Tải bản đầy đủ (.docx) (106 trang)

BỒI THƯỜNG GIẢI PHÓNG mặt BẰNG ở HUYỆN sơ DƯƠNG, TỈNH TUYÊN QUANG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (488 KB, 106 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NỘI VỤ
…………/………… …………/…………
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

LÀNH HỒNG MẠNH
BỒI THƯỜNG GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG
Ở HUYỆN SƠN DƯƠNG, TỈNH TUYÊN QUANG
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số: 60 34 04 03
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THỊ PHƯỢNG
HÀ NỘI, 2014
1
LỜI CẢM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận vă này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Mọi
kết quả nghiên cứu và số liệu nghiên cứu trong luận văn này là chính xác thực.
Tác giả
Lành Hồng Mạnh
2
LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc, cô giáo chủ nhiệm cùng
toàn thể các thầy, cô giáo đã giảng dạy tại lớp Cao học CH17I, Học viện
Hành chính quốc gia.
Tác giả xin chân thành cám ơn TS. Nguyễn Thị Phượng, giảng viên tại
Học viện Hành chính quốc gia đã hướng dẫn học viên hoàn thành luận văn này.
Tác giả xin chân thành càm ơn Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện
Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, Ban Đền bù giải phóng mặt bằng huyện Sơn
Dương, tỉnh Tuyên Quang cùng các cán bộ công chức đang công tác tại
phòng, ban đã tạo điều kiện và giúp đỡ tác giả có được những tài liệu cần thiết
phục vụ cho việc nghiên cứu và hoàn thành luận văn này. Tác giả cũng cám


ơn các cán bộ nghiên cứu khoa học, các thầy cô giáo đã nhiệt tình trao đổi,
hưỡng dẫn về mặt học thuật, cung cấp tài liệu, số liệu và chia sẻ quan điểm về
những vấn đề nghiên cứu của đề tài.
Lành Hồng Mạnh
3
MỤC LỤC
4
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
5
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta những năm gần đây
diễn ra hết sức mạnh mẽ, nền kinh tế nước ta đang ngày càng phát triển với sự
hội nhập kinh tế sâu rộng, dẫn đến nhu cầu sử dụng đất để xây dựng kết cấu
hạ tầng, phát triển công nghiệp, dịch vụ, phát triển đô thị và khu dân cư ngày
càng tăng. Hiện nay ở những tỉnh, thành phố phát triển đều có những dự án
lớn với diện tích đất thu hồi lên tới hàng trăm hecta (ha), ảnh hưởng đến hàng
ngàn hộ dân mất đất nông nghiệp, hàng trăm hộ dân phải di chuyển chỗ ở.
Công tác thu hồi đất, bồi thường giải phóng đất đai là yếu tố khách quan, tác
động sâu rộng đến nhiều mặt đời sống xã hội và cộng đồng dân cư.
Ngày nay, công tác bồi thường giải phóng mặt bằng ngày càng trở nên
khó khăn, phức tạp hơn do đất đai ngày càng khan hiếm. Có những dự án kéo
dài hàng chục năm do không thể giải phóng được mặt bằng hoặc có những dự
án mà vốn đầu tư vào công trình vào loại đắt đỏ nhất thế giới do số tiền giải
phóng mặt bằng quá lớn.
Thực tiễn cho thấy, công tác thu hồi đất của nhân dân để phục vụ phát
triển dự án đầu tư và việc bồi thường giải phóng mặt bằng cho những người bị
thu hồi đất là vấn đề hết sức nhạy cảm, giải quyết không tốt, không thỏa đáng
quyền lợi của người dân có đất bị thu hồi sẽ cản trở tiến độ dự án, dẫn đến
bùng phát khiếu kiện, đặc biệt là những khiếu kiện đông người đã trở thành

vấn đề phức tạp, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự, gây mất ổn định
xã hội.
Sơn Dương là huyện nằm ở phía Nam của tỉnh Tuyên Quang, nơi có vị
trí quan trọng, tiếp giáp với các tỉnh bạn, đồng thời là của ngõ phía Nam của
tỉnh Tuyên Quang với các tỉnh trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Trong những
năm gần đây, với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa diễn ra mạnh mẽ, có
nhiều dự án mà diện tích đất thu hồi, giải phóng mặt bằng lớn, tác động đến
6
đời sống của hàng trăm hộ dân như dự án xây dựng hạ tầng kỹ thuật khu công
nghiệp An Hòa, dự án trường Phổ thông dân tộc nội trú ATK Sơn Dương, dự
án cải tạo và nâng cấp quốc lộ 2C, dự án kè hai bờ sông Phó đáy…Để phát
triển cở sở hạ tầng xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế, Ủy ban nhân dân tỉnh
Tuyên Quang rất quan tâm, chú trọng đến công tác bồi thường giải phóng mặt
bằng. Thực hiện chủ trương của tỉnh, những năm gần đây công tác bồi thường
giải phóng mặt bằng của huyện Sơn Dương ngày càng được củng cố, hoan
thiện, về cơ bản đã đáp ứng được mục tiêu, nhiệm vụ đề ra.Tuy nhiên, qua
thực tế triển khai ở địa phương cho thấy, khó khăn nhất trong công tác bồi
thường giải phóng mặt bằng hiện nay là: Đơn giá bồi thường giải phóng mặt
bằng chưa hợp lý, chưa sát với giá thị trường, dẫn đến tình trạng khiếu kiện
của người dân bị thu hồi đất. Cơ chế chính sách về đất đai và bồi thường, tái
định cư của Nhà nước thường xuyên bổ sung, sửa đổi. Công tác chuẩn bị các
điều kiện giải phóng mặt bằng còn chậm và chưa đồng bộ, nhất là quỹ nhà,
đất tái định cư, kinh phí giải phóng mặt bằng. Công tác cải cách thủ tục hành
chính chưa chuyển biến mạnh, việc giải quyết đơn thư khiếu nại tố cáo của
công còn chậm, chưa dứt điểm. Việc thực hiện quy trình, thủ tục trong công
tác bồi thường, hỗ trợ tái định cư như công khai tuyên truyền, đối thoại ở một
số dự án còn thực hiện chưa đầy đủ, kịp thời. Mặt khác, do thiếu hiểu biết
kiến thức pháp luật và do tính toán lợi ích cá nhân dẫn đến một bộ phận người
dân không chấp hành các quy định của Nhà nước. Công tác quản lý đất đai,
xác nhận nguồn gốc sử dụng đất tại địa phương còn yếu và nhiều bất cập. Một

số chủ đầu tư chưa thực hiện nghiêm túc trách nhiệm của mình trong công tác
giải phóng mặt bằng và chuẩn bị quỹ tái định cư…Để có những giải pháp tích
cực trong công tác bồi thường giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất,
góp phần giải quyết những vấn đề bức xúc hiện nay, tác giả đã lựa chọn đề tài
“Bồi thường giải phóng mặt ở huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang” làm
luận văn tốt nghiệp, hệ đào tạo Thạc sĩ, chuyên ngành Quản lý công, với
mong muốn thông qua kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần vào nâng
7
việc nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác bồi thường giải phóng mặt
bằng ở huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang nói riêng cũng như công tác bồi
thường giải phóng mặt bằng trên toàn bộ địa bàn tỉnh Tuyên Quang và cả
nước nước nói chung.
2.Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Liên quan tới công tác bồi thường, đền bù giải phòng mặt bằng khi Nhà
nước thu hồi đất đã có nhiều công trình nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn.
Có thể kể tới những công trình sau liên quan tới việc nghiên cứu đề tài luận
văn của tác giải như:
Đề tài luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ của tác giả Nguyễn Trung Tiến:
“Công tác bồi thường giải phóng mặt bằng cho dự án xây dựng công trình có
sự tham gia của cộng đồng tại thị trấn Sơn Dương”; đề tài luận văn tốt
nghiệp đại học Nông lâm Thái Nguyên của tác giả Lành Văn Thượng: “Công
tác bồi thường giải phóng mặt bằng tại công ty trách nhiệm hữu hạn xây
dựng công trình Cát Tường”; Luận văn tốt nghiệp đại học Tài nguyên môi
trường Hà Nội của tác giả Lành Hồng Quân: “Công tác bồi thường giải phóng
mặt bằng dự án xây dựng trường phổ thông dân tộc nội trú ATK Sơn Dương”.
Về các bài viết trên các tạp chí có thể kể tới như: Báo Điện tử Tuyên
Quang online ngày 5- 8- 2013 có bài “Đẩy mạnh đầu tư xây dựng các dự án
công nghiệp”. Bài viết đã làm rõ những nguyên nhân tiến độ các dự án xây
dựng các khu công nghiệp trên địa bàn huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang
ngoài ra, bài viết còn đi sâu phân tích những nguyên nhân dẫn đến sự chậm

trễ trong công tác bồi thường giải phóng mặt bằng, tái định cư là do: Người
dân chưa đồng tình với đơn giá đất được bồi thường, chính sách tuyên truyền
của chính quyền địa phương đến người dân chưa tốt; một số hộ dân trong diện
bị thu hồi giải phóng còn cố tình trây ỳ bàn giao mặt bằng để xây dựng các dự
án. Quá đó bài viết cũng đã đề cập đến những giải pháp tháo gỡ khó khăn
như: tính toán đơn giá bồi thường hợp lý để tránh thiệt hại cho các bên liên
quan, gặp gỡ, tuyên truyền cho các hộ dân bị thu hồi đất về chính sách, pháp
8
luật của nhà nước…Trong những yếu tố trên thì việc phát huy sự nỗ lực từ hai
phía là chính quyền và người dân cũng được bài viết đề cập đến.
Báo Điện tử Đảng cộng sản Việt Nam, số ra ngày 11-10- 2013 có
bài:“Kiên cố hóa trường học ở Tuyên Quang”. Nội dung bài viết đềcập tới
việc tỉnh Tuyên Quang thực hiện xây dựng 99 trường học trong giai đoạn từ
năm 2010 đến năm 2020. Với việc các dự án xây dựng mới các trường học
trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang thì riêng huyện Sơn Dương có tới 4 trường
được xây dựng mới hoàn toàn. Bài viết cũng đi sâu phân tích những thuận lợi
trong việc thực hiện các dự án xây dựng trên địa bàn được tiến hành khẩn
trương, đúng tiến độ là do địa phương đã thực hiện tốt công tác bồi thường
giải phóng mặt bằng, nhận được sự ủng hộ của nhân dân, đặc biệt những hộ
trong diện bị thu hồi đất phục vụ dự án. Bài viết cũng đánh giá rất cao sự
đồng thuận của các hộ dân bị thu hồi đất đai với chính quyền địa phương, coi
đó là bài học về sự đồng thuận về lợi ích, hài hài hòa về trách nhiệm giữa
người dân và chính quyền địa phương. Đây là bài học cho chính quyền khi
thực hiện công tác bồi thường giải phóng mặt bằng, hỗ trợ, tái định cư các dự
án khác khi thực hiện tại Tuyên Quang nói chung và trên địa bàn huyện Sơn
Dương nói riêng.
Những công trình nghiên cứu, những bài viết trên các báo và tạp trí
nêu trên, ở chừng mực nhất định có thể là những tài liệu tham khảo hữu ích
đối với đề tài luận văn của tác giả. Tuy nhiên những công trình khoa học nêu
trên vẫn chưa giải quyết hết mọi vấn đề về giải phòng mặt bằng, nhất là đối

với một huyện như huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Vì vậy, đề tài mà
tác giải lựa chọn không trùng lắp với bất kỳ đề tài và chủ đề khoa học nào đã
nghiên cứu trước đó.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn.
3.1. Mục đích
Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn công tác bồi thường giải
phóng mặt bằng ở huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang từ đó làm rõ thực
9
trạng và giải pháp của công tác bồi thường giải phóng mặt bằng ở huyện Sơn
Dương, tỉnh Tuyên Quang từ đó có những đề xuất và kiến nghị với những cơ
quan chức năng nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng thu hồi đất, cũng như
công tác bồi thường giải phóng mặt bằng tại huyện Sơn Dương.
3.2. Nhiệm vụ.
Để đạt được mục tiêu đề ra, luận văn tập trung vào các nhiệm vụ sau:
Tổng quan những căn cứ pháp lý và thực tiễn của công tác bồi thường
giải phóng mặt bằng nói chung, trên địa bàn huyện Sơn Dương nói riêng.
Phân tích thực trạng công tác bồi thường giải phóng mặt bằng tại
huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, cũng như sự tác động của việc giải
quyết khiếu khiếu nại về đất đai tới đời sống xã hội của chính quyền nhà
nước các cấp;
Đề ra một số phương hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế, chính
sách bồi thường giải phóng mặt bằng trên địa bàn huyện Sơn Dương hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là công tác bồi thường giải phóng
mặt bằng ở huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Luận văn tập trung nghiên cứu
công tác bồi thường giải phóng mặt tại huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang
từ năm 2006 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa

duy vật lịch sử và Chủ nghĩa duy vật biện chứng; hệ thống các quan điểm,
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về công tác bồi
thường giải phóng mặt bằng.
- Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: Phương
pháp thống kê, điều tra nghiên cứu, phương pháp so sánh đối chiếu số liệu;
phương pháp phân tính, tổng hợp, chứng minh để đánh giá tình hình bồi
thường, giải phóng mặt bằng tại huyện Sơn Dương.
10
6. Những đóng góp về lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn là công trình khoa học nghiên cứu về quản lý nhà nước trong
công tác bồi thường đền bù giir phóng mặt bàng trên địa bàn huyện Sơn
Dương, tỉnh Tuyên Quang. Kết quả nghiên cứu của đề tài có ý nghĩa sau:
- Về lý luận: Hệ thống hóa lý luận các khái niệm liên quan đến quản lý
nhà nước về đất đai, về bồi thường, đền bù giải phóng mặt bằng nói chung,
trên địa bàn huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang nói riêng từ đó làm cơ sở
xây dựng luận cứ khoa học quản lý nhà nước về đất đai nói chung, đất đai trên
địa bàn huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang trong điều kiện hiện nay.
- Về thực tiễn: Tìm ra những vướng mắc trong cơ chế bồi thường, đền
bù giải phóng mặt bằng, từ đó đưa ra các kiến nghị, biện pháp giải quyết phù
hợp cho việc bồi thường, đền bù giải phóng mặt bằng về đất đai nói chung và
trên địa bàn huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang nói riêng.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có đóng góp nhất định về cơ sở lý luận
trong quản lý nhà nước về đất đai, đặc biệt là vấn đề bồi thường, giải phóng mặt
bằng nói chung, trên địa bàn huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang nói riêng.
Đồng thời luận văn có thể làm tư liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu, giảng
dạy, đào tạo và bồi dưỡng môn học quản lý nhà nước; quản lý nhà nước về đất
đai chuyên ngành quản lý công, cũng như áp dụng trong thực tiễn vào công tác
bồi thường giải phòng mặt bằng tại huyện Sơn Dương nói riêng và công tác bồi
thường giải phóng mặt bằng tại tỉnh Tuyên Quang và cả nước nói chung.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và mục tài liệu tham khảo, đề tài
luận văn được kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng;
Chương 2: Thực trạng công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng ở
huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang;
Chương 3: Một số biện pháp hoàn thiện chính sách bồi thường, giải
phóng mặt bằng ở huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.
11
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG TÁC BỒI THƯỜNG,
GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG
1.1. Khái quát chung về đất đai và quản lý nhà nước về đất đai
1.1.1. Quan niệm chung về đất đai và tài sản đất đai.
Đất đai là nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá, là tư liệu sản
xuất không thể thay thế của nền kinh xã hội, là nơi diễn ra các hoạt động phát
triển kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng, là nơi diễn ra các hoạt động sinh
sống, định cư của xã hội loài người và giới sinh vật.
Đất đai là sản phẩm của tự nhiên, không ai có thể làm ra đất đai nên đất
đai thuộc về phạm trù vĩnh viễn, là một loại hàng hóa quý hiếm. Mặt khác,
trong đất đai còn có công sức của con người khai hoang, phục hóa, cải tạo cho
phù hợp với yêu cầu sử dụng, kể cả phải đổ cả xương máu để bảo vệ lãnh thổ.
Do đó, đất đai có giá trị và trong thuộc tính giá trị của đất đai còn có cả yếu tố
lịch sử và tinh thần.
Đất đai còn được xác định là loại tài sản- hay bất động sản, nên có
những thuộc tính, đặc trưng nhất định của loại tài sản là bất động sản. Vì vậy,
cần đặt nó trong môi trường của bất động sản để thấy rõ đặc trưng và xác định
được những nhân tố ảnh hưởng đến giá trị của đất đai.
Nói về đất đai tức là nói về giá trị quyền sử dụng đất đai. Giá trị quyền sử
dụng đất (sau đây gọi là giá đất) được hiểu đó là số tiền mà người sử dụng đất

phải trả cho chủ sở hữu (Nhà nước, tổ chức hay cá nhân) khi người sử dụng
được chủ sở hữu chuyển giao đất theo cơ chế kinh tế thị trường thông qua các
hình thức mua, bán, cho thuê, thế chấp…
1.1.2. Quyền sở hữu và quyền sử dụng đất đai ở Việt Nam
Theo quy định của pháp luật Việt Nam “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân
do Nhà nước đại diện làm chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao
12
quyền sử dụng đất theo quy định của Luật này” [21, tr.12]. Trong đó Nhà
nước thực hiện quyền định đoạt đối với đất đai như sau:
- Tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận
quyền sử dụng đất. Người sử dụng đất được chuyển quyền sử dụng đất, thực
hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của luật. Quyền sử dụng đất được
pháp luật bảo hộ.
- Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường
hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển
kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Việc thu hồi đất phải công
khai, minh bạch và được bồi thường theo quy định của pháp luật.
Như vậy, với tư cách là người đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai,
Nhà nước có đủ ba quyền năng: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền
định đoạt, song Nhà nước không sử dụng trực tiếp mà giao đất cho người sử
dụng trên cơ sở mục tiêu chung của Nhà nước và của xã hội và cho phép họ
được chuyển quyền sử dụng nhằm phát huy và mở rộng các quan hệ đất đai
cho quá trình phát triển kinh tế, xã hội.
Người sử dụng đất ở đây chính là người thực hiện những mục tiêu, ý đồ
của Nhà nước, tạo lên mối quan hệ sử dụng đất là quan hệ giữa những người
sử dụng đất với nhau thông qua hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất. Do đó
người sử dụng đất không chỉ có quyền chiếm hữu, sử dụng mà còn có các
quyền khác như quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại,
thừa kế, thế chấp, góp vốn, bảo lãnh, tặng cho quyền sử dụng đất. Các quyền
năng này của người sử dụng đất được pháp luật đất đai, pháp luật dân sự gọi

là quyền sử dụng đất. Xét về bản chất, quyền sử dụng đất là một quyền dân sự
vì nó gắn với chủ thể quan hệ pháp luật dân sự là hộ gia đình, cá nhân và gắn
liền với một loại tài sản, hàng hoá đặc biệt - đó là đất đai. Do vậy, quyền sử
dụng đất được coi là một quyền dân sự đặc biệt vì người sử dụng đất không
có toàn bộ các quyền năng như chủ sở hữu tài sản khác, chẳng hạn: không có
quyền tiêu huỷ đất đai, không có quyền thay đổi mục đích sử dụng, không có
13
quyền tự đặt ra các thủ tục chuyển nhượng, chuyển đổi, thu hồi đất… mà hình
thức, thủ tục, điều kiện và nội dung thực hiện các quyền năng của người sử
dụng đất phải được thực hiện một cách nghiêm túc theo quy định pháp luật
đất đai và pháp luật dân sự. Ví dụ:
- Về hình thức: việc thu hồi đất phải được thực hiện thông qua một quyết
định hành chính do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo luật định.
- Về điều kiện: việc bồi thường khi nhà nước thu hồi đất căn cứ vào các
quy định như: có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và các điều kiện hợp
pháp, hợp lệ khác theo quy định tại nghị định 45/CP ngày 15/5/2014 về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
- Về thời hạn: tùy theo từng loại đất và mục đích sử dụng, người sử
dụng chỉ được thu hồi trong một thời gian nhất định. Ví dụ đất nông nghiệp là
90 ngày, đất phi nông nghiệp là 180 ngày.
1.2. Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
1.2.1. Cơ sở lý luận về thu hồi, giải phóng mặt bằng
Trên cơ sở đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện, chủ sở
hữu và thống nhất quản lý, Nhà nước sẽ thực hiện quyền định đoạt đối với
đất đai thông qua các quyết định hành chính, trong đó có quyết định về thu
hồi đất để sử dụng cho các mục tiêu nhất định. Vì vậy, cơ sở của việc thu
hồi đất được quy định trong Hiến pháp năm 2013 và được thể hiện trong
Luật đất đai năm 2013 có hiệu lực ngày 01-7-2014 trên cơ sở chế độ sở hữu
toàn dân về đất đai.
Như vậy, khi các công trình được xây dựng nhằm phục vụ cho mục

đích quốc phòng, an ninh, lợi ích công cộng, lợi ích quốc gia được triển khai
thì Nhà nước cần phải có mặt bằng để thực hiện dự án. Tuy nhiên, theo quy
định của pháp luật thì, “đất đai thuộc sở hữu toàn dân”, với tư cách là người
quản lý, nhằm đảm bảo được lợi ích của Nhà nước, lợi ích của nhân dân, khi
đó Nhà nước sẽ ra quyết định thu hồi quyền sử dụng đất của người dân hoặc
đất được Nhà nước giao quản lý. Theo điều 1, Luật đất đai năm 2013 “Thu
14
hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu hồi quyền sử dụng
đất hoặc thu lại đất đã giao cho tổ chức, Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn
quản lý” [24, tr.19]. Việc xây dựng những khu công nghiệp cho mục tiêu phát
triển kinh tế, những con đường quốc gia để phục vụ lợi ích chung là rất cần
thiết nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của những cá nhân, những
nhóm người. Do đó, khi quyền sử dụng đất của người dân bị thu hồi thì Nhà
nước sẽ bồi thường thiệt hại. Vì vậy, “ Bồi thuờng là việc Nhà nước trả lại giá
trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất bị thu hồi cho người bị thu hồi đất”
[24, tr.19]; “Bồi thường” là sự đền trả lại tất cả những thiệt hại mà chủ thể
gây ra một cách tương xứng, trong quy hoạch xây dựng thiệt hại gây ra có thể
là thiệt hại vật chất và thiệt hại phi vật chất. Trong giải phóng mặt bằng, cùng-
khó khăn cho các nhà đầu tư. Đặc biệt, các nhà đầu tư trong nước có nguồn
vốn hạn hẹp thì việc quay vòng vốn là rất cần thiết để đảm bảo tận dụng cơ
hội đấu thầu của các công trình khác.
Với chính sách hỗ trợ và tái định cư, chính sách bồi thường là một phần
quan trọng trong chính sách đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất. Chính
sách này nhằm giúp cho người bị thu hồi đất có thể tái lập, ổn định cuộc sống
mới do những thiệt hại vật chất hoặc thiệt hại phi vật chất do việc thu hồi đất
gây ra, mặt khác giúp họ giải quyết được những khó khăn khi phải thay đổi
nơi ở mới.
1.2.2. Bản chất của việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất
Mục tiêu phát triển kinh tế và xây dựng đất nước của Đảng và Nhà

nước ta đó là: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Trong nhiều chiến lược phát triển của đất nước có chiến lược phát triển nhà ở
nhằm tạo điều kiện cho nhân dân có chỗ ở rộng rãi hơn, tiện nghi hơn qua mỗi
thời kỳ phát triển. Ăn và ở là hai nhu cầu tối thiểu của con người, trong đó
nhu cầu về nhà ở có tầm quan trọng trong việc ổn đời sống của mỗi người
dân. Câu nói tuy giản dị từ bao đời nay của ông cha ta “Có an cư, mới lạc
15
nghiệp” nhưng trong hoàn cảnh nào cũng đúng vì sự du canh, du cư của con
người khó làm nên sự nghiệp. Do đó trong quá trình thu hồi đất để giải phóng
mặt bằng, người dân phải di chuyển chỗ ở và kéo theo đó là những khó khăn
mà họ sẽ, gặp phải trong cuộc sống hiện tại cũng như tương lai. không có chỗ
ở ổn định thì con người sẽ không có điều kiện tốt nhất cho việc học tập, lao
động, nghiên cứu khoa hoc… Bài học của một số nước phát triển cho ta cách
nhìn mới, đó là bên cạnh những công sở nguy nga tráng lệ, những cao ốc trọc
trời là những khu nhà “ổ chuột” của dân lao động – công bằng và dân chủ
không thể chỉ thông qua việc hô hào mà thực tế lại không thực hiện. Đất nước
ta đang bước vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chúng ta
không thể chỉ có những đô thị đẹp, hiện đại, những khu chế xuất khổng lồ,
những công trình công cộng khang trang mà kèm theo đó chỗ ở của người dân
phải được nâng cấp tiện nghi hơn, rộng rãi hơn…Chính vì vậy phải tính một
cách toàn diện, không thể có một hiện tượng một công trình mới ra đời lại kéo
theo những người dân không có chỗ ở hoặc chỗ ở kém hơn nơi ở cũ. Nếu
không nhìn rõ bản chất vấn đề, mỗi năm chúng ta có hàng ngàn dự án cần giải
phóng mặt bằng, mỗi dự án chỉ kéo theo một gia đình không có chỗ ở thì đã
có hàng ngàn gia đình thiếu chỗ ở hoặc chỗ ở tạm bợ. Như vậy, sự phát triển
sẽ thiên lệch, lợi ích của quốc gia, lợi công cộng không hài hoà với lợi ích cá
nhân, gia đình. Từ đó mục tiêu lớn của quốc gia sẽ không đạt được. Từ những
nhận thức trên có thể giúp chúng ta hiểu được bản chất quan trọng của vấn đề,
của chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của Nhà nước đối với người dân
khi bị thu hồi đất.

Thời kỳ sau năm 1975 đến trước sự ra đời Luật đất đai năm 1993 trên
cơ sở hiến pháp năm 1980 quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà
nước thống nhất quản lý. Vì vậy việc thực hiện đền bù về đất không được
thực hiện mà chỉ thực hiện đền bù tài sản gắn liền với đất hoặc những thiệt hại
do việc thu hồi đất gây nên. Ngày 01/07/1980 hội đồng chính phủ ra Quyết
định 201/CP về việc: không được phát canh thu tô, cho thuê, cầm cố hoặc bán
16
nhượng đất với bất kỳ hình thức nào, không được dùng để thu những khoản
lợi nhuận không do thu nhập mà có, trừ trường hợp do Nhà nước quy định”.
Quan hệ đất đai thời kỳ này đơn thuần chỉ là quan hệ “giao-thu” giữa Nhà
nước và người sử dụng.
1.2.3. Mục đích, yêu cầu của việc thu hồi đất đai
Hoạt động bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất là
vấn đề phức tạp, vừa mang tính chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội, vừa mang
tính thời sự cấp bách. Công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất những năm qua trên cả nước bước đầu đã tạo ra nhiều đổi mới cho
khu vực nông thôn, khu vực đô thị, ven đô thị như: Tạo bước chuyển dịch về
cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, ngành nghề, thu hút đầu tư góp phần đẩy
nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế, xã hội của địa
phương, của vùng và cả nước. Tuy nhiên, việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
thời gian qua đã gặp không ít khó khăn do nhiều yếu tố chủ quan, khách quan,
vì vậy, việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của Nhà nước nói chung, của chính
quyền địa phương những năm qua thông qua những dự án kinh tế, xã hội vẫn
chưa đáp ứng yêu cầu của sự phát triển và đã gây ra nhiều khiếu nại, khiếu
kiện, bất ổn định về xã hội và tình hình trật tự trong cả nước. Xuất phát từ vai
trò, vị trí của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, người có thẩm quyền
trong việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, các hoạt động của các cơ
quan này khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình đều ảnh
hưởng trực tiếp đến đời sống của cá nhân, cộng đồng dân cư, nhất là trong hoạt
động quản lý đất đai tại địa phương, nhất là trong lĩnh vực thu hồi, bồi thường,

hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách
nhiệm của cơ quan có thẩm quyền, người có thẩm quyền đều do Hiến pháp,
luật và các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên quy định (ví dụ: Luật Tổ
chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003; Luật đất đai; Luật ban
hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008; Luật ban hành văn bản quy phạm
pháp luật của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2004;…).
17
“Hoạt động về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
của các cơ quan có thẩm quyền, người có thẩm quyền được xem xét trên cơ
sở hàng loại các yếu tố về cơ chế, pháp luật và con người, cùng những điều
kiện kinh tế, xã hội khác nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm trong công
tác thu hồi đất, giải phóng mặt bằng của các cấp, các ngành trong thời gian
tới. Đây cũng sẽ là cơ hội cho các nhà chuyên môn, các nhà lãnh đạo địa
phương nâng cao khả năng sắp xếp lại dân cư, xây dựng kết cấu hạ tầng, tổ
chức lại sản xuất, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết việc làm,
góp phần thực hiện tốt các mục tiêu kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng trên
địa bàn địa phương”[21, tr.13-14].
Mục tiêu dài hạn: nhằm bảo đảm thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội của cả nước, thu hồi đất, giải phóng mặt bằng sẽ góp phần thúc đẩy
kinh tế, văn hoá - xã hội phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại;
Mục tiêu ngắn hạn: Trên cơ sở Chương trình cải cách tổng thể nền
hành chính của Nhà nước đến năm 2020 và thực hiện các chính sách, pháp
luật của Nhà nước về kinh tế, thương mại khi Việt Nam trở thành thành viên
tôt chức Thương mại thế giới (WTO), mục tiêu ngắn hạn của công tác giải
phóng mặt bằng là nhằm:
- Điều tiết lại quỹ đất của cả nước, của từng vùng, từng địa phương cho
các mục đích sử dụng: Phát triển công nghiệp, dịch vụ, xây dựng kết cấu hạ
tầng, phát triển đô thị nhằm bảo đảm mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ
nền kinh tế nông nghiệp, nông thôn sang nền kinh tế công nghiệp, dịch vụ, du
lịch , bảo đảm cho kinh tế nông thôn thoát khỏi tình trạng tự cung, tự cấp và

chuyển sang sản xuất hàng hoá theo hướng thị trường.
- Bảo đảm việc sử dụng đất đai ngày càng phù hợp hơn với các thiết
chế kinh tế thị trường khác như cơ cấu lại lực lượng lao động, điều tiết các
nguồn vốn và tài sản khác trong xã hội, phù hợp với xu hướng phi tập trung
hoá trong hoạt động quản lý Nhà nước về đất đai ;
- Tạo điều kiện, cơ sở cho việc phát triển thị trường bất động sản.
18
1.2.4. Các trường hợp thu hồi đất đai.
Thu hồi đất được thực hiện trong các trường hợp quy định tại Điều 61-
62; Điều 64-65 Luật đất đai năm 2013, bao gồm:
- Thu hồi đất để sử dụng vào mục đich quốc phòng, an ninh, lợi ích
quốc gia, lợi ích cộng đồng, phát triển kinh tế.
- Thu hồi trong trường hợp tổ chức được Nhà nước giao đất không thu
tiền sử dụng đất, được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất mà tiền sử
dụng đất có nguồn gốc từ nguồn ngân sách nhà nước hoặc cho thuê đất thu
tiền hàng năm bị giải thể, phá sản, chuyển đi nơi khác, hoặc không còn nhu
cầu sử dụng đất để sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế.
- Thu hồi trong trường hợp sử dụng đất không đúng mục đích, sử dụng
đất không có hiệu quả;
- Người sử dụng đất cố ý hủy hoại đất;
- Đất được giao không đúng đối tượng hoặc không đúng thẩm quyền;
- Đất bị lấn, chiếm trong các trường hợp sau đây:
- Đất chưa sử dụng bị lấn, chiếm;
- Đất không được chuyển nhượng, sử dụng theo quy định của Luật Đất đai mà
người sử dụng đất do thiếu trách nhiệm để bị lấn, chiếm;
- Cá nhân người sử dụng đất chết không có người thừa kế;
- Người sử dụng đất tự nguyện trả lại đất;
- Ngưới sử dụng đất cố ý không thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước;
-Đất được Nhà nước giao, cho thuê có thời hạn mà không được gia hạn
khi hết thời hạn;

- Đất trồng cây hàng năm không được sử dụng trong thời hạn mười hai
tháng liền; đất trồng cây lâu năm không được sử dụng trong thời hạn mười tám
tháng liền; đất trồng rừng không được sử dụng trong hai mươi bốn tháng liền;
- Đất được Nhà nước giao, cho thuê để thực hiện dự án đầu tư mà
không được sử dụng trong thời hạn mười hai tháng liền hoặc tiến độ sử dụng
đất chậm hơn hai mươi bốn tháng so với tiến độ ghi trong dự án đầu tư, kể từ
19
khi nhận bàn giao đất trên thực địa mà không được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền quyết định giao đất, cho thuê đất đó cho phép
1.2.5. Nguyên tắc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
Theo quy định tại Điều 74 Luật đất đai 2013, Nguyên tắc bồi thường về
đất khi Nhà nước thu hồi đất được xác định như sau:
“- Người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất nếu có đủ điều kiện
được bồi thường quy định tại Điều 75 của Luật này thì được bồi thường.
- Việc bồi thường được thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích
sử dụng với loại đất thu hồi, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi
thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi đất.
- Việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải bảo đảm dân chủ, khách
quan, công bằng, công khai, kịp thời và đúng quy định của pháp luật [24, tr.89].
Việc thực hiện bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng, nếu
không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng đất ở, hoặc được bồi
thường bằng tiền cho phù hợp với thực tế tại địa phương.
Trường hợp người sử dụng đất được bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất nhưng chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai theo quy định của
pháp luật thì phải trừ đi khoản tiền phải thực hiện nghĩa vụ tài chinh vào số
tiền được bồi thường, hỗ trợ để hoàn trả ngân sách. Nghĩa vụ tài chính bao
gồm: tiền sử dụng đất phải nộp, tiền thuê đất đối với đất do nhà nước cho
thuê, thuế thu nhập từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất của các thửa đất
khác của người có đất bị thu hồi (nếu có), tiền thu từ việc xử phạt vi phạm

luật về đất đai, tiền bồi thường cho Nhà nước khi gây thiệt hại trong quản lý
và sử dụng đất đai, phí và lệ phí trong quản lý, sử dụng đất đai.
Trong trường hợp khoản nghĩa vụ tài chính về đất đai phải nộp lớn hơn
hoặc bằng tiền bồi thường về đất thì số tiền được trừ tối đa bằng số tiền bồi
thường đất.
20
Diện tích đất được bồi thường là diện tích đất được xác định trên thực
địa – thực tế đo đạc diện tích thu hồi của từng người sử dụng đất.
1.2.6. Điều kiện được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
Điều 75 Luật đất đai 2013 quy định về điều kiện được bồi thường về
đất khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh
tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng như sau:
“- Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không phải là đất thuê trả tiền
thuê đất hàng năm, có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận
quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (sau đây gọi chung là
Giấy chứng nhận) hoặc có đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy
định của Luật này mà chưa được cấp, trừ trường hợp quy định tại khoản 2
Điều 77 của Luật này; người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc đối tượng
được sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam mà có Giấy
chứng nhận hoặc có đủ điều kiện được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của
Luật này mà chưa được cấp.
- Cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo đang sử dụng đất mà không phải là
đất do Nhà nước giao, cho thuê và có Giấy chứng nhận hoặc có đủ điều kiện
để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài
sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật này mà chưa được cấp.
- Người Việt Nam định cư ở nước ngoài được Nhà nước giao đất, cho
thuê đất trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê; nhận chuyển nhượng

quyền sử dụng đất trong khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu chế xuất,
khu công nghệ cao, khu kinh tế, có Giấy chứng nhận hoặc có đủ điều kiện
được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất theo quy định của Luật này mà chưa được cấp.
- Tổ chức được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất
trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê; nhận thừa kế quyền sử dụng
21
đất, nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà tiền sử dụng đất đã nộp, tiền
nhận chuyển nhượng đã trả không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước, có
Giấy chứng nhận hoặc có đủ điều kiện được cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định
của Luật này mà chưa được cấp.
- Tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao được Nhà nước cho thuê
đất trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê và có Giấy chứng nhận hoặc
có đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở
và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật này mà chưa được cấp.
- Tổ chức kinh tế, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất để
thực hiện dự án đầu tư xây dựng nhà ở để bán hoặc bán kết hợp cho thuê; cho
thuê đất trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê, có Giấy chứng nhận
hoặc có đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật này mà chưa
được cấp” [24, tr.90].
Tóm lại, người bị Nhà nước thu hồi đất, có một trong nhưng điều kiện
sau đây thì được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi, giải
phóng mặt bằng:
+ Có Giấy chứng nhân quyền sử dụng đất theo quy định của Pháp luật
đất đai.
+ Có quyết định giao đất của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo
quy định của pháp luật đất đai.

+ Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất ổn định, được Ủy ban nhân dân xã,
phường, trị trấn (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp xã) xác nhận
không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây:
- Những giấy tờ về quyền sử dụng đất đai trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 do
cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của
Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng
22
hòa miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chử nghĩa Việt Nam;
- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ Địa chính;
- Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng, cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn
liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất;
- Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất
trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã xác
nhận là đất sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993;
- Giấy tờ thanh lý, hóa giá nhà ở, mua nhà ở gắn liền với đất ở theo quy định
của pháp luật;
- Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng
đất.
+ Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong những lại giấy tờ
quy định được kể trên mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ
về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên liên quan,
nhưng đến thời điểm có quyết định thu hồi đất chưa thực hiện thủ tục chuyển
nhượng sử dụng đất theo quy định của pháp luật, nay được Ủy ban nhân dân
cấp xã xác nhận không có tranh chấp.
+ Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có hộ khẩu thường trú tại địa
phương và trự tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản,
làm muối tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn ở miền núi, hải đảo,
nay được Ủy ban nhân dân cấp xã nới có đất xác nhận là người đã sử dụng đất
ổn định, không có tranh chấp.

+ Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đát không có các loại giấy tờ quy
đinh như đã kể trên nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 15
tháng 10 năm 1993, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất đó
không có tranh chấp.
+ Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất theo bản án hoặc quy định của
tòa án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án hoặc quyết định
giải quyết tranh chấp đất đai của nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành.
23
+ Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy tờ kể
trên nhưng đất đã được sử dụng từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến thời điểm
có quyết định thu hồi đất, mà tại thời điểm sử dụng không vi phạm quy hoạch;
không vi phạm hành lang bảo vệ các công trình, được cấp có thẩm quyển phê
duyệt đã công bố công khai, cắm mốc, không phải là đất lấn chiếm trái phép
và được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất bị thu hồi xác nhận đất đó không
có tranh chấp.
+ Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất mà trước đây Nhà nước đã có quyết
định quản lý trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước, nhưng
trong thực tế Nhà nước chưa quản lý, mà hộ gia đình, cá nhân đó vẫn sử dụng.
+ Cộng đồng dân cư đang sử dụng đất có các công trình là đình, chùa, đền
miếu, am, tư, hương, nhà thờ họ, được Ủy ban nhân dân cấp xã có đất đai bị thu
hồi xác nhận là đất sử dụng chung cho cộng đồng và không có tranh chấp.
+ Tổ chức sử dụng đất trong các trường hợp sau đây:
- Đất được Nhà nước giao cho có thu tiền sử dụng đất mà tiền sử dụng đất đã
nộp không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước;
- Đất nhận chuyển nhượng của người sử dụng đất hợp pháp mà tiền trả việc
chuyển nhượng không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước;
- Đất sử dụng có nguồn gốc hợp pháp từ hộ gia đình, cá nhân.
1.2.7. Phương thức bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
Điều 3 – 17, Điều 30 Nghị định 47/CP năm 2014 về bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư quy định về cách thức bồi thường, chi trả như sau:

1.2.7.1. Chi trả bồi thường về đất đai và tài sản trên đất,
- Tổ chức, cá nhân trong nước; người Việt Nam định cư ở nước ngoài;
tổ chức, cá nhân nước ngoài được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất,
cho thuê đất theo quy định của pháp luật về đất đai nếu thực hiện ứng trước
tiền bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và kinh phí tổ chức thực hiện bồi
thường, giải phóng mặt bằng theo phương án đã được xét duyệt thì được
ngân sách nhà nước hoàn trả bằng hình thức trừ vào tiền sử dụng đất, tiền
24
thuê đất phải nộp.
- Tổ chức, cá nhân trong nước; người Việt Nam định cư ở nước ngoài;
tổ chức, cá nhân nước ngoài được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng
đất, giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất theo quy định của pháp luật
về đất đai mà được miễn tiền sử dụng đất, tiền thuê đất thì tiền bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư và kinh phí tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
theo phương án đã phê duyệt được tính vào vốn đầu tư của dự án.
Xác định lại giá đất trong một số trường hợp cụ thể:
- Khi Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất không thông qua hình
thức đấu giá quyền sử dụng đất hoặc đấu thầu dự án có sử dụng đất, cho thuê
đất, phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất và trường hợp doanh nghiệp nhà nước tiến hành cổ phần hóa lựa chọn
hình thức giao đất mà giá đất do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định tại thời
điểm giao đất, cho thuê đất, thời điểm quyết định thu hồi đất, thời điểm tính
giá đất vào giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa chưa sát với giá chuyển nhượng
quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường thì Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực
tế trên thị trường để xác định lại giá đất cụ thể cho phù hợp.
* Bồi thường đất nông nghiệp
- Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất nông nghiệp khi Nhà nước thu
hồi được bồi thường bằng đất có cùng mục đích sử dụng; nếu không có
đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền tính theo giá đất cùng

mục đích sử dụng.
- Hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi đất nông nghiệp đang sử dụng vượt
hạn mức thì việc bồi thường được thực hiện như sau:
+ Trường hợp diện tích đất vượt hạn mức do được thừa kế, tặng cho,
nhận chuyển nhượng từ người khác, tự khai hoang theo quy hoạch được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt thì được bồi thường;
+ Diện tích đất vượt hạn mức của các trường hợp không thuộc quy định
25

×