TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
=======***=======
NGUYỄN THỊ KIỀU TRANG
VẤN ĐỀ BẠO LỰC GIA ĐÌNH
ĐỐI VỚI PHỤ NỮ TỈNH VĨNH PHÚC
TỪ 2008 ĐẾN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội
HÀ NỘI, 2015
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
=======***=======
NGUYỄN THỊ KIỀU TRANG
VẤN ĐỀ BẠO LỰC GIA ĐÌNH
ĐỐI VỚI PHỤ NỮ TỈNH VĨNH PHÚC
TỪ 2008 ĐẾN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
ThS. Chu Thị Diệp
HÀ NỘI, 2015
LỜI CẢM ƠN
Đối với bản thân tôi, khoá luận này là quá trình đáng quý. Để có thể
hoàn thành đƣợc khoá luận này, tôi đã nhận đƣợc sự giúp đỡ rất nhiều của các
thầy cô, bạn bè và gia đình.
Tôi xin đƣợc gửi lời cảm ơn đến Ban Giám hiệu, các thầy cô trong khoa
Giáo dục chính trị,trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2, gia đình, bạn bè đã tạo
điều kiện tốt nhất giúp đỡ tôi để hoàn thành khoá luận tốt nghiệp này.
Tôi xin đƣợc gửi lời cảm ơn tới lãnh đạo các Sở, Ban ngành Tỉnh Vĩnh
Phúc, Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc, Sở Văn hóa tỉnh Vĩnh Phúc, Hội Liên
hiệp phụ nữ tỉnh Vĩnh Phúc, Thƣ viện tỉnh Vĩnh Phúc, Ủy ban nhân dân
huyện Vĩnh Tƣờng, Phòng Văn hóa huyện Vĩnh Tƣờng, Hội Liên hiệp phụ nữ
huyện Vĩnh Tƣờng, Hội Liên hiệp phụ nữ huyện Yên Lạc đã giúp đỡ, cung
cấp những số liệu, tài liệu tham khảo cho khóa luận.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến TH.S Chu Thị Diệp ngƣời đã
tận tình chỉ bảo, giúp đỡ tôi nghiên cứu và hoàn thiện khoá luận tốt nghiệp này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội ngày
tháng 05 năm 2015
Sinh viên
Nguyễn Thị Kiều Trang
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân tôi. Các vấn
đề nghiên cứu nêu trong khoá luận là trung thực, chính xác và chƣa đƣợc
công bố trong bất kì một công trình nào khác.
Hà Nội ngày
tháng 05 năm 2015
Sinh viên
Nguyễn Thị Kiều Trang
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
CLB:
Câu lạc bộ
CNH - HĐH:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
PCBLGĐ:
Phòng chống bạo lực gia đình
TƢ:
Trung ƣơng
UBND:
Ủy ban nhân dân
VH - TT:
Văn hóa - Thông tin.
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................................... 1
Chƣơng 1. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VỀ BẠO LỰC ĐỐI VỚI PHỤ
NỮ TRONG GIA ĐÌNH............................................................................................... 6
1.1. Một số khái niệm .................................................................................... 6
1.2 Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
bình đẳng giới .............................................................................................. 13
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG BẠO LỰC ĐỐI VỚI PHỤ NỮ TRONG GIA
ĐÌNH Ở VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN HIỆN NAY .............................................. 17
2.1. Khái quát về tình hình tỉnh Vĩnh Phúc ................................................. 17
2.2. Thực trạng bạo lực đối với phụ nữ trong gia đình ................................ 20
2.3. Luật pháp và chính sách của nhà nƣớc Việt Nam trong vấn đề phòng
chống bạo lực trong gia đình và công tác phòng chống bạo lực trong gia
đình của tỉnh Vĩnh Phúc....................................................................... 34
Chƣơng 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM XÓA BỎ TÌNH
TRẠNG BẠO LỰC ĐỐI VỚI PHỤ NỮ TRONG GIA ĐÌNH TỈNH VĨNH
PHÚC HIỆN NAY ....................................................................................................... 43
3.1. Nâng cao nhận thức của phụ nữ về bạo lực gia đình và phòng chống
bạo lực gia đình.........................................................................................43
3.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật và tăng cƣờng công tác giáo dục pháp
luật về phòng, chống bạo lực gia đình.......................................................46
3.3. Phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập gia đình...............................50
KẾT LUẬN .................................................................................................................... 51
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................ 52
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Quyền con ngƣời đã từng là vấn đề xuyên suốt của các cuộc đấu tranh
giai cấp, đấu tranh dân tộc trong lịch sử. Đến nay nó vẫn là một trong những
vấn đề nổi bật của thời đại.
Vấn đề quyền con ngƣời, trƣớc hết là quyền của mỗi cá nhân, quyền
đƣợc khẳng định mình là một chủ thể với những quyền lợi, nghĩa vụ nhƣ mọi
ngƣời khác. Trong lịch sử loài ngƣời đã từng tồn tại chế độ phụ quyền, trong
đó phụ nữ đã từng bị hạn chế hoặc bị tƣớc đoạt quyền con ngƣời cơ bản. Hiện
nay, phụ nữ chiếm một nửa dân số thế giới, là một lực lƣợng lao động lớn góp
phần rất quan trọng vào việc xây dựng gia đình và phát triển đất nƣớc, thúc
đẩy sự tiến bộ và phồn vinh trên trái đất. Nhƣng trên thực tế, chƣa có một
nƣớc nào mà ở đó phụ nữ thực sự đƣợc hoàn toàn bình đẳng, chị em phụ nữ
luôn luôn phải chịu nhiều thiệt thòi hơn so với nam giới.
Trong điều 24, Hiến pháp nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 1959 có ghi: “Phụ nữ nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa có quyền bình
đẳng với nam giới về mặt sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia
đình”. Quyền của phụ nữ tiếp tục đƣợc khẳng định trong Hiến Pháp năm
1980, 1992 và tại các kì Đại hội đại biểu toàn quốc.
Trên thực tế, Ngân hàng thế giới tại Việt Nam (1999) khi nghiên cứu về
vấn đề này đã đƣa ra 1 con số đáng lo ngại: Tỷ lệ phụ nữ là nạn nhân của bạo
lực trong gia đình dƣới nhiều hình thức khác nhau chiếm từ 40% đến 80%.
Nó tác động tới khoảng 20% - 50% phụ nữ trên thế giới. Bạo lực trong gia
đình còn để lại những thiệt hại nặng nề về vật chất, tinh thần cho nạn nhân,
những ngƣời xung quanh và cho toàn xã hội.
Cùng với sự tăng trƣởng kinh tế, cuộc sống tinh thần của con ngƣời cũng
ngày càng đƣợc cải thiện, đặc biệt sự bình đẳng về giới, quan hệ vợ chồng
1
trong gia đình đƣợc nhìn nhận trên nhiều khía cạnh tích cực hơn. Tuy nhiên,
vẫn còn tồn tại nhiều vấn nạn trong đó có bạo lực gia đình, nó không chỉ làm
đau đầu các cơ quan chức năng mà còn làm tổ ấm gia đình mất đi nền tảng
vốn có của nó.
Gia đình là tế bào của xã hội, là nơi chứa chan niềm vui, sự nồng ấm,
những giây phút thiêng liêng, nơi mỗi chúng ta tìm về sau những tháng ngày
vất vả và xa cách, gia đình có vững xã hội mới mạnh. Tình trạng bạo lực
trong gia đình vẫn còn và ngày càng gia tăng thì nguy cơ gia đình tan vỡ là
điều không tránh khỏi. Đặc biệt, ở Việt Nam đang trong thời kì quá độ lên
Chủ nghĩa xã hội thì vấn đề này cần phải đƣợc quan tâm nghiên cứu và đƣa ra
giải pháp để khắc phục triệt để tình trạng này.Cần phải nghiên cứu thực trạng
ở từng cơ sở, địa phƣơng để đƣa ra giải pháp phù hợp với đặc điểm của địa
phƣơng đó. Tỉnh Vĩnh Phúc tuy chƣa có những nghiên cứu chuyên sâu để có
thể hình dung một bức tranh tổng thể và toàn diện về tình trạng bạo lực gia
đình đối với phụ nữ, nhƣng cũng không thể nằm ngoài tình trạng chung của cả
nƣớc và thế giới. Theo báo cáo của Tòa án tỉnh Vĩnh Phúc từ năm 2005 –
2010 qua hai cấp xét xử số vụ ly hôn là 4632 vụ án, giải quyết đƣợc 4368 vụ,
trong đó phụ nữ là nguyên đơn chiếm trên 50%. Nguyên nhân chủ yếu là do
mâu thuẫn gia đình: chồng ngoại tình, cờ bạc, rƣợu chè, đánh đập, ngƣợc đĩa
vợ… Từ những lí do trên tác giả chọn đề tài: “Vấn đề bạo lực gia đình đối
với phụ nữ tỉnh Vĩnh Phúc từ 2008 đến nay” làm đề tài cho khoá luận tốt
nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu
Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí Minh ngay từ đầu đã giành nhiều tâm huyết
trong việc đề ra chủ trƣơng, đƣờng lối, chính sách nhằm giải phóng phụ nữ,
thực hiện bình đẳng nam nữ. Trong luật pháp, Hiến pháp và nhiều văn kiện
của Đảng có rất nhiều quy định liên quan đến vấn đề này.
2
Gần đây, nhiều cuộc hội thảo đã đi vào khía cạnh khác nhau về vai trò
của phụ nữ, điển hình nhƣ. Trong hai ngày 3 - 4/12/2012, tại TP Đà Nẵng,
Trung ƣơng Hội Nông dân Việt Nam phối hợp với Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam tổ chức Hội thảo “Giải quyết mất cân bằng giới tính khi sinh, chăm sóc
phát triển vai trò ngƣời cao tuổi và phòng, chống bạo lực gia đình”. Hội
thảođã tập trung thảo luận, tìm giải pháp giảm tỷ lệ mất cân bằng giới tính khi
sinh đối với các xã vùng ven biển và đầm phá; hỗ trợ vốn, giải quyết việc làm,
dạy nghề cho phụ nữ.....; chế độ an sinh xã hội cho ngƣời cao tuổi; tăng cƣờng
công tác kiểm tra, giám sát đối với các cơ sở y tế tƣ nhân...
Bên cạnh đó còn có những công trình là sách; những công trình ở các
trung tâm nghiên cứu về phụ nữ và các công trình là báo, tạp chí nhƣ:
Nhóm công trình là sách:
-
Cuốn “Bạo lực gia đình - một sự sai lệch giá trị” của Lê Thị Quý -
Đặng Vũ Cảnh Linh, NXB khoa học xã hội, Hà Nội, 2007. Tác phẩm là
những bài học kinh nghiệm của Việt Nam trình bày về phòng chống bạo
lực gia đình từ ý tƣởng khoa học đến mô hình thử nghiệm, các mô hình
hoạt động ngăn chặn bạo lực gia đình tại địa phƣơng.
- Cuốn “Bình đẳng giới ở Việt Nam” của Trần Thị Vân Anh Nguyễn Hữu Minh (chủ biên), NXB khoa học xã hội, Hà Nội, 2008: Tác
phẩm nghiên cứu cơ bản về giới, gia đình và phụ nữ của Việt Nam; kết hợp
nghiên cứu với đào tạo trong lĩnh vực giới, gia đình và phụ nữ…
- Cuốn “Bình đằng giới trong pháp luật Việt Nam” của Đại sứ quán
Phần Lan Hà Nội và các tác giả khác, NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội, 2008:
Tổ chức hợp tác quốc tế về nghiên cứu và đào tạo, trao đổi thông tin khoa học
với các cơ quan trong nƣớc và nƣớc ngoài quản lý tƣ liệu, thƣ viện của Viện;
xuất bản các ấn phẩm khoa học; phổ biến các kết quả nghiên cứu khoa học và
các kiến thức khoa học về giới, gia đình và phụ nữ trong và ngoài nƣớc…
* Nhóm công trình là những công trình ở các trung tâm nghiên cứu
về phụ nữ nhƣ:
3
- Công trình “Gia đình Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới đất nƣớc và
vấn đề xây dựng con ngƣời” (2005) của PGS, TS Lê Thị Quý. Công trình này
nghiên cứu rất sâu về những biến đổi trong đời sống gia đình Việt Nam.
- Công trình “Đánh giá sự tiến bộ của phụ nữ từ 1985 - 1995” (1995),
của PGS, TS Lê Thị Quý. Trong công trình này tác giả đã tìm hiểu rất kĩ về
những tiến bộ của phụ nữ Việt Nam giai đoạn 1985 - 1995.
- Công trình khoa học cấp nhà nƣớc về vai trò của phụ nữ trong gia đình:
“Phụ nữ và bình đẳng giới ở Việt Nam” của GS Lê Thi. Trong nghiên cứu của
mình, GS Lê Thi đã đề cập rất nhiều đến vai trò của ngƣời phụ nữ trong gia
đình. Từ vai trò quan trọng đó, GS Lê Thi đã vạch ra những giải pháp chủ yếu
nhằm giải phóng phụ nữ. Là những luận văn, luận án bƣớc đầu nghiên cứu
phụ nữ và gia đình theo phƣơng án tiếp cận giới. Đây cũng là tài liệu tham
khảo vô cùng quý giá giúp tôi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp của mình.
* Nhóm công trình là báo, tạp chí:
- “Con ơi về với mẹ” (2014) của Lê Nga, báo Thanh niên số 413, tr.49
- Lê Thi (2006), Vấn đề dân số và bình đẳng giới ở Việt Nam, Tạp chí
Khoa học về phụ nữ, (số 4).
- Nguyễn Hữu Minh (2006), Bạo lực chồng đối với vợ ở Việt Nam trong
những năm gần đây, Tạp chí Khoa học về phụ nữ...
Tuy nhiên ở nƣớc ta hiện nay, một trong những vấn đề đang gây bức xúc
trong dƣ luận là tình trạng bạo lực gia đình đối với phụ nữ. Đây là một vấn đề
có tính chất phức tạp và đƣợc biểu hiện ở từng vùng miền, địa phƣơng trong cả
nƣớc. Những nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này ở từng địa phƣơng còn ít,
những giải pháp đƣa ra còn chung chung chƣa mang tính khả thi. Vì vậy, việc
tiếp tục có những nghiên cứu về lĩnh vực này là vẫn cần thiết và có ý nghĩa.
3. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu
Khóa luận tập trung nghiên cứu vấn đề: Bạo lực gia đình đối với phụ nữ
trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc từ 2008 đến nay.
4
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở những quan điểm lí luận về giải phóng phụ nữ, khóa luận đã
làm rõ thực trạng và đƣa ra giải pháp khắc phục tình trạng bạo lực gia đình đối
với phụ nữ trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc nhằm giải phóng phụ nữ, thực hiện bình
đẳng nam nữ đáp ứng nhu cầu xây dựng Vĩnh Phúc giàu đẹp, văn minh.
* Nhiệm vụ
Để đạt đƣợc mục tiêu trên, khóa luận tập trung giải quyết những
nhiệm vụ:
- Trình bày hệ thống cơ sở lí luận về vấn đề bình đẳng giới, giải phóng
phụ nữ.
- Làm rõ thực trạng vấn đề bạo lực đối với phụ nữ trong gia đình trên địa
bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
- Đƣa ra những giải pháp chủ yếu nhằm xóa bỏ tình trạng bạo lực đối với
phụ nữ trong gia đình ở tỉnh Vĩnh Phúc.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phƣơng pháp: Lôgic - lịch sử, phân tích - tổng hợp, điều
tra, so sánh... trên cơ sở sử dụng phƣơng pháp luận duy vật biện chứng và
phƣơng pháp luận duy vật lịch sử.
6. Đóng góp của đề tài
Đề tài góp phần làm rõ thực trạng bạo lực đối với phụ nữ trong gia đình
ở tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn hiện nay. Từ đó đề xuất những giải pháp
nhằm khắc phục, tiến tới xóa bỏ tình trạng này.
7. Kết cấu bài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khoá luận có
kết cấu 3 chƣơng; 8 tiết.
5
Chƣơng 1
MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VỀ BẠO LỰC ĐỐI VỚI PHỤ NỮ
TRONG GIA ĐÌNH
1.1. Một số khái niệm
Gia đình là tế bào của xã hội - là tập hợp những ngƣời gắn bó với nhau
do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dƣỡng, làm phát sinh
các nghĩa vụ và quyền lợi giữa họ với nhau. Có thể nói, gia đình đƣợc coi là
nơi bình yên nhất của con ngƣời, là nơi con ngƣời đƣợc choa sẻ và yêu
thƣơng, là nơi tiếp sức cho con ngƣời có nghị lực để vƣợt qua những áp lực
trong công việc và các thử thách hay khó khăn bên ngoài xã hội. Quan hệ gia
đình giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, anh chị em với nhau là quan hệ
tình cảm thiêng liêng và ấm áp. Từ trƣớc đến nay, gia đình luôn đƣợc coi là tổ
ấm, là nơi thỏa mãn những nhu cầu tình cảm và vật chất của các thành viên,
bảo vệ họ trƣớc những căng thẳng trong cuộc sống. Thế nhƣng, sự xuất hiện
ngày càng mạnh mẽ của hiện tƣợng bạo lực gia đình, bất bình đẳng giới đã
làm cho rất nhiều thành viên trong gia đình rơi vào trạng thái bất ổn, hạnh
phúc của mỗi gia đình bị lung lay.
Tình trạng bất bình đẳng giới trong gia đình đang còn tồn tại ở rất nhiều
quốc gia, dân tộc trên thế giới trong đó có Việt Nam. Chúng ta sẽ cùng đi
tìm hiểu một số khái niệm cơ bản liên quan đến bạo lực gia đình và bất bình
đẳng giới:
1.1.1. Bình đẳng và bình đẳng giới
* Bình đẳng
- Theo các từ điển
Theo từ điển Tiếng Việt: “Bình đẳng là sự ngang nhau về quyền lợi và
địa vị” [19;65].
6
Theo từ điển Chủ nghĩa Xã hội khoa học: “Bình đẳng là những điều kiện
và những khả năng ngang nhau đối với việc tự do phát triển năng lực và thoả
mãn các nhu cầu của tất cả các thành viên trong xã hội, địa vị như nhau của
mọi người trong xã hội. Bình đẳng được hiểu khác nhau trong các thời đại
khác nhau” [22;10].
Theo từ điển Triết Học cho rằng: “Bình đẳng là khái niệm nói lên vị trí
như nhau của con người trong xã hội, nhưng lại có một nội dung khác nhau
trong những thời đại lịch sử khác nhau và ở những giai cấp khác nhau…Sự
bình đẳng hoàn toàn chỉ được tạo ra dưới chủ nghĩa cộng sản. Nhưng sự bình
đẳng của cộng sản chủ nghĩa không có nghĩa là một sự san bằng nào đó đối
với tất cả mọi người, mà ngược lại, nó mở ra những khả năng vô hạn cho mỗi
người tự do phát triển những năng lực và nhu cầu của mình, tương xứng với
những phẩm chất và năng khiếu cá nhân”.[2]
Nhƣ vậy, Bình đẳng là sự ngang bằng nhau về các cơ hội hoặc lợi ích đối
với những cá nhân khác nhau trong một nhóm hoặc nhiều nhóm xã hội.
- Bình đẳng giới
Bình đẳng giới hay nói cách khác chính là bình đẳng nam nữ. Đó là ƣớc
mơ, cũng chính là mục tiêu của nhiều quốc gia trong quá trình phát triển. Mỗi
chúng ta đều biết, phụ nữ chiếm gần nửa dân số thế giới. Trong lịch sử đấu
tranh của các dân tộc, họ đã có những đóng góp vô cùng to lớn để giành và
giữ nền độc lập cho quê hƣơng, đất nƣớc... Trong lịch sử Việt Nam đã có biết
bao nữ anh hùng hi sinh thân mình vì độc lập, tự do của Tổ quốc: Hai Bà
Trƣng, Bà Triệu, Võ Thị Sáu,... Với tinh thần: “Giặc đến nhà đàn bà cũng
đánh” [5;12], họ đã chiến đấu ngoan cƣờng tới giây phút cuối cùng. Còn
trong gia đình họ luôn là những ngƣời vợ, ngƣời mẹ đảm đang, chịu thƣơng,
chịu khó... Mặc dù vậy, trên thực tế chƣa có nƣớc nào phụ nữ đƣợc hoàn toàn
bình đẳng. Tình trạng này đặc biệt niều ở các nƣớc đang phát triển và chậm
7
phát triển. Giải phóng phụ nữ, thực hiện triệt để các quyền bình đẳng nam nữ,
đó là mơ ƣớc từ bao đời và là mục tiêu đấu tranh của bao thế hệ phụ nữ.
Trƣớc nguyện vọng cháy bỏng đó, Liên Hợp Quốc ngay từ khi thành lập đã
quan tâm đến vấn đề bình đẳng nam nữ. Hiến chƣớng của Liên Hợp Quốc
tuyên bố: “Các dân tộc hợp thành Liên Hợp Quốc kiên quyết khẳng định lại
niềm tin vào các quyền cơ bản của con người, vào phẩm giá của con người,
vào các quyền bình đẳng giữa các nước lớn cũng như nhỏ” [4;54], tiếp theo
đó là hàng loạt các văn bản, điều khoản quy định về vấn đề này.
Bất bình đẳng giới có nguồn gốc xâu xa trong lịch sử, nó xuất hiện ngay
trong xã hội loài ngƣời từ khi có sự chuyển đổi từ chế độ mẫu hệ sang chế độ
phụ hệ trên phạm vi toàn cầu và khi xác lập quyền tƣ hữu. Sự áp đặt về giới
đã mang tính vô hình từ nhiều thế kỉ nay: “Có lẽ trong ba hình thức bất bình
đẳng lớn nhất của lịch sử nhân loại (bất bình đẳng chủng tộc, bất bình đẳng
giai cấp, bất bình đẳng giới) thì bất bình đẳng giới chính là nguồn gốc đích
thực (về mặt lịch sử-xã hội) của mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu trong quan hệ vợ
chồng. Những nhu cầu, lợi ích cá nhân không được đáp ứng trong hôn nhân
dần dần trở thành xung đột xã hội, kéo theo nhưng hậu quả về mặt tiêu cực xã
hội” [17;21].
Theo Giáo sƣ Lê Thi: “Những khác biệt về giới (sex) giữa người đàn
ông và người đàn bà là những đặc điểm tự nhiên của cơ thể con người và
chức năng của nó là bẩm sinh và không thay đổi” [24;83]. “Giới mà chúng ta
xem xét ở đây là khái niệm khoa học ra đời từ môn nhân loại học, chỉ sự khác
biệt gữa nam và nữ về mặt xã hội”.
Từ đó, ta có thể hiểu về bình đẳng giới và đi đến kết luận: "Bình đẳng có
nghĩa là các em gái đƣợc đến trƣờng học nhƣ các em trai, là các cơ hội đƣợc
mở ra đối với phụ nữ, là các gia đình nghèo đƣợc hƣởng lợi từ các hỗ trợ
chăm sóc sức khỏe cho các bà mẹ... Bình đẳng cũng có nghĩa là phụ nữ hoàn
8
toàn có quyền tham gia vào các hoạt động chính trị và ra quyết định... Binh
fđẳng là một quyền con ngƣời đối với phụ nữ mà có thể cải thiện cuộc sống
cho tất cả mọi ngƣời... Bình đẳng góp phần chấm dứt nghèo nàn. Bình đẳng là
một ƣu tiên của công cuộc phát triển... là nền tảng của phát triển" (Liên Hợp
Quốc 2005) [4;20]. Những quan điểm về vấn đề bình đẳng giới đó, trƣớc sự
biến đổi hàng ngày, hàng giờ của nền kinh tế thị trƣờng mang tính toàn cầu
hóa, Nó đƣợc thể hiện khác nhau ở từng quốc gia, dân tộc, khu vực và cũng
có sự khác nhau giữa các tỉnh, thành trong cả nƣớc Việt Nam.
1.1.2. Bạo lực và bạo lực gia đình
*Bạo lực
Theo từ điển Tiếng Việt: “Bạo lực là một giai cấp (một nhóm chính trị
xã hội) nào đó áp dụng những hình thức cưỡng bức và tước đoạt” [19;41].
Theo từ điển Chủ nghĩa Xã hội khoa học: “Bạo lực là một giai cấp (các
nhóm chính trị xã hội) nào đó áp dụng những hình thức cưỡng bức khác
nhau, kể cả sự tác động vũ trang đối với các giai cấp (các nhóm chính trị xã
hội) khác nhau nhằm mục đích giành lấy hoặc duy trì sự thống trị về kinh tế,
chính trị, những quyền hay đặc quyền khác nhau, đặc lợi” [22; 41].
Theo tạp chí khoa học về phụ nữ: “Bạo lực trong gia đình là tệ ngược
đãi phụ nữ và trẻ em, là hiện tượng có tính phổ biến trong mọi tầng lớp dân
cư, xảy ra trên mọi vùng miền” [4;3].
Theo “Tuyên ngôn về loại trừ bạo lực chống lại phụ nữ” do Đại hội
đồng Liên Hợp Quốc thông qua năm 1993: “Bạo lực là bất kì hành động nào
dựa trên cơ sở giới dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến những tổn thất về thân
thể, tình dục, tâm lí hay những đau khổ về phụ nữ, bao gồm sự đe dọa, sự
cưỡng bức hay tước đoạt một cách tùy tiện sự tự do (của phụ nữ), bất kể
trong đời sống riêng tư hay cộng đồng” [4;3].
Nhƣ vậy, bạo lực ngày nay không chỉ là dùng bạo lực làm tổn thƣơng
thân thể, gây thƣơng tích, tàn tật mà còn là sự lăng nhục về tinh thần, là sự
9
xúc phạm danh dự và nhân phẩm ngƣời khác đến mức có thể gây ra những
“sang chấn tâm lý” - tức là bạo hành bằng tinh thần cũng có thể cấu thành
tội phạm hình sự. Bạo lực trong gia đình là một trở ngại cho sự bình đẳng
và là sự vi phạm không thể chấp nhận đƣợc đối với nhân phẩm con ngƣời.
Nó cần đƣợc ngăn chặn vì nó tác động đến khoảng 20% - 50% toàn bộ phụ
nữ trên thế giới.
Các nhà nghiên cứu đã phân ra bạo lực trong gia đình thành hai dạng:
bạo lực nhìn thấy đƣợc và bạo lực không nhìn thấy đƣợc
Bạo lực nhìn thấy được thƣờng là các hành vi về thể chất nhƣ đánh đập,
cƣỡng bức tình dục, sử dụng vũ khí hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, kể cả việc sử
dụng vũ lực vào ý muốn sử dụng các biện pháp tránh thai của ngƣời vợ.
Bạo lực không nhìn thấy được bao gồm việc sỉ nhục, chửi bới, đay
nghiến, thờ ơ, lãnh đạm.
Ngoài ra, còn có nhiều cách phân loại khác nhƣ: bạo lực thể xác, bạo lực
tinh thần, bạo lực tình dục, bạo lực kinh tế...
Trong xã hội, không phải mọi tầng lớp nhân dân đều nhận thức đƣợc vấn
đề này. Một bộ phận ngƣời dân vẫn thừa nhận bạo lực gia đình là cần thiết để
duy trì trật tự, ổn định trên dƣới. Họ cho rằng nhƣ thế mới giữ đƣợc nề nếp,
gia phong. Chính nhận thức đó đã tạo điều kiện cho bạo lực trong gia đình có
xu hƣớng gia tăng.
* Bạo lực gia đình
- Khái niệm: Có nhiều định nghĩa khác nhau về bạo lực gia đình:
Luật gia đình định nghĩa “Bạo lực trong gia đình” bao gồm những hành
vi hay các mối đe dọa của một ngƣời nhắm vào một thành viên khác trong gia
đình hoặc tài sản của họ.
Bạo lực gia đình là ngƣợc đãi bằng tình cảm, thể xác hay tình dục của
thành viên gia đình bằng một thành viên khác (J. hon J, Macionis, 2004).
10
Bạo lực gia đình là hành vi tấn công của một ngƣời (thƣờng là ngƣời đàn
ông) đối với ngƣời khác có quan hệ tình cảm với họ bằng cách dùng vũ lực
hoặc đe dọa dùng vũ lực để kiểm soát ngƣời khác (Domestic ViolenceMagazinen Violence in the family, Australia, 1996).
Bạo lực gia đình là những hành vi gây nên những tổn thƣơng về vật chất
hoặc tinh thần hoặc các thiệt hại về tài sản giữa các thành viên trong gia đình
(Luật đặc biệt về trừng phạt hành vi bạo lực gia đình của Hàn Quốc).
Bạo lực gia đình là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc
có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác
trong gia đình (Luật phòng, chống bạo lực gia đình của Việt Nam).
Nhƣ vậy, bạo lực gia đình đối với phụ nữ: là bạo lực giữa nam giới và
phụ nữ, trong đó nạn nhân thƣờng là phụ nữ và nó bắt nguồn từ các mối quan
hệ bất bình đẳng giữa nam giới và phụ nữ.
- Đặc điểm
Tính xã hội của bạo lực gia đình không chỉ thể hiện ở sự phổ biến và bản
chất bất bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới trong quan hệ gia đình và xã hội,
mà còn ở hậu quả xã hội nghiêm trọng của bạo lực gia đình. Bạo lực gia đình
đe doặ ổn định của gia đình và gây ảnh hƣởng tiêu cực đến tất cả các thành
viên trong gia đình, đẩy trẻ em vào môi trƣờng sống nhiều xung đột, thiếu
hạnh phúc. Bạo lực gia đình cũng ảnh hƣởng tới sự an toàn , lành mạnh của
cộng đồng và trật tự của xã hội. Nó có tác động tiêu cức tới nền kinh tế do là
mất hiệu quả lao độngcủa nạ nhân trong thời gian nghỉ ốm và tốn những chi
phí về điều trị y tế... Do vậy, phòng chông bạo lực gia đình là trách nhiệm của
cả cộng đồng và toàn xã hội.
- Phân loại
Qua một số định nghĩa và tình hình thực tiễn về bạo lực gia đình, ta có
thể hiểu hành vi bạo lực gia đình bao gồm:
11
- Thứ nhất, Bạo lực về thân thể: là những hành vi bạo lực mà ngƣời gây
ra bạo lực thƣờng sử dụng sức mạnh cơ bắp hoặc công cụ gây nên sự đau đớn
về thân thể đối với nạn nhân. Bao gồm: đối xử tồi về thể chất: cấm đoán,
kiểm soát, xô đẩy thô bạo, đánh đập... và bạo lực/ lạm dụng tình dục: là cƣỡng
bức, ép buộc phụ nữ phải làm những công việc liên quan đến tình dục trái với
mong muốn của họ...
- Thứ hai, Bạo lực tinh thần/ tình cảm: là những hành vi nhằm hành hạ
tâm lí và những lời nói sỉ nhục, đe dọa, lãng quên hay không quan tâm...
Những hành vi này không dễ phát hiện và pháp luật khó can thiệp. Bao gồm:
đe dọa, hăm dọa: bằng cách nhìn chằm chằm hoặc bằng các hành động, lời
nói với tính chất đe dọa hoặc khiêu khích... và gán nhãn: là gán cho phụ nữ
những từ thiếu tôn trọng: ngu, điên rồ, vô dụng....
- Thứ ba, Bạo lực tình dục: là các hành vi gây tổn thƣơng về tình dục
đối với phụ nữ và trẻ em. Bao gồm các hành vi nhƣ:cƣỡng ép quan hệ tình
dục, quấy rối tình dục, mua bán phụ nữ và trẻ em …
- Thứ tƣ, bạo lực kinh tế: là các hành động hoặc quyết tâm thực hiện các
hành động để phụ nữ phụ thuộc về tài chính, bao gồm: chiếm đoạt, hủy hoại,
đập phá hoặc có hành vi khác cố ý làm hƣ hỏng tài sản riêng của các thành
viên khác trong gia đình hoặc tài sản chung của các thành viên,…
- Thứ năm, Bạo lực thế hệ: là một hình thức bạo lực bao gồm nhiều thế
hệ nhƣ: chồng - vợ, bố - con, ông - cháu, cháu - bà,…bao gồm các hành vi
đánh đập, đe dọa, khiêu khích…hoặc hành hạ về mặt tinh thần…
- Thứ sáu, Bạo lực giới: đƣợc dùng để chỉ các hành vi chống lại phụ nữ
vì giới tính của họ. Sở dĩ chúng ta sử dụng từ “bạo lực giới” vì đa số nạn nhân
là phụ nữ và đa số ngƣời sử dụng bạo lực là nam giớigần gũi, thân thiết với
nạn nhân.
12
1.2 Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
về bình đẳng giới
Nền tảng lí luận của quan niệm về bình đẳng giới xuất phát từ các nghiên
cứu của Mác và Ph.Ăngghen về gia đình và chế độ tƣ hữu trong thời kì tƣ bản
chủ nghĩa. Quan điểm của các ông không chỉ đánh giá một cách khác quan và
khoa học về những nguyên nhân dẫn đến sự lệ thuộc của ngƣời phụ nữ trong
gia đình và ngoài xã hội mà còn gợi ra những hƣớng đi căn bản để giải phóng
phụ nữ.
Trên cơ sở lí luận của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, vấn
đề bình đẳng giới đã đƣợc Đảng ta coi trọng ngay từ những ngày đầu thành
lập. Luận cƣơng chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dƣơng đƣợc thông qua
tại Hội nghị Trung ƣơng lần thứ nhất (tháng 10 năm 1930) đã nêu: nam nữ
bình quyền là một trong những nhiệm vụ của cách mạng Đông Dƣơng. Đảng
và nhà nƣớc ta cụ thể hoá đề ra nhiều chủ trƣơng, chính sách, chƣơng trình
tạo điều kiện để phụ nữ tham gia vào công tác xã hội. Nghị quyết số: 04NQ/TW, ngày 12/7/1993 của Bộ chính trị ban hành về “Đổi mới và tăng
cƣờng công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới”; Chỉ thị số: 37-CT/TW
ngày 16/5/1994 của Ban Bí thƣ Trung ƣơng Đảng về “Một số vấn đề công tác
cán bộ nữ trong tình hình mới”. Từ những quan điểm chỉ đạo trên, trong văn
kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, có nêu: “Thiết thực chăm lo sự bình
đẳng về giới, sự tiến bộ của phụ nữ”. Thủ tƣớng Chính phủ đã ký quyết định
số: 19/2002/QĐ-TTg phê duyệt “Chiến lƣợc quốc gia vì sự tiến bộ phụ nữ đến
năm 2010” và Nghị định số:19/2003/NĐ-CP ngày 7/3/2003 của Chính phủ:
Quy định trách nhiệm của các cơ quan nhà nƣớc trong việc tạo điều kiện
thuận lợi cho Hội phụ nữ tham gia quản lý nhà nƣớc về các vấn đề có liên
quan đến quyền và lợi ích của phụ nữ, trẻ em. Trong Chiến lƣợc quốc gia vì
sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2010, Chính phủ đã đề ra mục tiêu
13
tổng quát về bình đẳng giới: “Nâng cao chất lƣợng đời sống vật chất và tinh
thần của phụ nữ, tạo mọi điều kiện cần thiết để thực hiện các quyền cơ bản
của phụ nữ, để họ tham gia và hƣởng lợi đầy đủ và bình đẳng trong mọi lĩnh
vực của đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội”. Từ mục tiêu tổng quát
đƣợc cụ thể hoá thành các mục tiêu cụ thể cho từng lĩnh vực, trong đó có mục
tiêu “Nâng cao chất lƣợng và hiệu quả hoạt động của phụ nữ trên các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội” để tăng số lƣợng phụ nữ đƣợc giới thiệu và
bầu vào các cơ quan dân cử, tham gia lãnh đạo, quản lý, ở các cấp các ngành
trong cả nƣớc…
Xuyên suốt quan điểm của Đảng về vấn đề phụ nữ là những luận điểm
của chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò của phụ nữ, về nhiệm vụ của cách mạng
Việt Nam và các biện pháp tiến tới bình đẳng giới. Một trong những luận
điểm quan trọng về giải phóng phụ nữ là phụ nữ đƣợc nhìn nhận nhƣ một lực
lƣợng của cách mạng, lực lƣợng lao động to lớn để xây dựng chủ nghĩa xã
hội: “Phải đặc biệt chú ý đến sức lao động của phụ nữ, phụ nữ là đội quân
lao động rất đông” [27;64].
Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về vấn đề bình đẳng giới không chỉ là những nội
dung lí luận quan trọng mà còn là những gợi ý cụ thể về các biện pháp nhằm
xây dựng các mối quan hệ bình đẳng giữa giới trong gia đình và xã hội. Các ý
kiến của Bác đặc biệt còn giữ nguyên giá trị đối với các vấn đề hôm nay về
quan niệm bình đẳng và con đƣờng đi tới bình đẳng. Bác cho rằng: “Nhiều
người lầm tưởng đó là một việc dễ, chỉ hôm nay anh nấu cơm, rửa bát, quét
nhà, hôm sau em quét nhà, nấu cơm, rửa bát thế là bình đẳng, bình quyền.
Lầm to! Đó là một cuộc cách mạng to và khó. Vì trọng trai, khinh gái là một
thói quen mấy nghìn năm để lại. Vì nó ăn sâu vào óc của mọi người, mọi gia
đình, mọi tầng lớp xã hội. Vì không dùng vũ lực mà đấu tranh được” [27;31].
Vậy đối tƣợng của cuộc đấu tranh này là gì? Bác nhấn mạnh: “...Giải
14
phóng người đàn bà đồng thời phải tiêu diệt tư tưởng phong kiến, tư tưởng tư
sản trong người đàn ông” [11;499]. Rõ ràng là, nếu các biện pháp tiến tới
bình đẳng nam nữ chỉ dừng lại hoặc chỉ tập trung vào việc giáo dục và động
viên giới nữ nói chung và từng nhóm phụ nữ nói riêng thì chƣa đủ. Mục tiêu
không kém phần quan trọng trọng cuộc đấu tranh này là thay đổi nhận thức,
khắc phục định kiến và tƣ tƣởng coi thƣờng phụ nữ ở nam giới.
Về phƣơng pháp đấu tranh nhằm giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng
giới, Bác chỉ rõ là không thể dùng vũ lực và lĩnh vực khó khăn nhất của sự
nghiệp này là phấn đấu đạt bình quyền, bình đẳng trong gia đình....
Nhƣ vậy, quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về bình đẳng giới thể
hiện một cách rõ ràng mục tiêu cần đạt cũng nhƣ phƣơng thức và biện pháp
cần có để thực hiện bình quyền và bình đẳng. Đây là một trong những nội
dung tƣ tƣởng Hồ Chí Minh cần đƣợc cán bộ Đảng viên và các cấp các ngành
nhận thức một cách đầy đủ và vận dụng một cách linh hoạt và sâu sắc hơn
nữa trong giai đoạn hiện nay của cách mạng Việt Nam.
Nhƣ chúng ta đã thấy, trong các chủ trƣơng của Đảng và chính sách của
Nhà nƣớc, đã có rất nhiều biện pháp cụ thể để thực hiện quyền giải phóng và
bình đẳng cho phụ nữ. Nhƣng còn có quá ít những văn bản cụ thể cùng các
biện pháp thực tế để từng bƣớc thủ tiêu tƣ tƣởng phong kiến, tƣ tƣởng tƣ sản
trong ngƣời đàn ông. Do thực tiễn nƣớc ta còn nghèo, còn nhiều khó khăn và
trở ngại trong việc thực hiện các chính sách về cán bộ nữ ở nhiều cấp ủy Đảng
và quản lý Nhà nƣớc; hiện tƣợng bạo lực gia đình đối với phụ nữ…
Nhƣ vậy, tƣ tƣởng của chủ tịch Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng
Cộng sản Viêt Nam là sự nối tiếp và cụ thể hóa các quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin về bình đẳng giới. Và quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh cho
ta thấy tính chất lâu dài và khó khăn của cuộc đấu tranh vì quyền bình đẳng
15
và sự cần thiết phải tập trung vào việc thay đổi nhận thức xã hội, giải phóng
phụ nữ và xóa bỏ tƣ tƣởng phong kiến, tƣ sản của đàn ông.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về giải phóng phụ nữ và thực hiện nam
nữ bình đẳng là cơ sở lí luận, là nền tảng tƣ tƣởng để Đảng và Nhà nƣớc ta đề
ra phƣơng hƣớng, giải pháp, nhằm xóa bỏ triệt để tình trạng bạo lực đối với
phụ nữ trong gia đình.
16
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG BẠO LỰC ĐỐI VỚI PHỤ NỮ TRONG GIA ĐÌNH
Ở VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.1. Khái quát về tình hình tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc - cửa ngõ Tây Bắc của Thủ đô Hà Nội, thuộc vùng Châu thổ
sông Hồng là một trong 8 tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc.
Phía Tây Bắc giáp tỉnh Tuyên Quang;
Phía Đông Bắc giáp tỉnh Thái Nguyên;
Phía Đông Nam giáp Thủ đô Hà Nội;
Phía Nam giáp tỉnh Hà Tây;
Phía Tây giáp tỉnh Phú Thọ.
Vĩnh Phúc nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình hàng
năm 24,20C, diện tích tự nhiên khoảng 1.371 km2, dân số gần 1, 2 triệu ngƣời.
Tỉnh có 152 xã, phƣờng, thị trấn thuộc 9 đơn vị hành chính gồm: thành phố
Vĩnh Yên (là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của tỉnh), thị xã Phúc Yên
và 7 huyện là Mê Linh, Bình Xuyên, Yên Lạc, Vĩnh Tƣờng, Tam Dƣơng,
Tam Đảo, Lập Thạch.
Trong những năm qua, thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng và Nhà
nƣớc lãnh đạo, toàn tỉnh đã đạt đƣợc nhiều thành tựu quan trọng trên nhiều
lĩnh vực: kinh tế tăng trƣởng cao, các lĩnh vực văn hóa xã hội có nhiều
chuyển biến tích cực, an ninh chính trị đƣợc giữ vững, đời sống của nhân dân
nói chung, phụ nữ nói riêng đƣợc cải thiện và ngày càng đƣợc nâng cao cả về
vật chất lẫn tinh thần với những kết quả cụ thể (Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh
Phúc: Báo cáo: Tình hình kinh tế - xã hội năm 2013 và Kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội năm 2014):
Tình hình kinh tế:
Sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản năm 2013 vƣợt qua khó
khăn, tăng trƣởng khá so với năm 2012.
17
- Trong nông nghiệp: Vƣợt qua khó khăn tiếp tục phát triển và đạt nhiều
kết quả khá. Cơ cấu cây trồng, vật nuôi đƣợc chuyển đổi phù hợp với quy
hoạch, đề án và các dự án của ngành. Trong những năm gần đây, các cấp lãnh
đạo tỉnh Vĩnh Phúc rất chú trọng đến phát triển nông nghiệp, tạo việc làm cho
nhiều lao động.
- Trong sản xuất công nghiệp: năm 2013 có sự tăng trƣởng khá so với năm
2012 ở tất cả các khu vực: khu vực Nhà nƣớc tăng 11,6%, ngoài Nhà nƣớc tăng
7,8%, khu vực FDI tăng 12%. Giá trị sản xuất công nghiệp (giá so sánh năm
2010) tăng 11,3% so với năm 2012 và bằng 106,4% kế hoạch. Giá trị sản xuất
ngành Xây dựng (theo giá so sánh năm 2010) giảm 0,6% so với năm 2012.
- Trong dịch vụ năm 2013 hầu hết các ngành dịch vụ có sự tăng trƣởng
so với năm 2012 nhƣng vẫn còn ở mức thấp. Trong hoạt động thƣơng mại thì
thị trƣờng hàng hóa và dịch vụ cơ bản đƣợc ổn định, công tác quản lí thị
trƣờng đƣợc tăng cƣờng. Hoạt động xuất khẩu tăng cao mặc dù kinh tế trong
và ngoài nƣớc vẫn gặp nhiều khó khăn, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 1.031
triệu USD tăng 54,9% so với cùng kỳ năm 2012 và bằng 125,9% kế hoạch.
Dịch vụ vận tải gặp nhiều khó khăn nhƣng doanh thu vận tải, kho bãi và dịch
vụ hỗ trợ vận tải tăng 12,6% so với năm 2012. Tổng doanh thu du lịch đạt
776,1 tỉ đồng, tăng 3% so với năm 2012.
- Trong đầu tƣ phát triển: năm 2013 đƣợc đẩy mạnh, kết cấu hạ tầng kinh
tế xã hội đƣợc tăng cƣờng, bộ mặt đô thị và nông thôn ngày càng đƣợc đổi mới.
Ƣớc tính tổng vốn đầu tƣ xã hội năm 2013 trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đạt
14,211 tỉ đồng, tăng 0,4% so với năm 2012 và đạt 106,1% so với kế hoạch.
Tình hình chính trị
Vấn đề quốc phòng - an ninh, trật tự an toàn xã hội đƣợc đảm bảo. Lực
lƣợng công an đã triển khai đồng bộ các biện pháp nắm chắc tình hình, chủ
động thực hiện các nhiệm vụ đảm bảo an ninh, chính trị ổn định, trật tự an
toàn xã hội đƣợc giữ vững. Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc đƣợc
đẩy mạnh, duy trì.
18
Tình hình văn hóa - xã hội:
- Sự nghiệp giáo dục, khoa học công nghệ, văn hóa xã hội, y tế có bƣớc
chuyển biến đáng kể về quy mô và chất lƣợng đào tạo. Đầu tƣ cho giáo dục
đào tạo đƣợc chú trọng, quy mô giáo dục ngày càng đƣợc mở rộng, chất
lƣợng giáo dục ngày càng ổn định ở mức cao.
- Khoa học công nghệ - tài nguyên và môi trƣờng tiếp tục đƣợc quan
tâm, góp phần thiết thực phục vụ sản xuất và đời sống:
+ Các đề tài, dự án bƣớc đầu đã đổi mới theo hƣớng tập trung, lấy hiệu
quả thực tế làm tiêu chí đánh giá và tuyển chọn.
+Tiềm lực khoa học công nghệ bƣớc đầu đƣợc tập trung đầu tƣ vào các
lĩnh vực y tế, giáo dục, đào tạo nghề để nâng cao hiệu quả đầu tƣ.
+ UBND tỉnh chỉ đạo các cấp, các ngành tăng cƣờng quản lí nhà nƣớc về
đất đai trên địa bàn.
+ Công tác quản lý khai thác khoáng sản có nhiều chuyển biến tích cực.
+ Quản lí nhà nƣớc về bảo vệ môi trƣờng tiếp tục đƣợc chú trọng, việc
triển khai các chƣơng trình, dự án về môi trƣờng đƣợc đẩy mạnh ở cả khu vực
đô thị và gắn với việc xây dựng nông thôn mới.
- Hoạt động văn hóa - thể thao,phát thanh và truyền hình đƣợc duy trì, ổn
định và phát triển. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân và phòng chống
dịch bệnh đƣợc quan tâm thƣờng xuyên.
- Tuy nhiên, bên cạnh đó còn những vấn đề bức xúc mà xã hội chƣa ngăn
chặn kịp thời: giáo dục đào tạo còn hạn chế, đời sống một bộ phận nhân dân còn
khó khăn, kết quả giảm nghèo chƣa thật bền vững và có nguy cơ tái nghèo...
Vĩnh Phúc là một tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, đang trên
đà chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phấn đấu để trở thành tỉnh công nghiệp.
Chính vì vậy, đời sống vật chất và tinh thần của ngƣời dân Vĩnh Phúc ngày
càng đƣợc nâng cao. Tuy nhiên, Vĩnh Phúc vốn là một tỉnh thuần nông, chịu
ảnh hƣởng của tƣ tƣởng văn hóa Nho giáo, Phật giáo. Nên những tàn dƣ của
hệ tƣ tƣởng phong kiến vẫn còn tồn tại ở nhiều địa phƣơng, trong nhiều gia
19