Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

Khoá luận tốt nghiệp cấu trúc quần xã ve giáp (acari oribatida) ở hệ sinh thái đất rừng tự nhiên độ cao 300m, thuộc rừng quốc gia cúc phương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (490.28 KB, 42 trang )

NGUYỄN THỊ NGỌC TRÂM

CẤU TRÚC QUẦN XÃ VE GIÁP (ACARI:
ORIBATIDA) Ở HỆ
SINH THÁI ĐẤT RỪNG Tự
TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA SINH - KTNN

NHIÊN Độ CAO 300M THUỘC VƯỜN QUỐC GIA cúc
PHƯƠNG

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC


• • •

Chuyên ngành: Sinh thái học
NGUYỄN THỊ NGỌC TRÂM

CẤU TRÚC QUẰN XÃ VE GIÁP (ACARI:
ORIBATIDA) Ở HỆ SINH THÁI ĐẤT RỪNG Tự
NHIÊN Độ CAO 300M THUỘC VƯỜN QUỐC GIA cúc
PHƯƠNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC


• • •


Chuyên ngành: Sinh thái học


Người hướng dẫn khoa học
TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA SINH - KTNN

TS. ĐÀO DUY TRINH

Trong quá trình hoàn thành luận văn em đã nhận được nhiều sự giúp đờ quý báu của các
đơn vị và cá nhân. Nhân dịp này, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới:
Các thầy, cô trong khoa Sinh - KTNN, trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, người thân và
bạn bè đã hổ trợ, động viên, khích lệ đế em vượt qua nhiều khó khăn ban đầu, hoàn thành khóa
luận tốt nghiệp này.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. ĐÀO DUY TRINH là người thầy đã
định hướng, hướng dẫn và tận tình chỉ bảo em trong suốt quá trình thực hiện khóa luận.
Em xin gửi lời cảm ơn đến Th.s Trần Văn Vinh đã từng là sinh viên KI6 lóp Sinh thái học
khoa Sinh - KTNN, đã nhiệt tình giúp đõ’ em trong quá trình thu mẫu và tách lọc mẫu nghiên
cứu.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 11 tháng 5 năm 2015 Sinh viên

Nguyễn Thị Ngọc Trâm


Em xin cam đoan những nội dung mà em trình bày trong khóa luận là kết
quả nghiên cứu của bản thân dưới sự hướng dẫn tận tình của TS. Đào Duy Trinh.
Em xin chịu trách nhiệm về kết quả nghiên cứu trong khóa luận này.
Sinh viên
LỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Ngọc Trâm
Kí hiệu


Viết tắt


0

Tầng thảm lá

+1

Tầng rêu

A,

Độ sâu tầng đất mặt 0- lOcm

A2

Độ sâu tầng đất 10-20cm

c

Chung cả tầng AỊ và tầng A2

RTN

Rừng tự nhiên

VQG


Vườn quốc gia

MĐTB

Mật độ trung bình

H’

Chỉ số đa dạng loài

J’

Chỉ số đồng đều

s,

Số lượng loài theo tầng phân bố

s
TS

Số lượng loài chung của hai tầng đất

ĐHSP

LỜI CAM ĐOAN

Tiến sĩ
Đại học sư phạm


MỤC LỤC
Trang


Trang
Bảng 2.1. Số lượng mẫu thu ở đai cao 300m, sinh cảnh đất rừng tự

Trang
Hình 3.3. Biếu đồ cấu trúc ưu thế quần xã Oribatida đai cao 300m
của VQG Cúc Phương (mẫu thu ngày 18/5/2013).......................... 29
Hình 3.4. Biểu đồ cấu trúc ưu thế Oribatida đai cao 300m của VQG
Cúc Phương (mẫu thu ngày 9/11/2013)
32


MỞ ĐÀU
1. Lí do chọn đề tài
Cùng với nền khoa học công nghệ ngày càng phát triển, con người từ khi
sinh ra đã thế hiện khát vọng chinh phục thiên nhiên, khám phá vũ trụ. Đó chính là
nguyên nhân sâu xa và cơ bản nhất thúc đẩy con người từ rất sớm luôn tìm tòi
nghiên cứu các sự vật, hiện tượng diễn ra xung quanh. Vì vậy, một chuyên ngành
khoa học mới với tên gọi là Khoa học sinh thái đất hình thành vào những năm
giữa thế kỉ XX, nghiên cứu các nhóm sinh vật sống trong đất, cùng các hoạt động
tương hỗ giữa chúng nằm trong mối quan hệ chặt chẽ với môi trường nơi chúng
sinh sống.
Đất là tài nguyên vô cùng quý giá có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của
con người và các sinh vật khác. Môi trường đất là một môi trường sống đặc thù,
với cấu trúc ba thế rắn, lỏng và khí, trong đó có chứa cả một thế giới sinh vật vô
cùng đa dạng và phong phú. Nhóm động vật đất chiếm hơn 90% tổng sinh lượng
hệ động vật ở cạn và hon 50% tống số loài động vật sống trên Trái Đất. Chúng có

vai trò to lớn trong việc phân hủy xác thải hữu cơ, làm tăng độ phì của đất và bảo
vệ môi trường đất. Nhiều nhóm sinh vật đất có vai trò quan trọng trong việc chỉ thị
điều kiện sinh thái môi trường đất, góp phần làm sạch môi trường, tiêu diệt hoặc
mang truyền một số nhóm kí sinh trùng hay nguồn bệnh khác. Và đại diện chính
của nhóm này là động vật Chân khớp bé (Microarthropođa).
Trong hệ thống động vật đất, nhóm động vật Chân khớp bé với kích thước
cơ thế nhỏ bé (từ 0,l-0,2mm đến 2,0-3,0mm), mật độ từ hàng chục đến hàng trăm
cá thể trên lm2. Microathropoda gồm hai nhóm chính: Ve bét (Acari) và Bọ nhảy
(Collembola). Nhóm chân khóp này số lượng cá thể phong phú và đa dạng, đặc
biệt là ở trong đất rừng, thảm lá mục hoặc lớp rêu có trên thân cây hoặc gỗ mục,
cho nên dễ thu lượm ở tất cả các thời điềm trong năm, dễ dàng nhận dạng nhưng
lại rất nhạy cảm với những biến đối của điều kiện môi trường (Vũ Quang Mạnh,
2007) [4]. Tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu mẫu ngoài tự nhiên.


Ve bét và Bọ nhảy là hai nhóm được quan tâm đặc biệt bởi chúng rất nhạy
cảm với các sản phấm hóa chất được sử dụng trong công nghiệp với sự thay đối
các yếu tố khí hậu môi trường và tính chất đất. Do có số lượng nhiều nên Ve bét là
đối tượng thích họp cho các nghiên cứu chỉ thi sinh học điều kiện môi trường.
Ngoài ra, Ve bét là một trong những nhóm động vật có khả năng bền vững trước
những biến động, nên chúng được chú ý nghiên cứu đế đánh giá tác động của con
người nên các hệ sinh thái tự nhiên, nhằm đề xuất biện pháp bảo vệ, khôi phục,
phát triển tài nguyên sinh vật và môi trường thiên nhiên.
Vườn quốc gia Cúc Phương là khu bảo tồn thiên nhiên, khu rừng nguyên
sinh đặc dụng với hệ thống động thực vật đa dạng và phong phú mang đặc trưng
của rừng mưa nhiệt đới. Đây chính là yếu tố cơ bản mà Vườn quốc gia Cúc
Phương đã thu hút được một số lượng lớn các công trình nghiên cứu khoa học đối
với toàn bộ hệ thống vi sinh vật của vườn. Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có một
công trình nào nghiên cứu một cách liên tục về nhóm sinh vật nhỏ bé này và vai
trò của chúng trong đất. Vì tất cả những lí do trên, chúng em đã chọn đề tài nghiên

cứu “CẤU TRÚC QUẦN xã VE GIÁP (ACARI: ORIBATIDA) Ở HỆ SINH
THÁI ĐẤT RỪNG TỰ NHIÊN ĐỘ CAO 300M THUỘC VƯỜN QUỐC GIA
CÚC PHƯƠNG ’.

2. Mục đích nghiên cún
Làm quen với nghiên cứu khoa học, tạo lòng say mê học tập, làm tiền đề
phục vụ cho giảng dạy và nghiên cứu sau này.
Nghiên cứu đặc điếm phân bố, cấu trúc và đa dạng thành phần loài của
quần xã Ve giáp (Acari: Oribatida) ở hệ sinh thái đất rừng tự nhiên độ cao 300m,
và chiều sâu thẳng đứng trong hệ sinh thái đất rừng tự nhiên ở VQG Cúc Phương.
3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn
3.1.

Ý nghĩa khoa học

Từ khóa luận đã bố sung thêm dẫn liệu về đa dạng sinh học của quần xã
Oribatida tại VQG Cúc Phương. Đặc biệt cấu trúc quần xã Oribatida ở đai cao
300m của VQG Cúc Phương lần đầu tiên được nghiên cún chi tiết về sự đa dạng
thành phần loài.


Cung cấp dẫn liệu trong cấu trúc quần xã Oribatida về đặc điểm phân bố,
mật độ quần thể, độ đồng đều về thành phần loài ở hệ sinh thái đất rừng tự nhiên ở
độ cao 300m.
Đánh giá vai trò của nhóm Oribatida đối với môi trường đất.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Khóa luận bố sung tư liệu về thành phần loài Oribatida,
góp phần đánh giá tài nguyên đa dạng động vật đất của
Việt Nam, khảo sát cấu trúc quần xã Oribatida, góp phần
dự đoán ảnh hưởng của các yếu tố tự nhiên và nhân tố tác

động đến hệ sinh thái đất nói chung và đến quần xã
Oribatida nói riêng.
Chưoìig 1 TỎNG QUAN TÀI LIỆU
1.1.

Tình hình nghiên cún nhóm động yật Chân khớp bé trên thế

giói
Sự tồn tại của đời sống con người và động vật có quan hệ mật thiết với sự
phát triển của thực vật. Trong khi đó sự phát triển của thực vật không chỉ phụ
thuộc vào dinh dường khoáng trong đất mà chủ yếu phụ thuộc vào quá trình phân
hủy lóp xác thực vật và động vật. Thảm thực vật không chỉ là một kho chứa dinh
dường cho cả hệ sinh thái mà còn là thành phần bắt buộc phải có trong đó. Độ đa
dạng của thảm thực vật quyết định độ đa dạng của cả hệ sinh thái. Quá trình phân
hủy xác hữu cơ phụ thuộc chủ yếu vào hoạt động của động vật đất. Chính sự hoạt
động của hệ động vật đất lại có ảnh hưởng quyết định đến độ sâu của tầng đất
thông qua sự tạo độ ấm, sự khoáng hóa, từ đó ảnh hưởng đến độ thoáng khí và độ
thấm của đất. Vì vậy, có thể nói rằng chính hệ thống động vật đất đã ảnh hưởng
quyết định đến thành phần, tính chất của đất và góp phần hoàn thành chu trình
tuần hoàn vật chất trong tự nhiên.
Hiện tại 498 loài Oribatida đã được ghi nhận (gồm 300 loài đã xác định tên,
198 loài còn ở dạng sp., cf...). số lượng loài Oribatida của Trung Mỹ, bao gồm cả
Mexico là 978 loài, nếu cộng thêm cả Antilles nữa, con số này là 1238 loài
(Schatz, 2002) [27].


về cấu trúc quần xã Oribatida,nghiên cứu số lượng loài, chỉ số đa dạng loài
H’, chỉ số đồng đều J’ (S=43; H’=2,67; J’= 0,69) đều cao hơn so với đất cây bụi
(S=36, H’= 2,12, J’= 0,52) (Va’squez et aỉ2007) [26].
Oribatida sống trong nhiều hệ sinh thái khác nhau, chúng được tìm thấy

trong cả môi trường nước mặn và nước ngọt, đặc biệt phong phú trong đất rừng.
Trên thế giới Oribatida đã được nghiên cứu cách đây hàng trăm năm, tuy
nhiên các công trình nghiên cún này chỉ phát triến mạnh trong thời gian gần đây.
Khu hệ Oribatida thế giới hiện đã được mô tả khoảng 10000 loài và số loài thực tế
vào khoảng 50 000 loài. Theo Balogh, số lượng giống Oribatida trên thế giới đã
tăng từ 700 lên đến hơn 1000 giống chỉ trong 20 năm gần đây.
Ngày nay, các chuyên gia nghiên cứu vẫn chưa sắp xếp thống nhất vị trí của
nhóm Oribatida nói chung trong hệ thống phân loại. Thông thường, Oribatida
thuộc bộ Oribatida (Acarina) gồm tất cả các nhóm Oribatida khác nhau nằm trong
nhóm Chân khớp hình nhện (Arachnida). Nhờ sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật,
trong những năm gần đây, nhiều nhà nghiên cún đã nhờ sự trợ giúp của các kĩ
thuật phân tích sinh học hiện đại như phương pháp phân tích AND để tìm hiểu
nguồn gốc phát sinh, tiến hóa của Oribatida ở mức độ loài.
Trong những năm gần đây, nhiều Hội nghị khoa học Quốc tế (Hội nghị
Quốc tế về động vật đất họp tại Aske Budejovice, tháng 7 năm 1990; Hội nghị
Quốc tế về động vật đất lần thứ 11 tại Jyvaskyla - Phần Lan tháng 8 năm 1992...),
nhiều Tạp chí chuyên ngành đã công bố nhũng nghiên cún về nhóm Chân khớp bé
(Collembola, Acari...), các công trình này chủ yếu khai thác theo hướng sử dụng
chúng như những chỉ thị sinh học cập nhật trong vấn đề khôi phục và bảo vệ độ
phì nhiêu của đất, kiếm soát và bảo vệ môi trường đất, ngăn chặn sự phá hoại bởi
các hoạt động dưới mọi hình thức khác nhau hoặc sử dụng chúng như một trong
những tác nhân sinh học, cải tạo nâng cao chất lượng môi trường đất.


1.2.

Tình hình nghiên cún nhóm động yật Chân khớp bé ở Việt Nam

Lịch sử nghiên cứu của Oribatida đã có từ rất lâu trên thế giới, được nghiên
cứu một cách hệ thống về cả khu hệ, sinh học, sinh thái và vai trò chỉ thị. Nhưng ở

Việt Nam thì hướng nghiên cứu về nhóm này mới chỉ bắt đầu ở
thời gian gần đây [4].
Trước năm 1975, khu hệ Oribatida Việt Nam đã được các tác giả nước ngoài
nghiên cứu nhưng mới chỉ ở mức độ thông báo về loài mới, thành phần loài ở
từng khu vực nhất định. Năm 1960, lần đầu tiên hai tác giả người Hungari là
Balogh J. và Mahunka s. nghiên cứu và giới thiệu khu hệ, danh pháp và đặc điểm
phân bố của 33 loài Ve giáp trong công trình “new oribatids from Viet Nam”.
Trong đó mô tả 29 loài và 4 giống mới, tiếp theo là những nghiên cứu của tác giả
Tiệp Khắc [22].
Từ năm 1975, những nghiên cứu về Chân khóp bé đã được các nhà khoa
học Việt Nam tiến hành nghiên cứu khá đồng bộ ở nhiều vùng trong cả nước.
Chân khớp bé với hai nhóm chính là Ve bét và Bọ nhảy đã được hai nhóm nghiên
cứu Vũ Quang Mạnh và Nguyễn Trí Tiến đi sâu nghiên cứu trên bình diện khu hệ
và sinh thái học.
Vũ Quang Mạnh, Mara Jeleva (1987) đã giới thiệu đặc điểm phân bố và
danh pháp phân loại học của 11 loài Ve giáp mới cho khu hệ Ve giáp của Việt
Nam và một loài mới cho khoa học (Vũ Quang Mạnh, Mara Jeleva, 1987) [5].
Năm 1988, Mahunka trong nghiên cứu của mình đã đề cập đến 17 loài
Oribatida trong đó có 15 loài mới cho khoa học. Các mẫu nghiên cứu thu ở Tam
Đảo (Vĩnh Phúc), Thọ Xuân, Ngọc Lạc, sầm Sơn (Thanh Hóa), Hòa Bình.
Năm 1990, Vũ Quang Mạnh và Cao Văn Thuật đã xác định được 24 loài
Oribatida ở vùng đồi núi Đông Bắc Việt Nam khi tiến hành nghiên cún định
lượng của nhóm chân khớp bé ở 7 kiểu sinh thái, 5 độ cao khí hậu và 3 loài đất.
Theo hai tác giả, trong nhóm chân khớp bé thì Oribatida luôn là nhóm có số lượng
lớn hơn so với các nhóm khác (khoảng 70 - 80%) tống số lượng, còn lại khoảng
10% là nhóm Bọ nhảy (Collembola) (Vũ Quang Mạnh, Cao Văn Thuật, 1990) [6].


Năm 1994, Vũ Quang Mạnh giới thiệu danh sách 28 loài sống ở vùng đất
ven biến Yên Hưng (Quảng Ninh), đảo Cát Bà (Hải Phòng), đồng bằng sông Hồng

(Từ Liêm - Hà Nội) cùng sự phân bố của chúng theo sinh cảnh, theo độ cao so với
mặt biến, theo địa điếm và khoảng cách đến biến. Đồng thời tác giả nêu lên mối
quan hệ giữa Oribatida vùng

đảo Cát Bà,vùng ven

biến với Oribatida ở sâu trong đất liền.
Vũ Quang Mạnh, Vương Thị Hòa (1995) giới thiệu danh sách 140 loài và
phân loài Oribatida ở Việt Nam, đồng thời phân tích đặc điểm của chúng [7].
Vũ Quang Mạnh, Vương Thị Hòa (2002) có nhận xét cấu trúc quần xã Ve
giáp ở hệ sinh thái đất có liên quan rõ rệt với sự suy giảm của cây gỗ rừng. Nó có
thế được xem xét và đánh giá như một đặc điếm sinh học, chỉ thị quá trình diễn
thế của thảm rừng Tam Đảo nói riêng và của Việt Nam nói chung. Mặt khác có sự
thay đổi đặc điếm đa dạng thành phần loài của quần xã Ve giáp theo chiều thẳng
đứng, từ thảm rêu quanh thân cây và vụn thực vật, nằm trên mặt đất từ 0 - 1
OOcm, cho đến lớp thảm lá rùng phủ trên mặt đất, lóp đất mặt từ 0 -10cm và lớp
đất sâu 11 - 20cm ở hệ sinh thái đất rừng Tam Đảo. Chỉ số này có thế được xem
xét như một

chỉ thị sinh học cácdiễnthế ở hệ

sinh thái ròng Việt Nam [8].
Phan Thị Huyền, Vũ Quang Mạnh, Nguyễn Xuân Lâm, Đặng Việt Hà,
Đặng Thúy Hiền (2004), bước đầu ở hệ sinh thái rừng vườn quốc gia Ba Vì đã xác
định được 25 loài Ve giáp, thuộc 12 họ. Ket quả nghiên cứu cho thấy sự thay đối
trong cấu trúc quần xã Ve giáp có liên quan đến đai cao khí hậu của vùng nghiên
cứu. Mật độ quần thế Ve giáp ở các sinh cảnh tự nhiên, như ròng tự nhiên và rừng
nhân tác tương ứng gặp 3090 và 2200 cá thể trên lm 2 mặt đất là nhỏ hơn so với
sinh cảnh nhân tác, như trảng cỏ xen cây bụi và đất canh tác, tương ứng gặp 8247
và 7580 cá thể trên lm2 mặt đất [15].

Năm 2004, Vũ Quang Mạnh, Nguyễn Xuân Lâm nghiên cứu quần xã động
vật Chân khớp bé ở các đai cao của VQG Tam Đảo. Khi nghiên cứu về đai cao khí
hậu của hệ sinh thái đất rùng, phát hiện thấy sự khác biệt về mật độ quần xã


Microarthropodavà Acari. Mật độ của Acari đạt lớn nhất ở hệ sinh thái rừng của
đai cao 900m, còn ở đai cao 1300m và 450m, số lượng cá thế không đồng đều [9].
Năm 2005, Vũ Quang Mạnh, Nguyễn Xuân Lâm nghiên cứu đặc trưng
phân bố và tính chất địa động vật của khu hệ Ve giáp (Acari) ở Việt Nam. Khu hệ
này hiện biết với 158 loài, thuộc 46 họ mang tính chất Ân Độ - Mã Lai và thuộc
vùng địa động vật đông phương. Khu hệ Ve giáp Việt Nam có tính chất chuyên
biệt cao, với 76 loài (chiếm 48,10%) chỉ mới phát hiện ở riêng lãnh thổ Việt Nam
[10].
Năm 2006, Vũ Quang Mạnh và Đào Duy Trinh công bố 30 loài Oribatida
được phát hiện ở Vườn Quốc Gia Xuân Sơn tỉnh Phú Thọ. Công bố Oribatida họ
Oppidae Grandjean, 1954; phân họ oppinidae Grandjean, 1951 và Mulltioppiinae
Balogh, 1938 ở Việt Nam (Vũ Quang Mạnh và cs 2006) [13], tiếp tục nghiên cứu
và giới thiệu các phân họ Pulchroppiinae, Oppielinae, Mystrppiinae,
Brachyoppiinae, Arcoppiinae ở Việt Nam (Vũ Quang Mạnh, Lê Thị Quyên, Đào
Duy Trinh, 2006) [11].
Năm 2008, các tác giả Vũ Quang Mạnh, Lưu Thanh Ngọc, Nguyễn Hải
Tiến, Đào Duy Trinh đã nghiên cứu cấu trúc quần xã Ve giáp trong đó có
Oribatida, về ảnh hưởng và vai trò của chúng đối với các loại đất và đặc điềm của
thảm cây trồng ở vùng đồng bàng sông Hồng. Trong báo cáo tại Hội Nghị
Techmart tại Tây Nguyên vào tháng 4/2008, trong công trình này các tác giả đã
trình bày về vai trò của động vật đất trong đó có Oribatida như là yếu tố chỉ thị
cho sự phát triển bền vững của hệ sinh thái đất [12], [14].
Năm 2010, Đào Duy Trinh, Trịnh Thị Thu và Vũ Quang Mạnh đã nghiên
cứu về thành phần loài, đặc điểm phân bố và địa động vật khu hệ Oribatida ở
VQG Xuân Son tỉnh Phú Thọ. Đã ghi nhận được 103 loài

Oribatida thuộc 48 giống 28 họ phân bố trong 5 sinh cảnh của VQG Xuân Sơn,
Phú Thọ. số loài được phân bố đều ở các giống và các họ. Đồng thời đã chỉ ra
được đặc điếm địa động vật khu hệ Oribatida VQG Xuân Sơn, Phú Thọ thể hiện
rõ Yếu tố Ấn Độ - Mã Lai (chiếm khoảng 71,77%) (Đào Duy Trinh và cs, 2010)
[16].


Năm 2012, Nguyễn Duy Bình, Trần Thùy Linh và cs đã nghiên cứu sự biến
động thành phần loài Ve giáp (Acari: Oribatida) tại khu công nghiệp Thụy Vân và
vùng phụ cận, thành phố Việt Trì đã chỉ ra được sự biến động thành phần loài Ve
giáp dưới tác động của các nhân tố ô nhiễm đất bới các chất bảo vệ thực vật, thuốc
trừ sâu, phân bón hữu cơ, chất phóng xạ kim loại nặng (Nguyễn Duy Bình và cs,
2012) [1].
Cũng trong năm 2012, tác giả Triệu Thị Hường và cs., nghiên cứu sự biến
động thành phần loài Ve giáp tại khu công nghiệp Bình Xuyên và vùng phụ cận
thuộc huyện Bình Xuyên tỉnh Vĩnh Phúc đã chỉ ra được sự biến động thành phần
loài Oribatida ở các sinh cảnh khác nhau đó là KCN, VQN, Ruộng. Ket quả ghi
nhận được 38 loài trong đó có 2 loài chưa được định tên [2].
Năm 2013, Đào Duy Trinh, Nông Thị Kiều Hoa, Trần Văn Vinh nghiên cứu
đánh giá ảnh hưởng của môi trường khu công nghiệp Phúc Yên tỉnh Vĩnh Phúc
đến sự biến động thành phần loài Ve giáp (Acari: Oribatida) so với vùng phụ cận
thuộc thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc đã ghi nhận sự có mặt của 39 loài thuộc 18
họ và 29 giống trong đó sinh cảnh khu công nghiệp có số lượng loài nhiều nhất, có
3 loài xuất hiện ở cả 3 sinh cảnh [17].
Năm 2014, nhóm tác giả Đào Duy Trinh và cs., nghiên cứu sự biến động
thành phần loài Ve giáp (Acari: Oribatida) ở khu công nghiệp Phúc Yên và vùng
phụ cận thuộc thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc đã chỉ ra được sự biến động số
lượng loài Oribatida ở các sinh cảnh khác nhau và có sự chênh lệch nhau khá rõ
rệt giữa các sinh cảnh khu công nghiệp (29 loài), vườn quanh nhà (12 loài), ruộng
(10 loài) [18].

Chương 2 ĐỐI TƯỢNG, THỜI GIAN, ĐỊA ĐIÉM VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN cứu
2.1.

Đối tưọng nghiên cún
Chúng em tiến hành nghiên cún về các loài thuộc bộ Ve giáp (Acari:

Oribatida), phân lớp Ve bét (Acari), lớp Hình nhện (Arachnida), phân ngành Chân


khóp có kìm (Chelicerata), ngành Chân khóp (Arthropoda) của giới Động vật
(Animalia).
2.2.

Địa điếm và thòi gian nghiên cứu

2.2.1.

Địa điêm nghiên cún
Mầu vật nghiên cứu được điều tra, thu thập tại VQG Cúc Phương, tỉnh Ninh

Bình, sinh cảnh đất rừng tự nhiên độ cao 300m.
2.2.2.

Thời gian nghiên cứu và số lượng mẫu
Chúng em tiến hành khảo sát và điều tra cấu trúc quần xã Oribatida từ tháng

5 và tháng 11 năm 2013. Chúng em tiến hành lấy mẫu tại sinh cảnh đất rừng tự
nhiên, độ cao 300m, thuộc VQG Cúc Phương, theo hai lần.
Trong đó:


1. Ngày 18 - 19/5/2013 với số lượng 24 mẫu.
2. Ngày 9 - 10/11/2013 với số lượng 24 mẫu.

Tống số mẫu nghiên cứu được thu, trình bày chi tiết ở bảng 2.1.
Bảng 2.1. Số lượng mầu thu ở đai cao 300m, sinh cảnh đất rừng tự nhiên tại
VQG Cúc Phương, tỉnh Ninh Bình
STT

ĐÂT 0 -10CM
ĐL

ĐT

ĐÂT 11 -20CM
ĐL

ĐT

RÊU
ĐL


ĐT

ĐL

ĐT

LÂN 1


5

1

5

1

5

1

5

1

LÂN 2

5

1

5

1

5

1


5

1

TÔNG

10

2

10

2

10

2

10

2

CHUN
G

24

12


12

48

Ghi chú:
ĐL: Định lượng

Lần 1: ngày 18 - 19/5/2013

ĐT: Định tính

Lần 2: ngày 9-10/11/2013

- Phân tích trong phòng thí nghiệm từ tháng 5/2013 đến tháng 12/2013. Xử lý số
liệu và hoàn thành khóa luận cho đến tháng 4/2015.


2.3.

Vật liệu nghiên cún

- Dụng cụ thu mẫu ngoài thực địa: Hộp cắt kim loại hình khối hộp chữ nhật cỡ
(5x5x10)cm. Túi nilon đựng mẫu, bút dạ không xóa, số ghi chép, máy xác định
tọa độ địa lý GPS.
- Trong phòng thí nghiệm: Hệ thống lọc mẫu đất (rây lọc, phễu lọc,...); dụng cụ
tách mẫu, phân tích mẫu và làm tiêu bản (đĩa petri, lam kính, ống hút, bút tách
mẫu, giấy thấm, bông,...) và kính lúp, kính hiển vi 40x/0,65
- Hóa chất sử dụng: Glixeron, Formandehid, cồn 90°
2.4.


Phương pháp nghiên cún

2.4.1.

Xác định thành phần loài bằng các phương pháp

2.4.1.1.

Thu mâu rêu, thảm lả, đất

Ớ VQG Cúc Phương, chúng em tiến hành thu mẫu tầng đất, tầng rêu và
thảm lá. Mầu đất được lấy ở độ sâu 0 -lOcm (AỊ) và tầng 10- 20cm (tầng A2)
với kích thước mỗi mẫu thu là (5x5x10)cm. Đối với thảm lá rừng phủ trên mặt đất
chúng em tiến hành gom tất cả lá mục, cành cây, xác hữu cơ phủ trên mặt đất diện
tích (20x20)cm. Đối với các mẫu thảm rêu mẫu định lượng là 300g rêu bám trên
thân cây gỗ ròng, xác vụn thực vật trên mặt đất nằm ở độ cao từ 0 -lOcm trên mặt
đất. Các mẫu này đều cân trọng lượng và tính trung bình theo kg.
2.4.1.2. Tách lọc mâu Oribatida theo phương pháp phêu lọc “BerỉeseTuỉỉgren ”
Theo nội dung và yêu cầu của phương pháp này, các dụng cụ cần thiết phải
sử dụng bao gồm có phễu thủy tinh có đường kính miệng là 18cm, đường kính vòi
là l,5cm và rây lọc. Bộ phễu được đặt trên giá gỗ hoặc giá tre, vòi phễu gắn với
ống nghiệm bên trong có sẵn dung dịch Forrmandehid 4%, bên trong có nhãn ghi
các thông tin về mẫu như thời gian đặt mẫu, tên mẫu, địa điểm, tầng đất và tên
người lấy mẫu... Rây lọc hình trụ đặt trên phễu, thành cái rây lọc bằng kim loại,
đường kính 15cm, cao 4cm, lưới lọc bằng nilon, kích thước mắt lưới bằng 2mm
[3].


Sử dụng phương pháp truyền thống của Krivolutsky, 1979 trong việc
nghiên cứu khu hệ và sinh thái động vật đất ở thực địa và trong phòng thí nghiệm

[24].
Các mẫu sau khi được thu ngoài thực địa sẽ tiếp tục được tiến hành tách
động vật chân khóp bé ra khởi đất theo phương pháp phễu lọc “Berlese- Tullgren”,
dựa vào tập tính hướng đất dương và hướng sáng âm của động vật đất, trong thời
gian 7 ngày, đêm, ở điều kiện nhiệt độ phòng thí nghiệm.
Xử lý mẫu, bảo quản và định loại: các ống nghiệm chứa động vật đất thu
được nhờ hệ thống phễu “Berlese- Tullgren” sẽ được đố trên giấy lọc đặt sẵn trên
đĩa petri đế dưới kính lúp 2 mắt để nhặt riêng từng nhóm Oribatida. Các mẫu
Oribatida không làm tiêu bản, sẽ được cho vào trong ống nghiệm chứa dung dịch
Formandehid 4%. Các ống nghiệm đều được gắn nhãn ghi đầy đủ thông tin ngày
lấy mẫu, địa điếm .... Toàn bộ tiêu bản định loại và các mẫu vật được bảo quản tại
phòng Động vật, khoa Sinh - KTNN, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2.
2.4.1.3.

Định loại Oribatida

Mầu Oribatida trước khi được định loại cần được tay màu, làm trong vỏ
kitin cúng. Quá trình làm trong màu có thê diễn ra trong một vài ngày hoặc lâu
hơn nên cần nhặt riêng Oribatida ra một lam kính lõm. Đưa lam kính quan sát
dưới kính lúp: dựa vào đặc điêm hình dạng ngoài, dùng kim tách sơ bộ chúng
thành nhóm có hình thù giống nhau riêng. Đặt lamen ở bên trái lam kính sao cho
chỉ phủ một phần chỗ lõm. Neu dung dịch axit nhở vào chỗ lõm dưới lamen chưa
đầy cần bố sung cho đầy. Dùng kim chuyến Oribatida vào chỗ lõm dưới lamen để
quan sát ở các tư thế khác nhau theo hướng lưng bụng và ngược lại. Khi mẫu ở
đúng tư thế quan sát, ta chuyến sang kính hiến vi.
Sau khi hoàn tất quá trình định loại Oribatida, các cá thể Oribatida được
chụp ảnh và các cá thế cùng một loài được cho vào ống nghiệm có đựng sẵn dung
dịch Formandehid 4%, sau đó dùng giấy can ghi đầy đủ các thông số tên loài cần
thiết bằng bút chì rồi nút bằng bông không thấm nước. Ghi tất cả tên loài đã được
định loại vào nhật kí phòng thí nghiệm.



Danh sách các loài Oribatida được sắp xếp theo hệ thống cây chủng loại
phát sinh dựa theo hệ thống phân loại của Balogh J. và Balogh P., 1992 [20],[21].
Các loài trong một giống được sắp xếp theo vần a, b, c. Định loại tên loài các tài
liệu phân loại, các khóa định loại của các tác giả: Vũ Quang Mạnh, 2007; Vũ
Quang Mạnh, Đào Duy Trinh, 2006; Willmann, 1931; Grandjean, 1954 [4, 11, 28,
29]. Tất cả các mẫu Oribatida sau khi đã được phân tích, định loại đã được TS.
Đào Duy Trinh kiểm tra và xác nhận.
2.4.2.

Đánh giá cấu trúc quần xã Oribatida

Cấu trúc quần xã Oribatida ở VQG Cúc Phương chúng em tiến hành lấy
mẫu nghiên cứu, phân tích và đánh giá đối với 4 chỉ số định lượng cơ bản là: Số
lượng loài; MĐTB; chỉ số đa dạng loài (H’); chỉ số đồng đều (J’). Đồng thời phân
tích sự thay đối các giá trị của 4 chỉ số định lượng này ở sinh cảnh rừng tự nhiên
độ cao 300m, theo các thời điểm lấy mẫu trong năm và theo độ sâu tầng đất (tầng
0 -10cm, 10- 20cm).
2.4.3.

Phương pháp phân tích và thống kê số liệu

Đe đánh giá được sự đa dạng loài trong quần xã, sự phong phú trong cấu
trúc quần xã Oribatida, em đã sử dụng phương pháp thống kê trong tính toán và
xử lý số liệu theo. Ket hợp với phần mềm Prime - E, 2001 [25], phần mềm Excell
2003.


Số lượng loài:

Số lượng loài được tính bằng tống số loài có mặt trong điếm nghiên cứu ở

tất cả các lần thu mẫu.


Mật độ trung bình: Được tính bằng số lượng cá thế có trong lkg đối với mẫu
rêu; số lượng cá thế có trên 1 m 2 đối với mẫu đất và mẫu lá, sau đó tính



trung bình ở tất cả các lần thu mẫu của điềm nghiên cứu.
Độ Ưu thế (D): tính theo công thức

Trong đó:

na- số lượng cá thể của loài a.


N- Tống số cá thế của toàn bộ mẫu theo sinh cảnh
hay theo địa điểm.
Độ ưu thế được được đánh giá ở 4 mức độ tính theo giá trị %.
Rất ưu thế: > 10.00% tống số cá thế của sinh cảnh nghiên cứu.
Ưu thế: 5 - 9,99% tống số cá thể của sinh cảnh nghiên cứu.
Ưu thế tiềm tàng: 2 - 4,99.00% tống số cá thề của sinh cảnh nghiên cứu.
Không un thế: < 2.00% tống số cá thể của sinh cảnh nghiên cứu.
Loài ưu thế là loài có D> 5% (Eromilov and Chistikov, 2007)[23].


Phân tích chỉ số đa dạng loài (H’)
Chỉ số (H’) Shannon - Weaner: Được sử dụng để tính sự đa dạng loài hay số

lượng loài trong quần xã và tính đồng đều về sự phong phú cá thế của các loài
trong quần xã.

Trong đó:

ĩìj - là số lượng cá thể của loài thứ i.
N - Tống số lượng cá thế trong sinh cảnh nghiên cứu.

Giá trị H’ dao động từ 0 đến + 00. Chỉ số này của quần xã phụ thuộc vào số
lượng loài và sự phong phú của các loài có trong quần xã.


Phân tích chỉ số đồng đều (J’)

Trong đó:

H’ - chỉ sô đa dạng loài.
s - số loài có trong sinh cảnh. Giá trị J’ dao động từ 0

đến 1.
2.5.
2.5.1.

Đặc điếmtự nhiên của Vườn Quốc gia Cúc Phương, Ninh Bình
Vị trí địa lỷ và địa hình
VQG Cúc Phương nằm ở phía đông nam dãy núi Tam Điệp, một dãy núi đá

vôi chạy từ tỉnh Sơn La ở hướng tây bắc. Địa hình Cúc Phương chủ yếu là núi đá
vôi có độ chênh cao trung bình so với mặt biến 400 - 450 m, cao nhất là đỉnh Mây
Bạc (656 m) nằm ở phía Tây Bắc và thấp dần về hai phía Tây Nam và Đông Nam.



Vườn quốc gia Cúc Phương nằm ở phía Tây tỉnh Ninh Bình, cách quốc lộ
1A 30 km và cách thủ đô Hà Nội 120 km về phía Nam. Vườn quốc gia Cúc
Phương nằm ở tận cùng phía Đông Nam của dãy núi đá vôi chạy theo hướng
Tây Bắc - Đông Nam. Đoạn núi đá vôi thuộc Cúc Phương có chiều dài 25 km,
rộng 10 km vói tọa độ địa lý:
-

Từ 20° 14đến 20°24 vĩ độ Bắc.

-

Từ 105°29 đến 105°44 kinh độ Đông.
VQG Cúc Phương nằm trong khối đá vôi, ranh giới bao gồm các đường ven
chân dãy núi đá vôi.

-

Phía Tây Bẳc- Đông Nam giáp các xầ thuộc huyện Lạc Son, các xã thuộc huyện
Yên Thủy tỉnh Hòa Bình.

-

Tây Nam và Tây Bắc bị giới hạn bởi 3 xã của huyện Thạch Thành tỉnh Thanh
Hóa.

-

Phía Đồng Nam và phía Nam được giới hạn bởi các xã Yên Quang, Văn Phương,

Kỳ Phú, Cúc Phương huyện Nho Quan [19].

2.5.2.

Khí hậu và thuỷ vãn
*Khíhậu
Khí hậu tại rừng Cúc Phương thuộc loại khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ

trung bình năm khoảng 24,7°c. Một năm có hai mùa rõ rệt:
+ Mùa mưa, nóng kéo dài tù’ tháng 5 đến tháng 10. Với lượng mưa chiếm
89,1% lượng mưa cả năm, nhiệt độ trung bình khoảng 26,4°c.
+ Mùa khô, lạnh từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, nhiệt độ trung bình thấp
khoảng 18,6°c với lượng mưa chiếm 10,9% lượng mưa cả năm.
Lượng mưa trung bình hàng năm lên tới 2.157mm với lượng mưa cao nhất
là 3300mm vào năm 1963. số ngày mưa trung bình năm là 224 ngày [30].
*Thuỷ vãn
Ngoài sông Bưởi và sông Ngang ở phía Tây Bắc, còn lại các khe nước cạn
có nước theo mùa. Ảnh hưởng của địa hình núi đá vôi nên tại rừng Cúc Phương ít
có dòng chảy trên bề mặt. Sau khi con mưa kết thúc, các khe khô dẫn nước vào


các mắt hút rồi chảy ngầm dưới lòng đất, rồi phun trào ra ở một số vó nước, điển
hình phải kế đến là suối nước ngầm bản Nga. Những nơi nước không kịp rút sẽ
gây hiện tượng ứ đọng và ngập úng tạm thời [19].
2.5.3.

Tho nhưỡng
Do ảnh hưởng của vị trí địa lý, khí hậu và các quá trình phong hóa, nên

VQG Cúc Phương hình thành 2 nhóm đất chính bao gồm 7 loại chính và 16 loại

phụ. Tuy nhiên chúng đều mang những đặc tính cơ bản sau:
+ Độ ấm tự nhiên tương đối cao.
+ Độ xốp của đất tốt.
+ Đất có khả năng hấp thụ cao biểu thị ở tống cation trao đối cao.
+ Hàm lượng sét tương đối thấp.
+ Không phụ thuộc độ cao, chúng đều có hàm lượng mùn lớn [19].
Chương 3 KÉT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Thành phần loài Ve giáp (Acari: Orỉbatida) ở sinh cảnh đất rừng tự
nhiên độ cao 300m thuộc VQG Cúc Phương
3.1.1. Thành phần loài và phân bố của quần xã Oribatida ở sinh cảnh đất rừng
tự nhiên độ cao 3ớỡm thuộc VQG Cúc Phương
Nghiên cứu về cấu trúc quần xã Oribatida ở VQG Cúc Phương, Ninh Bình,
em đã tiến hành thu mẫu ở hai tầng đất (tầng A]\ 0 - lOcm; tầng A2: 10 - 20cm)
theo chiều thang đứng; tầng thảm lá rừng, xác vụn thực vật phủ trên mặt đất; tầng
xác vụn thực vật và thảm rêu trên mặt đất và thân cây thuộc đai cao khí hậu 300m
của sinh cảnh đất rừng tự nhiên. Trong hai lần thu mẫu tại điểm nghiên cún (tháng
5 năm 2013 và tháng 11 năm 2013). Ket quả nghiên cứu đã ghi nhận được sự có
mặt của 59 loài thuộc 41 giống của 30 họ (Bảng 3.1.). Trong bảng 3.1 giới thiệu
về thành phần loài và sự phân bố của Oribatida ở sinh cảnh đất rừng tự nhiên của
đai cao 300m theo 4 tầng phân bố theo chiều thẳng đứng (Aị: tầng đất từ 0 - lOcm;
tầng A2: tầng đất từ 10 - 20cm; 0: tầng thảm lá rừng, xác vụn thực vật phủ trên mặt
đất; +1: tầng xác vụn thực vật và thảm rêu từ 0 - lOOcm trên mặt đất).


Thành phần loài Oribatida trong bảng 3.1 được sắp xếp theo hệ thống phân
loại của Vũ Quang Mạnh, 2007 và tác giả J. Balogh và p. Baogh, 1992 [4], [21].
Khi so sánh khu hệ Oribatida ở hai lần lấy mẫu trong năm, thì số loài thu
được ở mỗi lần lấy mẫu có sự chênh lệch nhau không đáng kế ở cả 4 tầng phân bố.
Bảng 3.1. Thành phần loài Oribatida theo các tầng phân bố ỏ’ độ cao 300m,
thuộc VQG Cúc Phương



Họ
Giố Lo
ng
ài

Tên loài

I

HYPOCHTHONIIDAE, BERLESE, 1910
Giông Eniochthonius Berlese, 1910
Eniochthonỉus mỉnutissimus Berlese, 1904
COSMOCHTHONIIDAE GRANDIJEAN, 1947
Giông Cosmochthonỉus Berlese, 1910
Giông Phyllhermannia Berlese, 1916
Cosmochthonius lanatus (Michael, 1887)
Phyllhermannia gladiata Aoki, 1965
EUPHTHIRACARIDAE JACOT, 1930
Phyllhermannia similỉs Balogh et Mahunka, 1967
Giông Rhysotritia Maerkel et Meyer, 1959
HERMANNIELLIDAE GRAND JEAN, 1934
Rhysotritia ardua (C. L. Koch, 1841)
Giông Hermannielỉa Berlese, 1908
Rhysotritia duplica (Grandjean, 1953)
Hermannỉella thanỉ Mahunka, 1987
LOHMANNIIDAE BERLESE, 1916
DAMAEIDAE BERLESE, 1896
Giông Javacarus Balogh, 1961

Giông Belba Heyden, 1826
Javacarus kuehnelti Balogh, 1961
Relba corynopus (Hermann, 1804)
Giông Lohmannia Michael, 1898
CEPHEIDAE
BERLESE,
Lohmanniajavana
Balogh,1896
1961
Giông
Sphodrocepheus
Woolley
Giông Papillacarus Kunst, 1959et Higgins, 1963
Sphodrocepheus
tuberculatus
Mahunka,
Papiỉacarus aciculatus
(Berlese,
1905) 1988
EREMULIDAE
GRANDJEAN,
1965 1987
Papilacarus arboriseta
Vu et Jeleva,
Giông Eremulus Berlese, 1908
Papỉlacarus undrỉrostratus Aoki, 1964
Eremulus evenifer Berlese, 1913
NOTHRIDAE BERLESE, 1896
EREMOBELBIDAE BALOGH, 1961
Giông Nothrus C. L. Koch, 1836

Giông Eremobelba Berlese, 1908
Nothrus baviensis Krivolutsky, 1998
Eremobelba bellicosa Balogh et Mahunka, 1967
Nothrus montanus Krivolutsky, 1998
Eremobelba capitata Berlese, 1912
TRHYPOCHTHONIDAE WILLMANN, 1931
ZETORCHESTIDAE
MICHAEL,
1898
Giống Archeozetes Grandjean,
1931
Giông Zetochestes Berlese, 1888
Archegozetes longisetosus Aoki, 1965
Zetochestes salt at or Oudemans, 1915
NANHERMANNIIDAE SELLNICK, 1928
ASTEGISDAE BALOGH, 1961
Giông Nanhermannia Berlese, 1913
Giông Cultroribula Berlese, 1908
Nanhermannia thainensis Aoki, 1965
Cultroribula
lata Aoki,
1961 1928
HERMANNIIDAE
SELLNICK,
Cultroribula lata sp.
PELOPPIIDAE BALOGH, 1943
Giông Ceratoppia Berlese, 1908
Ceratoppia crassiseta Balogh et Mahunka, 1967
Giông Furcoppia Balogh et Mahunka, 1966
Furcoppia parva Balogh et Mahunka, 1967

CARABODIDAE C. L.KOCH, 1837
Giông Aokiella Balogh et Mahunka, 1967
Aokiella florens Balogh et Mahunka, 1967
Giông Austrocarabodes Hammer, 1966
Austrocarabodes szentivanyi (Balogh et Mahunka,
1967

1
1
II
2
10

2
14
III
15
3
IX
3
11
4
16
IV
X
4
12
5
17
5

XI 6
13
6
18
7
XII 8
14
9
19
V
XIII
7
15
10
20
11
21
IV
XIV
8
16
12
22
VII
XV
9
17
13
23
VIII

24
XVI
18
25
19
26
XVII
20
27
21
28

Al

A2

+1

0

X

X
X

X

X
X


X

X
X
X
X

X

X

X

X
X
X

X

X

X
X

X
X
X

X


X
X

X
X

X
X

X

X

X

X
X
X

X
X

X
X

X
X

X


X

X

X

X

X

X

X

X

X


XVIII
22
29
XIX
23
30
31
24
32
33
34

35
36
25
37
45
XX
46
26
34
38
47
XXI
48
27
49
39
50
28
XXVI
40
35
XXII
51
29
52
41
XXVII
XXIII
36
30

53
42
XXVIII
XXIV
37
31
54
43
38
XXV
55
32
56
44
39
33
57
XXIX
40
58
XXX
41
59

TECTCEPHEIDAE GRANDJEAN, 1954
Giông Tectocepheus Berlese, 1913
Tectocepheus cuspidentatus Knülle, 1954
OTOCEPHEIDDAE BALOGH, 1961
Giông Otocepheus Berlese, 1905
Acrotocepheus duplicornutus Aoki, 1965

Acrotocepheus triplicornutus Balogh et Mahunka,
1967
Giông Dolicheremaeus Jacot, 1938
Dolicheremaeus aoki (Balogh et Mahunka, 1967)
Dolicheremaeus bartkei Rajski et Szudrowice, 1974
Dolicheremaeus ornata (Balogh et Mahunka, 1967)
Dolicheremaeus inaequalis Balogh et Mahunka,
1967
Dolicheremaeus lineolatus Balogh et Mahunka,
1967
GiôngFissicepheus Balogh et Mahunka, 1967
Fissicepheus elegans Balogh et Mahunka, 1967
Perxylobates brevisetus Mahunka, 1988
EREMELLDAE BALOCH, 1961
Perxylobates vermiseta (Balogh et Mahunka, 1968)
GiôngEremella Berlese, 1913
Giông Xylobates Jacot, 1929
Eremella vestita Berlese, 1913
Xylobates capucinus (Berlese, 1908)
OPPIIDAEGRANDDJEAN, 1954
Xylobateslophotrỉchus (Brerlese, 1904)
Giông Pulchroppia Subías et Balogh, 1989
Xylobates gracilis Aoki, 1962
Pulchroppia vietnamica (Balogh et Mahunka, 1967)
Xylobates monodactylus (Haller, 1804)
Giông Arcoppia Hammer, 1977
PROTORIBATIDAE J. BALOGH et P. BALOGH,
Arcoppia longisetosa Balogh, 1982
1984
Giông Liebstadia Oudemans, 1906

LIMONOZETIDAE GRANDJAE, 1954
Liebstaclia humerata Sellnick, 1928
Giong Limnozetes Hull, 1916
Liebstadia humerata sp.
Limnozetes pastulatus (Mahunka, 1987)
ORIBATULIDAE, 1929
CYMBAEREMAEIDAE SLLNICK, 1928
Giông Cordiozetes Mahunka, 1983
Giông Scapheremaeus Berlese, 1910
Cordiozetes olahi (Mahunka, 1987)
Scapheremaeus foveolatus Mahunka, 1987
SCHELORIBATIDAE GRANDJDEAN, 1953
MOCHLOZETIDAE GRANDJEAN, 1960
GiôngEuscheloribates Kunst, 1958
Giông Unguizetes Sellnick, 1925
Euschelorỉbates samsinaki Kunst, 1958
Unguizetes clavatus Aoki, 1967
GiôngScheloribates Berlese, 1908
XYLOBATIDAE J. BALOGH et P. BALOGH,
1984
Scheloribates fimbriatus Thor, 1930
Giông Brasilobates Pérez-Inigo et Baggio, 1980
Scheloribates praeincisus (Berlese, 1916)
Brasilobates maximus Mahunka, 1988
Giông Oripoda Bank, 1904
GiôngPerxylobates Hammer, 1972
Oripoda excavata Mahunka, 1988
CERATOZETIDAE JACOT, 1925
Giông Allozetes Berlese, 1914
Allozetes pusillus Berlese, 191

MYCOBATIDAE GRANDJEAN, 1954
Giông Punctoribates Berlese, 1908
Punctoribates punctum (C. L. Koch, 1839)
Sô loài theo tâng phân bô

X

X

X
X
X

X
X

X
X

X
X

X

X

X

X
X

X
X
X
X

X
X

X
X

X
X
X
X

X

X

X

X

X

X
X

X

X

X

X

X

X

X

X

X
X

X
X

X

X
X
X
X

X

X


X

X

25

X
24

25

37


Ghi chú:
X: Loài xuất hiện ở tầng phân
bố -1: Tầng đất 0 - lOcm.
-2: Tầng đất 10 - 20cm
3.1.2.

Thành phần phân loại học quần xã oribatida ở rùng tự nhiên đai cao

300m, thuộc VQG Cúc phương
Ket quả bảng 3.1 cho thấy, trong số các họ đã được ghi nhận có một số họ
có số lượng loài và giống tương đối lớn chiếm tỉ lệ khá cao trong tống số các loài
và các giống đã thu được tại khu vực nghiên cứu. Cụ thế:
Họ Otocepheidae Balogh, 1961 có 3 giống, 8 loài chiếm tỷ lệ cao nhất
trong các họ đã thu được (chiếm tương ứng 7.3% tống số giống, 13.5% tống số
loài đã thu được); Họ Xylobatidae J. Balogh et p. Balogh, 1984 cũng bao gồm 3

giống nhưng chỉ có 7 loài (chiếm tương ứng 7.3% tống số giống và
11. 86% tống số loài); Tiếp theo là Họ Lohamanniidae Berlese, 1916 cũng bao gồm 3
giống nhưng chỉ có 5 loài (chiếm tương ứng 7.3% tống số giống và 8,47% tống số
loài); Họ Scheloribatidae Grandjean, 1953, cũng đã ghi nhận được 3 giống với 4
loài (chiếm tương ứng 7.3% tống số giống và 6.77% tổng số loài); HọCarabodidae
C. L. Koch, 1837; Tectocepheidae Grandjean, 1954; Họ Oppiidae Grandjean,
1954 là ba họ đều có 2 giống và 2 loài (chiếm tương ứng 4.8% tống số giống và
3.38% tống số loài); có 4 họ mà mỗi họ chỉ có 1 giống và 2 loài là Họ
Euphthiracaridae

Jacot,

1930;

Họ

Hermanniidae

Sellnick,

1928;

Họ

Eremobelbidae Balogh, 1961; Họ Nothridae Berlese, 1896 (chiếm tương ứng
3,5% tổng số loài), các họ còn lại chỉ bao gồm 1 giống và 1 loài chiếm số lượng
khá cao (19 trên tống số 30 họ chiếm 63% tống số họ thu được tại khu vực nghiên
cứu).
Trong số 59 loài mà chúng em ghi nhận được qua hai lần thu mẫu tại đai
cao 300m ở sinh cảnh đất rừng tự nhiên thuộc VQG Cúc Phương, có 2 loài mà

chúng em chưa định loại được tên loài là Cultrorỉbula lata sp.và Lỉebstadỉa
humerrata sp. trên cơ sở các mẫu vật đã thu được ở vùng đã nghiên cứu, các mẫu


vật đã lun trữ trong phòng thí nghiệm, các bộ sun tập mẫu vật, các tài liệu và
thông tin lưu trữ của GS. TSKH Vũ Quang Mạnh và
TS. Đào Duy Trinh thì chúng em có thế khẳng định rằng hai loài chưa được định
tên có thế là loài mới cho khoa học. Tuy nhiên trong khuôn khố khóa luận tốt
nghiệp, do hạn chế về thời gian cũng như các trang thiết bị hỗ trợ nên chúng em
chưa định rõ tên của hai loài này. Hy vọng trong tương lai không xa thì hai loài
này sẽ được định loại một cách cụ thể.
3.2.

Cấu trúc quần xã Oribatida ở hệ sinh thái đất rừng tự nhiên, đai cao

300m thuộc VQG Cúc Phương
3.2.1.

Đa dạng thành phần loài
Ket quả ghi nhận về số loài thu được ở 4 tầng phân bố theo chiều thắng

đứng ở sinh cảnh đất rừng tự nhiên ở đai cao 300m, thuộc VQG Cúc Phương qua
hai lần thu mẫu có sự chênh lệch nhau không đáng kế (24 loài ở tầng đất sâu A 2;
25 loài ở tầng đất mặt Ai; 25 loài ở tầng rêu (tầng +1) và 37 loài ở tầng lá (tầng 0).
Trong đó, tầng có số lượng loài nhiều nhất là tầng lá.
Đối với mẫu thu vào mùa mưa (tháng 5 năm 2013), nhìn chung số lượng
các loài Oribatida của lần lấy mẫu này có số lượng loài và giống ít hơn so với các
mẫu được thu vào mùa khô (tháng 11 năm 2013). Đồng thời ở các tầng phân bố
của sinh cảnh này, số lượng các loài ở mỗi tầng phân bố cũng có sự chênh lệch.
Tuy nhiên sự chênh lệch này là không đáng kế. Cụ thế như sau: Nhừng mẫu thu

vào mùa mưa (ngày 18/5/2013) tầng đất A]- 19 loài; tầng đất A 2- 8 loài; Tầng 013 loài; Tầng lá - 14 loài. Mùa khô (9/11/2013) tầng đất A 2- 13 loài; tầng đất A] 13 loài; tầng rêu (+1) - 16 loài; tấng lá (0) - 19 loài.


×