TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA SINH - KTNN
===£oBQoa===
DƯƠNG THỊ THANH THẢO
ĐA DẠNG SINH HỌC CỒN TRÙNG NƯỚC ở ĐAI CAO
600 - 1000M THUÔC ĐIA PHÀN
VƯỜN QUỐC GIA TAM ĐẢO - HUYỆN TAM ĐẢO TỈNH VĨNH PHÚC KHÓA LUẬN TÓT NGHIỆP ĐẠI
HỌC
Chuyên ngành: Động vật học
Người hướng dẫn khoa học
ThS. NGUYỄN VĂN HIẾU
HÀ NỘI, 2015
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới ThS. Nguyễn Văn Hiếu,
cán bộ giảng dạy tổ Động vật, khoa Sinh - KTNN, trường Đại Học Sư Phạm Hà
LỜI CẢM ƠN
Nôi 2, đã tận tình hướng dẫn và đưa ra những ý kiến quý báu trong suốt thòi gian tôi
thực hiện đề tài này.
Tôi cũng xin gửi lòi cảm ơn chân thành tói tất cả các thầy cô giáo, cán bộ nghiên
cứu đang công tác tại tổ Động vật, đã tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong quá trình
nghiên cứu khoa học và làm thực nghiệm tại bộ môn.
Cuối cùng xin gửi lời cảm ơn chân thảnh nhất đến gia đình, bạn bè, thầy cô những
người đã luôn động viên, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu khoa
học.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 05 tháng 05 năm 2015 Sinh viên
Dương Thị Thanh Thảo
Tôi xin cam đoan: Luận văn này là công trình nghiên cứu thực sự của cá nhân,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của ThS. Nguyễn Văn Hiếu.
Các số liệu , những nghiên cứu được trình bày trong luận văn này trung thực và
chưa từng được công bố dưới bất cứ hình thức nào.
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 05 tháng 05 năm 2015 Sinh viên
Dưvng Thị Thanh Thảo
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN LỜI
CAM ĐOAN DANH
MỤC BẢNG DANH
MỤC HÌNH
DANH MỤC CÁC HÌNH
*
Hình 2.1. Sơ đồ các điểm thu mẫu ở suối Thác Bạc - VQG Tam Đảo, tỉnh
Vĩnh
Hình 3.5. Sự biến đổi thành phần loài theo độ cao của các bộ côn trùng nước..
47 Hình 3.6. Sơ đồ Sorensen thể hiện mối liên quan giữa các điểm nghiên
cứu .... 49
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Côn trùng nước là một trong những nhóm sinh vật quan trọng toong hệ sinh thái các
thủy vực nước đứng cũng như nước chảy, có mặt hầu hết toong các thủy vực nội địa, đặc
biệt rất phổ biến ở các hệ thống sông, suối thuộc vùng trung du, núi cao. Là nhóm sinh vật
có khả năng thích nghi cao: phù hợp với nhiều môi trường thủy vực khác nhau. Nổi trội bởi
số lượng loài cũng như số lượng cá thể lớn...đặc biệt chúng là những mắt xích quan trọng
trong chuỗi và lưới thức ăn. Các loài côn trùng nước không chỉ là những sinh vật tiêu thụ
bậc 1, bậc 2 mà còn là nguồn thức ăn của nhiều loài động vật có xương sống. Bên cạnh việc
đóng vai trò cân bằng mối quan hệ dinh dưỡng ở hệ sinh thái thủy vực và là cầu nối mật
thiết với con người, một số loài côn trùng nước lại là tác nhân truyền bệnh, tác nhân gây
bệnh. Chính vì vậy côn trùng nước là đối tượng được nhiều nhà khoa học trên thế giới và
Việt Nam quan tâm nghiên cứu.
Vườn Quốc Gia Tam Đảo là một Vườn quốc gia của Việt Nam, nằm trọn trên dãy núi
Tam Đảo, một dãy núi lớn dài trên 80km, rộng 10 - 15km chạy theo hướng Tây Bắc - Đông
Nam. Vườn trải rộng trên ba tỉnh Vĩnh Phúc (huyện Tam Đảo), Thái Nguyên (huyện Đại
Từ) và Tuyên Quang (huyện Sơn Dương), cách Hà Nội 75km về phía Bắc. Nhưng chủ yếu
thuộc địa phận tỉnh Vĩnh Phúc. Vườn quốc gia Tam Đảo - Huyện Tam Đảo - Tỉnh Vĩnh
Phúc là nơi có hệ thống sông, suối phong phú tiềm ẩn tính đa dạng côn trùng nước, tuy
nhiên việc nghiên cứu nhóm sinh vật ở đai cao 600 - lOOOm vẫn chưa được nghiên cứu rõ.
Yì vậy tôi lựa chọn hướng nghiên cứu “ Đa dạng sinh học côn trùng nước ở đai cao 600 lOOOm thuộc đia phận Vườn Quốc gia Tam Đảo - Huyện Tam Đảo - Tỉnh Vĩnh Phúc
2. Mục đích
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu đa dạng sinh học côn trung nước và sự
phân bố của côn trùng nước theo mùa ở đai cao 600 - lOOOm thuộc địa phận Vườn quốc
gia Tam Đảo - Huyện Tam Đảo - Tỉnh Vĩnh Phúc.
3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn
5
3.1. Ý nghĩa khoa học Đề tài cung cấp những dẫn liệu đa dạng sinh học về loài của
nhóm côn trùng nước và sự phân bố của chúng theo mùa ở đai cao 600 - lOOOm thuộc địa
phận Vườn Quốc gia Tam Đảo, huyện Tam Đảo, Tỉnh Vĩnh Phúc
Ý nghĩa thực tiễn Kết quả của đề tài góp phần cung cấp
những tư liệu phục vụ cho việc nghiên cứu về côn trùng nước
sau này tại địa phận Vườn quốc gia Tam Đảo, Huyện Tam Đảo,
Tỉnh Vĩnh Phúc nói chung.
Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1.Tình hình nghiên cứu côn trùng nước trên thế giới
Côn trùng nước đã được quan tâm nghiên cứu từ rất lâu trên thế giới, đặc biệt ở
những nước phát ữiển. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến từng bộ của
nhóm côn trùng này, từ những nghiên cứu về phân loại học ( Eaton, 1871, 1883 - 1888;
Lepneva, 1970, 1971; McCafferty, 1973, 1975; Kawai, 1961, 1963), sinh thái học (Brittain,
1982), tiến hoá (Edmunds, 1972 ; McCafferty, 1991) đến những nghiên cứu về ứng dụng
(Morse, 1984). Nhiều nhóm côn trùng nước gắn bó chặt chẽ với đời sống con người như
ruồi, muỗi...Chúng là tác nhân gây bệnh hoặc tác nhân truyền bệnh cho người và động vật.
Vì vậy mà từ rất sớm, nhiều nhà khoa học đã quan tâm nghiên cứu đến các loài côn trùng
này như: Resh và Rosenberg, 1979; Merritt và Cummins, 1984; Merritt và Newson, 1978;
Kim và Merritt, 1987 [29].
Các loài côn trùng nước rất nhạy cảm với môi trường, nhiều loài trong số chúng là
sinh vật chỉ thị cho chất lượng môi trường nước. Việc sử dụng côn trùng nước làm sinh vật
chỉ thị chất lượng nước được nghiên cứu từ những năm 60 của thế kỷ XX. Bằng chứng là
các công ưình nghiên cứu của Kuehne (1962), Bartsch và Ingram (1966), Wilhm và Dorris
(1968). Sang những năm 1970, 1980 côn trùng nước trở thành vấn đề ữung tâm trong các
nghiên cứu về sinh thái học ở các thủy vực nước ngọt (Barnes và Minshall, 1983). Đã từ
lâu, các nhà khoa học sớm nhận ra vai trò quan trọng của côn trùng nước trong các hệ sinh
thái, do đó phạm vi nghiên cứu côn trùng nước ngày càng được mở rộng, các hướng nghiên
cứu không chỉ dừng lại ở việc mô tả, phân loại mà còn đi sâu vào các cơ chế bên trong như:
6
biến động quần thể côn trùng, các mối quan hệ dinh dưỡng, đáp ứng yêu cầu của sinh thái
học (Resh và Rosenberg, 1984; Cummins, 1994) [29].
Đến cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, nhiều nhà khoa học đã công bố hàng loạt
các công trình nghiên cứu về côn trùng nước như: McCafferty W.P. (1983), John C.M.,
Yang Lianfang and Tian Lixin (1994), Merritt R. w. and Cummins K. w. (1996),... Các
nghiên cứu này đã đưa ra khóa định loại tới giống, thậm chí tới loài côn trùng nước dựa vào
hình thái con trưởng thành và ấu trùng. Bên cạnh đó các tác giả còn đề cập đến một số ứng
dụng của chúng trong sinh thái học.
* Nghiên cứu về bộ Phù du (Ephemeroptera)
Bộ Phù du (Ephemeroptera) được xếp vào nhóm côn trùng có cánh cổ sinh, những
bằng chứng về hóa thạch của chúng được tìm thấy đầu tiên thuộc kỷ Cacbon và kỷ Pecmơ
trong đại cổ sinh (cách đây khoảng 250 triệu năm). Các loài thuộc bộ Phù du được mô tả từ
rất sớm. Nhà tự nhiên học nổi tiếng Lineaus (1758), đã mô tả 6 loài Phù du tìm thấy ở châu
Âu và xếp chúng vào một nhóm, ông đặt tên là Ephemera. Có thể xem đây là công trình đầu
tiên đặt nền móng cho các nghiên cứu về Phù du sau này [34].
Nghiên cứu về Phù du thực sự phát triển mạnh mẽ vào thế kỷ XX, điển hình là các
công trình nghiên cứu của Ulmer (1920, 1924, 1925, 1932, 1933), Navás (1920, 1930),
Lestage (1921, 1924, 1927, 1930), Needham và cộng sự (1935). Edmunds (1962), đã xây
dựng hệ thống phân loại đến họ thuộc bộ Phù du trên toàn thế giới. Ông đã đưa ra một bức
tranh tổng thể về khóa phân loại bậc cao cũng như nguồn gốc phát sinh của Phù du. Sau
này, do sự phát triển mạnh mẽ trong các lĩnh vực nghiên cứu về Phù du cả về chiều rộng lẫn
chiều sâu nên hệ thống phân loại của ông càng ngày càng bị hạn chế. Me Cafferty và
Edmunds (1973), đã bổ sung những dẫn liệu mới và chỉnh lý khóa phân loại cho phù hợp
với thực tế nghiên cứu đòi hỏi. Trong khóa định loại này, ngoài việc mô tả đặc điểm hình
thái thì mối quan hệ họ hàng giữa các loài trong quá trình tiến hóa cũng được các tác giả đề
cập đến. Cho đến nay, hệ thống phân loại này vẫn được áp dụng trên thế giới khi nghiên
cứu về Phù du [29].[34].
7
Ulmer (1939), đã mô tả một số lượng lớn các loài Phù du ở đảo Sudan (Indonesia),
tài liệu này rất cần thiết cho việc nghiên cứu khu hệ Phù du ở vùng Đông Nam Á. Tiếp sau
đó, Gose (1985) tiến hành xây dựng khóa định loại ấu trùng Phù du ở Nhật Bản. Trong
những thập niên 90 của thế kỷ XX, Bae và cộng sự (1994), Bae & Yoon (1997) đã hoàn
thành danh lục Phù du ở Hàn Quốc [34].
Các kết quả nghiên cứu cho thấy, ở châu Á có khoảng 128 giống thuộc 18 họ của bộ
Phù du (Hubbard, 1990; McCaffrty, 1991; McCaffrty & Wang, 1997, 2000; Dudgeon,
1999). Cho đến nay, những nghiên cứu liên quan đến phân loại và hệ thống học Phù du khá
tỉ mỉ, các nhà khoa học đã xây dựng khoá phân loại chi tiết tới loài kể cả giai đoạn ấu trùng
và trưởng thành. Hiện nay, hướng nghiên cứu tập trung vào các vấn đề sinh thái, phục hồi
và bảo tồn các loài cũng như các nghiên cứu ứng dụng của Phù du vào thực tiễn [34].
Gần đây, các công trình nghiên cứu đề cập đến khả năng sử dụng Phù du là sinh vật
chỉ thị chất lượng môi trường nước vì nhiều loài thuộc bộ Phù du rất nhạy cảm với sự biến
đổi của môi trường như một số công trình của Landa và Soldan (1991), Bufagni (1997) [34].
* Nghiên cứu về bộ Chuồn chuồn (Odonata)
Bộ Chuồn chuồn (Odonata) là bộ côn trùng có kích thước cơ thể lớn, vòng đời của
chúng trải qua 3 giai đoạn: trứng, thiếu trùng, con trưởng thành. Thiếu trùng thường sống
trong nước, chủ yếu ở vùng nhiệt đới hoặc vùng khí hậu ấm, con trưởng thành sống ữên cạn.
Cả giai đoạn thiếu trùng và trưởng thành đều ăn thịt. Bộ Chuồn chuồn được chia thành 3
phân bộ là: phân bộ Anisozygoptera, phân bộ Zygoptera (Chuồn chuồn kim) và phân bộ
Anisoptera (Chuồn chuồn ngô). Phân bộ Anisozygoptera chỉ có 1 giống là Epỉophlebỉa,
giống này có một số loài chỉ phân bố ở độ cao khoảng 2.000m ở những con suối thuộc Nhật
Bản và vùng núi cao Himalaya (Tani & Miyatake, 1979; Kumar & Khanna, 1983). Hai phân
bộ còn lại phân bố rộng cả ở nơi nước đứng cũng như nước chảy với số lượng loài vô cùng
phong phú [30].
Trước kia, các công trình nghiên cứu về Chuồn chuồn chủ yếu tập trung mô tả hình
dạng và đặc điểm ngoài các loài Chuồn chuồn thu thập được ở châu Á và châu Âu nhằm xây
8
dựng khóa định loại. Điển hình cho các công trình nghiên cứu này là: Needham (1930),
Fraser (1933, 1934, 1936), Askew (1988), Zhao (1990), Hisore & Itoh (1993), Wilson
(1955). Watson (1991), nghiên cứu khu hệ chuồn chuồn ở úc. Ngoài các công trình nghiên
cứu về phân loại học còn có những công trình nghiên cứu về Địa động vật học như:
Prinratana (1988), Tsuda (1991). Các công trình nghiên cứu về Sinh học và Sinh thái học
của Corbet (1980), Hutchinson (1993). Các công trình nghiên cứu này chủ yếu dựa vào giai
đoạn trưởng thành. Đối với giai đoạn ấu trùng, Ishida & Ishida (1985) đã xây dựng khóa
định loại có kèm theo hình vẽ rõ ràng tới giống ở vùng châu Á. Merritt và Cummins (1996),
xây dựng khóa định loại tới giống ở cả giai đoạn thiếu trùng và trưởng thành bộ Chuồn
chuồn thuộc khu vực Bắc Mỹ [2].
* Nghiên cứu về bộ Cánh úp (Plecoptera)
Hiện nay, trên thế giới bộ Cánh úp (Plecoptera) biết khoảng 2.000 loài và là một
ữong những nhóm côn trùng có các đặc điểm nguyên thủy với nhóm có cánh hiện nay. Hóa
thạch của chúng được tìm thấy đầu tiên thuộc kỷ Pecmi, nó có những đặc điểm khác biệt
với Cánh úp hiện đại về số đốt bàn và cánh ở phần ngực (Hynes, 1976) [18].
Đe nhận dạng bộ Cánh úp, người ta dựa vào một số đặc điểm: chúng có 3 đốt bàn
nhưng chân sau không biến đổi để thích hợp theo kiểu nhảy như một số loài thuộc bộ Cánh
thẳng (như dế và châu chấu). Chúng có angten dài dạng chỉ, tơ đuôi khá dài đặc biệt là các
ấu trùng ở nước. Hầu hết, cánh của các loài thuộc bộ Cánh úp rất phát triển nhưng đôi khi
lại ngắn. Các đặc điểm đó dùng để phân biệt chúng với bộ Cánh màng. Ấu trùng bộ Cánh
úp trải qua thời gian dài sống ở nước [18].
Các ấu trùng Cánh úp giống con trưởng thành ở nhiều đặc điểm. Ấu trùng luôn có tơ
đuôi dài và không bao giờ có tơ đuôi ở giữa. Mang nếu có, chỉ tìm thấy ở phần ngực và
phần bụng được tạo thành giữa các tơ đuôi. Ấu trùng sống chủ yếu ở nước, có một vài loài
sống trong đất am (Harpers và Stewart, 1996). Nơi sống lý tưởng của chúng là những suối
đá chảy thành dòng, nhưng có một vài loài sống trong cát, các hồ ấm áp cũng là nơi cư trú
của chúng [18].
9
Khu hệ Cánh úp ở châu Á được nghiên cứu bởi những người châu Á và châu Âu.
Trong suốt những thập niên 30 của thế kỷ XX, Wu và Claassen (1934, 1935, 1937, 1938) đã
mô tả khóa định loại Cánh úp ở miền Nam Trung Quốc. Kawai (1961 - 1975) nghiên cứu
một vài loài ở Ấn Độ, Bangladesh đến phía Nam châu Á. Zwick và Sivec (1980) mô tả một
số loài Cánh úp ở Himalaya. Vào thập niên 80 của thế kỷ XX, Zwick (1980, 1983, 1985,
1988) cũng đưa ra những nghiên cứu về khu hệ Cánh úp ở Đông Nam Á. Uchida và cộng sự
(1988, 1989) mô tả một vài loài thuộc Perlinae (Perlidae) ở Malaysia, Thái Lan và mô tả 2
giống thuộc Peltoperlidae (Cryptoperỉa và Yoraperla) ở Nhật Bản và Đài Loan. Stark
(1979, 1987, 1983, 1991, 1999) đã ghi nhận nhiều loài mới trong họ Peltoperlidae và
Perlidae ở châu Á. Gần đây, Du (1998, 1999, 2000) đã công bố những tài liệu liên quan đến
Perlidae ở miền Nam Trung Quốc [18].
Morse J. c., Yang Lianfang & Tian Lixin (1994); Merritt & Cummins (1996) khi
nghiên cứu khu hệ Cánh úp ở Trung Quốc và Bắc Mỹ, các tác giả đã xây dựng khóa định
loại tới giống ấu trùng của bộ này, đó là cơ sở cho việc định loại các loài thuộc bộ Cánh úp
ở Trung Quốc và Bắc Mỹ sau này.
* Nghiên cứu về bộ Cánh lông (Trichoptera)
Cánh lông là một trong những bộ có số lượng loài phong phú. Những nghiên cứu về
hệ thống phân loại bậc cao của bộ Cánh lông được thực hiện bởi Ross (1956, 1967) và sau
đó tiếp tục được bổ sung và hoàn thiện bởi Morse (1997) [22].
Bộ Cánh lông được nghiên cứu ở Đông Nam Á từ rất sớm bởi Ulmer (1911, 1915,
1925, 1927, 1930, 1932) và Navás (1913, 1917, 1922, 1930, 1932), đặc biệt là Ulmer khi
nghiên cứu khu hệ động vật ở Indonesia (1951, 1955, 1957). Ông đã cung cấp những thông
tin cơ bản về Cánh lông ở khu vực nghiên cứu này. Cánh lông ở Borneo đã được nghiên
cứu khá tỷ mỉ lần đầu bởi Kimmins (1955). Ở Philippin, Banks (1937) là người đầu tiên
nghiên cứu khu hệ Cánh lông ở khu vực này. Tiếp đến là Ulmer (1955, 1957) nghiên cứu
dựa vào giai đoạn ấu trùng. Trong khi đó các hướng nghiên cứu khác lại dựa vào giai đoạn
trưởng thành. Đặc biệt trong giai đoạn gần đây việc nghiên cứu dựa vào giai đoạn trưởng
1
0
thành lại càng được quan tâm như: Kimmis (1953), Banard (1980, 1984), Oláh (19871989), Chantaramongkol (1986, 1989, 1995), Malicky (1970, 1978,1979, 1981, 1987, 1989,
1992, 1993, 1994, 1995, 1997, 1998, 2000, 2002-2004), Malicky và Chantaramongkol
(1989, 1991 - 1994, 1996, 1997, 2000), Mey (1989, 1990, 1995 - 1999, 2001 - 2003),
Weavers (1985, 1987, 1989, 1992, 1994), Ismail (1993, 1996), Scheffer (2001), Armitage
và Arefina (2003), Klaithong (2003). Ismail (1993, 1996, 1997) cũng tiến hành nghiên cứu
trên ấu trùng Cánh lông tại một số nước ở khu vực Đông Nam Á [22]. [30].
Ngoài các công trình nghiên cứu ở các nước Đông Nam Á, khu hệ Cánh lông cũng
được quan tâm nghiên cứu ở các quốc gia khác như: Ân Độ, Srilanka được nghiên cứu bởi
Martynov (1935, 1936), Trung Quốc (Martynov, 1931; Wang, 1963), Nhật Bản (Iwata,
1927; Tanida, 1987). Trong giai đoạn hiện nay, hướng nghiên cứu đánh giá chất lượng nước
dựa trên đối tượng là các loài thuộc nhóm côn trùng này được nhiều nhà khoa học quan tâm
tìm hiểu. Do đó, các công trình liên quan đến giai đoạn ấu trùng xuất hiện ngày càng đồ sộ
như nghiên cứu của Wiggins (1996). Ở khu vực Bắc Mỹ, Merritt R. w. & Cummins K. w.
(1996), đã xây dựng khóa định loại tới giống của bộ Cánh lông ở cả giai đoạn ấu trùng và
trưởng thành [22].
* Nghiên cứu về bộ Cánh rộng (Megaloptera)
Bộ Cánh rộng được xem là nhóm côn trùng nguyên thủy trong nhóm côn trùng biến
thái hoàn toàn. Hiện nay, bộ Cánh rộng có khoảng 300 loài được biết trên thế giới và chia
thành hai họ là: Corydalidae và Sialidae. Giai đoạn trưởng thành ở cạn và ăn thịt, thường
hoạt động vào ban đêm. Tuy nhiên, giai đoạn ấu trùng lại sống dưới nước và ăn thịt các loài
động vật [30].
Số lượng loài thuộc họ Sialidae rất phong phú ở các thủy vực nước ngọt như: sông,
suối, hồ nơi có nhiều mùn, các mảnh vụn, cát hoặc sỏi nhỏ. Chúng trải qua 5 lần lột xác và
sống được khoảng 1 năm trong vòng đời của mình. Ấu trùng rời khỏi các thủy vực nước
ngọt và hóa nhộng. Các loài thuộc họ này lại phân bố rất hẹp. Ở châu Á, họ này mới chỉ
1
1
phân bố ở vùng ôn đới thuộc Hàn Quốc, Nhật Bản và một số nơi ở Trung Quốc (Bank,
1940) [30].
* Nghiên cứu về bộ Cánh cứng (Coleoptera)
Bộ Cánh cứng (Coleoptera) là bộ lớn nhất toong giới Động vật. Hiện nay, số loài
thuộc bộ côn trùng này vào khoảng 277.000 đến 350.000 loài và khoảng 10.000 thuộc nhóm
côn trùng nước. Theo các kết quả nghiên cứu nhóm sống dưới nước được xem là đa dạng
nhất ở khu hệ suối vùng nhiệt đới. Hiện nay, các công trình nghiên cứu về bộ Cánh cứng tập
trung vào phân loại học, sinh thái học, tiến hóa như: các nghiên cứu của Feng (1932, 1933),
Gschwendtner (1932), Fernando (1962, 1969), Nertrand (1973), Jach (1984). Heinrich &
Balke (1997), Gentuli (1995), Jach & Ji (1995, 1998, 2003) đã cung cấp khá đầy đủ những
dẫn liệu về phân loại học của bộ Cánh cứng ở châu Á. [30].[31].
Wu và cộng sự đã xác định ở Trung Quốc có 601 loài, Sato (1988) đã định loại được
311 loài ở Nhật Bản, Britton (1970) xác định ở úc có khoảng 510 loài và White (1984) đã
phân loại được 1.143 loài ở khu vực Bắc Mỹ thuộc bộ Cánh cứng [30].
* Nghiên cứu về bộ Hai cánh (Diptera)
Bộ Hai cánh là một trong những bộ côn trùng có số lượng loài nhiều nhất trong giới
Động vật với khoảng 120.000 loài sống ở nước được biết ưên thế giới. Đây là bộ có nhiều
họ rất phổ biến và được nghiên cứu rất kỹ, do chúng có quan hệ chặt chẽ với đời sống con
người như họ Muỗi (Culicidae), họ Ruồi đen (Simuliidae). Các nghiên cứu về bộ Hai cánh
đã được rất nhiều các nhà khoa học công bố, đặc biệt là các công trình nghiên cứu của
Alexander (1931), Mayer (1934), Zwich & Hortle (1989). Đối với khu vực châu Á,
Delfïnado & Hardy (1973, 1975, 1977) đã tổng hợp một danh lục khá đầy đủ về thành phần
loài của bộ Hai cánh ở miền Ân Độ - Mã Lai. Khóa định loại tới họ và giống hiện nay chủ
yếu thực hiện theo khóa định loại được xây dựng bởi Harris (1990) [29].[30].
*
Nghiên cứu về bộ Cánh nửa (Hemiptera)
Hiện nay, ữên thế giới đã xác định được
trên4.000
1
2
loài thuộc bộ Cánh nửa
sống ở nước (Dudgeon, 1999). Trong đó, khu vực châu Á có số lượng loài chiếm ưu thế,
đặc biệt có rất nhiều giống đặc hữu, thậm chí có cả những phân họ đặc hữu ở khu vực này
(Andersen, 1982; Spence & Andersen, 1994). Các công trình nghiên cứu về bộ Cánh nửa ở
châu Á được bắt đầu khá sớm bằng các nghiên cứu của Lundblad (1933), La Rivers (1970),
Lansbury (1972, 1973). Các họ toong bộ này cũng được nghiên cứu khá tỷ mỷ như: Nepidae
được nghiên cứu bởi Keffer (1990), Naucoridae là họ rất đa dạng ở vùng nhiệt đới châu Á
đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu như Nieser & Chen (1991, 1992), Sites và cộng
sự (1997). Merritt & Cummins (1996), Morse & cộng sự (1994) đã xây dựng khóa định loại
tới giống của các họ thuộc bộ Cánh nửa ở khu vực Bắc Mỹ và Trung Quốc.[30].[31].
Bộ Cánh nửa bao gồm 3 phân bộ: Gerromorpha, Nepomorpha và Leptopodomorpha.
Phân bộ Gerromorpha gồm hầu hết những cơ thể côn trùng sống trên bề mặt của nước.
Trong phân bộ này, có hai họ lớn là Velliidae (trên thế giới có khoảng 850 loài) và họ
Gerridae (khoảng 700 loài) (Chen và cộng sự, 2005). Theo Bendell (1988), Damgaard &
Andersen (1996) các loài trong họ Gerridae được xem như những sinh vật chỉ thị cho chất
lượng môi trường nước
*
[42].
Nghiên cứu về bộ Cánh vảy (Lepidoptera)
Trong bộ Cánh vảy chỉ có một số loài thuộc họ Pyralidae, Pyraustidae và Crambidae
sống ở nước. Ở châu Á, các nghiên cứu về Lepidoptera chủ yếu là về phân loại học trong đó
có các nghiên cứu của Rose & Pajni (1987), Habeck & Solis (1994) và Munroe (1995).
Trong các nghiên cứu này, các tác giả cũng đã thảnh lập khóa định loại cụ thể tới loài. [29].
1.2.Tình hình nghiên cứu côn trùng nước ở Việt Nam
Yấn đề nghiên cứu côn trùng nước ở Việt Nam đã được một số tác giả đề cập đến,
những nghiên cứu tập trung vào lĩnh vực phân loại học đối với các bộ phổ biến của côn
trùng nước cũng như những nghiên cứu sử dụng côn trùng nước làm sinh vật chỉ thị. Dưới
đây là một số kết quả nghiên cứu chính về côn trùng nước ở Việt Nam cho đến giai đoạn
hiện nay.
* Nghiên cứu về bộ Phù du (Ephemeroptera)
1
3
Tác giả đầu tiên mô tả các loài thuộc bộ Phù du ở Việt Nam là Lestage (1921, 1924).
Ông đã công bố 3 loài mới của bộ Phù du dựa vào mẫu vật được lưu giữ ở bảo tàng Pari
(mẫu thu được ở miền Bắc Việt Nam). Ngay sau đó, Navás (1922) mô tả 2 loài thuộc giống
Ephemera.[34].
Đặng Ngọc Thanh (1967), mô tả một loài mới thuộc họ Heptageniidae khi nghiên
cứu về khu hệ Động vật Không xương sống ở miền Bắc Việt Nam. Đặng Ngọc Thanh
(1980) xác định khu hệ Phù du ở Việt Nam có 54 loài, 29 giống thuộc 13 họ khác nhau. Đặc
biệt trong nghiên cứu này ông đã mô tả hai loài mới cho khoa học đó là Thaỉerosphyrus
vietnamensỉs Dang và Neoephemeropsis cuaraoensis Dang [7], [34].
Braacsh & Soldan (1979, 1984, 1986, 1988) đã mô tả 10 loài mới thuộc họ
Heptagenidae thu được từ một số suối ở Việt Nam.
Nguyễn Xuân Quýnh và cộng sự (2001), khi xây dựng khoá định loại các nhóm động
vật không xương sống nước ngọt thường gặp ở Việt Nam đã xây dựng khoá định loại tới họ
ấu trùng Phù du. Ket quả của công trình này là cơ sở khoa học cho các nghiên cứu phân loại
về Phù du cũng như việc sử dụng đối tượng này là sinh vật chỉ thị cho các thuỷ vực nước
ngọt ở Việt Nam.
Nguyễn Văn Vịnh & Yeon Jae Bae (2003, 2004, 2005, 2006, 2008) đã tiến hành
nghiên cứu khu hệ phù du ở một số Vườn quốc gia của Việt Nam đồng thời công bố một số
loài mới cho khu hệ Phù du ở Việt Nam và cho khoa học. Nguyễn Văn Vịnh (2003), đã xây
dựng khóa định loại và mô tả đặc điểm hình dạng ngoài của các loài thuộc bộ Phù du ở Việt
Nam. Nghiên cứu này là cơ sở để phục vụ cho các hướng nghiên cứu tiếp theo về bộ Phù du
ở nước ta.
* Nghiên cứu về bộ Chuồn chuồn (Odonata)
Nghiên cứu về khu hệ thiếu trùng Chuồn chuồn ở Việt Nam còn tản mạn và chưa
thành hệ thống. Chủ yếu các nghiên cứu tập trung vào giai đoạn trưởng thành. Bộ Chuồn
chuồn ở Việt Nam được nghiên cứu lần đầu tiên vào những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ
XX dưới thời Pháp thuộc bởi một số nhà nghiên cứu người Pháp: Martin trong báo cáo
1
4
được công bố năm 1902 khi điều tra khu hệ động vật Đông Dương. Trong báo cáo này, ông
công bố 139 loài thuộc 3 họ: Libellulidae, Aeshnidae và Agrionidae. Trong 139 loài, Martin
đã mô tả 9 loài mới và một giống mới là Merogomphus [2].
Asahina (1996) đã công bố 84 loài thuộc 12 họ Chuồn chuồn ở miền Nam Việt Nam.
Trong tài liệu này, tác giả đã công bố một loài mới: Chlogomphus vietnamensis Asahina,
thuộc họ Cordulegasteridae.
Nguyễn Xuân Quýnh và cộng sự (2001), khi xây dựng khóa định loại các nhóm động
vật không xương sống nước ngọt thường gặp ở Việt Nam đã xây dựng khóa định loại tới họ
của bộ Chuồn chuồn.
Nguyễn Văn Vịnh và cộng sự (2001), trong nghiên cứu khu hệ côn trùng nước ở
Vườn quốc gia Tam Đảo đã xác định được 26 loài thuộc 12 họ của bộ Chuồn chuồn ở khu
vực này. Tuy nhiên, do những nghiên cứu về phân loại thiếu trùng chuồn chuồn ở Việt Nam
còn ít. Do đó, những mẫu vật thu được mới chỉ phân loại đến bậc giống.
* Nghiên cứu về bộ Cánh úp (Plecoptera)
Ở Việt Nam, những nghiên cứu và hiểu biết về bộ Cánh úp còn ít. Một vài loài đã
được mô tả bởi Kawai (1968, 1969), Zwick (1988), Stark và cộng sự (1999), nhưng tất cả
các mẫu vật đều ở giai đoạn trưởng thành. Mục đích của những nghiên cứu là nhằm xác
định lại và mô tả một số loài mới thuộc bộ Cánh úp dựa trên những nghiên cứu trước đó và
những điều tra về sau của cả giai đoạn trưởng thành và ấu trùng được thu thập ở Việt Nam.
Thêm vào đó là việc xác định khóa định loại tới loài của bộ Cánh úp ở cả giai đoạn trưởng
thành và ấu trùng ở Việt Nam cũng như sinh thái, nơi ở của chúng. Cao Thị Kim Thu
(2002), đã xây dựng khóa định loại tới loài Cánh úp ở Việt Nam. Công trình là cơ sở khoa
học cho các nghiên cứu về bộ Cánh úp ở nước ta.[18].
Nguyễn Văn Vịnh và cộng sự (2001), khi nghiên cứu về nhóm côn trùng nước ở
Vườn quốc gia Tam Đảo đã tiến định loại các loài thuộc bộ Cánh úp. Kết quả cho thấy số
loài Cánh úp ở Vườn quốc gia Tam Đảo là 12 loài thuộc 3 họ.
1
5
Nguyễn Xuân Quýnh, Clive Pinder, Steve Tilling (2001), khi định loại các nhóm động
vật không xương sống nước ngọt thường gặp ở Việt Nam cũng đã xây dựng khóa định loại
tới họ của bộ Cánh úp. Đồng thời, ông cũng đánh giá chất lượng nước dựa vào họ Perlidae
thuộc bộ này.
* Nghiên cứu về bộ Cánh lông (Trichoptera)
Ở Việt Nam, bộ Cánh lông được nghiên cứu từ rất sớm. Những tài liệu về Cánh lông
đã được xuất bản bởi các nhà phân loại học đến từ các nước châu Âu như: Đức (Ulmer,
1907), Tây Ban Nha (Navás, 1913). Sau những nghiên cứu đầu tiên của Ulmer về 2 loài
Hydromanicus buenningi và Paraphlegopterỵx tonkinensis, ông đã đặt nền móng cho việc
nghiên cứu về Cánh lông ở Việt Nam. Tiếp theo, Navás (1913, 1917, 1921, 1922, 1930,
1932, 1933) đã mô tả một số loài thuộc các tổng họ của Hydropsychoidae, Philopotamoidae
(Stenopsychidae), Leptoceroidae, Limnephiloidae và Rhyacophiloidae. Banks (1931) và
Mosely (1934) nghiên cứu về Hydropsychoidae, Limnephiloidae và Rhyacopphiloidae.
Oláh (1987 - 1989) mô tả các loài thuộc Glossosomatoidae, Hydroptiloidae và
Rhyacophiloidae [22].
Malicky và Mey (2001), mô tả 2 loài mới thuộc giống Ceratopsyche ở miền Bắc
Việt Nam. Schefter và Johanson (2001), mô tả 3 loài thuộc giống Helỉcopsyche. Nguyễn
Văn Vịnh và cộng sự (2001) định loại được 23 loài thuộc 16 họ của bộ Cánh lông ở Vườn
quốc gia Tam Đảo khi nghiên cứu về nhóm côn trùng nước tại khu vực này.
Nguyễn Xuân Quýnh, Clive Pinder, Steve Tilling (2001), đã xây dựng khóa định
loại tới họ của bộ Cánh lông thường gặp ở nước ta. Hoàng Đức Huy (2005) mô tả đặc điểm
hình dạng, cấu tạo ngoài của các loài Cánh lông ở Việt Nam dựa vào giai đoạn ấu trùng.
*
Nghiên cứu về các bộ Cánh cứng, bộ Hai cánh, bộ Cánh nửa, bộ Cánh vảy và bộ
Cánh rộng
Ở nước ta, các công trình nghiên cứu về bộ Cánh cứng (Coleoptera), Hai cánh
(Diptera), bộ Cánh vảy (Lepidoptera) và bộ Cánh rộng (Megaloptera) còn tản mạn. Các
nghiên cứu thường không tập trung vào một bộ cụ thể mà thường đi cùng với các công trình
1
6
nghiên cứu về khu hệ côn trùng nước nói chung như: Nguyễn Văn Vịnh (2001) nghiên cứu
ở Vườn Quốc gia Tam Đảo; Cao Thị Kim Thu, Nguyễn Văn Vịnh và Yeon Jae Bae (2008)
nghiên cứu ở Vườn Quốc gia Bạch Mã, Nguyễn Xuân Quýnh và cộng sự (2001) khi định
loại các nhóm động vật không xương sống nước ngọt thường gặp ở Việt Nam.
Những nghiên cứu đầu tiên về khu hệ Cánh nửa ở Việt Nam được bắt đầu vào những
năm đầu của thế kỷ XX. Loài đầu tiên thuộc họ Gerridae (Hemiptera) được mô tả ở Việt
Nam là Ptỉlomera hylactor Breddin, 1903 thuộc Bắc Việt Nam. Tiếp theo, khu hệ Gerridae
ở Việt Nam tiếp tục được mô tả bởi Andersen (1975, 1980, 1993); Andersen & Cheng
(2004); Polhemus (2001); Chen & Zettel (1999), Polhemus & Andersen (1994); Polhemus
& Karunaratne (1993) [42].
Trần Anh Đức (2008), mô tả khá đầy đủ và chi tiết hình dạng ngoài của các loài
thuộc họ Gerridae ở Việt Nam. Đây là cơ sở khoa học cho các nghiên cứu về bộ Cánh nửa ở
nước ta.
1.3.Tình hình nghiên cứu côn trùng nước ở Vườn quốc gia Tam Đảo
Vườn quốc gia (VQG) Tam Đảo có hệ thống suối phong phú, là điều kiện thuận lợi
cho côn trùng nước phát triển. Các nhà khoa học trong và ngoài nước đã có nhiều công trình
nghiên cứu khu hệ côn trùng nước ở đây với nhiều hướng nghiên cứu khác nhau.
Cao Thị Kim Thu (2002), đã phân loại được 4 họ: Leuctridae, Nemouridae,
Peltoperlidae và Perlidae thuộc bộ Cánh úp ở Vườn quốc gia Tam Đảo. Tác giả đã xây dựng
khóa định loại và mô tả một số đặc điểm của các loài thu được [18].
Lê Thu Hà (2003), đã xác định được 37 họ thuộc 8 bộ côn trùng nước tại khu vực
suối Tam Đảo. Trong đó bộ Hai cánh (6 họ), bộ Cánh cứng (7 họ), bộ Phù du (5 họ), bộ
Cánh nửa (7 họ), bộ Chuồn chuồn (6 họ), bộ Cánh lông (3 họ), bộ Cánh vảy, bộ Cánh rộng
và bộ Cánh úp mỗi bộ chỉ có một họ. Tuy nhiên, về mặt phân loại, nghiên cứu chỉ xác định
đến bậc họ. Tác giả đã sử dụng nhóm côn trùng này để chỉ thị và đánh giá chất lượng môi
trường nước ở khu vực nghiên cứu [3].
1
7
Nguyễn Văn Vịnh (2003), khi nghiên cứu khu hệ Phù du ở Việt Nam, tác giả đã xây
dựng khóa định loại tới loài của các đại diện thuộc bộ Phù du. Vườn quốc gia Tam Đảo là
một trong các khu vực điều tea khi tác giả thực hiện nghiên cứu này. Tác giả cũng đã mô tả
đặc điểm hình dạng và cấu tạo ngoài của các loài tìm thấy ở khu vực nghiên cứu này [34].
Nghiên cứu của Nguyễn Xuân Quýnh, Clive Pinder, Steve Tilling (2004), đã sử dụng
các nhóm động vật không xương sống cỡ lớn để giám sát sinh học môi trường nước ngọt tại
một số khu vực thuộc Vườn quốc gia Tam Đảo. Trong đối tượng nghiên cứu có các loài
thuộc nhóm côn trùng nước. Ket quả nghiên cứu chỉ ra rằng hầu hết các họ của bộ Phù du
(Ephemeroptera), bộ Cánh lông (Trichoptera) và chỉ một họ của bộ Cánh úp (Plecoptera)
được tìm thấy ở những nơi nước sạch, chủ yếu là những điểm ở đầu con suối [6].
Nguyễn Văn Vịnh (2004), đã công bố nghiên cứu về khu hệ Phù du (Ephemeroptera)
ở suối Thác Bạc. Tác giả đã xác định được 32 loài thuộc 24 giống và 8 họ. Trong đó có 10
loài lần đầu tiên ghi nhận cho khu hệ động vật Việt Nam. Ngoài việc phân loại các loài
thuộc bộ côn trùng này, tác giả còn nhận xét về sự phân bố của chúng theo độ cao của suối
Thác Bạc [36].
Hoàng Đức Huy (2005), khi nghiên cứu khu hệ Cánh lông ở nước ta, tác giả đã mô tả
khá tỉ mỉ đặc điểm các loài thuộc bộ này. Vườn quốc gia Tam Đảo là một trong các khu vực
nghiên cứu khi tác giả thực hiện đề tài. Trong nghiên cứu, tác giả đã mô tả khá chi tiết hình
dạng ngoài của các loài thuộc bộ Cánh lông ở Việt Nam [22].
Trần Anh Đức (2008), trong nghiên cứu về khu hệ Gerridae (bộ Cánh nửa) ở Việt
Nam cũng đã mô tả đặc điểm một số loài thuộc họ này ở VQG Tam Đảo [42].
Như vậy, các công trình nghiên cứu về khu hệ côn trùng nước ở Vườn quốc gia Tam
Đảo tập trung vào một số bộ phổ biến như bộ Phù du, bộ Cánh úp, bộ Cánh lông, bộ Cánh
nửa. Các công ưình nghiên cứu chủ yếu theo hướng xác định thành phần loài trên cơ sở các
mẫu định tính. Ngoài ra, các nghiên cứu còn sử dụng côn trùng nước để chỉ thị chất lượng
môi trường nước.
1.4.Một số đặc điểm tự nhiên của VQG Tam Đảo tỉnh Vĩnh Phúc
1
8
Vườn quốc gia Tam Đảo nằm ữên địa giới của 3 tỉnh (Vĩnh Phúc, Thái Nguyên và
Tuyên Quang), gồm 26 xã của 7 huyện, thị xã. Tổng diện tích tự nhiên của VQG Tam Đảo
là: 36.883 ha. VQG có toạ độ địa lý: 21°21’ đến 21°42’ vĩ độ Bắc và 105°23’ đến 105°44’
kinh độ Đông. Ranh giới VQG được xác lập từ độ cao lOOm đến 1.592m. Vùng đệm có
tổng diện tích là 53.515 ha từ độ cao 100m trở xuống bao quanh YQG. Trung tâm VQG
Tam Đảo cách Hà Nội 70 km về phía Tây Bắc. VQG Tam Đảo có khoảng 25.000 ha (chiếm
gần 70% tổng diện tích ) gồm 22.000 ha rừng tự nhiên và 3.000 ha rừng trồng. VQG Tam
Đảo nằm trong vùng Đông Bắc Việt Nam, là nơi có sự Đa dạng sinh học cao. Đen năm
2000, tổng hợp các nghiên cứu đã phát hiện ở VQG Tam Đảo có: hệ thực vật gồm 1.182
loài thuộc 660 chi của 179 họ thực vật bậc cao có mạch. Trong đó có 42 loài đặc hữu và 64
loài quí hiếm; hệ động vật gồm 1.163 loài trong đó lớp Thú có 70 loài, lớp Chim có 248
loài, lớp Bò sát có 132 loài, lớp Lưỡng cư có 62 loài; lớp Côn ữùng có 651 loài. Những loài
đặc hữu hẹp chỉ có ở VQG Tam Đảo gồm 22 loài như: Rắn Sãi, Rắn Dáo Thái Dương, Cá
cóc Tam Đảo và một số loài côn trùng khác. Những loài đặc hữu hẹp Bắc Việt Nam có ở
VQG Tam Đảo như Gà Tiền mặt vàng, Gà so họng trắng, Gà so trắng gụ, sếu xám, Thằn lằn
Tam Đảo, Rắn lục đầu đen, Rùa hộp trán vàng, Ếch gai sần.
1.4.1.
Vị trí địa lý
Vườn quốc gia Tam Đảo nằm trong khoảng 21°21 đến 21°42 độ vĩ Bắc, 105°23 đến
105°44 độ kinh Đông. Địa giới hành chính VQG được giới hạn như sau:
-
Phía Bắc là đường Quốc lộ 13A từ Thái Nguyên đi Tuyên Quang qua Đèo
Khế.
-
Phía Đông Bắc là đường ô tô giáp chân núi từ xã Quân Chu đến gặp Quốc lộ 13A tại
xã Phú Xuyên (huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên).
-Phía Nam là ranh giới các huyện Tam Đảo, Mê Linh thuộc tỉnh Vĩnh Phúc; Phổ
Yên, Đại Từ thuộc tỉnh Thái Nguyên.
1
9
-Phía Tây Nam hợp bởi đường ô tô phía trái sông Phó Đáy nối từ đường 13A tại xã
Kháng Nhật, qua mỏ thiếc Sơn Dương, dọc theo chân núi Tam Đảo gặp sông Bà Hanh tại xã
Mỹ Khê bên hồ Đại Lải.
1.4.2.
Địa hình
Vườn quốc gia Tam Đảo chiếm giữ toàn bộ hệ núi Tam Đảo, có cấu tạo hình khối đồ
sộ, nằm ở phía Bắc đồng bằng Bắc bộ, chạy dài theo hướng Tây Bắc - Đông Nam. Cả dãy
núi có đặc điểm chung là đỉnh nhọn, sườn rất dốc, độ chia cắt sâu và dầy. Chiều dài khối núi
gần 80km, có gần 20 đỉnh cao trên 1.000m được nối với nhau bằng đường dông sắc nhọn.
Đỉnh cao nhất là đỉnh Nord (1.592m) là ranh giới địa chính của 3 tỉnh Vĩnh Phúc, Thái
Nguyên, Tuyên Quang. Chiều ngang biến động trong khoảng 10 - 15km. Núi cao, bề ngang
lại hẹp nên sườn núi rất dốc, bình quân 25 - 35°, nhiều nơi trên 35° nên rất hiểm trở và khó
đi lại. Vườn quốc gia Tam Đảo có ba đỉnh núi nổi tiếng là: Thiên Thị (1.375m), Thạch Bàn
(1.388) và Phú Nghĩa (1.300m).
Dựa vào độ cao, độ dốc, địa mạo có thể phân chia dãy núi Tam Đảo thành 4 kiểu địa
hình chính:
1. Thung lũng giữa núi và đồng bằng ven sông suối: độ cao
dướilOOm, độ dốc
cấp I (<7°). Phân bố dưới chân núi và ven sông suối.
2. Đồi cao trung bình: có độ cao từ 100 - 400m, độ dốc cấp II (từ 8° - 15°) trở lên. Phân
bố xung quanh chân núi và tiếp giáp với đồng bằng.
3. Núi thấp: kiểu địa hình này có độ cao từ 400 - 700m. Độ dốc trên cấp III (16° - 26°).
Phân bố giữa hai kiểu địa hình đồi cao và núi trung bình.
4. Núi trung bình: có độ cao từ 700m - 1590m. Độ dốc > cấp
III.Phân
bốở phần
trên của khối núi. Các đỉnh và đường dông đều sắc và nhọn.
Như vậy có thể nói địa hình Tam Đảo cao và khá đều (cao ở giữa và thấp dần về hai
đầu), chạy gần 80km theo hướng Tây Bắc - Đông Nam nên nó như bức bình phong chắn gió
mùa Đông Bắc tràn về đồng bằng và trung du Bắc bộ. Yì vậy, ảnh hưởng lớn đến chế độ khí
hậu và thủy văn trong vùng.
2
0
1.4.3. Địa chất và thổ nhưỡng
Trong quá trình điều tra lập địa có 4 loại đất chính ở VQG Tam Đảo đã được phát
hiện là [4]:
Đất Feralit mùn, vàng nhạt: loại đất này phát triển trên núi trung bình, diện tích vào
khoảng 8.968 ha (chiếm 17,1%).
Đất Feralit mùn, vàng đỏ: loại đất này phân bố trên núi thấp có diện tích 9.292 ha
(chiếm 17,8%).
Đất Feralit đỏ vàng: loại đất này phát triển trên nhiều loại đất đá khác nhau, diện tích
vào khoảng 24.641 ha (chiếm 47%).
Đất phù sa và dốc tụ: loại đất này có diện tích 9.497 ha (chiếm 18,1%).
1.4.4.
Khí hậu
Dãy Tam Đảo là dãy núi lớn, bao gồm một vùng lãnh thổ rộng lớn và có sự phân hóa
theo độ cao rất đa dạng, vì vậy khái quát hóa khí hậu đặc trưng của từng vùng không phải là
vấn đề đơn giản. Dựa trên số liệu khí tượng của trạm Tam Đảo và các trạm xung quanh
(Tuyên Quang, Vĩnh Yên và Đại Từ) để đưa ra các nhận định khái quát cho toàn vùng như
sau: Tam Đảo thuộc kiểu khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa vùng cao. Dựa vào các số liệu quan
trắc bình quân nhiều năm của các đài khí tượng Đại Từ, Tuyên Quang, Vĩnh Yên và thị trấn
Tam Đảo (Bảng 1).
2
1
Bảng 1. Số liệu khí tượng các trạm trong vùng
Tên yếu tố
Trạm
Trạm
Trạm
Trạm
Tuyên
Vĩnh
Đại Từ
Tam
Nhiệt độ trung bình năm (°C)
Quang
22,9
Yên
23,7
22,9
Đảo
18,0
Lượng mưa trung bình năm (mm)
1641,4
1603,5
1906,2
2630,9
Sô ngày có mưa trong năm
143,5
142,5
193,4
193,7
Lượng mưa tôi đa/ngày
350
284,0
352,9
295,5
Độ âm trung bình (%)
84
81
82
87
Độ âm cực tiêu (%)
15,0
14,0
16,0
6,0
Lượng bốc hơi nước (mm)
760,3
1040,1
985,5
561,5
(Nguồn Ban quản lỷ VQG Tam Đảo (2007)) 17
Do ảnh hưởng của địa hình, địa mạo nên nhiệt độ trung bình hằng năm ở vùng thấp
vào khoảng 23,7°c, tháng nóng nhất ở vùng thấp trên 28°c (tháng 7), tháng lạnh nhất có
nhiệt độ khoảng 15°c (tháng 1). Vùng đỉnh có nền nhiệt độ thấp hơn (bình quân là 18°C),
tháng nóng nhất là 23°c (tháng 7) và tháng lạnh nhất là 10,8°c (tháng 1). Chênh lệch nhiệt
độ ngày đêm khá lớn.
Lượng mưa trung bình nhiều năm là 2.355mm, cao hơn nhiều so với lượng mưa
trung bình của cả nước (1.960mm/năm) và của tỉnh Vĩnh Phúc (1.500 - 1.800mm/năm).
Lượng mưa ngày lớn nhất đạt 318,6mm. Bình quân hằng năm có khoảng 203 ngày mưa, tập
trung chủ yếu vào tháng 6. Mùa mưa ở Tam Đảo kéo dài từ tháng 4 đến tháng 10 (cao hơn
so với các nơi khác của tỉnh Vĩnh Phúc (5 tháng)). Mưa tập trung vào các tháng 6, 7, 8, 9.
Cao nhất là vào tháng 8. Một vài năm còn xuất hiện hiện tượng mưa đá.
Độ ẩm trung bình nhiều năm là 80 - 87%. Trong mùa mưa, nhất là khi có mưa phùn
độ ẩm tăng lên tới 90%, nhưng đến mùa khô hanh độ ẩm chỉ còn 70 - 75%, đặc biệt có ngày
chỉ còn 60% (vùng núi cao).
Sương mù: bình quân hằng năm có 118 ngày có hiện tượng sương mù.
2
2
Số giờ nắng: một năm bình quân có 1.212 giờ.
Tổng lượng bốc hơi: bình quân hằng năm là 512mm.
Tốc độ gió: bình quân là 3,0 m/s, tốc độ gió cực đại đến 30 m/s.
1.4.5.
Mạng lưới thủy văn
Vườn quốc gia Tam Đảo có hai hệ thống sông chính là sông Phó Đáy ở phía Tây
(Tuyên Quang, Vĩnh Phúc) và sông Công ở phía Đông (Thái Nguyên). Đường phân thủy rõ
rệt nhất của hai hệ thống sông này là các đường dông nối các đỉnh núi suốt từ Mỹ Khê ở cực
Nam đến Đèo Khế ở điểm cực Bắc. Mạng lưới sông suối hai sườn của VQG Tam Đảo dồn
xuống hai hệ thống sông này có dạng chân rết khá dày đặc và ngắn, có cấu trúc dốc và hẹp
lòng từ đỉnh xuống chân núi. Từ chân núi trở đi sông lại có dạng uốn khúc phức tạp trên mặt
cánh đồng khá bằng phẳng, tương ứng với dạng địa hình đã tạo ra nó.
Mật độ sông suối khá dày (trên 2 km/km 2), các suối có thung lũng hẹp, đáy nhiều
ghềnh thác, độ dốc lớn, khả năng điều tiết nước kém. Do đặc điểm khí hậu mưa lớn, mùa
mưa kéo dài, lượng bốc hơi ít (ở đỉnh của VQG Tam Đảo) nên cán cân nước dư thừa. Đó là
nguyên nhân làm các dòng chảy từ đỉnh Tam Đảo xuống có nước quanh năm.
Chế độ thủy văn được chia thành 2 mùa khá rõ rệt: mùa lũ và mùa khô. Mùa lũ trùng
với mùa mưa (từ tháng 4 đến tháng 10), mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau. Lũ lớn
thường xảy ra vào tháng 8, lũ tập trung nhanh và rút cũng nhanh.
Dòng chảy trong mùa khô do không có mưa to nên nguồn nước cung cấp cho sông
chủ yếu là do nước ngầm (phụ thuộc vào lớp vỏ phong hóa địa chất và lượng mưa phùn mùa
đông). Do đó, cả hai sông: Phó Đáy và sông Công đều có dòng chảy rất nhỏ. Như vậy, khả
năng cung cấp nước cho mùa đông là rất hạn chế. Các dòng sông, suối ữong vùng không có
khả năng vận chuyển thủy, chỉ có thể dùng làm nguồn thủy điện nhỏ cho từng gia đình dưới
chân núi. Trong vùng cũng có những hồ chứa cỡ lớn như: hồ Núi Cốc, hồ Đại Lải; các hồ cỡ
trung bình hoặc nhỏ như: hồ Xạ Hương, Khôi Kỳ, Phú Xuyên, Linh Lai...Đó là nguồn dự
trữ nước khá phong phú phục vụ nhu cầu dân sinh và sản xuất của nhân dân trong vùng. Hệ
thống suối chính ở Vườn quốc gia Tam Đảo là suối Thác Bạc. Thác Bạc do suối Mơ, suối
2
3
Bạc và suối Tiên đổ vào. Suối ở VQG Tam Đảo bắt nguồn từ các mạch nước nhỏ trên đỉnh
núi cao nhập lại, đổ xuống suối Thác Bạc cao trên 40m nên có nước quanh năm. Suối có
nhiệt độ nước tương đối thấp, ít khi tăng cao và có xu hướng ổn định. Do đặc điểm địa hình
chảy từ độ dốc trên 35m nên có tốc độ nước chảy mạnh, cuốn theo các chất mùn bã. Yì vậy
suối ở đây khá trong, hầu như không có hiện tượng lắng đọng. Nền đáy suối chủ yếu là đá
tảng, ít chất mùn. Vào mùa mưa lưu lượng dòng nước khá lớn thường cuốn theo mùn bã
thực vật, xác động vật, lá khô...Do đó mùa này, nước suối thường vẩn đục. Trong khi đó vào
mùa khô dòng nước chảy từ các mạch nước ngầm với tốc độ chậm hơn nhiều. Dòng nước
chảy xuống khu vực suối có độ cao thấp với tốc độ chảy rất chậm, lòng suối rộng và nông.
Chương 2
THỜI GIAN, ĐỊA ĐIỂM, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1.Thời gian nghiên cứu
Thời gian tiến hành nghiên cứu được thực hiện từ tháng 05/2014 đến tháng 05/2015.
Mẩu vật sử dụng trong nghiên cứu được thực hiện ở hai đợt điều tra ngoài thực địa. Các
điểm điều ưa thuộc khu vực suối Thác Bạc ở đai cao 600 - lOOOm của Vườn Quốc gia Tam
Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc.
•
Đợt 1 được tiến hành từ ngày 23/06/2014 đến ngày 26/06/2014 ( thuộc mùa mưa)
•
Đợt 2 được tiến hành tù ngày 12/11/2014 đến ngày 15/11/2014 (thuộc mùa khô).
Toàn bộ mẫu vật thu ngoài tự nhiên được bảo quản và lưu trữ tại phòng thí nghiệm
Động vật học, Khoa Sinh - KTNN, trường Đại học Sư Phạm Hà Nội 2.
2.2.Địa điểm nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành thu mẫu tại 3 điểm nghiên cứu thuộc suối Thác Bạc ở đai cao
600 - lOOOm của Vườn Quốc gia Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc và được đánh số thứ tự từ ĐI
đến Đ3. Đồng thời, chúng tôi cũng điều tra một số đặc điểm về nền đáy, sinh cảnh tại điểm
thu mẫu.
2
4
Điểm Đl: với độ cao 880m (so với mực nước biển), nền đáy chủ yếu là đá nhỏ, ít
cát. Nước suối toong, tốc độ dòng chảy nhỏ và tạo thảnh các vùng nước đứng, đầu suối có
nhiều rác thải sinh hoạt, cuối điểm thu mẫu lượng rác thải ít hơn. Độ che phủ khoảng 0 5%.
Điểm Đ2: điểm thu mẫu có độ cao 840m, đặc điểm của nền đáy chủ yếu là cát và
sỏi nhỏ. Nước suối bị ảnh hưởng nhiều của du lịch và sinh hoạt của người dân, nước chảy
mạnh và tạo thành các vùng nước đứng ở dưới. Độ che phủ khoảng 60% - 80%.
Điểm Đ3: có độ cao 737m, nền đáy chủ yếu là đá tảng, ngoài ra còn có đá nhỏ, sỏi
và cát. Nước suối trong, chảy mạnh, thỉnh thoảng xuất hiện một vài điểm nước
đứng. Trong suối có nhiều rác thải sinh hoạt, ít mùn bã thực vật. Điểm thu mẫu là một
trong các tuyến du lịch của Vườn Quốc gia. Độ che phủ khoảng 70% - 100%.
2
5