luật Bảo hiểm xã hội, đối tượng tham

gia BHXH mới chỉ đạt khoảng 10,577 triệu người tham gia BHXH, trong đó
có 10,437 triệu người tham gia BHXH bắt buộc, có khoảng 0,14 triệu người
tham gia BHXH tự nguyện. Trong số này còn có một lượng vô cùng lớn người
lao động chưa được tham gia bảo hiểm xã hội [9]. Đây là lực lượng vô cùng lớn
muốn tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện, vì cùng với bảo hiểm xã hội bắt
buộc, bảo hiểm xã hội tự nguyện tạo điều kiện cho mọi người lao động tích
luỹ một phần thu nhập khi còn trẻ để đảm bảo ổn định cuộc sống khi về già,
góp phần an sinh xã hội. Thậm chí những người đang thực hiện bảo hiểm xã
hội bắt buộc cũng có thể tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện vì trong quá
trình tổ chức, thực hiện bảo hiểm xã hội tự nguyện cũng khó xác định được
người nào đang tham gia hay không tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc.
- Lao động làm việc trong các doanh nghiệp có quan hệ lao động,
không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc: Những người làm


17
công ăn lương theo hình thức hợp đồng lao động dưới 3 tháng;
- Lao động làm việc trong các đơn vị không có quan hệ lao động, có
nguyện vọng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện.
Những đối tượng này bao gồm tất cả mọi người lao động không thuộc
diện bảo hiểm xã hội bắt buộc. Tuy nhiên, để có căn cứ xây dựng các chế độ
bảo hiểm xã hội phù hợp với nhu cầu và khả năng tham gia đóng góp bảo
hiểm xã hội tự nguyện của từng loại hình, cần phải nghiên cứu các đặc điểm
của từng ngành nghề, tính chất và mức độ thu nhập của các loại hình lao
động. Vì vậy, trong số các loại hình lao động không thuộc diện bảo hiểm xã
hội bắt buộc bao gồm:
- Lao động tiểu thủ công nghiệp;
- Lao động buôn bán dịch vụ;
- Lao động nông nghiệp;
- Lao động tự do, lao động cá thể [20].

Lao động tiểu thủ công nghiệp: Là những lao động sống ở thành phố,
thị xã và nông thôn sản xuất các mặt hàng thủ công mỹ nghệ, đây là lao động
có thu nhập ổn định, nhiều đơn vị có thu nhập tương đương với thu nhập của
lao động các doanh nghiệp Nhà nước.
Lao động làm nghề buôn bán dịch vụ: Chủ yếu sống ở thành phố, thị
xã, ước tính khoảng trên 7%, và có mức thu nhập bình quân thuộc vào loại
khá.
Về lao động nông nghiệp: Chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng số lao
động ở nước ta. Có khoảng 70% số người trong độ tuổi lao động đang làm
việc ở những lĩnh vực nông nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp, loại hình này
có hai đặc điểm chính [9].Thu nhập thấp và mức độ tăng chậm do sản lượng
nông sản tăng hàng năm thấp nên mức độ thu nhập của nông dân không bằng
thu nhập của lao động công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Đây là đặc điểm cho


18
thấy năng tham gia đóng bảo hiểm xã hội của nông dân khác hẳn các loại hình
lao động khác.
c. Lao động khác: lực lượng này chiếm khoảng 1 triệu người, đặc điểm
tính chất công việc của đối tượng lao động này là tương đối phức tạp, không
có tính hệ thống. Việc làm, thu nhập không ổn định, đa dạng nghề nghiệp,
thường xuyên di chuyển. Do vậy, việc tham gia bảo hiểm xã hội dù có nhu
cầu lớn nhưng sẽ gặp khó khăn trong việc tổ chức thực hiện [9].
1.2.2.3. Người được bảo hiểm xã hội tự nguyện
Người được bảo hiểm xã hội là người lao động hoặc thành viên gia
đình họ khi thoả mãn đầy đủ các điều kiện bảo hiểm xã hội tự nguyện theo
quy định của pháp luật.
Các thành viên tham gia quan hệ bảo hiểm xã hội nói chung và bảo
hiểm xã hội tự nguyện nói riêng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Việc thực
hiện quyền và nghĩa vụ của các bên được đặt trong mối quan hệ tương hỗ,

thống nhất với nhau. Đơn vị sử dụng lao động đóng bảo hiểm cho người lao
động, người lao động đóng bảo hiểm cho cơ quan bảo hiểm. Cơ quan bảo
hiểm thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội cho người lao động.
1.2.3. Các chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện
Các chế độ BHXH tự nguyện là các quyền lợi mà người tham gia tự
nguyện được hưởng khi có đủ các điều kiện bảo hiểm phát sinh.
Việc xác định đối tượng tham gia, xác định các chế độ BHXH tự
nguyện thuộc nhu cầu tham gia và trình độ quản lý rủi ro của từng nước. Tuy
nhiên, việc xây dựng và thực hiện các chế độ BHXH tự nguyện ở các quốc
gia đều dựa vào các quy định của Công ước số 102 về các chế độ của BHXH
đã được tổ chức lao động quốc tế (ILO) thông qua ngày 28/6/1952 và điều
kiện kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi quốc gia.
Theo quy định của ILO trong Công ước 102, để đảm bảo mức tối thiểu,
thì trong BHXH các nước thành viên cần lựa chọn ít nhất là ba trong chính

×