Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

Thực trạng và giải pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa việt nam trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (270.07 KB, 41 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đã làm cuộc cách
mạng Tháng Tám năm 1945 thành công; từ đó, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà, một nhà nước kiểu mới, nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, ra đời.
Trong suốt thời gian từ đó tới nay, với bản chất cách mạng và dân chủ, dưới sự lãnh
đạo của Đảng, Nhà nước ta đã tổ chức và huy động sức mạnh của toàn dân tộc tiến
hành thắng lợi các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc, quản lý đất
nước có hiệu quả trên nhiều mặt: chính trị, kinh tế, xã hội, ngoại giao, quốc phòng và
an ninh. Ngay từ buổi đầu được thành lập và trong suốt quá trình xây dựng và phát
triển của mình, Nhà nước ta đã mang những yếu tố của một Nhà nước pháp quyền của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, gắn bó chặt chẽ và phục vụ lợi ích của nhân dân,
của dân tộc. Trong nhiều văn kiện của Đảng, đặc biệt là Văn kiện Đại hội Đảng lần
thứ IX đã khẳng định nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đó chính là kết quả
của quá trình nhận thức, kế thừa, tiếp tục phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và tiếp thu có chọn lọc tư tưởng tiến bộ của nhân loại về
nhà nước pháp quyền trong điều kiện mới. Thực tiễn đổi mới trong những năm qua đã
khẳng định yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng như
một xu thế tất yếu, mang tính quy luật của quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội trong điều
kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. mở rộng giao lưu
và hợp tác với tất cả các nước trên thế giới trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, tôi đã chọn đề tài “Thực trạng và giải
pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay” cho bài tiểu luận của mình.


2. Mục đích nghiên cứu
- Mục tiêu lý luận: Làm sáng tỏ về mặt lý luận nguồn gốc, đặc trưng, bản chất
của nhà nước và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
- Mục tiêu thực tiễn: thực trạng vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội


chủ nghĩa ở Việt Nam. Trên cơ sở đó đưa ra một số kiến nghị giải pháp hoàn thiện
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
3. Nội dung nghiên cứu:
- Những vấn đề lý luận chung về nhà nước và nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa
- Vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
- Giải pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
4. Phương pháp nghiên cứu
Bài tiểu luận sử dụng các phương pháp lý thuyết hệ thống duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử, phân tích tài liệu, thống kê, tổng kết thực tiễn, ……..
5. Bố cục bài tiểu luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung bài tiểu luận gồm ba chương:
Chương 1: Lý luận chung về nhà nước và nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa
Chương 2: Vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam
Chương 3: Giải pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay


CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC VÀ NHÀ NƯỚC
PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1.1.

Nguồn gốc, bản chất và đặc trưng của Nhà nước

1.1.1. Nguồn gốc
Theo Ph.Angghen, sự xuất hiện của nhà nước không phải để giải quyết các
mâu thuẫn giai cấp trong XH, cũng không phải để điều hòa mâu thuẫn giai cấp mà là

để duy trì mâu thuẫn giai cấp trong một giới hạn trật tự nhằm thực hiện được sự bóc
lột của giai cấp nắm TLSX đối với người lao động.
Theo V.I.Lenin, nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai
cấp không thể điều hòa được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào về mặt khách
quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được thì nhà nước xuất hiện. Và
ngược lại, sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ những mâu thuẫn giai cấp là không thể
điều hòa được.
Từ những luận giải của Angghen và Lenin có thể khải quát mở rộng ở 3 điểm
sau đây:
- Một là, trong XH cộng sản nguyên thủy, để thực hiện nhu cầu tổ chức thị tộc,
bộ lạc đã xuất hiện thể chế tự quản sơ khai nhất trong lịch sử nhân loại. Điều này xuất
phát từ các nguyên nhân sản xuất chưa phát triển, tổ chức xã hội chưa phức tạp, quan
hệ giữa con người với nhau còn hết sức thuần phác, chưa có mâu thuẫn giai cấp, do đó
cũng chưa có nhà nước.
Xã hội cộng sản tương lai là một xã hội mà thể chế tự quản ở trình độ cao cũng
sẽ có khả năng được xác lập. Ở đó sẽ không cần đến hình thức tổ chức xã hội theo
kiểu tổ chức nhà nước.
Như vậy, nhà nước không phải là hiện tượng vĩnh viễn của lịch sử, không phải
là bản chất của mọi XH nói chung.
- Hai là, sự xuất hiện của nhà nước không phải để giải quyết hoặc điều hòa
mâu thuẫn mà là để duy trì mâu thuẫn đó trong giới hạn của những trật tự nhất định
nhằm có thể duy trì sự tồn tại của các giai cấp và thực hiện được lợi ích của giai cấp
chiếm hữu TLSX đối với những giai cấp khác.
- Ba là, trong thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH tồn tại các cuộc đấu tranh
giai cấp với những nội dung mới và hình thức mới nên tồn tại nhà nước là 1 tất yếu.


Đồng thời nhà nước đó sẽ “tự tiêu vong” cùng với quá trình xây dựng thành công chủ
nghĩa cộng sản.
1.1.2. Bản chất của nhà nước:

Xét theo bản chất, nhà nước không phải là 1 lực lượng điều hòa các mâu thuẫn
chính trị, xã hội trong điều kiện XH có đối kháng giai cấp mà là 1 lực lượng bạo lực
của giai cấp thống trị về kinh tế để thực hiện sự thống trị của nó đối với các giai cấp
khác và thực hiện được lợi ích của chính giai cấp đó trước sự phản kháng của các giai
cấp khác. Theo nghĩa đó, thực chất nhà nước là công cụ chuyên chính giai cấp trong
điều kiện XH tồn tại những đối kháng giai cấp không thể điều hòa được.
1.1.3.

Đặc trưng của Nhà nước

Đặc trưng thứ nhất: Nhà nước là 1 bộ máy tổ chức quyền lực thực hiện việc
quản lý dân cư theo lãnh thổ quốc gia, theo các khu vực địa lý hành chính để thực
hiện sự thống nhất quyền lực cai trị trong phạm vi lãnh thổ.
Về nguyên tắc, quyền lực nhà nước có hiệu lực bắt buộc đối với mọi công dân
sinh sống và hoạt động trên địa bàn lãnh thổ mà nó quản lý. Chính từ đây xuất hiện
biên giới quốc gia.
Đây chính là sự khác biệt của nhà nước với các hình thức tổ chức của XH thị
tộc, bộ lạc thời nguyên thủy.
Đặc trưng thứ hai: Nhà nước là 1 bộ máy tổ chức quyền lực đặc biệt – đó là
quyền lực được đảm bảo bằng sức mạnh của những đội vũ trang chuyên nghiệp như
quân đội, cảnh sát vũ trang, nhà tù và những cơ quan hành chính thực hiện chức năng
cai trị để buộc mọi công nhân phải phục tùng ý chí nhà cầm quyền có vị trí quan trọng
bậc nhất.
Giai cấp thống trị dung các thiết chế bạo lực để pháp luật của nó được thực thi
trong thực tế.
Đặc trưng thứ ba: Nhà nước xác lập chế độ thuế khóa để duy trì và tăng cường
bộ máy cai trị của nó. Một chế độ như vậy hoàn toàn không có trong hình thức tổ
chức XH thị tộc, bộ lạc.
1.2. Chức năng và vai trò kinh tế của nhà nước:
1.2.1. Chức năng cơ bản của nhà nước:

- Chức năng chinh trị và chức năng XH của nhà nước:


+ Chức năng chinh trị của nhà nước là chức năng bảo vệ và thực hiện lợi ích
của giai cấp thống trị.
+ Chức năng XH của nhà nước là chức năng bảo vệ và thực hiện lợi ích chung
của cộng đồng quốc gia trong đó có lợi ích của giai cấp thống trị.
Hai chức năng đó tồn tại trong mối quan hệ thống nhất biện chứng với nhau,
trong đó chức năng chính trị quyết định tính chất, phạm vi, mức độ, hiệu quả thực
hiện chức năng XH, nhưng chức năng XH của nhà nước lại giữ vai trò cơ sở cho việc
thực hiện chức năng chính trị; đảm bảo cho việc thực hiện chức năng chinh trị 1 cách
có hiệu quả.
+ Angghen từng khẳng định rằng “ ở khắp nơi, chức năng XH là cơ sở của sự
thống trị chính trị; và sư thống trị chính trị cũng chỉ kéo dài chừng nào nó còn thực
hiện chứng năng XH đó của nớ”
+ Việc giải quyết sự thống nhất 2 chức năng đó không thể thực hiện được và
thường gây ra những xung đột XH gay gắt và được thực hiện bằng các cuộc cải cách
và cao hơn là cách mạng XH.
- Chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước là chức năng xây dựng, củng
cố, phát triển và bảo vệ 1 chế độ kinh tê – XH nhất định phù hợp với lợi ích của giai
cấp thống trị.
Chức năng đối ngoại của nhà nước là chức năng bảo vệ biên giới lãnh thổ quốc
gia và thực hiện các mối quan hệ kinh tế, chính trị, XH với các nhà nước khác, mà
thực chất và cơ bản là thực hiện lợi ích giữa các giai cấp thống trị trong mối quan hệ
với các quốc gia khác nhau.
Trong hai chức năng đó, chức năng đối nội quyết định chức năng đối ngoại
bởi vì nhà nước ra đời và tồn tại là do cơ cấu giai cấp bên trong của mỗi quốc gia quy
định.
+ Tính chất của chức năng đối nội quyết định tính chất của chức năng đối
ngoại; ngược lại tính chất và nhu cầu của chức năng đối ngoại có tác động mạnh mẽ

trở lại chức năng đối nội của nhà nước, làm biến đội trong 1 giới hạn nhất định quá
trình thực hiện chức năng đối nội.
+ Quá trình quốc tế hóa đời sống knh tế XH ngày càng được mở rộng và tăng
cường thì mối quan hệ thống nhất giữa 2 chức năng đôi nội và đối ngoại của nhà nước
ngày càng nâng lên trong XH hiện đại.


1.2.2. Vai trò kinh tế của nhà nước
- Nói chung, nền kinh tế thị trường là nền kinh tế luôn diễn ra những biến động
khôn lường và tiềm ẩn những nguy cơ khủng hoảng kinh tế trầm trọng do đó đã làm
xuất hiện nhu cầu can thiệp của nhà nước nhằm điều chỉnh các quan hệ kinh tế sao
cho ít có khả năng xảy ra khủng hoảng nhất.
- Để nền kinh tế có thể tồn tại và phát triển bình thường thì cần phải có các khu
vực kinh tế công cộng. Tư nhân chỉ tập trung đầu tư, phát triển những lĩnh vực có thể
thu được nhiều lợi nhuận. Những lĩnh vực không vì mục đích lợi nhuận nhưng cần
thiết cho sự tồn tại và phát triển của XH thì nhà nước tất yếu phải là lực lượng đầu tư
và phát triển với tư cách nhân danh đại biểu cho toàn XH.
- Sự phát triển của nền kinh tế thị trường tất yếu đòi hỏi phải có một môi
trường chính trị XH ổn định cần thiết. Mặt khác, xu thế phát triển của kinh tế thị
trường là theo hướng hội nhập kinh tế quốc tế, do đó nó càng cần tới vai trò của các
nhà nước bằng các chính sách đối ngoại, tạo môi trường pháp lý cần thiết cho quá
trình đó.
1.3. Các kiểu và hình thức nhà nước trong lịch sử
1.3.1. Các kiểu và hình thức nhà nước dựa trên sự đối kháng giai cấp.
Lịch sử nhân loại đã trải qua ba hình thái kinh tế - xã hội dựa trên sự đối kháng
giai cấp là hình thái kinh té xã hội chiếm hữ nô lệ, hình thái kinh tế - xã hội phong
kiến và hình thái kinh thế - xã hội tư bản chủ nghĩa. Tương ứng với ba hình thái đó là
ba kiểu nhà nước: nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư bản chủ
nghĩa.
Nhà nước chủ nô là nhà nước của giai cấp chủ nô, nhằm thực hiện sự chuyên

chính đối với giai cấp nô lệ và tầng lớp dân tự do. Nhà nước chủ nô lại được tổ chức
theo nhiều hình thức khác nhau, trong đó có hai hình thức cơ bản là quân chủ và cộng
hòa.
Nhà nước phong kiến là kiểu nhà nước của giai cấp địa chủ phong kiến nhằm
thống trị giai cấp nông dân và những người lao động khác. Kiểu nhà nước phong kiến
cũng được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau. Ở các nước phương Tây, hình
thức nhà nước quân chủ phân quyền là hình thức phổ biến. Ở các nước phương Đông,
hình thức tiêu biểu là nhà nước quân chủ tập quyền dựa trên sở hữu nhà nước về
ruộng đât. Trong lịch sử phong kiến tự chủ Việt Nam ( từ thế kỷ thứ X ) hình thức nhà


nước quân chủ phong kiến tập quyền là hình thức phổ biến suốt chiều dài gần 10 thế
kỷ cho tới thực dân Pháp áp đặt sự cai trị ở Đông Dương.
Kiểu nhà nước tư bản là kiểu nhà nước thích ứng với hình thái kinh tế - xã hội
tư bản chủ nghĩa, nó là kiểu nhà nước mang bản chất thống trị của giai cấp tư sản đối
với giai cấp công nhân và nhân dân lao động nói chung.
1.3.2. Kiểu nhà nước chuyên chính vô sản trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
Kiểu nhà nước chuyên chính vô sản là một kiểu nhà nước đặc biệt. Theo
Ăngghen, đó là nhà nước không còn đúng theo nghĩa đen của nó mà là “nửa nhà
nước”.
Tổng quan các luận điểm của Mác, Ăngghen và Lê nin có thể khái quát ba
điểm lớn về kiểu nhà nước chuyên chính vô sản:
Một là, đây là kiểu nhà nước thích ứng với thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội.
Hai là, đây là kiểu nhà nước mang bản chất giai cấp vô sản, được xây dựng và
hoàn thiện theo mục tiêu xây dựng và quản lý kinh tế - xã hội, tổ chức nhân dân lao
động xây dựng thành công xã hội mới xã hội chủ nghĩ, trên cơ sở liên minh công nông
và trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của chính đảng giai cấp vô sản.
Ba là, đây là kiểu nhà nước không chỉ có chức năng trấn áp mọi thế lực phản
động mà quan trọng hơn là tổ chức xây dựng một nền kinh tế mới, xã hội mới, xã hội

chủ nghĩa.
1.4. Nhà nước Pháp quyền
1.4.1. Khái niệm, đặc điểm nhà nước pháp quyền
Trên cơ sở nghiên cứu lịch sử tư tưởng về nhà nước pháp quyền và thực tiễn tổ
chức nhà nước phát quyền tư sản ở các nhà nước tư bản phương Tây, có thể nhận định
như sau: Nhà nước pháp quyền là một hình thức tổ chức nhà nước đặc biệt mà ở đó
có sự ngự trị cao nhất của pháp luật, với nội dung thực hiện quyền lực của nhân dân.
Nhận định tổng quát này vừa bao hàm hình thức pháp lý, vừa bao hàm nội
dung, thực chất của khái niệm nhà nước pháp quyền. Nó là một hình thức tổ chức nhà
nước có tính đặc thù. Hình thức này có thể thuộc về kiểu nhà nước tư bản mà cũng có
thể thuộc kiểu nhà nước chuyên chính vô sản – nhà nước xã hội chủ nghĩa. Hơn nữa,
nếu xét theo nội dung và thực chất thì đó là hình thức tổ chức nhà nước thích hợp nhất


với bản chất của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, bởi bản chất của Nhà nước xã hội chủ
nghĩa là nhàn nước của dân, do dân và vì dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
Sản, dựa trên nền tảng liên minh công nhân với nông dân và đội ngũ trí thức; là công
cụ chủ yếu để nhân dân lao động thực hiện quyền lực của mình trong việc quản lý mọi
hoạt động xã hội theo mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và
văn minh.
Nhà nước pháp quyền có những đặc điểm tiêu biểu sau đây:
Một là, nhà nước pháp quyền là một hình thức tổ chức nhà nước mà ở đó có sự
ngự trị cao nhất, tuyệt đối của pháp luật. Với hình thức tổ chức nhà nước pháp quyền,
pháp luật không những được đề cao là công cụ chủ yếu để quản lý mọi hoạt động của
xã hội và công dân mà còn được xác định là ở địa vị cao nhất, tuyệt đối vượt qua mọi
quyền lực của các tổ chức chính trị, xã hội và mỗi công dân trong xã hội đó. Ngay cả
bản thân hoạt động của các cơ quan thuộc hệ thống tổ chức nhà nước cũng phải tuân
theo pháp luật, mặc dù chính nó là những cơ quan công bố, ban hành, thực thi và kiểm
tra việc thực hiện pháp luật. Như vậy, với hình thức tổ chức xã hội theo mô hình nhà
nước pháp quyền thì pháp luật phải trở thành tiêu chuẩn và căn cứ cơ bản nhất, cao

nhất trong mọi hoạt động của bản thân nhà nước, các tổ chức xã hội và mỗi công dân.
Đây là đặc điểm tiêu biểu nhất về phương diện pháp lý để xác định một nhà
nước nào đó có phải là nhà nước pháp quyền hay không và là nhà nước pháp quyền ở
trình độ nào.
Hai là, nhà nước pháp quyền là hình thức tổ chức nhà nước mà ở đó quyền lực
nhà nước thể hiện được lợi ích và ý chí của đại đa số nhân dân. Chính vì vậy mà ở các
nước theo hình thức tổ chức nhà nước pháp quyền đều thực hiện chế độ dân chủ trong
việc thiết lập quyền lực nhà nước, thực hiện chế độ trưng cầu dân ý. Theo đặc điểm
này, mỗi cá nhân trong xã hội đều mang trong mình đồng thời hai tư cách đó là tư
cách công dân và tư cách cá nhân tự do. Với tư cách công nhân, buộc mỗi cá nhân
phải có nghĩa vụ và quyền lợi theo quy định của luật pháp; với tư cách cá nhân tự do,
mỗi cá nhân có quyền làm bất cứ điều gì mà pháp luật không cấm. Pháp luật chỉ
nghiêm cấm những hành vi cá nhân và tổ chức chính trị, xã hội nào xâm hại tới lợi ích
của cá nhân và các tổ chức khác cũng như lợi ích của xã hội. Như vậy, nó mở rộng
phạm vi hoạt động tự do sáng tạo của mỗi cá nhân, và mỗi tổ chức trong xã hội.
Ba là, nhà nước pháp quyền là hình thức tổ chức nhà nước mà ở đó có sự bảo
đảm thực tế mối quan hệ hữu cơ về quyền và trách nhiệm giữa nhà nước và công dân.


Quyền của công dân thuộc về trách nhiệm của nhà nước và ngược lại, quyền của nhà
nước thuộc về trách nhiệm của công dân. Nhà nước phải chụi trách nhiệm trước mọi
công các tổ chức trong xã hội. Ngược lại, công dân và các tổ chức trong xã hội phải
thực hiện các nghĩa vụ và chịu trách nhiệm về những hành vi của mình theo quy định
của pháp luật. Đặc điểm này phù hợp với hai đặc điểm nói trên, nó chính là biểu hiện
trong thực tế những nội dung và thực chất của đặc trưng thứ nhất và thứ hai trong đời
sống hiện thực.
1.4.2. Lịch sử tư tưởng triết học về nhà nước pháp quyền
Những tư tưởng coi trọng pháp luật trong cai trị và quản lý xã hội đã xuất hiện
từ thời cổ đại phương Đông (Trung Hoa) và phương Tây (Hy Lạp). Đó là Tuân Tử,
Hàn Phi Tử… Hêraclít, Platôn, Arixtốt…

Ở các nước Tây Âu thời kỳ trung cổ, Đacanh là nhà triết học thần học nội tiếng
cũng có những luận giải sâu sắc về nhà nước pháp quyền. Mặc dù các tư tưởng triết
học về nhà nước và nhà nước pháp quyền đã có từ rất sớm trong lịch sử nhưng lý
thuyết triết học về nhà nước và nhà nước pháp quyền đạt tới trình độ là lý thuyết về
nhà nước pháp quyền hoàn chỉnh thì chỉ bắt đầu từ thời cận đại Tây Âu. Đây là thời
kỳ xác lập và phát triển nền kinh tế thị trường TBCN trong phạm vi các quốc gia dân
tộc tư sản. Đó cũng là thời kỳ diễn ra cuộc đấu tranh chính trị giành quyền lực nhà
nước giữa giữa giai cấp tư sản và giai cấp phong kiến.
Nhà triết học Hà Lan – Xpinoda là người đã sáng lập ra lý thuyết về pháp
quyền tự nhiên. Theo lý thuyết này, nhà nước pháp quyền không phải được tạo ra bởi
chúa trời mà là kết quả của sự thỏa thuận giữa con người với nhau phù hợp với quyền
tự nhiên vốn có của mình và phù hợp với quy luật tự nhiên. Theo ông, cần phải hạn
chế quyền lực của nhà nước bằng những đòi hỏi tự do của con người và cần phải có
sự phân biệt rõ ràng giữa pháp luật và đạo đức trong quản lý xã hội.
Nhà triết học duy vật người Anh Lôccơ cũng đứng trên quan điểm pháp quyền
tự nhiên của con người mà cho rằng “Luật tự nhiên là bắt buộc vì rằng nó là tự do”.
Theo ông, pháp quyền tự nhiên bắt nguồn từ sự liên kết của con người thành cộng
đồng theo một quy luật tự nhiên khách quan. Trong sự liên kết đó, con người thỏa
thuận với để lập nên nhà nước như là một lực lượng thể hiện ý chí chung. Cũng vì thế
mà nhà nước trở thành cơ quan quyền lực chung của xã hôị mà mỗi công dân phải
tuân theo quyền lực của nó. Theo lý thuyết này, quyền lực nhà nước cũng cần phải


phân tách thành những bộ phận độc lập với nhau, việc soạn thảo và người soạn thảo
pháp luật cần phải được tách độc lập với người thực hiện và xét xử theo pháp luật.
Những lý thuyết về tam quyền phân lập và khế ước xã hội của các nhà tư tưởng
khai sáng Pháp (Mongtexkio và Rútxo) đã có một ảnh hưởng tới các lý thuyết pháp
quyền của các nhà triết học nước Đức ở cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19. Đó là Canto và
Hêghen.
Theo Cantơ, mỗi con người là một giá trị tuyệt đối, nó không thể là một công

cụ cho bất cứ một mưu đồ nào, dù đó là một mưu đồ tốt đẹp nhất. Bởi vậy chính con
người mới là chủ thể của quyền lực. Quyền lực nhà nước được tạo nên bởi chính bản
tính tuyệt đối của con người. Ông cũng tán thành quan điểm phân chia quyền lực nhà
nước thành các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp độc lập với nhau.
Sau Cantơ, Hêghen tiếp tục luận chứng những cơ sở triết học của lý thuyết nhà
nước pháp quyền từ học thuyết về sự tha hóa của “ý niệm tuyệt đối”. Theo Hêghen,
nhà nước và pháp luật chỉ là sự thể hiện, sự tha hóa trong đời sống hiện thực của các ý
niệm đạo đức tuyệt đối và ý chí tự do. Theo ông, pháp luật trong nhà nước pháp
quyền chính là hiện thực của tự do và là tồn tại thực tế của ý chí tự do.
1.4.3. Sự khác nhau giữa nhà nước pháp quyền tư sản và nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa:
Một là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền tư sản
đều phải thừa nhận phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà nước do
pháp luật quy định. Tuy nhiên, bản chất và nội dung pháp luật về tổ chức, xây dựng
và vận hành bộ máy của hai nhà nước đó có nhiều điểm khác nhau rất cơ bản. Rõ nhất
là, sự khác nhau trong các quy phạm của hiến pháp và pháp luật về tổ chức, cơ cấu
nhân sự và việc xây dựng, vận hành của bộ máy quyền lực như: Quốc hội và Nghị
viện; Tổng thống và Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án, Tòa án Hiến pháp,
v.v.. Pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thừa nhận tất cả quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân, do nhân dân bầu ra các cơ quan quyền lực (Quốc hội,
Chính phủ...) và chỉ có nhân dân trực tiếp hoặc thông qua các đại biểu của mình là chủ
thể duy nhất có quyền tuyên bố chấm dứt hoạt động của Quốc hội, Chính phủ hoặc tổ
chức ra Quốc hội và Chính phủ nhiệm kỳ mới. Trong khi đó, Hiến pháp và pháp luật
tư sản lại thừa nhận quyền lực của cá nhân Tổng thống hoặc cá nhân Thủ tướng có
quyền giải tán Nghị viện (Quốc hội) hoặc giải tán Chính phủ...


Hai là, trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhà nước và công dân
đều phải thừa nhận tính tối cao của pháp luật, vì pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện ý
chí và nguyện vọng của toàn thể nhân dân. Cơ sở chính trị của nhà nước pháp quyền

xã hội chủ nghĩa là chế độ dân chủ nhất nguyên. Chế độ dân chủ nhất nguyên là điều
kiện cơ bản để tạo ra một đời sống dân chủ có tính thống nhất cao, một hệ thống chính
trị thống nhất và là một đòi hỏi có tính nội tại của chế độ nhà nước và chế độ xã hội
trong các điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội. Do vậy, sự nhất nguyên chính trị phải
luôn là thuộc tính của nhà nước xã hội chủ nghĩa – một nhà nước đòi hỏi tính thống
nhất và tính tổ chức cao trong tổ chức cũng như trong hoạt động của mọi cấu trúc nhà
nước để có thể đạt được các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Trong Nhà nước pháp
quyền tư sản nhà nước và công dân cũng phải thừa nhận tính tối cao của pháp luật,
nhưng pháp luật tư sản không phải là pháp luật của toàn dân, không thể hiện đầy đủ ý
chí, nguyện vọng của toàn dân mà chỉ phản ánh ý chí, nguyện vọng của một bộ phận
nhân dân, đó là những người giàu, là giai cấp tư sản. Nói cách khác, luật pháp của
Nhà nước pháp quyền tư sản chỉ bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản và gạt ra ngoài lề
quyền lợi của người lao động - những người bị áp bức bóc lột. Đây là nội dung khác
biệt cơ bản nhất giữa Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền
tư sản.
Ba là, nhà nước pháp quyền tư sản coi thuyết "tam quyền phân lập" là học
thuyết cơ bản trong việc thực hiện quyền lực nhà nước, các cơ quan lập pháp, hành
pháp, tư pháp hoàn toàn độc lập với nhau trong việc thực hiện ba quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa không thừa nhận việc
phân chia quyền lực mà coi quyền lực nhà nước là thống nhất và thuộc về nhân dân;
trong đó, có sự phân công, phối hợp, để thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và
tư pháp nhằm bảo đảm cho quyền lực nhà nước thống nhất, được thực hiện với hiệu
quả cao nhất. Cơ sở xã hội của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là khối đại
đoàn kết toàn dân tộc. Với khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nhà nước pháp quyền có
được cơ sở xã hội rộng lớn và khả năng to lớn trong việc tập hợp, tổ chức các tầng lớp
nhân dân thực hành và phát huy dân chủ.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tuy không loại bỏ được sự
phân tầng xã hội theo hướng phân hóa giàu, nghèo nhưng có khả năng xử lý tốt hơn
mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Những mâu thuẫn xã hội
phát sinh trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường do được điều tiết thông qua

pháp luật, chính sách và các công cụ khác của nhà nước nên ít có nguy cơ trở thành


các mâu thuẫn đối kháng và tạo ra các xung đột có tính chất chia rẽ xã hội. Đây là một
trong những điều kiện để bảo đảm ổn định chính trị, đoàn kết các lực lượng xã hội vì
các mục tiêu chung của sự phát triển.
Tính nhất nguyên chính trị và sự lãnh đạo của một đảng duy nhất cầm quyền
tạo ra khả năng đồng thuận xã hội, tăng cường khả năng hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau
giữa các giai tầng, các cộng đồng dân cư và các dân tộc. Nhờ vậy, nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa có được sự ủng hộ rộng rãi từ phía xã hội, nguồn sức mạnh từ
sự đoàn kết toàn dân, phát huy được sức sáng tạo của các tầng lớp dân cư trong việc
thực hành và phát huy dân chủ.


CHƯƠNG 2: VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
2.1. Những tiền đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Trong suốt tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, vấn đề chính quyền và
việc xây dựng, hoàn thiện một nhà nước kiểu mới, nhà nước dân chủ ở Việt Nam luôn
luôn là mối quan tâm hàng đầu, một nhiệm vụ trọng tâm của Đảng.
Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã đặc biệt coi trọng việc cải cách bộ máy nhà nước,
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với điều kiện mới.
Chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là sự khẳng định
và thừa nhận Nhà nước pháp quyền là một tất yếu lịch sử; nó không chỉ là sản phẩm
riêng của chủ nghĩa tư bản, mà là tinh hoa, sản phẩm trí tuệ của xã hội loài người, của
nền văn minh nhân loại.
Quá trình đổi mới tư duy và hình thành quan điểm, tư tưởng về Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân gắn liền với
quá trình hoạch định và thực hiện đường lối đổi mới đất nước, xuất phát từ những tiền

đề kinh tế - xã hội và những ảnh hưởng, tác động của xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.
Tiền đề kinh tế
Trên cơ sở đánh giá đúng đắn, khách quan thực tiễn cơ chế quản lý kinh tế thời
kỳ kế hoạch hoá tập trung bao cấp, Đại hội VI của Đảng đã chỉ ra những hạn chế bất
cập cơ bản của cơ chế này: Quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ
yếu; cơ quan nhà nước can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh, nhưng
lại không chịu trách nhiệm gì về mặt vật chất đối với những quyết định của mình; cơ
chế quản lý tập trung bao cấp, coi thường quan hệ hàng hoá - tiền tệ, thị trường. Nhà
nước quản lý nền kinh tế kế hoạch hoá bằng chế độ cấp phát và giao nộp sản phẩm
theo quan hệ hiện vật là chủ yếu; bộ máy quản lý theo cơ chế kế hoạch hoá, tập trung
bao cấp, vì thế rất cồng kềnh và kém năng động, nhiều tầng nấc trung gian; đội ngũ
cán bộ quản lý kinh tế nói chung không thạo việc kinh doanh, nhưng lại quan liêu, cửa
quyền. Hệ quả của cơ chế quản lý kinh tế này đã làm cho sản xuất bị đình trệ, đẩy đất
nước lâm vào khủng hoảng kinh tế nặng nề.
Sự ra đời và vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã
tạo ra bước chuyển mạnh mẽ trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Trình độ


của lực lượng sản xuất có sự phát triển nhanh chóng (nhiều thành tựu của khoa học kỹ thuật trên các lĩnh vực được đưa vào ứng dụng rộng rãi trong sản xuất, kinh doanh)
làm thay đổi và xuất hiện nhiều quan hệ kinh tế mới trong sản xuất - kinh doanh; cung
ứng dịch vụ, phân phối, lưu thông hàng hoá, tiền tệ,... Điều này tất yếu dẫn đến nhu
cầu khách quan là Nhà nước phải thực hiện các biện pháp, mà trước hết là xây dựng
hệ thống luật pháp, tạo ra các cơ chế bảo đảm quyền tự do sản xuất, kinh doanh, tự do
hợp đồng, cạnh tranh lành mạnh của các doanh nghiệp. Như vậy, nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa tự nó đã là một đòi hỏi tất yếu khách quan, buộc
Nhà nước phải thay đổi phương thức quản lý kinh tế - xã hội bằng pháp luật, phải xây
dựng thể chế kinh tế thị trường đủ ở mức tạo thành hành lang pháp lý an toàn cho hoạt
động sản xuất, kinh doanh, bảo đảm công bằng, bình đẳng, hợp tác cùng phát triển lâu
dài giữa các thành phần kinh tế, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho sự phát triển bền
vững của nền kinh tế.

Việc chỉ ra một cách đúng đắn những hạn chế của cơ chế quản lý cũ giúp
chúng ta tìm được những cách thức khắc phục nó một cách hiệu quả. Việc xoá bỏ cơ
chế cũ phải diễn ra đồng thời với việc xây dựng cơ chế quản lý mới. Đại hội VI của
Đảng xác định mục tiêu của cơ chế mới là tạo ra động lực mạnh để giải phóng năng
lực sản xuất, xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, chuyển hoạt động kinh tế
sang hạch toán kinh doanh; sử dụng đầy đủ và đúng đắn các quan hệ hàng hóa - tiền
tệ; nền kinh tế phải được quản lý bằng các biện pháp kinh tế là chủ yếu; các đơn vị kế
hoạch (quốc doanh và tập thể) là những đơn vị sản xuất hàng hoá, có quyền tự chủ về
sản xuất, kinh doanh, tự chủ về tài chính.
Trong mối quan hệ giũa hạ tầng cơ sở và thượng tầng kiến trúc thì Nhà nước
cần được đổi mới cho phù hợp. Sự ra đời của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa đòi hỏi tất yếu Nhà nước phải quản lý kinh tế, quản lý xã hội bằng pháp
luật, là tiền đề quan trọng để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Ngược
lại, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có thể thực sự ra đời và từng bước hoàn
thiện khi các điều kiện chính trị, kinh tế - xã hội của đất nước phát triển đến một trình
độ nhất định, làm tiền đề, tạo điều kiện vật chất và tinh thần cần thiết để các quyền cơ
bản của công dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội được bảo đảm thực thi một
cách đầy đủ và triệt để.
Việc Đảng và Nhà nước khẳng định mô hình kinh tế thị trường tại Việt Nam là
không đối lập với chủ nghĩa xã hội; mà đó cũng đồng nghĩa với việc khẳng định có
thể và cần xây dựng mô hình nhà nước pháp quyền không đối lập với chủ nghĩa xã


hội. Đây cũng là một đòi hỏi khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta.
Tiền đề chính trị - xã hội
Cùng với quá trình đổi mới kinh tế, những ảnh hưởng, tác động về mặt chính
trị - xã hội cũng tạo ra các tiền đề quan trọng trong quá trình hình thành tư duy lý luận
của Đảng về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tiền đề chính trị - tư tưởng quan trọng nhất để xây dựng Nhà nước pháp quyền

xã hội chủ nghĩa Việt Nam là chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước và pháp luật.
Trong việc xác định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đảng khẳng
định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường
xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người khởi xướng những tư tưởng, quan điểm về
pháp quyền, nhân quyền (quyền con người), về các quyền tự do, dân chủ, về bản chất,
vai trò của luật pháp trong xã hội.
Những tư tưởng nhân văn cao cả trong tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa lập
hiến đã được vận dụng ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công năm 1945. Ngay
khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, một trong những nhiệm vụ cấp bách mà
Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời (ngày
3/9/1945) là: “Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ
thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có hiến pháp. Nhân dân
không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ. Tôi
đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay một cuộc TỔNG TUYỂN CỬ với chế
độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân trai gái mười tám tuổi đều có quyền ứng cử
và bầu cử, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, dòng giống, v.v...” (Hồ Chí Minh:
Sđd, 2000, t.4, tr.8). Và chỉ 10 tháng sau, Quốc hội do nhân dân bầu ra qua cuộc Tổng
tuyển cử lịch sử đó đã thông qua Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp dân chủ đầu tiên đặt
nền móng cho sự phát triển của Nhà nước hợp hiến Việt Nam.
Nhà nước ta mang bản chất giai cấp công nhân do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo. Vì vậy, phải khẳng định và bảo đảm quyền lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước nhằm giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước.


Nhà nước ta mang tính nhân dân, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân,
dựa trên khối đại đoàn kết toàn dân mà nòng cốt là liên minh công, nông và trí thức do
giai cấp công nhân lãnh đạo.
Xây dựng Nhà nước hợp hiến, hợp pháp, Nhà nước thực hiện quản lý xã hội

bằng Hiến pháp và pháp luật. Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định pháp luật là phương tiện
để củng cố Nhà nước, duy trì trật tự xã hội. Giữa pháp luật và Nhà nước phải có mối
quan hệ hữu cơ với nhau. Để tạo nên sự ổn định của Nhà nước, làm cho bộ máy Nhà
nước vận hành đúng quỹ đạo, phát huy được hiệu lực quản lý, điều hành thì phải xây
dựng được hệ thống luật pháp đúng đắn. Luật pháp của ta là luật pháp thực sự dân
chủ, bảo vệ quyền tự do dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động. Mọi người đều có
quyền tham gia xây dựng pháp luật, bình đẳng trước pháp luật và tuân thủ pháp luật.
Các cơ quan nhà nước, các cán bộ, công chức của Nhà nước phải làm gương trong
việc thi hành pháp luật.
Trong hệ thống chính trị nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là người lãnh
đạo, vừa là bộ phận của hệ thống ấy. Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội (Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên) là những bộ phận cấu thành cơ bản.
Vì vậy, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải đặt
trong bối cảnh đổi mới đồng bộ các thành tố cơ bản của cả hệ thống chính trị, trong
mối quan hệ tác động qua lại giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội.
Dân chủ hoá trong đời sống chính trị - tư tưởng, kinh tế, văn hoá, xã hội là một
trong những tiền đề chính trị tư tưởng quan trọng trong quá trình xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Sự phát triển, hoàn thiện của Nhà nước và pháp luật không tách rời sự phát
triển, tiến bộ của nền văn minh nhân loại và trình độ phát triển văn hoá – xã hội cụ thể
của quốc gia trong từng thời kỳ (trình độ dân trí, vấn đề dân chủ và công bằng xã hội,
vấn đề quyền con người và quyền công dân,...). Đó là mối quan hệ biện chứng.
2.2. Tất yếu lịch sử và tất yếu khách quan của việc xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hôi chủ nghĩa ở Việt Nam.
Tính tất yếu lịch sử của việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam bắt
nguồn từ chính lịch sử xây dựng và phát triển của Nhà nước ta. Ngay từ khi thành lập
và trong quá trình phát triển, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã và luôn là một
nhà nước hợp hiến, hợp pháp. Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở các quy
định của Hiến pháp và pháp luật và luôn vận hành trong khuôn khổ Hiến pháp và



pháp luật. Các đạo luật tổ chức Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát
nhân dân và các đạo luật về chính quyền địa phương được xây dựng trên cơ sở các
Hiến pháp năm 1946, năm 1959, năm 1980 và năm 1992. Những lần Hiến pháp được
sửa đổi và thông qua là những bước củng cố cơ sở pháp luật cho tổ chức và hoạt động
của bản thân các cơ quan nhà nước. Vì vậy, có thể nói, quá trình xây dựng nhà nước
pháp quyền ở Việt Nam là một quá trình lịch sử được bắt đầu ngay từ Tuyên ngôn độc
lập năm 1945 và Hiến pháp năm 1946. Quá trình này đã trải qua hơn nửa thế kỷ với
nhiều giai đoạn phát triển đặc thù. Ngày nay, quá trình này đang được tiếp tục ở một
tầng cao phát triển mới với nhiều đòi hỏi và nhu cầu cải cách mới.
Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam
xuất phát từ định hướng xã hội chủ nghĩa mà mục tiêu cơ bản là xây dựng một chế độ
xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Chúng ta ý thức
sâu sắc rằng, để xây dựng được một chế độ xã hội có tính mục tiêu như vậy, công cụ,
phương tiện cơ bản chỉ có thể là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tính tất yếu
khách quan ấy còn xuất phát từ đặc điểm của thời đại với xu thế toàn cầu hóa. Nhu
cầu hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách nhà
nước, cải cách pháp luật, bảo đảm cho Nhà nước không ngừng vững mạnh, có hiệu
lực để giải quyết có hiệu quả các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, thực hành dân
chủ, củng cố độc lập, tự chủ và hội nhập vững chắc vào đời sống quốc tế.
2.3 . Quá trình nhận thức của Đảng ta về Nhà nước pháp quyền
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc cũng như xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đảng ta luôn quan tâm lãnh đạo việc củng cố,
từng bước hoàn thiện bộ máy nhà nước và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Từ
khi tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, Đảng ta hết sức coi trọng việc cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật phù hợp với điều kiện mới. Đặc biệt, tại Hội nghị đại biểu

toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1994), Đảng ta đã khẳng định phương hướng xây
dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Phương hướng đó được cụ thể hóa một bước tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương
lần thứ tám, khóa VII đầu năm 1995. Tại Hội nghị này, 5 quan điểm cơ bản để tiến
hành cải cách bộ máy nhà nước theo định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền


được xác định. Tiếp đến, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta một lần
nữa khẳng định 5 quan điểm cơ bản nêu trên. Đó là:
- Xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân; lấy liên minh
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng
Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ
cương xã hội, chuyên chính với mọi hoạt động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và nhân
dân.
- Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
- Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Nhà
nước.
- Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam. Quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức.
- Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (tháng 4-2001) tiếp tục khẳng
định nhiệm vụ "xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo
của Đảng" và chỉ rõ "Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của
nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân".
Như thế, từ khi ra đời cho đến nay, trong đường lối của Đảng Cộng sản Việt
Nam luôn luôn quán triệt tư tưởng xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân ở
Việt Nam, coi trọng việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật - phương tiện
quan trọng trong quản lý nhà nước.
2.4. Đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Mỗi nhà nước pháp quyền đều có những đặc trưng của nó. Đặc trưng của Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thể hiện:
Một là, Nhà nước ta là Nhà nước cúa nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất
cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Đây là nguyên tắc cơ bản, được khẳng định trong chỉ đạo quá trình xây dựng
Nhà nước, được ghi nhận trong các Hiến pháp của Nhà nước ta và được thể hiện cụ
thể trong các quy định về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước từ
Trung ương đến địa phương; của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.


Hai là, xác định quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch
và sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp. Đây vừa là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước
ta, vừa là quan điểm chỉ đạo quá trình tiếp tục thực hiện việc cải cách bộ máy nhà
nước.
Quán triệt quan điểm quyền lực nhà nước thống nhất sẽ tác động trực tiếp đến
việc tăng cường trách nhiệm và sự phối hợp của các cơ cấu thực hiện quyền lực của
bộ máy nhà nước, bảo đảm cho bộ máy nhà nước vận hành đồng bộ, thống nhất và có
hiệu lực, hiệu quả. Mặt khác, tăng cường việc phân công, phân nhiệm rành mạch, hợp
lý, rõ ràng và chú trọng phối hợp chặt chẽ trên tinh thần “vì dân, do dân” giữa các cơ
quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp chính là điều kiện
để phát huy tốt hiệu lực của quyền lực nhà nước thống nhất.
Quốc hội được xác định là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp, quyết
định những vấn đề cơ bản, quan trọng của đất nước và thực hiện quyền giám sát tối
cao.
Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước
cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chính phủ thống nhất quản
lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh
và đối ngoại của đất nước.

Trong việc tổ chức và phân công quyền lực nhà nước, vị trí, vai trò của các cơ
quan tư pháp nước ta mà trung tâm là hệ thống các toà án được đề cao; bảo đảm các
nguyên tắc khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; toà
án xét xử tập thể và quyết định theo đa số; quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm.
Chính quyền địa phương luôn luôn được chăm lo củng cố theo quy định của các Hiến
pháp với việc hình thành Hội đồng nhân dân do nhân dân địa phương trực tiếp bầu ra
và Hội đồng nhân dân bầu các thành viên của Uỷ ban nhân dân.
Ba là, Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh các
quan hệ thuộc tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Hệ thống pháp luật phải thể hiện đầy đủ, đúng đắn ý chí của nhân dân, phù hợp
với hiện thực khách quan, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Pháp luật phải được chính Nhà
nước, cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước và mọi người, mọi tổ chức trong
xã hội tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành. Hiến pháp năm 1992 đã xác định: “Nhà
nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ


nghĩa. Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân
dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật, đấu tranh
phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp luật”. Nghĩa vụ
tuân theo Hiến pháp, pháp luật là của tất cả công dân, không loại trừ đối với bất cứ ai.
Ngay Đảng Cộng sản Việt Nam, được toàn thể nhân dân Việt Nam thừa nhận vị trí,
vai trò lãnh đạo đất nước và Hiến pháp khẳng định Đảng “là lực lượng lãnh đạo Nhà
nước và xã hội”, đồng thời, Hiến pháp cũng xác định: “Mọi tổ chức của Đảng hoạt
động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
Bốn là, Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân;
nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, thực hành dân chủ, đồng
thời tăng cường kỷ cương, kỷ luật.
Kể từ khi thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cho đến nay, nội
dung này luôn luôn được Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Trong các văn bản pháp
luật, các nội dung về quyền con người đều được quy định đầy đủ. Hiến pháp năm

1992 đã dành trọn một chương (Chương V) với 34 điều quy định về quyền và nghĩa
vụ cơ bản của công dân. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Tôi chỉ có một sự
ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta
được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”.
Như vậy, nguyện vọng thiết tha và mục tiêu cao cả của Đảng ta và Chủ tịch Hồ
Chí Minh về bảo đảm quyền con người, quyền công dân, được thể chế hoá thành luật
và được Nhà nước ta tổ chức thực hiện có kết quả.
Năm là, Nhà nước tôn trọng và thực hiện đầy đủ các điều ước quốc tế mà nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Nhà nước ta đã ký kết nhiều điều ước quốc tế song phương, trong đó chủ yếu
tập trung vào các lĩnh vực thương mại, tài chính, ngân hàng... Việt Nam cũng đã là
thành viên của trên 100 điều ước quốc tế đa phương. Việc ký kết các điều ước quốc tế
ngày càng được mở rộng, đặc biệt phải kể đến việc Việt Nam là thành viên của nhiều
tổ chức tài chính lớn như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ thế quốc tế (IMF).
Việt Nam tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và Diễn đàn hợp
tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC), v.v... Việc “Tiếp tục mở rộng quan hệ
kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá; chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế theo lộ trình phù hợp với điều kiện của nước ta và bảo đảm thực hiện những
cam kết trong quan hệ song phương và đa phương như AFTA, APEC, Hiệp định


Thương mại Việt - Mỹ, tiến tới gia nhập WTO,... là chủ trương nhất quán của Đảng
và Nhà nước ta.
Sáu là, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; sự giám sát của nhân dân và sự phản biện xã
hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận.
Trong suốt quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng đất nước
của nhân dân ta đã có một thời kỳ ở nước ta tồn tại nhiều đảng chính trị hoạt động
trong đời sống xã hội. Qua thử thách của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và trong
công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, nhân dân Việt Nam đã thừa nhận vị trí, vai

trò lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội. Sự
lãnh đạo của Đảng được chính thức ghi nhận trong Hiến pháp.
Trong điều kiện một đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội nhưng chúng ta có Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận hoạt động tích cực để
đoàn kết rộng rãi và đại diện cho tiếng nói của tất cả các giai cấp, các tầng lớp trong
xã hội.
Qua những nội dung trình bày trên đây, có thể thấy rằng, trong quá trình xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã tiếp thu được những tinh hoa của văn
minh nhân loại – các chế định pháp lý được thừa nhận chung của cộng đồng quốc tế
như: tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, sự tôn trọng và bảo vệ các quyền
và tự do của con người như là những giá trị xã hội cao quý nhất, sự ngự trị của pháp
luật trong các lĩnh vực hoạt động của Nhà nước và trong điều chỉnh các quan hệ xã
hội. Tuy nhiên, trong việc tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước, chúng ta không chấp
nhận “tam quyền phân lập” gắn với chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập như ở
các nước tư sản. Trái lại, ở nước ta, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp, dưới sự lãnh đạo của một chính đảng duy nhất - Đảng Cộng sản
Việt Nam. Đây là nét đặc trưng khác biệt giữa Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam với nhà nước pháp quyền tư sản; đồng thời cũng là kinh nghiệm vô cùng
quý giá mà nhân dân ta đã đúc kết được trong quá trình lịch sử cách mạng Việt Nam


2.5. Những thành tựu và hạn chế trong quá trình xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
2.5.1. Nhận thức mới về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam:
Trước thời kỳ đổi mới, việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước và pháp luật được
thực hiện trên cơ sở quan điểm phát triển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp.
Từ Đại hội VI, Đảng khởi xướng đường lối đổi mới, trong đó lấy đổi mới kinh tế làm

trọng tâm, từng bước đổi mới hệ thống chính trị. Trong quá trình đó đã nảy sinh quan
niệm về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tuy nhiên đã có những quan điểm khác nhau về nhà nước pháp quyền. Có ý
kiến cho rằng, trong chế độ xã hội chủ nghĩa thì không thể có nhà nước pháp quyền.
Nhà nước pháp quyền chỉ dành riêng cho nhà nước tư sản. Vì vậy, không thể ghép
“nhà nước pháp quyền” với “chủ nghĩa xã hội” được. Nhưng nhiều ý kiến khác lại cho
rằng, chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là sự
sáng tạo của Đảng trong quá trình đổi mới tư duy về xây dựng Nhà nước Việt Nam xã
hội chủ nghĩa. Điều quan trọng là Đảng và Nhà nước phải biết phát huy cao độ tinh
thần dân chủ, ý thức tự lực tự cường và tinh thần sáng tạo của nhân dân trong việc xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhận thức là một quá trình và thực tiễn
là cơ sở của quá trình ấy. Chính thực tiễn là tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá tính xác
thực của quá trình nhận thức về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Nhận thức này đã dẫn đến chủ trương coi trọng hơn việc quản lý xã hội bằng pháp
luật và theo pháp luật; bộ máy nhà nước được tổ chức và hoạt động theo pháp luật;
phân biệt rõ quản lý hành chính – kinh tế với quản lý sản xuất – kinh doanh, trên cơ
sở đó tổ chức bộ máy quản lý hành chính – kinh tế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho
sản xuất, kinh doanh chứ không cản trở nó; chú trọng từng bước xây dựng hệ thống
pháp luật kinh tế và các pháp luật về an ninh xã hội; pháp luật phải được thực hiện
thống nhất trong cả nước. Pháp luật phải được chấp hành nghiêm chỉnh, mọi người
đều bình đẳng trước pháp luật. Trong điều kiện một đảng cầm quyền, mọi cán bộ, bất
cứ ở cương vị nào đều phải sống và làm việc theo pháp luật, gương mẫu trong việc
tôn trọng pháp luật. Mọi vi phạm pháp luật đều phải được xử lý. Phải dùng sức mạnh
của pháp chế xã hội chủ nghĩa kết hợp với sức mạnh của dư luận nhân dân để đấu
tranh những hành vi vi phạm pháp luật. Coi trọng công tác giáo dục, tuyên truyền, giải


thích pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống và cuộc sống phải được phản ánh vào
pháp luật.
Có thể coi những nhận thức trên là cơ sở, tiền đề quan trọng cho sự tiếp tục

phát triển tư duy lý luận của Đảng ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
Tuy nhiên, cũng phải nói rằng, từ nhận thức đến thực tiễn còn là một khoảng
cách. Có lúc nhận thức đúng, nhưng lại vận dụng sai. Khi thực hiện, chúng ta chưa có
những định hướng cải cách rõ ràng, đáng kể về bộ máy lập pháp, hành pháp, tư pháp,
chưa theo kịp với sự vận động khách quan của công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội.
Những chủ trương, định hướng phát triển hệ thống pháp luật còn manh mún, thiếu
tầm nhìn bao quát. Vị trí của pháp luật trong đời sống xã hội chưa thực sự được tôn
trọng đúng mức.
Nguyên nhân của những hạn chế trên đây là do hoàn cảnh thực tế và do trình
độ quản lý còn non kém. Những ảnh hưởng, tàn dư của tư tưởng cũ, phong cách điều
hành, chỉ đạo của thời chiến vẫn còn in đậm trong đời sống xã hội, trong cách nghĩ,
cách làm của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Năng
lực của đội ngũ cán bộ còn rất hạn chế về trình độ chuyên môn, về kiến thức quản lý,
kiến thức pháp luật, phong cách điều hành, tác phong công tác; trình độ ngoại ngữ, tin
học còn rất yếu. Rất nhiều cán bộ quen điều hành theo mệnh lệnh, bằng uy quyền, chứ
không bằng uy tín; họ rất ít quan tâm đến pháp luật. Người dân chưa có thói quen
chấp hành pháp luật, chấp hành không nghiêm (“phép vua thua lệ làng”) đã gây không
ít khó khăn cho Nhà nước trong quá trình thực thi pháp luật.
Từ Đại hội VII (năm 1991) của Đảng đến nay, tình hình hoạt động của bộ máy
nhà nước nói chung có tiến triển theo chiều hướng tốt. Đây là giai đoạn chúng ta đạt
được nhiều thành tựu quan trọng về lĩnh vực kinh tế. Các tiền đề kinh tế, chính trị, tư
tưởng, xã hội và quốc tế thúc đẩy sự hình thành ngày càng đầy đủ và toàn diện hơn
những tư tưởng, quan điểm, sự lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Xây dựng nhà nước pháp quyền là mục tiêu cần hướng tới
của bất kỳ xã hội nào, vì nó đáp ứng được khát vọng tự do, dân chủ, công bằng xã hội,
phúc lợi cho nhân dân, là phương thức hữu hiệu bảo đảm sự tôn trọng nhân phẩm và
các quyền cơ bản của con người. Ở Việt Nam, vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền
tuy còn mới mẻ, nhưng nó đang mở ra phương hướng mới đầy triển vọng khi xác định



đó là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chính quá trình chuyển đổi nền kinh tế ở nước ta (từ kinh tế kế hoạch hoá tập
trung sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa) và đứng trước yêu cầu hội
nhập kinh tế quốc tế, đã tạo ra những thay đổi lớn về hạ tầng cơ sở. Cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần đã hình thành và đang phát triển. Cùng với kinh tế nhà nước và kinh
tế tập thể là nền tảng vững chắc, các thành phần kinh tế khác như kinh tế cá thể, tiểu
chủ, kinh tế tư bản, tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài, đang từng bước khẳng định vị thế của mình trong sự phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước. Cơ sở hạ tầng thay đổi, tất yếu dẫn đến sự thay đổi của Nhà nước và
pháp luật (với tư cách là những bộ phận trọng yếu của kiến trúc thượng tầng). Nhà
nước và pháp luật phải phản ánh, đại diện đầy đủ cũng như điều hoà được các lợi ích
của các giai cấp, tầng lớp nhân dân trong xã hội. Nhà nước không còn là người bảo
trợ, bao cấp cho xã hội, mà chỉ là “bà đỡ”, tạo ra các điều kiện, môi trường, định
hướng cho xã hội phát triển; pháp luật không chỉ là công cụ của Nhà nước để quản lý
xã hội mà còn là công cụ, là chỗ dựa vững chắc của người dân để họ sống và xử sự
theo pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; pháp luật phải là hiện thân
của nguyên tắc: công dân được làm tất cả những gì pháp luật không cấm; cán bộ, công
chức cơ quan nhà nước chỉ được làm những gì pháp luật cho phép. Thực tế đã đòi hỏi
chúng ta phải nhìn nhận và xác định rõ vị trí, vài trò và chức năng của Nhà nước và
pháp luật cho phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phù
hợp với hoàn cảnh mới, phải tạo ra những điều kiện, môi trường và các định chế pháp
lý cần thiết cho việc bảo đảm các quyền tự do kinh doanh, quyền tự do, dân chủ của
công dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Tình hình quốc tế thay đổi và có những diễn biến phức tạp, đòi hỏi chúng ta
phải có những đối sách thích hợp với điều kiện, hoàn cảnh mới: một mặt, phải giữ
được định hướng xã hội chủ nghĩa, giữ được bản sắc và truyền thống của dân tộc
trong quá trình phát triển; mặt khác, chúng ta phải biết tranh thủ, tận dụng những nhân
tố mới và tinh hoa mới của thời đại. Kết hợp nhuần nhuyễn và hiệu quả giữa sức

mạnh có tính quyết định của nội lực với sức mạnh của thời đại để tạo ra sức bật mới
cho quá trình phát triển và hội nhập.


2.5.2. Thành tựu đạt được:
Trong quá trình đổi mới và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN đã đạt
được những thành tựu sau:
- Thời gian qua, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam có tiến bộ trên cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Về lập pháp: Chúng ta đã xây dựng được nhiều đạo luật tạo khung pháp lý cho
sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; chế độ sở hữu và các
hình thức sở hữu, địa vị pháp lý của các doanh nghiệp, thương gia, quyền tự do kinh
doanh và tự do hợp đồng, các cơ chế khuyến khích và bảo đảm đầu tư, khai thác và sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội đã từng bước được xác lập. Nhìn chung, các
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã bước đầu hình thành. Các
quy định mang tính hành chính, mệnh lệnh điều chỉnh các quan hệ dân sự, kinh tế,
thương mại đang từng bước được thay thế bằng các quy định bình đẳng, ngang quyền,
phù hợp với dân luật truyền thống và tập quán; chế độ nhà nước độc quyền về ngoại
thương được xoá bỏ; nguyên tắc công dân được làm tất cả những gì mà pháp luật
không cấm trong hoạt động kinh doanh từng bước được xác lập. Pháp luật trong lĩnh
vực hành chính nhà nước đã có những đổi mới tích cực.
Nhà nước ta đã ký kết hoặc gia nhập nhiều điều ước quốc tế phục vụ cho chủ
trương mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Vị trí, vai trò
của các điều ước quốc tế trong điều chỉnh các quan hệ xã hội được nâng cao rõ rệt.
Pháp lệnh về ký kết và thực hiện điều ước quốc tế năm 1998, Luật điều ước quốc tế
(năm 2005) đánh dấu một bước phát triển quan trọng đưa việc ký kết và thực hiện
điều ước quốc tế vào nền nếp. Điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập
dần dần trở thành một bộ phận không thể tách rời của hệ thống pháp luật nước nhà.
Công tác soạn thảo, xem xét và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật dần dần đi
vào nền nếp, theo đúng chuẩn mực và có những đổi mới tích cực, hiệu quả cụ thể

(nhất là việc ban hành các đạo luật và pháp lệnh), theo một quy trình thống nhất do
luật định, chuẩn hoá quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật thông qua việc
ban hành luật, ban hành văn bản quy phạm pháp luật; pháp chế trong việc ban hành
văn bản quy phạm pháp luật từng bước được thiết lập; các tổ chức, công dân chịu sự
tác động trực tiếp của văn bản đã tham gia đóng góp ý kiến vào các dự thảo văn bản
quy phạm pháp luật ngày càng đông đảo và thực chất hơn. Chất lượng văn bản pháp


×