Tải bản đầy đủ (.docx) (57 trang)

Khoá luận tốt nghiệp vấn đề bạo lực gia đình đối với phụ nữ tỉnh vĩnh phúc từ 2008 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (353.98 KB, 57 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

NGUYỄ N THỊ KIÈU TRANG

VẤN ĐÈ BẠO Lực GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI
PHỤ NỮ TỈNH VĨNH PHÚC TỪ 2008 ĐẾN
NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội

HÀ NỘI, 2015


TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

NGUYẺ N THỊ KIỀU TRANG

VẤN ĐÈ BẠO Lực GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI
PHỤ NỮ TỈNH VĨNH PHÚC TỪ 2008 ĐẾN
NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC


•••

Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội

Ngưòi hướng dẫn khoa học ThS. Chu Thị Diệp


HÀ NỘI, 2015

Đối với bản thân tôi, khoá luận này là quá trình đáng quý. Đe có thể hoàn
thành được khoá luận này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ rất nhiều của các thầy cô,
bạn bè và gia đình.
Tôi xin được gửi lời cảm ơn đến Ban Giám hiệu, các thầy cô trong khoa Giáo
dục chính trị,trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, gia đình, bạn bè đã tạo điều kiện
tốt nhất giúp đỡ tôi để hoàn thành khoá luận tốt nghiệp này.


TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

Tôi xin được gửi lời cảm ơn tới lãnh đạo các Sở, Ban ngành Tỉnh Vĩnh Phúc,
ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc, Sở Văn hóa tỉnh Vĩnh Phúc, Hội Liên hiệp phụ nữ
tỉnh Vĩnh Phúc, Thư viện tỉnh Vĩnh Phúc, úy ban nhân dân huyện Vĩnh Tường,
Phòng Văn hóa huyện Vĩnh Tường, Hội Liên hiệp phụ nữ huyện Vĩnh Tường, Hội
Liên hiệp phụ nữ huyện Yên Lạc đã giúp đỡ, cung cấp những số liệu, tài liệu tham
khảo cho khóa luận.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến TH.S Chu Thị Diệp người đã tận
tình chỉ bảo, giúp đỡ tôi nghiên cứu và hoàn thiện khoá luận tốt nghiệp này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội ngày thảng 05 năm 2015 Sinh viên

Nguyễn Thị Kiều Trang

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân tôi. Các vấn đề
nghiên cứu nêu trong khoá luận là trung thực, chính xác và chưa được công bố
trong bất kì một công trình nào khác.
Hà Nội ngày thảng 05 năm 2015 Sinh viên



TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

Nguyễn Thị Kiều Trang


DANH MỤC NHỮNG TỪ VIÉT TẮT
CLB:
CNH - HĐH:
PCBLGĐ:
Tư:
ƯBND:
VH - TT:

Câu lạc bộ
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Phòng chống bạo lực gia đình
Trung ương ửy ban nhân dân Văn
hóa - Thông tin.


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

1


MỎ ĐÀU

1. Lí do chọn đề tàỉ
Quyền con người đã từng là vấn đề xuyên suốt của các cuộc đấu tranh giai
cấp, đấu tranh dân tộc trong lịch sử. Đen nay nó vẫn là một trong những vấn đề
nổi bật của thời đại.
Vấn đề quyền con người, trước hết là quyền của mỗi cá nhân, quyền được
khẳng định mình là một chủ thể với những quyền lợi, nghĩa vụ như mọi người
khác. Trong lịch sử loài người đã từng tồn tại chế độ phụ quyền, trong đó phụ nữ
đã từng bị hạn chế hoặc bị tước đoạt quyền con người cơ bản. Hiện nay, phụ nữ
chiếm một nửa dân số thế giới, là một lực lượng lao động lớn góp phần rất quan
trọng vào việc xây dựng gia đình và phát triển đất nước, thúc đấy sự tiến bộ và
phồn vinh trên trái đất. Nhưng trên thực tế, chưa có một nước nào mà ở đó phụ
nữ thực sự được hoàn toàn bình đẳng, chị em phụ nữ luôn luôn phải chịu nhiều
thiệt thòi hơn so với nam giới.
Trong điều 24, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
1959 có ghi: “Phụ nữ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có quyền bình đẳng với
nam giới về mặt sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình”. Quyền
của phụ nữ tiếp tục được khắng định trong Hiến Pháp năm 1980, 1992 và tại các
kì Đại hội đại biểu toàn quốc.
Trên thực tế, Ngân hàng thế giới tại Việt Nam (1999) khi nghiên cứu về vấn
đề này đã đưa ra 1 con số đáng lo ngại: Tỷ lệ phụ nữ là nạn nhân của bạo lực
trong gia đình dưới nhiều hình thức khác nhau chiếm từ 40% đến 80%. Nó tác
động tới khoảng 20% - 50% phụ nữ trên thế giới. Bạo lực trong gia đình còn đế
lại những thiệt hại nặng nề về vật chất, tinh thần cho nạn nhân, nhũng người xung
quanh và cho toàn xã hội.
Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, cuộc sống tinh thần của con người cũng
ngày càng được cải thiện, đặc biệt sự bình đắng về giới, quan hệ vợ chồng trong

7



gia đình được nhìn nhận trên nhiều khía cạnh tích cực hơn. Tuy nhiên, vẫn còn
tồn tại nhiều vấn nạn trong đó có bạo lực gia đình, nó không chỉ làm đau đầu các
cơ quan chức năng mà còn làm tố ấm gia đình mất đi nền tảng vốn có của nó.
Gia đình là tế bào của xã hội, là nơi chứa chan niềm vui, sự nồng ấm, nhũng
giây phút thiêng liêng, nơi mỗi chúng ta tìm về sau những tháng ngày vất vả và
xa cách, gia đình có vững xã hội mới mạnh. Tình trạng bạo lực trong gia đình vẫn
còn và ngày càng gia tăng thì nguy cơ gia đình tan vỡ là điều không tránh khỏi.
Đặc biệt, ở Việt Nam đang trong thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội thì vấn đề
này cần phải được quan tâm nghiên cứu và đưa ra giải pháp để khắc phục triệt đế
tình trạng này. cần phải nghiên cứu thực trạng ở từng cơ sở, địa phương để đưa ra
giải pháp phù họp với đặc điểm của địa phương đó. Tỉnh Vĩnh Phúc tuy chưa có
những nghiên cứu chuyên sâu để có thể hình dung một bức tranh tổng thể và toàn
diện về tình trạng bạo lực gia đình đối với phụ nữ, nhưng cũng không thể nằm
ngoài tình trạng chung của cả nước và thế giới. Theo báo cáo của Tòa án tỉnh
Vĩnh Phúc từ năm 2005 - 2010 qua hai cấp xét xử số vụ ly hôn là 4632 vụ án, giải
quyết được 4368 vụ, trong đó phụ nữ là nguyên đơn chiếm trên 50%. Nguyên
nhân chủ yếu là do mâu thuẫn gia đình: chồng ngoại tình, cờ bạc, rượu chè, đánh
đập, ngược đĩa vợ... Từ những lí do trên tác giả chọn đề tài: “Vấn đề bạo lực gia
đình đối với phụ nữ tỉnh Vĩnh Phúc từ 2008 đến nay99 làm đề tài cho khoá luận
tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu
Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí Minh ngay từ đầu đã giành nhiều tâm huyết
trong việc đề ra chủ trương, đường lối, chính sách nhằm giải phóng phụ nữ, thực
hiện bình đẳng nam nữ. Trong luật pháp, Hiến pháp và nhiều văn kiện của Đảng
có rất nhiều quy định liên quan đến vấn đề này.
Gần đây, nhiều cuộc hội thảo đã đi vào khía cạnh khác nhau về vai trò của
phụ nữ, điến hình như. Trong hai ngày 3 - 4/12/2012, tại TP Đà Nang, Trung

8



ương Hội Nông dân Việt Nam phối hợp với Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tổ
chức Hội thảo “Giải quyết mất cân bằng giới tính khi sinh, chăm sóc phát triển
vai trò người cao tuổi và phòng, chống bạo lực gia đình”. Hội thảođã tập trung
thảo luận, tìm giải pháp giảm tỷ lệ mất cân bằng giới tính khi sinh đối với các xã
vùng ven biển và đầm phá; hỗ trợ vốn, giải quyết việc làm,
dạy nghề cho phụ nữ......; chế độ an sinh xã hội cho người cao tuổi; tăng cường
công tác kiểm tra, giám sát đối với các cơ sở y tế tư nhân...
Bên cạnh đó còn có những công trình là sách; những công trình ở các trung
tâm nghiên cứu về phụ nữ và các công trình là báo, tạp chí như:


Nhóm công trình là sách:
-

Cuốn “Bạo lực gia đình - một sự sai lệch giá trị” của Lê Thị Quý - Đặng
Vũ Cảnh Linh, NXB khoa học xã hội, Hà Nội, 2007. Tác phẩm là những
bài học kinh nghiệm của Việt Nam trình bày về phòng chống bạo lực gia
đình từ ý tưởng khoa học đến mô hình thử nghiệm, các mô hình hoạt động
ngăn chặn bạo lực gia đình tại địa phương.
-Cuốn “Bình đẳng giới ở Việt Nam” của Trần Thị Vân AnhNguyễn Hữu Minh (chủ biên), NXB khoa học xã hội, Hà Nội, 2008: Tác

phấm nghiên cứu cơ bản về giới, gia đình và phụ nữ của Việt Nam; kết hợp
nghiên cứu với đào tạo trong lĩnh vực giới, gia đình và phụ nữ...
-

Cuốn “Bình đằng giới trong pháp luật Việt Nam” của Đại sứ quán Phần
Lan Hà Nội và các tác giả khác, NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội, 2008:
Tổ chức hợp tác quốc tế về nghiên cứu và đào tạo, trao đổi thông tin khoa
học với các cơ quan trong nước và nước ngoài quản lý tư liệu, thư viện

của Viện; xuất bản các ấn phẩm khoa học; phổ biến các kết quả nghiên
cứu khoa học và các kiến thức khoa học về giới, gia đình và phụ nữ trong
và ngoài nước...

* Nhóm công trình là nhũng công trình ở các trung tâm nghiên cứu về
phụ nữ như:

9


-

Công trình “Gia đình Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới đất nước và vấn
đề xây dựng con người” (2005) của PGS, TS Lê Thị Quý. Công trình này
nghiên cứu rất sâu về những biến đối trong đời sống gia đình Việt Nam.

-

Công trình “Đánh giá sự tiến bộ của phụ nữ từ 1985 - 1995” (1995), của
PGS, TS Lê Thị Quý. Trong công trình này tác giả đã tìm hiểu rất kĩ về
những tiến bộ của phụ nữ Việt Nam giai đoạn 1985 - 1995.

-

Công trình khoa học cấp nhà nước về vai trò của phụ nữ trong gia đình:
“Phụ nữ và bình đắng giới ở Việt Nam” của GS Lê Thi. Trong nghiên cún
của mình, GS Lê Thi đã đề cập rất nhiều đến vai trò của người phụ nữ
trong gia đình. Từ vai trò quan trọng đó, GS Lê Thi đã vạch ra những giải
pháp chủ yếu nhằm giải phóng phụ nữ. Là những luận văn, luận án bước
đầu nghiên cứu phụ nữ và gia đình theo phương án tiếp cận giới. Đây

cũng là tài liệu tham khảo vô cùng quý giá giúp tôi hoàn thành khóa luận
tốt nghiệp của mình.
* Nhóm công trình là báo, tạp chí:
- “Con ơi về với mẹ” (2014) của Lê Nga, báo Thanh niên số 413, tr.49

-

Lê Thi (2006), Vấn đề dân số và bình đẳng giới ở Việt Nam, Tạp chí Khoa
học về phụ nữ, (số 4).

-

Nguyễn Hữu Minh (2006), Bạo lực chồng đối với vợ ở Việt Nam trong
những năm gần đây, Tạp chí Khoa học về phụ nữ...
Tuy nhiên ở nước ta hiện nay, một trong những vấn đề đang gây bức xúc

trong dư luận là tình trạng bạo lực gia đình đối với phụ nữ. Đây là một vấn đề có
tính chất phức tạp và được biểu hiện ở từng vùng miền, địa phương trong cả
nước. Những nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này ở từng địa phương còn ít,
nhũng giải pháp đưa ra còn chung chung chưa mang tính khả thi. Vì vậy, việc
tiếp tục có những nghiên cứu về lĩnh vực này là vẫn cần thiết và có ý nghĩa.
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu

1
0


Khóa luận tập trung nghiên cứu vấn đề: Bạo lực gia đình đối với phụ nữ trên
địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc từ 2008 đến nay.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cún

*Mục đích nghiên cún
Trên cơ sở những quan điếm lí luận về giải phóng phụ nữ, khóa luận đã làm
rõ thực trạng và đưa ra giải pháp khắc phục tình trạng bạo lực gia đình đối với
phụ nữ trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc nhằm giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đắng
nam nữ đáp ứng nhu cầu xây dựng Vĩnh Phúc giàu đẹp, văn minh.
*Nhiệm vụ
Đe đạt được mục tiêu trên, khóa luận tập trung giải quyết những nhiệm vụ:
-

Trình bày hệ thống cơ sở lí luận về vấn đề bình đắng giới, giải phóng phụ
nữ.

-

Làm rõ thực trạng vấn đề bạo lực đối với phụ nữ trong gia đình trên địa
bàn tỉnh Vĩnh Phúc.

-

Đưa ra những giải pháp chủ yếu nhằm xóa bỏ tình trạng bạo lực đối với
phụ nữ trong gia đình ở tỉnh Vĩnh Phúc.

5. Phương pháp nghiên cửu
Đe tài sử dụng phương pháp: Lôgic - lịch sử, phân tích - tống hợp, điều tra,
so sánh... trên cơ sở sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và phương
pháp luận duy vật lịch sử.
6. Đóng góp của đề tàỉ
Đe tài góp phần làm rõ thực trạng bạo lực đối với phụ nữ trong gia đình ở
tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn hiện nay. Từ đó đề xuất những giải pháp nhằm
khắc phục, tiến tới xóa bỏ tình trạng này.

7. Kết cấu bài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khoá luận có kết
cấu 3 chương; 8 tiết.

1
1


Chương 1
MỘT SỐ QUAN ĐIÉM co BẢN VỀ BẠO Lực ĐỐI VỚI PHỤ NỮ
TRONG GIA ĐÌNH
1.1.

Một số khái niệm

Gia đình là tế bào của xã hội - là tập hợp những người gắn bó với nhau do
hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các
nghĩa vụ và quyền lợi giữa họ với nhau. Có thể nói, gia đình được coi là nơi bình
yên nhất của con người, là nơi con người được choa sẻ và yêu thương, là nơi tiếp
sức cho con người có nghị lực để vượt qua những áp lực trong công việc và các
thử thách hay khó khăn bên ngoài xã hội. Quan hệ gia đình giữa chồng và vợ, cha
mẹ và con cái, anh chị em với nhau là quan hệ tình cảm thiêng liêng và ấm áp. Từ
trước đến nay, gia đình luôn được coi là tố ấm, là nơi thỏa mãn những nhu cầu
tình cảm và vật chất của các thành viên, bảo vệ họ trước những căng thẳng trong
cuộc sống. Thế nhưng, sự xuất hiện ngày càng mạnh mẽ của hiện tượng bạo lực
gia đình, bất bình đẳng giới đã làm cho rất nhiều thành viên trong gia đình rơi
vào trạng thái bất ổn, hạnh phúc của mỗi gia đình bị lung lay.
Tình trạng bất bình đẳng giới trong gia đình đang còn tồn tại ở rất nhiều
quốc gia, dân tộc trên thế giới trong đó có Việt Nam. Chúng ta sẽ cùng đi tìm
hiểu một số khái niệm cơ bản liên quan đến bạo lực gia đình và bất bình đắng

giới:
1.1.1. Bình đẳng và bình đẳng giói
* Bình đẳng
- Theo các từ điển
Theo từ điển Tiếng Việt: “Bình đẳng ỉà sự ngang nhau về quyền lợi và địa
vị” [19;65].

1
2


Theo từ điển Chủ nghĩa Xã hội khoa học: “Bình đẳng là những điều kiện và
những khả năng ngang nhau đối với việc tự do phát trỉến năng lực và thoả mãn
các nhu cầu của tất cả các thành viên trong xã hội, địa vị như nhau của mọi
người trong xã hội. Bình đắng được hiếu khác nhau trong các thời đại khác nhau
” [22; 10].
Theo từ điến Triết Học cho rằng: “Bình đắng là khái niệm nói lên vị trí như
nhau của con người trong xã hội, nhưng lại có một nội dung khác nhau trong
những thời đại lịch sử khác nhau và ở những giai cấp khác nhau...Sự bình đắng
hoàn toàn chỉ được tạo ra dưới chủ nghĩa cộng sản. Nhưng sự bình đắng của
cộng sản chủ nghĩa không có nghĩa ỉà một sự san bằng nào đó đối với tất cả mọi
người, mà ngược lại, nó mở ra những khả năng vô hạn cho môi người tự do phát
trỉến nhũng năng lực và nhu cầu của mình, tương xủng với những phẩm chất và
năng khiếu cả nhân”}2]
Như vậy, Bình đẳng là sự ngang bằng nhau về các cơ hội hoặc lợi ích đối
với những cá nhân khác nhau trong một nhóm hoặc nhiều nhóm xã hội.
-

Bình đẳng giới
Bình đắng giới hay nói cách khác chính là bình đắng nam nữ. Đó là ước mơ,


cũng chính là mục tiêu của nhiều quốc gia trong quá trình phát triển. Mỗi chúng
ta đều biết, phụ nữ chiếm gần nửa dân số thế giới. Trong lịch sử đấu tranh của
các dân tộc, họ đã có những đóng góp vô cùng to lớn để giành và giữ nền độc lập
cho quê hương, đất nước... Trong lịch sử Việt Nam đã có biết bao nữ anh hùng hi
sinh thân mình vì độc lập, tự do của Tố quốc: Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Võ Thị
Sáu,... Với tinh thần: “Giặc đến nhà đàn bà cũng đảnh” [5; 12], họ đã chiến đấu
ngoan cường tới giây phút cuối cùng. Còn trong gia đình họ luôn là những người
vợ, người mẹ đảm đang, chịu thương, chịu khó... Mặc dù vậy, trên thực tế chưa
có nước nào phụ nữ được hoàn toàn bình đẳng. Tình trạng này đặc biệt niều ở các
nước đang phát triển và chậm phát triển. Giải phóng phụ nữ, thực hiện triệt để

1
3


các quyền bình đẳng nam nữ, đó là mơ ước từ bao đời và là mục tiêu đấu tranh
của bao thế hệ phụ nữ. Trước nguyện vọng cháy bỏng đó, Liên Hợp Quốc ngay
từ khi thành lập đã quan tâm đến vấn đề bình đắng nam nữ. Hiến chướng của
Liên Hợp Quốc tuyên bố: “Các dân tộc hợp thành Liên Hợp Quốc kiên quyết
khắng định lại niềm tin vào các quyền cơ bản của con người, vào phấm giả của
con người, vào các quyền bình đắng giữa các nước lớn cũng như nhỏ ” [4;54],
tiếp theo đó là hàng loạt các văn bản, điều khoản quy định về vấn đề này.
Bất bình đắng giới có nguồn gốc xâu xa trong lịch sử, nó xuất hiện ngay
trong xã hội loài người từ khi có sự chuyển đổi từ chế độ mẫu hệ sang chế độ
phụ hệ trên phạm vi toàn cầu và khi xác lập quyền tư hữu. Sự áp đặt về giới đã
mang tính vô hình từ nhiều thế kỉ nay: “Cỏ lẽ trong ba hình thức bất bình đắng
lớn nhất của lịch sử nhân loại (bất bình đắng chủng tộc, bất bình đắng giai cấp,
bất bình đắng giới) thì bất bình đắng giới chính là nguồn gốc đích thực (về mặt
lịch sử-xã hội) của mâu thuân cơ bản, chủ yếu trong quan hệ vợ chồng. Những

nhu cẩu, ỉợỉ ích cả nhân không được đáp ứng trong hôn nhân dần dần trở thành
xung đột xã hội, kẻo theo nhưng hậu quả về mặt tiêu cực xã hộỉ”[\l\2\l
Theo Giáo sư Lê Thi: “Những khác biệt về giới (sex) giữa người đàn ông
và người đàn bà là những đặc điếm tự nhiên của cơ thế con người và chức năng
của nó ỉà bâm sinh và không thay đói” [24;83]. “Giới mà chủng ta xem xét ở
đây là khải niệm khoa học ra đời từ môn nhân loại học, chỉ sự khác biệt gữa nam
và nữ về mặt xã hội
Từ đó, ta có thể hiểu về bình đẳng giới và đi đến kết luận: "Bình đẳng có
nghĩa là các em gái được đến trường học như các em trai, là các cơ hội được mở
ra đối với phụ nữ, là các gia đình nghèo được hưởng lợi từ các hỗ trợ chăm sóc
sức khỏe cho các bà mẹ... Bình đắng cũng có nghĩa là phụ nữ hoàn toàn có quyền
tham gia vào các hoạt động chính trị và ra quyết định... Binh fdang là một quyền
con người đối với phụ nữ mà có thể cải thiện cuộc sống cho tất cả mọi người...

1
4


Bình đắng góp phần chấm dứt nghèo nàn. Bình đắng là một ưu tiên của công
cuộc phát triển... là nền tảng của phát triển" (Liên Hợp Quốc 2005) [4;20].
Những quan điểm về vấn đề bình đẳng giới đó, trước sự biến đối hàng ngày,
hàng giờ của nền kinh tế thị trường mang tính toàn cầu hóa, Nó được thể hiện
khác nhau ở từng quốc gia, dân tộc, khu vực và cũng có sự khác nhau giữa các
tỉnh, thành trong cả nước Việt Nam.
1.1.2.

Bạo lực và bạo lực gia đình







# о

*Bạo lực
Theo từ điến Tiếng Việt: “Bạo lực là một giai cấp (một nhóm chính trị xã
hội) nào đó áp dụng những hình thức cưỡng bức và tước đoạt” [19;41].
Theo từ điển Chủ nghĩa Xã hội khoa học: “Bạo lực là một giai cấp (các
nhóm chính trị xã hội) nào đó áp dụng những hình thức cưỡng bức khác nhau, kế
cả sự tác động vũ trang đối với các giai cấp (các nhóm chính trị xã hội) khác
nhau nhằm mục đích giành lấy hoặc duy trì sự thống trị về kinh tế, chỉnh trị,
những quyền hay đặc quyền khác nhau, đặc lợi” [22; 41].
Theo tạp chí khoa học về phụ nữ: “Bạo lực trong gia đình là tệ ngược đãi
phụ nữ và trẻ em, là hiện tượng có tính pho biến trong mọi tầng lớp dân cư, xảy
ra trên mọi vùng miền ” [4;3].
Theo “Tuyên ngôn về loại trừ bạo lực chống lại phụ nữ” do Đại hội đồng
Liên Họp Quốc thông qua năm 1993: “Bạo lực là bất kì hành động nào dựa trên
cơ sở giới dân đến hoặc có khả năng dân đến những ton thất về thân thế, tình
dục, tâm lí hay những đau khố về phụ nữ, bao gồm sự đe dọa, sự cưỡng bức hay
tước đoạt một cách tùy tiện sự tự do (của phụ nữ), bất kế trong đời sống riêng tư
hay cộng đòng ” [4;3].
Như vậy, bạo lực ngày nay không chỉ là dùng bạo lực làm tốn thương thân
thể, gây thương tích, tàn tật mà còn là sự lăng nhục về tinh thần, là sự xúc phạm
danh dự và nhân phẩm người khác đến mức có thể gây ra những “sang chấn tâm

1
5



lý” - tức là bạo hành bằng tinh thần cũng có thể cấu thành tội phạm hình sự. Bạo
lực trong gia đình là một trở ngại cho sự bình đắng và là sự vi phạm không thể
chấp nhận được đối với nhân phẩm con người. Nó cần được ngăn chặn vì nó tác
động đến khoảng 20% - 50% toàn bộ phụ nữ trên thế giới.
Các nhà nghiên cứu đã phân ra bạo lực trong gia đình thành hai dạng: bạo
lực nhìn thấy được và bạo lực không nhìn thấy được
Bạo lực nhìn thấy được thường là các hành vi về thể chất như đánh đập,
cưỡng bức tình dục, sử dụng vũ khí hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, kể cả việc sử
dụng vũ lực vào ý muốn sử dụng các biện pháp tránh thai của người vợ.
Bạo lực không nhìn thấy được bao gồm việc sỉ nhục, chửi bới, đay nghiến,
thờ ơ, lãnh đạm.
Ngoài ra, còn có nhiều cách phân loại khác như: bạo lực thế xác, bạo lực
tinh thần, bạo lực tình dục, bạo lực kinh tế...
Trong xã hội, không phải mọi tầng lớp nhân dân đều nhận thức được vấn đề
này. Một bộ phận người dân vẫn thừa nhận bạo lực gia đình là cần thiết để duy trì
trật tự, ổn định trên dưới. Họ cho rằng như thế mới giữ được nề nếp, gia phong.
Chính nhận thức đó đã tạo điều kiện cho bạo lực trong gia đình có xu hướng gia
tăng.
* Bạo lực gia đình
- Khái niệm: Có nhiều định nghĩa khác nhau về bạo lực gia đình:
Luật gia đình định nghĩa “Bạo lực trong gia đình” bao gồm những hành vi
hay các mối đe dọa của một người nhắm vào một thành viên khác trong gia đình
hoặc tài sản của họ.
Bạo lực gia đình là ngược đãi bằng tình cảm, thể xác hay tình dục của thành
viên gia đình bằng một thành viên khác (J. hon J, Macionis, 2004).
Bạo lực gia đình là hành vi tấn công của một người (thường là người đàn
ông) đối với người khác có quan hệ tình cảm với họ bằng cách dùng vũ lực hoặc

1
6



đe dọa dùng vũ lực để kiểm soát người khác (Domestic Violence - Magazinen
Violence in the family, Australia, 1996).
Bạo lực gia đình là những hành vi gây nên những tổn thương về vật chất
hoặc tinh thần hoặc các thiệt hại về tài sản giữa các thành viên trong gia đình
(Luật đặc biệt về trừng phạt hành vi bạo lực gia đình của Hàn Quốc).
Bạo lực gia đình là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có
khả năng gây tốn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong
gia đình (Luật phòng, chống bạo lực gia đình của Việt Nam).
Như vậy, bạo lực gia đình đối với phụ nữ: là bạo lực giữa nam giới và phụ
nữ, trong đó nạn nhân thường là phụ nữ và nó bắt nguồn từ các mối quan hệ bất
bình đắng giữa nam giới và phụ nữ.
- Đặc đỉểm
Tính xã hội của bạo lực gia đình không chỉ thể hiện ở sự phố biến và bản
chất bất bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới trong quan hệ gia đình và xã hội, mà
còn ở hậu quả xã hội nghiêm trọng của bạo lực gia đình. Bạo lực gia đình đe doặ
ổn định của gia đình và gây ảnh hưởng tiêu cực đến tất cả các thành viên trong
gia đình, đẩy trẻ em vào môi trường sống nhiều xung đột, thiếu hạnh phúc. Bạo
lực gia đình cũng ảnh hưởng tới sự an toàn , lành mạnh của cộng đồng và trật tự
của xã hội. Nó có tác động tiêu cức tới nền kinh tế do là mất hiệu quả lao
độngcủa nạ nhân trong thời gian nghỉ ốm và tốn những chi phí về điều trị y tế...
Do vậy, phòng chông bạo lực gia đình là trách nhiệm của cả cộng đồng và toàn
xã hội.
- Phân loại
Qua một số định nghĩa và tình hình thực tiễn về bạo lực gia đình, ta có thể
hiểu hành vi bạo lực gia đình bao gồm:
-

Thử nhất, Bạo lực về thân thể: là những hành vi bạo lực mà người gây ra

bạo lực thường sử dụng sức mạnh cơ bắp hoặc công cụ gây nên sự đau

1
7


đớn về thân thể đối với nạn nhân. Bao gồm: đối xử tồi về thể chất: cấm
đoán, kiểm soát, xô đẩy thô bạo, đánh đập... và bạo lực/ lạm dụng tình
dục: là cưỡng bức, ép buộc phụ nữ phải làm những công việc liên quan
đến tình dục trái với mong muốn của họ...
-

Thứ hai, Bạo lực tinh thần/ tình cảm: là những hành vi nhằm hành hạ tâm
lí và những lời nói sỉ nhục, đe dọa, lãng quên hay không quan tâm...
Những hành vi này không dễ phát hiện và pháp luật khó can thiệp. Bao
gồm: đe dọa, hăm dọa: bằng cách nhìn chằm chằm hoặc bằng các hành
động, lời nói với tính chất đe dọa hoặc khiêu khích... và gán nhãn: là gán
cho phụ nữ những từ thiếu tôn trọng: ngu, điên rồ, vô dụng....

-

Thứ ba, Bạo lực tình dục: là các hành vi gây tổn thương về tình dục đối
với phụ nữ và trẻ em. Bao gồm các hành vi như: cưỡng ép quan hệ tình
dục, quấy rối tình dục, mua bán phụ nữ và trẻ em ...

-

Thứ tư, bạo lực kinh tế: là các hành động hoặc quyết tâm thực hiện các
hành động để phụ nữ phụ thuộc về tài chính, bao gồm: chiếm đoạt, hủy
hoại, đập phá hoặc có hành vi khác cố ý làm hư hỏng tài sản riêng của các

thành viên khác trong gia đình hoặc tài sản chung của các thành viên,...

-

Thứ năm, Bạo lực thế hệ: là một hình thức bạo lực bao gồm nhiều thế hệ
như: chồng - vợ, bố - con, ông - cháu, cháu - bà,...bao gồm các hành vi
đánh đập, đe dọa, khiêu khích.. .hoặc hành hạ về mặt tinh thần...

-

Thứ sáu, Bạo lực giới: được dùng đế chỉ các hành vi chống lại phụ nữ vì
giới tính của họ. Sở dĩ chúng ta sử dụng từ “bạo lực giới” vì đa số nạn
nhân là phụ nữ và đa số người sử dụng bạo lực là nam giớigần gũi, thân
thiết với nạn nhân.

1
8


1.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
về bình đẳng giới
Nen tảng lí luận của quan niệm về bình đẳng giới xuất phát từ các nghiên
cứu của Mác và Ph.Ảngghen về gia đình và chế độ tư hữu trong thời kì tư bản
chủ nghĩa. Quan điểm của các ông không chỉ đánh giá một cách khác quan và
khoa học về những nguyên nhân dẫn đến sự lệ thuộc của người phụ nữ trong gia
đình và ngoài xã hội mà còn gợi ra những hướng đi căn bản để giải phóng phụ
nữ.
Trên cơ sở lí luận của các nhà kinh điến của chủ nghĩa Mác - Lênin, vấn đề
bình đẳng giới đã được Đảng ta coi trọng ngay từ những ngày đầu thành lập.
Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương được thông qua tại Hội

nghị Trung ương lần thứ nhất (tháng 10 năm 1930) đã nêu: nam nữ bình quyền là
một trong những nhiệm vụ của cách mạng Đông Dương. Đảng và nhà nước ta cụ
thể hoá đề ra nhiều chủ trương, chính sách, chương trình tạo điều kiện đế phụ nữ
tham gia vào công tác xã hội. Nghị quyết số: 04- NQ/TW, ngày 12/7/1993 của
Bộ chính trị ban hành về “Đồi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ
trong tình hình mới”; Chỉ thị số: 37-CT/TW ngày 16/5/1994 của Ban Bí thư
Trung ương Đảng về “Một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình mới”. Từ
những quan điểm chỉ đạo trên, trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX,
có nêu: “Thiết thực chăm lo sự bình đẳng về giới, sự tiến bộ của phụ nữ”. Thủ
tướng Chính phủ đã ký quvết định số: 19/2002/QĐ-TTg phê duyệt “Chiến lược
quốc gia vì sự tiến bộ phụ nữ đến năm 2010” và Nghị định số:19/2003/NĐ-CP
ngày 7/3/2003 của Chính phủ: Quy định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước
trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho Hội phụ nữ tham gia quản lý nhà nước về
các vấn đề có liên quan đến quyền và lợi ích của phụ nữ, trẻ em. Trong Chiến
lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2010, Chính phủ đã đề
ra mục tiêu tổng quát về bình đẳng giới: “Nâng cao chất lượng đời sống vật chất

1
9


và tinh thần của phụ nữ, tạo mọi điều kiện cần thiết để thực hiện các quyền cơ
bản của phụ nữ, để họ tham gia và hưởng lợi đầy đủ và bình đẳng trong mọi lĩnh
vực của đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội”. Từ mục tiêu tống quát được
cụ thể hoá thành các mục tiêu cụ thể cho từng lĩnh vực, trong đó có mục tiêu
“Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của phụ nữ trên các lĩnh vực chính
trị, kinh tế, văn hoá, xã hội” để tăng số lượng phụ nữ được giới thiệu và bầu vào
các cơ quan dân cử, tham gia lãnh đạo, quản lý, ở các cấp các ngành trong cả
nước...
Xuyên suốt quan điểm của Đảng về vấn đề phụ nữ là những luận điểm của

chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò của phụ nữ, về nhiệm vụ của cách mạng Việt
Nam và các biện pháp tiến tới bình đẳng giới. Một trong những luận điểm quan
trọng về giải phóng phụ nữ là phụ nữ được nhìn nhận như một lực lượng của
cách mạng, lực lượng lao động to lớn để xây dựng chủ nghĩa xã hội: “Phải đặc
biệt chủ ỷ đến sức lao động của phụ nữ, phụ nữ là đội quân lao động rất đỏng ”
[27;64].
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề bình đắng giới không chỉ là những nội
dung lí luận quan trọng mà còn là những gợi ý cụ thể về các biện pháp nhằm xây
dung các mối quan hệ bình đẳng giữa giới trong gia đình và xã hội. Các ý kiến
của Bác đặc biệt còn giữ nguyên giá trị đối với các vấn đề hôm nay về quan niệm
bình đẳng và con đường đi tới bình đẳng. Bác cho rằng: “Nhiều người lầm tưởng
đó là một việc dê, chỉ hôm nay anh nấu cơm, rửa bát, quét nhà, hôm sau em quét
nhà, nấu cơm, rửa bát thế là bình đắng, bình quyền. Lầm to! Đó là một cuộc
cách mạng to và khó. Vì trọng trai, khinh gái là một thói quen mấy nghìn năm đế
lại. Vì nó ăn sâu vào óc của mọi người, mọi gia đình, mọi tâng lớp xã hội. Vì
không dùng vũ lực mà đâu tranh được” [27;31 ].
Vậy đối tượng của cuộc đấu tranh này là gì? Bác nhấn mạnh: “...Giải phóng
người đàn bà đồng thời phải tiêu diệt tư tưởng phong kiến, tư tưởng tư sản trong

2
0


người đàn ông” [11 ;499]. Rõ ràng là, nếu các biện pháp tiến tới bình đẳng nam
nữ chỉ dừng lại hoặc chỉ tập trung vào việc giáo dục và động viên giới nữ nói
chung và từng nhóm phụ nữ nói riêng thì chưa đủ. Mục tiêu không kém phần
quan trọng trọng cuộc đấu tranh này là thay đổi nhận thức, khắc phục định kiến
và tư tưởng coi thường phụ nữ ở nam giới.

về phương pháp đấu tranh nhằm giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng

giới, Bác chỉ rõ là không thể dùng vũ lực và lĩnh vực khó khăn nhất của sự
nghiệp này là phấn đấu đạt bình quyền, bình đẳng trong gia đình....
Như vậy, quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về bình đẳng giới thể hiện
một cách rõ ràng mục tiêu cần đạt cũng như phương thức và biện pháp cần có để
thực hiện bình quyền và bình đắng. Đây là một trong những nội dung tư tưởng
Hồ Chí Minh cần được cán bộ Đảng viên và các cấp các ngành nhận thức một
cách đầy đủ và vận dụng một cách linh hoạt và sâu sắc hơn nữa trong giai đoạn
hiện nay của cách mạng Việt Nam.
Như chúng ta đã thấy, trong các chủ trương của Đảng và chính sách của
Nhà nước, đã có rất nhiều biện pháp cụ thể để thực hiện quyền giải phóng và
bình đắng cho phụ nữ. Nhưng còn có quá ít những văn bản cụ thế cùng các biện
pháp thực tế để từng bước thủ tiêu tư tưởng phong kiến, tư tưởng tư sản trong
người đàn ông. Do thực tiễn nước ta còn nghèo, còn nhiều khó khăn và trở ngại
trong việc thực hiện các chính sách về cán bộ nữ ở nhiều cấp ủy Đảng và quản lý
Nhà nước; hiện tượng bạo lực gia đình đối với phụ nữ...
Như vậy, tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng
Cộng sản Viêt Nam là sự nối tiếp và cụ thế hóa các quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin về bình đẳng giới. Và quan điếm của chủ tịch Hồ Chí Minh cho ta
thấy tính chất lâu dài và khó khăn của cuộc đấu tranh vì quyền bình đắng và sự

2
1


cần thiết phải tập trung vào việc thay đổi nhận thức xã hội, giải phóng phụ nữ và
xóa bỏ tư tưởng phong kiến, tư sản của đàn ông.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về giải phóng phụ
nữ và thực hiện nam nữ bình đẳng là cơ sở lí luận, là nền
tảng tư tưởng để Đảng và Nhà nước ta đề ra phương hướng,

giải pháp, nhằm xóa bỏ triệt để tình trạng bạo lực đối
với phụ nữ trong gia đình.
Chương 2
THựC TRẠNG BẠO Lực ĐỐI VỚI PHỤ NỮ TRONG GIA ĐÌNH Ỏ VĨNH
PHÚC GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.1.

Khái quát về tình hình tỉnh Vĩnh Phúc

Vĩnh Phúc - cửa ngõ Tây Bắc của Thủ đô Hà Nội, thuộc vùng Châu thổ sông
Hồng là một trong 8 tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc.
Phía Tây Bắc giáp tỉnh Tuyên Quang;
Phía Đông Bắc giáp tỉnh Thái Nguyên;
Phía Đông Nam giáp Thủ đô Hà Nội;
Phía Nam giáp tỉnh Hà Tây;
Phía Tây giáp tỉnh Phú Thọ.
Vĩnh Phúc nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình hàng năm
24,20C, diện tích tự nhiên khoảng 1.371 km2, dân số gần 1, 2 triệu người. Tỉnh có
152 xã, phường, thị trấn thuộc 9 đơn vị hành chính gồm: thành phố Vĩnh Yên (là
trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của tỉnh), thị xã Phúc Yên và 7 huyện là Mê
Linh, Bình Xuyên, Yên Lạc, Vĩnh Tường, Tam Dương, Tam Đảo, Lập Thạch.
Trong những năm qua, thực hiện công cuộc đối mới do Đảng và Nhà nước
lãnh đạo, toàn tỉnh đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên nhiều lĩnh vực:
kinh tế tăng trưởng cao, các lĩnh vực văn hóa xã hội có nhiều chuyển biến tích
cực, an ninh chính trị được giữ vững, đời sống của nhân dân nói chung, phụ nữ
nói riêng được cải thiện và ngày càng được nâng cao cả về vật chất lẫn tinh thần

2
2



với những kết quả cụ thể (ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc: Báo cáo: Tình hình
kinh tế - xã hội năm 2013 và Ke hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2014):


Tình hình kinh tế:

Sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản năm 2013 vượt qua khó khăn,
tăng trưởng khá so với năm 2012.
- Trong nông nghiệp: Vượt qua khó khăn tiếp tục phát triển và đạt nhiều kết
quả khá. Cơ cấu cây trồng, vật nuôi được chuyển đổi phù hợp với quy
hoạch, đề án và các dự án của ngành. Trong những năm gần đây, các cấp
lãnh đạo tỉnh Vĩnh Phúc rất chú trọng đến phát triển nông nghiệp, tạo việc
làm cho nhiều lao động.
- Trong sản xuất công nghiệp: năm 2013 có sự tăng trưởng khá so với năm
2012 ở tất cả các khu vực: khu vực Nhà nước tăng 11,6%, ngoài Nhà nước
tăng 7,8%, khu vực FDI tăng 12%. Giá trị sản xuất công nghiệp (giá so
sánh năm 2010) tăng 11,3% so với năm 2012 và bằng 106,4% kế hoạch.
Giá trị sản xuất ngành Xây dựng (theo giá so sánh năm 2010) giảm 0,6%
so với năm 2012.
- Trong dịch vụ năm 2013 hầu hết các ngành dịch vụ có sự tăng trưởng so
với năm 2012 nhưng vẫn còn ở mức thấp. Trong hoạt động thương mại thì
thị trường hàng hóa và dịch vụ cơ bản được ổn định, công tác quản lí thị
trường được tăng cường. Hoạt động xuất khẩu tăng cao mặc dù kinh tế
trong và ngoài nước vẫn gặp nhiều khó khăn, tổng kim ngạch xuất khẩu
đạt 1.031 triệu USD tăng 54,9% so với cùng kỳ năm 2012 và bằng
125,9% kế hoạch. Dịch vụ vận tải gặp nhiều khó khăn nhưng doanh thu
vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải tăng 12,6% so với năm 2012.
Tổng doanh thu du lịch đạt
776,1 tỉ đồng, tăng 3% so với năm 2012.

- Trong đầu tư phát triến: năm 2013 được đấy mạnh, kết cấu hạ tầng kinh tế
xã hội được tăng cường, bộ mặt đô thị và nông thôn ngày càng được đổi

2
3


mới. Ước tính tổng vốn đầu tư xã hội năm 2013 trên địa bàn tỉnh Vĩnh
Phúc đạt 14,211 tỉ đồng, tăng 0,4% so với năm 2012 và đạt 106,1 % so
với kế hoạch.


Tình hình chính trị

Vấn đề quốc phòng - an ninh, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Lực
lượng công an đã triển khai đồng bộ các biện pháp nắm chắc tình hình, chủ động
thực hiện các nhiệm vụ đảm bảo an ninh, chính trị ổn định, trật tự an toàn xã hội
được giữ vững. Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tố quốc được đẩy mạnh, duy
trì.


Tình hình văn hóa - xã hội:

- Sự nghiệp giáo dục, khoa học công nghệ, văn hóa xã hội, y tế có bước
chuyển biến đáng kể về quy mô và chất lượng đào tạo. Đầu tư cho giáo
dục đào tạo được chú trọng, quy mô giáo dục ngày càng được mở rộng,
chất lượng giáo dục ngày càng ổn định ở mức cao.
- Khoa học công nghệ - tài nguyên và môi trường tiếp tục được quan tâm,
góp phần thiết thực phục vụ sản xuất và đời sống:
+ Các đề tài, dự án bước đầu đã đổi mới theo hướng tập trung, lấy hiệu quả

thực tế làm tiêu chí đánh giá và tuyển chọn.
+Tiềm lực khoa học công nghệ bước đầu được tập trung đầu tư vào các lĩnh
vực y tế, giáo dục, đào tạo nghề để nâng cao hiệu quả đầu tư.
+ UBND tỉnh chỉ đạo các cấp, các ngành tăng cường quản lí nhà nước về
đất đai trên địa bàn.
+ Công tác quản lý khai thác khoáng sản có nhiều chuyển biến tích cực.
+ Quản lí nhà nước về bảo vệ môi trường tiếp tục được chú trọng, việc triển
khai các chương trình, dự án về môi trường được đẩy mạnh ở cả khu vực đô thị
và gắn với việc xây dựng nông thôn mới.

2
4


- Hoạt động văn hóa - thể thao,phát thanh và truyền hình được duy trì, ổn
định và phát triển. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân và phòng chống
dịch bệnh được quan tâm thường xuyên.
- Tuy nhiên, bên cạnh đó còn những vấn đề bức xúc mà xã hội chưa ngăn
chặn kịp thòi: giáo dục đào tạo còn hạn chế, đòi sống một bộ phận nhân
dân còn khó khăn, kết quả giảm nghèo chưa thật bền vững và có nguy cơ
tái nghèo...
Vĩnh Phúc là một tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, đang trên đà
chuyến dịch cơ cấu kinh tế và phấn đấu đế trở thành tỉnh công nghiệp. Chính vì
vậy, đời sống vật chất và tinh thần của người dân Vĩnh Phúc ngày càng được
nâng cao. Tuy nhiên, Vĩnh Phúc vốn là một tỉnh thuần nông, chịu ảnh hưởng của
tư tưởng văn hóa Nho giáo, Phật giáo. Nên những tàn dư của hệ tư tưởng phong
kiến vẫn còn tồn tại ở nhiều địa phương, trong nhiều gia đình. Vì vậy, phụ nữ
Vĩnh Phúc, nhất là phụ nữ ở các thôn, còn chịu nhiều thiệt thòi cả về vật chất lẫn
tinh thần, còn phải chịu sự bất bình đẳng nam nữ trong gia đình và trong mọi lĩnh
vực của cuộc sống

2.2.

Thực trạng bạo lực đối vói phụ nữ trong gia đình

2.2.1

Thực trạng bạo lực đối với phụ nữ trong gia đình ở tỉnh

Vĩnh Phúc Ở Việt Nam nói chung và Vĩnh Phúc nói riêng, tình
trạng ngược đãi phụ nữ và trẻ em nữ trong gia đình không phải là
vấn đề mới xuất hiện. Đen nay tình trạng này chưa được xóa bỏ mà
còn có xu hướng tăng. Mặc dù đã có sự ngăn chặn khá cương
quyết của pháp luật, chính quyền và các đoàn thể nhưng thực tế thì
cộng đồng dân cư không phải cặp vợ chồng nào sống cũng hoàn
toàn hạnh phúc. Bạo lực gia đình khi thì lén lút, lúc thì công khai
đã và đang phá vỡ hạnh phúc của nhiều gia đình nhất là những cặp
vợ chồng trẻ. Vì vậy việc đấu tranh nhằm ngăn chặn tiến tới xóa bỏ

2
5


×