Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Quy định của pháp luật về quyền hạn điều tra của bộ đội biên phòng trong điều tra vụ án hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (938.27 KB, 75 trang )

TR Ờ

U


Ầ T
U T
*******

VĂ TỐT
ỆP
Khóa 37 (2011-2015)

Đề tài:
QUY Ị
Ủ P ÁP U T VỀ QUYỀ
ỀU TR
Ủ BỘ Ộ B Ê P Ò
TR
ỀU TR VỤ Á
Ì
SỰ

Giảng viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

guyễn hí iếu
Bộ môn: uật Tư pháp

ê Thị Thúy am


MSSV: 5117313
ớp: uật ành chính - 37
Cần Thơ, 11/2014


Quy định của pháp luật về quyền hạn điều tra của Bộ đội biên phòng trong điều tra vụ
án hình sự

XÉT Ủ







DẪ

…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………..……………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………

V D: guyễn hí

iếu

SVT : ê Thị Thúy am


Quy định của pháp luật về quyền hạn điều tra của Bộ đội biên phòng trong điều tra vụ

án hình sự

XÉT Ủ

N





P Ả BỆ

…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………..……………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………

V D: guyễn hí

iếu

SVT : ê Thị Thúy am


Quy định của pháp luật về quyền hạn điều tra của Bộ đội biên phòng trong điều tra vụ
án hình sự

MỤ


Trang


LỜI NÓI ĐẦU ................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................................... 1
3. Phạm vi nghiên cứu ....................................................................................................... 2
4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................... 2
5. Bố cục luận văn ............................................................................................................. 2
1.

Á QUÁT
U
VỀ BỘ Ộ B Ê P Ò
VÀ ỀU TR
VỤ Á
Ì
SỰ ............................................................................................................ 3
1.1. ác khái niệm có liên quan ...................................................................................... 3
1.1.1. Khái niệm về Bộ đội biên phòng ......................................................................... 3
1.1.2. Khái niệm điều tra vụ án hình sự ....................................................................... 5
1.2. Sự cần thiết quy định thẩm quyền điều tra vụ án hình sự của Bộ đội biên
phòng ................................................................................................................................ 10
1.3. guyên tắc hoạt động điều tra của Bộ đội biên phòng trong điều tra vụ án hình
sự ....................................................................................................................................... 11
1.3.1. Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa ............................................. 11
1.3.2. Nguyên tắc tôn trọng sự thật vụ án................................................................... 13
1.3.3. Nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo ...................................................... 14
1.4. Vai trò của bộ đội biên phòng trong điều tra vụ án hình sự............................... 15
1.5. ược khảo quy định của pháp luật về quyền hạn của bộ đội biên phòng trong
điều tra vụ án hình sự ..................................................................................................... 16
1.5.1. Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 1988 (sửa đổi, bổ sung năm 1990, 1992, 2000)

và Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 1989 ......................................................... 17
1.5.2. Pháp lệnh Bộ đội biên phòng năm 1997 và Nghị định số 02/1998/NĐ-CP ........... 18
1.5.3. Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 và Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự
năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2006, 2009) ................................................................ 18
2. QUY Ị
Ủ P ÁP U T VỀ QUYỀ
ỀU TR CỦ
BỘ Ộ B Ê P Ò
TR
ỀU TR VỤ Á
Ì
SỰ ............................ 20
2.1. Thẩm quyền và phạm vi điều tra của Bộ đội biên phòng ................................... 20
2.2. Quyền hạn điều tra của Bộ đội biên phòng trong điều tra vụ án hình sự ......... 25
2.2.1. Tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; Quyết
định khởi tố vụ án hình sự hoặc Quyết định không khởi tố vụ án hình sự .................. 26
2.2.2. Tiến hành các hoạt động điều tra ..................................................................... 29
2.2.2.1. Khám nghiệm hiện trường ............................................................................ 29
2.2.2.2. Khám xét ....................................................................................................... 31
2.2.2.3. Lấy lời khai ................................................................................................... 35
V D: guyễn hí

iếu

SVT : ê Thị Thúy am


Quy định của pháp luật về quyền hạn điều tra của Bộ đội biên phòng trong điều tra vụ
án hình sự
2.2.2.4. Thu giữ, tạm giữ và bảo quản vật chứng, tài liệu liên quan trực tiếp đến vụ

án .................................................................................................................................. 37
2.2.2.5. Trưng cầu giám định khi cần thiết .............................................................. 39
2.2.2.6. Khởi tố bị can ............................................................................................... 41
2.2.3. Áp dụng các biện pháp ngăn chặn ................................................................... 44
2.2.3.1. Biện pháp bắt người ..................................................................................... 46
2.2.3.2. Biện pháp ngăn chặn tạm giữ và gia hạn tạm giữ ....................................... 50
2.2.4. Kết thúc điều tra và chuyển hồ sơ vụ án........................................................... 52
3. MỘT SỐ TỒ T
Ủ P ÁP U T VỀ QUYỀ
ỀU
TRA Ủ BỘ Ộ B Ê P Ò
TR
ỀU TR VỤ Á
Ì
SỰ VÀ Ề
XUẤT Ả P ÁP
À T Ệ ............................................................................. 55
3.1. Tồn tại của quy định về phạm vi điều tra của Bộ đội biên phòng và đề xuất mở
rộng phạm vi điều tra ..................................................................................................... 56
3.1.1. Tồn tại ủa quy định về phạm vi điều tra ủa Bộ đội biên phòng ...................... 56
3.1.2. Đề xuất mở rộng phạm vi điều tra của Bộ đội biên phòng .............................. 57
3.2. Tồn tại của quy định về quyền hỏi cung bị can và đề xuất được quyền tiến
hành hỏi cung bị can ....................................................................................................... 59
3.2.1. Tồn tại của quy định về quyền hỏi cung bị can ............................................... 59
3.2.2. Đề xuất quyền tiến hành hỏi cung bị can......................................................... 60
3.3. Tồn tại của quy định về áp dụng các biện pháp ngăn chặn và đề xuất hoàn
thiện .................................................................................................................................. 60
3.3.1. Tồn tại của quy định về áp dụng các biện pháp ngăn chặn ............................ 60
3.3.2. Đề xuất hòa thiện quy định về áp dụng các biện pháp ngăn chặn ................. 61
3.4. Một số quy định của pháp luật về quyền hạn điều tra của Bộ đội biên phòng

chưa được quy định cụ thể và thống nhất; đề xuất hoàn thiện .................................. 62
ẾT U
.................................................................................................................... 66

V D: guyễn hí

iếu

SVT : ê Thị Thúy am


Quy định của pháp luật về quyền hạn điều tra của Bộ đội biên phòng trong điều tra vụ
án hình sự



Ó

ẦU

1. ý do chọn đề tài
Trong xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay. Kinh tế
xã hội nước ta đã đạt được những bước tiến vượt bậc, góp phần nâng cao vị thế của
Việt Nam trên trường quốc tế. Tồn tại song song với sự tăng trưởng về kinh tế là sự
gia tăng đột biến về tình hình tội phạm. Tội phạm không chỉ gia tăng về số lượng mà
cách thức, mức độ thực hiện hành vi phạm tội ngày một tinh vi, tính chất ngày càng
nguy hiểm hơn và những hậu quả về tinh thần lẫn vật chất kéo theo là những vấn đề
được Nhà nước và dư luận xã hội quan tâm. Trong điều kiện hiện nay, để đảm bảo
công lý xã hội chủ nghĩa, kiên quyết đấu tranh chống tội phạm, giữ gìn bình yên cho
nhân dân, bảo đảm công bằng; người có hành vi phạm tội thì phải bị trừng phạt, nhưng

phải thận trọng không được làm oan người vô tội. Trong tố tụng hình sự, điều tra vụ án
hình sự có ý nghĩa quan trọng. Kết quả của hoạt động này là tiền đề cho việc giải quyết
vụ án.
Tuy nhiên, trong hoạt động điều tra hiện nay đa phần chú trọng đến các cơ quan
điều tra như Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Cơ quan điều tra
trong công an nhân dân mà ít chú trọng đến Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra nói chung, Bộ đội biên phòng nói riêng. Bộ đội biên phòng
là cơ quan có chức năng quản lý Nhà nước. Nhưng do tính chất đặc thù trong lĩnh vực
hoạt động và địa bàn quản lý nên Bộ đội biên phòng được Chính phủ giao chủ trì, phối
hợp với các lực lượng đấu tranh phòng chống tội phạm nhằm để kịp thời phát hiện và
xử lý tội phạm ở những vùng như biên giới, hải đảo,… Nhiều năm qua, Bộ đội biên
phòng đã làm tốt quyền hạn điều tra vụ án hình sự, góp phần giữ vững, ổn định tình
hình ở khu vực biên giới.
Vì lý do trên, người viết chọn đề tài “Quy định của pháp luật về quyền hạn
điều tra của Bộ đội biên phòng trong điều tra vụ án hình sự” để làm luận văn tốt
nghiệp cử nhân luật.
2. Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc nghiên cứu, tìm hiểu cơ sở lý luận và các quy định pháp luật về
quyền hạn của Bộ đội biên phòng trong điều tra vụ án hình sự để làm rõ tầm quan
trọng của Bộ đội biên phòng đối với việc điều tra vụ án hình sự cụ thể - với ý nghĩa là
một trong những cơ quan điều tra vụ án. Bên cạnh việc xác định quyền của Bộ đội
biên phòng là việc tìm hiểu những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực thi pháp
luật về quyền của Bộ đội biên phòng trong điều tra vụ án hình sự. Trên cơ sở đó, người
viết xin đưa ra ý kiến sửa đổi, đề xuất một số giải pháp để nâng cao quyền hạn của Bộ

V D: guyễn hí

iếu

1


SVT : ê Thị Thúy am


Quy định của pháp luật về quyền hạn điều tra của Bộ đội biên phòng trong điều tra vụ
án hình sự

đội biên phòng phù hợp với tiến trình cải cách tư pháp hiện nay và tiến trình sửa đổi
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, góp phần tích cực cho công tác điều tra phá án.
3. Phạm vi nghiên cứu
Dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn, người viết tập trung nghiên cứu một số nội
dung cơ bản về Bộ đội biên phòng và quyền hạn của Bộ đội biên phòng trong điều tra
vụ án hình sự ở Việt Nam. Từ đó, đưa ra một số ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện hơn
nữa các quy định của pháp luật về quyền của Bộ đội biên phòng trong điều tra vụ án
hình sự hiện hành.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, người viết được tìm hiểu và nghiên cứu trên cơ
sở tổng hợp các tài liệu, sách báo, tạp chí,… có liên quan đến đề tài, vận dụng phương
pháp luận và các phương pháp nghiên cứu khoa học như chứng minh, đánh giá, phân
tích theo phương pháp quy nạp và diễn dịch. Các phương pháp trên nhằm phân tích
các yếu tố liên quan đến quyền của Bộ đội biên phòng trong điều tra vụ án hình sự,
giải quyết vụ án cụ thể. Bên cạnh đó là những vấn đề phát sinh từ những quy định của
luật về quyền của Bộ đội biên phòng trong điều tra vụ án hình sự.
5. Bố cục luận văn
Luận văn được thực hiện với kết cấu ngoài lời mở đầu và kết luận, nội dung
chính gồm ba chương như sau:
Chương 1: Khái quát chung về Bộ đội biên phòng và điều tra vụ án hình sự
Chương 2: Quy định của pháp luật về quyền hạn điều tra của Bộ đội biên phòng
trong điều tra vụ án hình sự
Chương 3: Một số vướng mắc trong quy định của pháp luật về quyền hạn điều

tra của Bộ đội biên phòng trong điều tra vụ án hình sự và đề xuất giải pháp hoàn thiện.
Trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài luận văn, người viết đã có nhiều cố gắng
trong việc nghiên cứu tài liệu, thông tin liên quan đến đề tài. Nhưng do trình độ kiến
thức còn hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Người viết mong
được sự ủng hộ cũng như ý kiến đóng góp của quý thầy cô, các bạn sinh viên và những
ai quan tâm đến vấn đề này nhằm giúp cho người viết hoàn thiện hơn đề tài luận văn
của mình. Chân thành cảm ơn!

V D: guyễn hí

iếu

2

SVT : ê Thị Thúy am


Quy định của pháp luật về quyền hạn điều tra của Bộ đội biên phòng trong điều tra vụ
án hình sự

1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BỘ Ộ B Ê P Ò
VÀ ỀU TR VỤ Á
Ì
SỰ
1.1. ác khái niệm có liên quan
1.1.1. Khái niệm về Bộ đội biên phòng
Năm 1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở
Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia được ký kết. Các nước tham gia Hội nghị Giơ-ne-vơ
long trọng tuyên bố tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của ba

nước Đông Dương. Mỹ là nước trực tiếp giúp Pháp trong cuộc chiến tranh xâm lược
Đông Dương (1945-1954) và là thành viên của Hội nghị Giơ-ne-vơ nhưng lại trắng
trợn tuyên bố: “Mỹ không bị nội dung Hiệp định này ràng buộc”. Từ đó, Mỹ ráo riết
hất cẳng Pháp ra khỏi Đông Dương để thống trị miền Nam nước ta bằng chủ nghĩa
thực dân mới, lấy vĩ tuyến 17 (sông Bến Hải, thuộc tỉnh Quảng Trị) làm giới tuyến
quân sự; sử dụng bọn phản động và tay sai trong nước nổi phỉ, xưng vua, gây bạo loạn
ở khu vực biên giới Việt-Trung, Việt-Lào; cưỡng ép đồng bào công giáo di cư vào
Nam; cài cắm gián điệp, chỉ điểm và tung nhiều toán gián điệp, biệt kích ra miền Bắc
hòng chia cắt đất nước ta lâu dài, ngăn chặn sự phát triển của chủ nghĩa Cộng sản, đẩy
lùi phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á và trên thế giới, uy hiếp các nước xã hội
chủ nghĩa. Để bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới, bờ biển, giới
tuyến và các mục tiêu quan trọng ở nội địa, Trung ương Đảng và Bác Hồ thành lập 3
lực lượng trực thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Công an. Đó là các đơn vị quân đội làm
nhiệm vụ bảo vệ, thuộc Bộ Quốc phòng; Công an Biên phòng và Cảnh sát Vũ trang,
thuộc Bộ Công an.
Để có một lực lượng vũ trang thống nhất, chuyên trách, vững mạnh về chính trị,
chặt chẽ về tổ chức; nắm vững đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; hiểu biết
sâu về pháp luật, có năng lực quản lý bảo vệ biên giới, giới tuyến và các mục tiêu nội
địa bằng các biện pháp nghiệp vụ chuyên sâu và khả năng chiến đấu vũ trang giỏi,
ngày 19-11-1958, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá II) ra Nghị
quyết số 58-NQ/TW và ngày 3-3-1959, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định số 100/TTg
“Về việc thành lập lực lượng Công an nhân dân vũ trang”: “Thống nhất các đơn vị bộ
đội quốc phòng đang làm công tác bảo vệ nội địa, bảo vệ biên giới, giới tuyến và các
đơn vị Công an biên phòng, Cảnh sát vũ trang thành một lực lượng vũ trang chuyên
trách công tác biên phòng và bảo vệ nội địa, lấy tên là Công an nhân dân vũ trang, đặt
dưới sự lãnh đạo của Bộ Công an” (trích Chỉ thị số 100/TTg) có nhiệm vụ “Trấn áp
mọi hành động phá hoại của bọn phản cách mạng trong nước và bọn phản cách mạng
V D: guyễn hí

iếu


3

SVT : ê Thị Thúy am


Quy định của pháp luật về quyền hạn điều tra của Bộ đội biên phòng trong điều tra vụ
án hình sự

ngoài nước xâm nhập phá hoại nước ta, luôn luôn sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ an
ninh biên giới, bờ biển, giới tuyến và nội địa, bảo vệ an toàn cho các cơ sở kinh tế, văn
hoá quan trọng” (trích Nghị quyết số 58-NQ/TW).
Từ đây, nước ta chính thức có một lực lượng vũ trang chuyên trách công tác
biên phòng, tập trung thống nhất từ Trung ương đến cơ sở, gồm 3 cấp: Trung ương có
Ban chỉ huy Công an nhân dân vũ trang Trung ương (tháng 7-1961 đổi tên thành Bộ
Tư lệnh Công an nhân dân vũ trang); cấp tỉnh, thành có Ban chỉ huy Công an nhân dân
vũ trang tỉnh, thành; cấp cơ sở có các đồn biên phòng và đơn vị cơ động đóng dọc biên
giới, bờ biển, trực thuộc Ban chỉ huy Công an nhân dân vũ trang các tỉnh, thành phố.
Sau năm 1978, tình hình trên các tuyến biên giới nước ta diễn biến phức tạp, để đáp
ứng với yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, ngày 10-10-1979 Bộ Chính trị (Khoá
IV) ra Nghị quyết 22/NQ-TW, ngày 19-11-1979 Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số
412/CP về phân công lại nhiệm vụ, đổi tên lực lượng Công an nhân dân vũ trang thành
Bộ đội biên phòng. Từ khi thành lập đến nay, ngày 3 tháng 3 hàng năm chính thức trở
thành Ngày truyền thống của Bộ đội biên phòng1.
Bộ đội biên phòng là lực lượng vũ trang nhân dân của Đảng, của Nhà nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là một thành phần của Quân đội nhân dân Việt
Nam, làm nòng cốt, chuyên trách quản lý, bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an
ninh, trật tự biên giới quốc gia trên đất liền, các hải đảo, vùng biển và tại các cửa khẩu
theo phạm vi nhiệm vụ do pháp luật quy định và là một lực lượng thành viên trong khu
vực phòng thủ tỉnh, huyện biên giới 2.

Từ khái niệm trên, ta thấy Bộ đội biên phòng có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, Bộ đội biên phòng là lực lượng vũ trang nhân dân, làm nòng cốt,
chuyên trách quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia. Bộ đội Biên phòng luôn xác định đấu
tranh phòng chống với các loại tội phạm, giữ gìn an ninh trật tự ở khu vực biên giới,
vùng biển, hải đảo Tổ quốc là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên cần
phải tập trung mọi nỗ lực để thực hiện với chất lượng, hiệu quả cao. Với nhận thức đó,
từ trước đến nay, Đảng uỷ, Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng luôn chủ trương tăng cường
mối quan hệ phối hợp chặt chẽ với toàn dân theo đúng chỉ đạo của lãnh đạo Bộ Quốc
phòng. Các đơn vị Bộ đội Biên phòng đã quán triệt và tổ chức thực hiện nghiêm các
chỉ thị, nghị quyết của Chính phủ, Bộ Quốc phòng, Ban Chỉ đạo 138/CP về thực hiện
Chương trình quốc gia phòng chống các loại tội phạm có tổ chức, tội phạm hình sự
nguy hiểm và tội phạm có tính quốc tế ở khu vực biên giới, vùng biển, hải đảo.
1

Người lính quân hàm xanh viết tiếp trang sử hào hùng, http://119.15.167.94/qkqd/vi-vn/111/343/nguoi-linh-

quan-ham-xanh-viet-tiep-trang-su-hao-hung/176933.html, [Thứ bảy, ngày 19 tháng 4 năm 2014].
2

Điều 1 Pháp lệnh Bộ đội biên phòng năm 1997.

V D: guyễn hí

iếu

4

SVT : ê Thị Thúy am



Quy định của pháp luật về quyền hạn điều tra của Bộ đội biên phòng trong điều tra vụ
án hình sự

Thứ hai, Bộ đội biên phòng hoạt động gắn liền với biên giới quốc gia trên đất
liền, các hải đảo, vùng biển và tại các cửa khẩu. Với đặc thù là lược lượng được thành
lập để bảo vệ biên giới quốc gia, lược lượng bộ đội đóng quân tại biên giới trên đất
liền và trên biển. Bộ Tư lệnh Bộ đội biên phòng và các đơn vị cơ sở đã phối, kết hợp
chặt chẽ với các cơ quan, ban, ngành, lực lượng từ Trung ương đến địa phương trong
thực hiện các biện pháp bảo vệ biên giới.
Thứ ba, hoạt động trong phạm vi, nhiệm vụ do pháp luật quy định. Cũng như
các Cơ quan, tổ chức của Nhà nước Bộ đội biên phòng được tổ chức và hoạt động theo
hiến pháp và pháp luật.
Trải qua hơn 50 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, Bộ đội biên phòng
đã lập nên nhiều chiến công và thành tích vẻ vang, được Đảng, Nhà nước 2 lần ghi
nhận, tuyên dương Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (12-1979 và 22009); được tặng thưởng 1 Huân chương Sao Vàng (2-2004); 2 Huân chương Hồ Chí
Minh (2-1979 và 2-1989); 2 Huân chương Độc lập: hạng Nhất (1-1994), hạng Nhì (81966); 2 Huân chương Quân công: hạng Nhất (3-1977), hạng Ba (3-1974) và nhiều
phần thưởng cao quý khác.
Kể từ ngày thành lập đến nay, vượt qua bao gian khó, thử thách, cả trong thời
chiến cũng như thời bình, Bộ đội biên phòng đã luôn nỗ lực để viết nên trang sử chói
ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng, xứng đáng là lực lượng vũ trang nhân làm nòng
cốt bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia.
1.1.2. Khái niệm điều tra vụ án hình sự
Điều tra vụ án hình sự là hoạt động của quá trình tố tụng hình sự do Cơ quan có
thẩm quyền điều tra vụ án hình sự tiến hành nhằm thu thập đầy đủ chứng cứ chứng
minh về tội phạm. Hoạt động điều tra do Cơ quan điều tra tiến hành một số hoạt động
điều tra theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Hoạt động điều tra được thực hiện
bằng các biện pháp điều tra khác nhau theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự như:
hỏi cung, lấy lời khai, đối chất, nhận dạng, khám xét, thu giữ vật chứng, tài liệu, khám
nghiệm (hiện trường, tử thi), xem xét dấu vết trên thân thể, thực nghiệm điều tra, trưng
cầu giám định… Viện kiểm sát thực hiện quyền công tố và kiểm sát điều tra, bảo đảm

mọi hoạt động điều tra đúng pháp luật. Việc điều tra phải đảm bảo khách quan, toàn
diện và đầy đủ; xác định các tình tiết buộc tội cũng như gỡ tội, tình tiết tăng nặng cũng
như giảm nhẹ, tình tiết để giải quyết trách nhiệm hình sự cũng như trách nhiệm dân
sự…
Với tính chất là một hoạt động độc lập của tố tụng hình sự, hoạt động điều tra
vụ án hình sự có chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể nhằm áp dụng các biện pháp
cần thiết do luật định để chứng minh việc thực hiện tội phạm và người phạm tội, xác
V D: guyễn hí

iếu

5

SVT : ê Thị Thúy am


Quy định của pháp luật về quyền hạn điều tra của Bộ đội biên phòng trong điều tra vụ
án hình sự

định rõ những nguyên nhân và điều kiện phạm tội, đồng thời kiến nghị các cơ quan và
tổ chức hữu quan áp dụng đầy đủ các biện pháp khắc phục và phòng ngừa tội phạm;
Thời điểm của hoạt động này được bắt đầu từ khi cơ quan, người tiến hành tố tụng
hình sự có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và kết thúc bằng bản kết
luận điều tra và quyết định của Cơ quan Điều tra về việc đề nghị Viện kiểm sát truy tố
bị can trước Tòa án hoặc đình chỉ vụ án hình sự tương ứng.
Trong điều tra vụ án hình sự, Cơ quan điều tra tiến hành hàng loạt các hoạt
động điều tra, tùy thuộc vào tính chất của từng loại vụ án, tình hình thực tế mà Cơ
quan điều tra áp dụng những biện pháp điều tra khác nhau cho phù hợp. Nhưng dù là
biện pháp điều tra nào thì vẫn mang đặc điểm chung là hoạt động điều tra trong vụ án
hình sự, là hoạt động chỉ có trong vụ án hình sự, được tiến hành sau khi có quyết định

khởi tố vụ án và được áp dụng bởi những chủ thể nhất định được quy định trong Bộ
luật Tố tụng hình sự và kết thúc khi Cơ quan điều tra hoàn thành bản kết luận điều tra
đề nghị truy tố hoặc quyết định đình chỉ điều tra.
Hoạt động điều tra vừa là hoạt động trọng tâm, cơ bản của toàn bộ quá trình tiến
hành tố tụng đồng thời cũng là hoạt động chỉ có và được tiến hành trong vụ án hình sự.
Do tính chất nghiêm trọng và nguy hiểm mà hậu quả tội phạm để lại, ảnh hưởng đến
tính mạng con người, đến danh dự, nhân phẩm, sức khỏe của con người, tài sản… và
đặc biệt ảnh hưởng đến uy tín của Nhà nước đối với nhân dân, đó là những khách thể
được Nhà nước ta bảo vệ được quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999 của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hoạt động tố tụng để xét xử vụ án hình sự là do
cơ quan tư pháp tiến hành: Tòa án nhân danh nhà nước tuyên án để kết tội một người
đã xâm phạm khách thể được pháp luật bảo vệ, được quy định trong điều khoản nào
trong Bộ luật hình sự đồng thời với việc tuyên án kết tội một người là phải có hình
phạt kèm theo, hình phạt nặng hay nhẹ còn tùy thuộc vào mức độ phạm tội. Chỉ cần
một sai sót nhỏ trong khi tiến hành tố tụng nói chung và hoạt động điều tra nói riêng
có thể dẫn đến người phạm tội không bị xử lý hoặc làm oan người vô tội, không xử lý
chúng sẽ tạo điều kiện cho tội phạm tiếp tục phạm tội… Bỏ lọt tội phạm đồng nghĩa
với việc Nhà nước không làm tròn trách nhiệm bảo vệ trật tự xã hội, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của người dân3. Bất kỳ một sai sót nào trong quá trình tố tụng cũng để
lại hậu quả rất nghiêm trọng ảnh hưởng đến uy tín Nhà nước đối với nhân dân. Trong
vụ án hình sự, để ra một bản án chính xác, bắt buộc tòa án phải căn cứ vào những
chứng cứ do cơ quan điều tra cung cấp. Trong điều tra vụ án dân sự không có sự hiện
diện của cơ quan điều tra, các đương sự có nghĩa vụ chứng minh cho yêu cầu của mình
3

Lê Kim Chung, Vi phạm pháp luật giải quyết các vụ án hình sự, sách chuyên khảo, Nxb Tư pháp, Trang 38.

V D: guyễn hí

iếu


6

SVT : ê Thị Thúy am


Quy định của pháp luật về quyền hạn điều tra của Bộ đội biên phòng trong điều tra vụ
án hình sự

bằng cách cung cấp các hồ sơ, tài liệu chứng cứ cho tòa án. Khi tiến hành các hoạt
động điều tra vụ án hình sự, Cơ quan điều tra phát hiện thu thập chứng cứ làm rõ sự
thật vụ án và những vấn đề cần chứng minh, vì vậy trong hoạt động xét xử vụ án hình
sự, hoạt động điều tra thiết yếu phải có trong vụ án hình sự. Hoạt động điều tra là hoạt
động đặc trưng chỉ được tiến hành trong công tác điều tra vụ án hình sự, là công cụ sắc
bén để Cơ quan điều tra khám phá, phát hiện ra tội phạm đấu tranh có hiệu quả với
mọi loại tội phạm.
Hoạt động điều tra vụ án được bắt đầu từ khi có tin báo, tố giác tội phạm và
kiến nghị khởi tố và kết thúc khi Cơ quan điều tra hoàn thành bản kết luận điều tra đề
nghị truy tố người phạm tội ra trước Tòa án hoặc quyết định đình chỉ điều tra. Các hoạt
động điều tra được tiến hành khi có tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố, do
đó hoạt động điều tra thường diễn ra trong điều kiện thiếu thông tin, thông tin về sự
việc phạm tội vừa là mục đích tìm kiếm trong quá trình điều tra, đồng thời là căn cứ để
định hướng trong hoạt động điều tra. Khi có một trong những cơ sở khởi tố vụ án quy
định tại Điều 100 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 thì cơ quan có thẩm quyền phải
xác định có hay không có dấu hiệu tội phạm. Khi xác định có dấu hiệu tội phạm cơ
quan có thẩm quyền ra ngay quyết định khởi tố vụ án hình sự, đảm bảo cho việc phát
hiện nhanh chóng hành vi phạm tội. Quyết định khởi tố vụ án là văn bản pháp lý xác
định có sự việc phạm tội và sự việc đó có dấu hiệu phạm tội làm cơ sở để tiến hành các
hoạt động điều tra và áp dụng các biện pháp tố tụng tiếp theo. Hoạt động điều tra là
hoạt động bắt buộc phải được tiến hành sau khi có quyết định khởi tố vụ án nhằm thu

thập chứng cứ xác thực phục vụ cho công tác xét xử và truy bắt kẻ phạm tội, không để
tội phạm trốn thoát và tẩu tán, phi tang vật chứng. Các hoạt động điều tra chỉ được coi
là hợp pháp nếu được tiến hành sau khi đã có quyết định khởi tố. Viện kiểm sát không
được phép truy tố bị can ra trước tòa nếu vụ án chưa được điều tra, làm rõ ở giai đoạn
điều tra, chưa trải qua giai đoạn điều tra.
Theo nguyên tắc công tố, khi có dấu hiệu phạm tội, cơ quan có thẩm quyền
khởi tố vụ án hình sự để mọi tội phạm đều được phát hiện và xử lý kịp thời. Việc khởi
tố vụ án hình sự không phụ thuộc vào việc người có quyền, lợi ích bị xâm phạm có
đồng ý hay không. Nhà nước không cho phép một cá nhân, tổ chức nào được can thiệp
để tội phạm xảy ra mà không bị khởi tố. Tuy nhiên, trong thực tế không ít những
trường hợp tội phạm xảy ra đã gây thiệt hại cho người bị hại không chỉ về lợi ích vật
chất mà cả về tinh thần, việc khởi tố vụ án hình sự để truy cứu trách nhiệm người thực
hiện tội phạm trong một số trường hợp có thể gây thêm những tổn thất, những bất lợi
về tinh thần cho người bị hại như lộ bí mật đời tư, ảnh hưởng trực tiếp đến danh dự,
nhân phẩm con người… Vì thế, Bộ luật Tố tụng hình sự quy định trường hợp khởi tố
V D: guyễn hí

iếu

7

SVT : ê Thị Thúy am


Quy định của pháp luật về quyền hạn điều tra của Bộ đội biên phòng trong điều tra vụ
án hình sự

vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, tạo khả năng và điều kiện cho người bị
hại được tự do lựa chọn cách giải quyết và yêu cầu pháp luật can thiệp hay không.
Điều 105 Bộ luật tố tụng hình sự quy định đối với một số tội phạm do tính chất

của hành vi phạm tội mức độ nguy hiểm cho xã hội không cao, xâm hại đến sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm, quyền tác giả, sáng chế phát minh của người bị hại, nếu không có
những tình tiết nghiêm trọng mà chỉ có những tình tiết quy định tại Khoản 1 các Tội cố
ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 104), Tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh
thần bị kích động (Điều 105), Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 106), Tội vô ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 108), Tội vô ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề
nghiệp hoặc quy tắc hành chính (Điều 109), Tội hiếp dâm (Điều 111), Tội cưỡng dâm
(Điều 113), Tội làm nhục người khác (Điều 121), Tội vu khống (Điều 122), và Tội
xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (Điều 171) của Bộ luật Hình sự năm 1999 thì chỉ
được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người
bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.
Trong trường hợp này, yêu cầu của người bị hại hay người đại diện hợp pháp
của người bị hại là một trong những căn cứ khởi tố vụ án hình sự. Đối với những vụ án
về tội phạm nêu trên, nếu người bị hại không yêu cầu khởi tố thì cơ quan có thẩm
quyền không được khởi tố vụ án. Trường hợp người bị hại là người chưa thành niên,
chưa đủ năng lực hành vi hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà
không thể hiện được ý chí của mình thì người đại diện hợp pháp của họ có quyền yêu
cầu khởi tố vụ án hình sự. Yêu cầu khởi tố vụ án được thể hiện qua đơn yêu cầu của họ
hoặc ý kiến ở biên bản ghi lời khai.
Tuy nhiên, khi có những căn cứ quy định tại Điều 107 Bộ luật tố tụng hình sự,
thì cơ quan có thẩm quyền không được ra quyết định khởi tố vụ án. Quyết định không
khởi tố vụ án hình sự là văn bản pháp lý của người có thẩm quyền khởi tố xác định
nguồn tin về tội phạm hoặc một sự việc nào đó không có căn cứ khởi tố vụ án hình sự.
Nếu đã ra quyết định khởi tố vụ án thì cơ quan có thẩm quyền hoặc khi nhận quyết
định khởi tố vụ án mà Cơ quan điều tra phát hiện có những căn cứ luật định thì không
được tiến hành điều tra mà phải hủy ngay quyết định khởi tố vụ án4. Khởi tố vụ án
hình sự là cơ sở pháp lý đầu tiên để tiến hành các hoạt động điều tra tội phạm tiếp

theo. Như vậy, khi xác định được dấu hiệu phạm tội và có sự việc phạm tội xảy ra mà
4

Khoản 1 Điều 108 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003.

V D: guyễn hí

iếu

8

SVT : ê Thị Thúy am


Quy định của pháp luật về quyền hạn điều tra của Bộ đội biên phòng trong điều tra vụ
án hình sự

không thuộc những trường hợp không được khởi tố vụ án thì các cơ quan có thẩm
quyền được quyền tiến hành khởi tố vụ án. Vì vậy, những thông tin ban đầu dù chưa
đầy đủ, chính xác nhưng sẽ được bổ sung trong quá trình điều tra, thậm chí hoạt động
điều tra còn có khả năng phát hiện những hành vi phạm tội mới. Các hoạt động điều
tra trong tố tụng hình sự luôn nối tiếp nhau, để tiến hành hoạt động điều tra thì phải có
quyết định khởi tố làm căn cứ, để ra quyết định truy tố bị can ra trước tòa bắt buộc vụ
án phải tiến hành điều tra, để xét xử bị cáo Tòa án phải nhận được quyết định truy tố
của Viện kiểm sát. Nếu trong quyết định khởi tố vụ án chưa phản ánh hết những tội
phạm khác thì Cơ quan điều tra sẽ tiếp tục thay đổi hoặc bổ sung vào quyết định khởi
tố vụ án. Khi kết thúc hoạt động này thì liền sau đó tiếp tục là hoạt động tiếp theo, hoạt
động điều tra mặc nhiên được tiến hành ngay sau khi có tin báo, tố giác tội phạm và
kiến nghị khởi tố là đúng hay sai, xác minh sự thật vụ án, đồng thời làm cơ sở cho các
cơ quan tiến hành tố tụng tiến hành các hoạt động truy tố, xét xử tiếp theo. Việc điều

tra kết thúc là khi Cơ quan điều tra đã xác định được các tình tiết của vụ án ra bản kết
luận điều tra, đề nghị truy tố hoặc ra bản kết luận điều tra, quyết định đình chỉ điều tra.
Khi có đầy đủ chứng cứ để xác định có tội phạm và bị can thì Cơ quan điều tra làm
bản kết luận điều tra và đề nghị truy tố. Bản kết luận điều tra là văn bản tố tụng tổng
kết kết quả điều tra và đề xuất giải quyết vụ án của Cơ quan điều tra. Bản kết luận điều
tra trình bày diễn biến hành vi phạm tội; nêu rõ các chứng cứ chứng minh tội phạm;
những ý kiến đề xuất giải quyết vụ án, có nêu rõ lý do và căn cứ khởi tố.
Ở mỗi hoạt động tố tụng, Cơ quan tiến hành tố tụng có chức năng riêng và để
hoàn thành tốt công tác của mình, Nhà nước giao cho họ có được một số quyền hạn
nhất định, tiến hành các hoạt động đặc trưng chỉ có thể được tiến hành bởi chủ thể nhất
định. Chỉ có Cơ quan điều tra quy định tại Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự và cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra tại Điều 111 Bộ luật Tố
tụng hình sự và được cụ thể hóa tại Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự 2004 (sửa đổi,
bổ sung năm 2006, 2009) mới được phép tiến hành các hoạt động điều tra: Khởi tố bị
can, hỏi cung bị can, lấy lời khai, đối chất, nhận dạng, khám xét, thu giữ,… Vì thực
chất của hoạt động này là Cơ quan điều tra và Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra áp dụng các biện pháp luật định để điều tra vụ án hình sự.
Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định có ba cơ quan điều tra: Cơ quan điều tra
trong Công an nhân dân điều tra tất cả các tội phạm, trừ những tội phạm thuộc thẩm
quyền điều tra của Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân và Cơ quan điều tra của
Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân điều tra tội
phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Toàn án quân sự; Cơ quan điều tra của Viện kiểm
sát nhân dân tối cao điều tra một số loại tội phạm xâm phạm hoạt động Tư pháp mà
V D: guyễn hí

iếu

9

SVT : ê Thị Thúy am



Quy định của pháp luật về quyền hạn điều tra của Bộ đội biên phòng trong điều tra vụ
án hình sự

người phạm tội là Cán bộ thuộc các cơ quan Tư pháp. Cơ quan điều tra có thẩm quyền
điều tra những vụ án hình sự mà tội phạm xảy ra trên địa phận của mình. Trong trường
hợp không xác minh được địa điểm xảy ra tội phạm thì việc điều tra thuộc về Cơ quan
điều tra nơi phát hiện tội phạm, nơi bị can cư trú hoặc bị bắt. Cơ quan được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra gồm Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm,
Lực lượng cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân
dân. Các cơ quan này không phải là cơ quan điều tra nhưng do tính chất của công việc
và do yêu cầu cấp thiết khi phát hiện, ngăn chặn, xử lý kịp thời các hành vi phạm tội
nên được giao tiến hành một số hoạt động điều tra trong phạm vi quyền hạn được pháp
luật quy định. Thẩm quyền điều tra của các chủ thể điều tra trong tố tụng hình sự được
quy định tương đối rõ ràng, không tràn lan trùng lấp, đảm bảo trong mọi trường hợp
trong các lĩnh vực, các cơ quan này có sự phối hợp khám phá và phát hiện ra tội phạm,
không một tội phạm nào không bị đưa ra xét xử, không một người nào bị kết tội oan.
Điều tra vụ án hình sự là hoạt động của Cơ quan điều tra sử dụng các biện pháp
điều tra do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định để thu thập chứng cứ nhằm trực tiếp
chứng minh tội phạm, người thực hiện hành vi phạm tội, xác định tính chất và mức độ
thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra và các tình tiết có ý nghĩa của vụ án. Vì vậy, hoạt
động điều tra vụ án hình sự có vai trò rất quan trọng trong giải quyết vụ án hình sự.
Kết quả của quá trình điều tra là cơ sở quan trọng trong việc giải quyết vụ án. Kết quả
điều tra là cơ sở để Tòa án xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, tránh bỏ lọt tội
phạm hay làm oan người vô tội. Hoạt động điều tra vụ án có vai trò rất quan trọng
trong việc tăng cường pháp chế, bảo đảm quyền con người của những người tham gia
tố tụng. Đa số các biện pháp cưỡng chế tố tụng như biện pháp ngăn chặn, biện pháp
điều tra… được áp dụng trong hoạt động này. Việc áp dụng đúng căn cứ, thẩm quyền,
thời hạn cũng như thủ tục cưỡng chế, tôn trọng các quyền tố tụng của người tham gia

tố tụng là đảm bảo tốt cho việc bảo vệ các quyền tự do dân chủ của công dân. Ngoài
ra, điều tra vụ án hình sự góp phần đảm bảo giải quyết kịp thời các vụ án hình sự; nâng
cao hiệu quả giáo dục phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm trong cuộc đấu tranh
phòng và chống tội phạm trong xã hội hiện nay.
1.2. Sự cần thiết quy định thẩm quyền điều tra vụ án hình sự của Bộ đội
biên phòng
Lãnh thổ quốc gia Việt Nam được hình thành và tồn tại suốt hàng nghìn năm
lịch sử cùng với các quốc gia trên thế giới, trong khu vực và các nước láng giềng. Với
vị trí đặc biệt quan trọng của lãnh thổ, biên giới quốc gia từ xưa đến nay, chúng ta luôn
đặt nhiệm vụ quản lý, bảo vệ độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, an ninh biên giới
quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu và thực hiện các giải pháp rất nghiêm ngặt nhằm ngăn
V D: guyễn hí

iếu

10

SVT : ê Thị Thúy am


Quy định của pháp luật về quyền hạn điều tra của Bộ đội biên phòng trong điều tra vụ
án hình sự

chặn, phòng ngừa các hoạt động xâm hại của các thế lực ngoại xâm. Nhìn chung, địa
hình khu vực biên giới nước ta rất phức tạp, hiểm trở; thời tiết, khí hậu khắc nghiệt;
giao thông chưa phát triển, có nơi cách trung tâm huyện, thị trấn hàng trăm ki-lô-mét.
Cư dân trên địa bàn khu vực biên giới chủ yếu là đồng bào các dân tộc thiểu số, sống
thưa thớt, trình độ dân trí còn thấp, nhiều nơi còn tồn tại nhiều tập tục lạc hậu; nhiều
trường hợp có mối quan hệ dân tộc, dòng họ khá chặt chẽ với nhân dân các nước láng
giềng. Điều đó, gây khó khăn cho công tác quản lý, kiểm soát của các cơ quan chức

năng.
Từ khi thực hiện chính sách đổi mới, mở cửa của Đảng và Nhà nước ta, nhiều
khu kinh tế, các khu chế xuất, hoạt động giao lưu thương mại, du lịch…trên khu vực
biên giới phát triển thu hút nhiều thành phần, đối tượng tham gia. Lợi dụng sự thông
thoáng này, các đối tượng phản động, các loại tội phạm trà trộn che giấu mục đích, ý
đồ, xây dựng lực lượng, cất dấu phương tiện phạm tội, gây cơ sở hoạt động phá hoại…
Chúng sử dụng nhiều phương thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, vừa công khai, vừa bí
mật, với thành phần và đối tượng đa dạng, như: lợi dụng các quan hệ kinh tế, thương
mại, dân tộc, dòng họ giữa hai bên biên giới để móc nối, gây cơ sở, thu thập tin tức;
chỉ đạo một số đối tượng xâm nhập, tuyên truyền,kích động, lôi kéo tập hợp lực lượng.
Lợi dụng những đặc điểm trên, các đối tượng đẩy mạnh hoạt động chống phá
xâm phạm chủ quyền, an ninh, gây mất ổn định chính trị - xã hội ở khu vực biên
giới… Chúng lẫn trốn hoặc nhanh chống tẩu tán lên biên giới, ra hải đảo vượt biên ra
nước ngoài sau khi phạm tội. Một số tội phạm mang tính đặc thù chỉ có ở khu vực biên
giới như: Tội hoạt động phỉ; hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân; xâm phạm
an ninh lãnh thổ; tội gián điệp; phá hoại chính sách đại đoàn kết dân tộc hoặc chúng
lấy địa bàn biên giới làm nơi trú ẩn, trung chuyển; tội phạm mua bán người; tội xuất,
nhập cảnh trái phép; tội mua bán, vận chuyển ma túy; buôn lậu hàng hóa qua biên
giới… Với đặc thù của biên giới và tình hình tội phạm lợi dụng khu vực biên giới, việc
pháp luật quy định quyền hạn của Bộ đội biên phòng trong điều tra vụ án hình sự là
cần thiết và hợp lý. Bộ đội biên phòng có quyền điều tra tội phạm xảy ra trên địa bàn
và trong lĩnh vực do mình quản lý.
1.3. guyên tắc hoạt động điều tra của Bộ đội biên phòng trong điều tra vụ
án hình sự
1.3.1. Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa
Dân chủ và pháp chế là hai yêu cầu cơ bản của một Nhà nước pháp quyền. Vì
vậy bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa là một trong những nguyên tắc bao quát của tố
tụng hình sự. Là nguyên tắc pháp chế cơ bản trong hoạt động của cơ quan, tổ chức và
công dân được ghi nhận tại Điều 12 của Hiến pháp năm 1992 và tiếp tục được khẳng
V D: guyễn hí


iếu

11

SVT : ê Thị Thúy am


Quy định của pháp luật về quyền hạn điều tra của Bộ đội biên phòng trong điều tra vụ
án hình sự

định tại điều 8 Hiếp pháp năm 2013. Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa
được quy định tại Điều 3 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đòi hỏi tất cả các cơ quan
hoạt động tố tụng hình sự, các chủ thể tố tụng hình sự từ cơ quan, người tiến hành tố
tụng đến người tham gia tố tụng phải nghiêm chỉnh và triệt để tuân thủ các quy định
pháp luật; trong đó chủ yếu là pháp luật tố tụng hình sự, pháp luật hình sự và các văn
bản có liên quan. Nói cách khác, cơ quan, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố
tụng phải thực hiện đầy đủ và đúng các quyền của mình, đồng thời nghiêm chỉnh thực
hiện các nghĩa vụ khi tiến hành, tham gia các hoạt động tố tụng hình sự để giải quyết
vụ án hình sự cụ thể.
Trong quá trình tố tụng hình sự việc bắt đầu hay kết thúc không phải do ý chí
chủ quan của cơ quan, người tiến hành tố tụng mà phải tuân theo các quy định của
pháp luật tố tụng hình sự. Các chủ thể chỉ được hành động theo đúng yêu cầu pháp
luật, trong phạm vi pháp luật cho phép và chính sự tuân thủ các quy định pháp luật tố
tụng hình sự về việc tiến hành hay kết thúc một giai đoạn, một hoạt động tố tụng hình
sự nhất định của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự, những người tiến hành tố tụng hình
sự là sự biểu hiện tuân thủ pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự. Trong quá
trình tiến hành các hoạt động điều tra, Bộ đội biên phòng phải nghiêm chỉnh và triệt để
tuân thủ các quy định của pháp luật. Bởi mọi vi phạm pháp luật của Bộ đội biên phòng
xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, gây tổn hại đến uy tín của các

cơ quan bảo vệ công dân, làm giảm lòng tin của nhân dân vào hiệu lực pháp luật và sự
công minh của pháp luật.
Mọi hoạt động điều tra của Bộ đội biên phòng phải tuân thủ Bộ luật Tố tụng
hình sự và Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự5. Tuân thủ Bộ luật tố tụng hình sự là
bảo đảm mọi hoạt động điều tra khi tiến hành điều tra được diễn ra theo đúng luật định
trong phạm vi quyền hạn của Bộ đội biên phòng. Đặc biệt là các biện pháp cưỡng chế
tố tụng phải được thực hiện đúng thẩm quyền, đúng trình tự, thủ tục, không được làm
những gì mà pháp luật tố tụng hình sự không cho phép, đồng thời lại không được lẫn
tránh những gì pháp luật bắt buộc. Bởi các biện pháp cưỡng chế tố tụng liên quan trực
tiếp đến các quyền của người tham gia tố tụng hình sự. Các quyết định của Bộ đội biên
phòng phải dựa trên cơ sở luật hình sự và luật tố tụng hình sự, phải đúng quy định của
pháp luật, đảm bảo đúng người, đúng lúc.
Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa là cơ sở quan trọng cho việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người khi tham gia tố tụng hình sự. Nguyên
tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa đảm bảo cho cuộc đấu tranh chống tội phạm
5

Khoản 1 Điều 5 Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2006, 2009).

V D: guyễn hí

iếu

12

SVT : ê Thị Thúy am


Quy định của pháp luật về quyền hạn điều tra của Bộ đội biên phòng trong điều tra vụ
án hình sự


được kiên quyết, triệt để, kịp thời, bảo đảm tính giáo dục cao, đồng thời ngăn chặn
việc làm oan người vô tội và ngăn ngừa các hành vi trái pháp luật của người tiến hành
tố tụng cũng như trong khi áp dụng hoạt động điều tra của Bộ đội biên phòng.
1.3.2. Nguyên tắc tôn trọng sự thật vụ án
Xác định sự thật vụ án là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong điều tra
vụ án hình sự, đảm bảo cho việc phát hiện nhanh chóng, kịp thời, xử lý nghiêm minh
tội phạm và người phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Vì
vậy, xác định sự thật của vụ án được quy định là nguyên tắc hoạt động điều tra của cơ
quan tiến hành tố tụng nói chung, của Bộ đội biên phòng nói riêng6. Việc xác định sự
thật vụ án được tiến hành ngay sau khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự. Việc xác
định sự thật vụ án thông qua rất nhiều hoạt động điều tra. Chẳng hạn, lấy lời khai, hỏi
cung, khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi,… Xác định sự thật khách quan
của vụ án là điều kiện quan trọng quyết định cho việc giải quyết đúng đắn, khách quan
vụ án hình sự, bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, của
người tham gia tố tụng nói chung, của người bị tạm giam, bị can, bị cáo nói riêng.
Trong quá trình điều tra vụ án hình sự, hoạt động điều tra của Bộ đội biên
phòng phải tôn trọng sự thật, các hoạt động điều tra phải tiến hành một cách khách
quan, toàn diện và đầy đủ. Bộ đội biên phòng không được dựa vào ý kiến chủ quan của
mình để tưởng tượng, suy đoán về quá trình thực hiện tội phạm của người phạm tội mà
phải căn cứ vào những tài liệu, sự kiện có thật phản ánh trung thực những tình tiết của
vụ án. Do nhiều yếu tố chủ quan và khách quan nên không phải lúc nào các tình tiết
của vụ án đã xảy ra luôn hiện hữu một cách nguyên vẹn, không bị xuyên tạc để cơ
quan điều tra tìm ra một cách dễ dàng. Yêu cầu khách quan, toàn diện và đầy đủ được
đặt ra đối với hoạt động điều tra của Bộ đội biên phòng. Nếu không khách quan, không
toàn diện, không đầy đủ hay thiếu một trong các yêu cầu trên thì sự thật vụ án có thể
sẽ không được tìm ra, kết quả điều tra sẽ phiến diện, hoặc sai lầm, hoặc không được
thừa nhận đều dẫn đến hậu quả bất lợi cho người phạm tội trong trường hợp oan sai,
hay làm tăng nặng trách nhiệm hình sự cho người phạm tội.
Bộ đội biên phòng có trách nhiệm áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để phát

hiện chính xác, nhanh chóng mọi hành vi phạm tội, làm rõ những chứng cứ xác định
có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự của người có hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm và không
làm oan người vô tội. Tùy theo từng vụ án cụ thể mà bộ đội biên phòng có những biện

6

Điều 10 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003; Khoản 2 Điều 5 Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự 2004 (sửa đổi, bỏ

sung năm 2006, 2009).

V D: guyễn hí

iếu

13

SVT : ê Thị Thúy am


Quy định của pháp luật về quyền hạn điều tra của Bộ đội biên phòng trong điều tra vụ
án hình sự

pháp áp dụng khác nhau để thu thập, xác định, kiểm tra, đánh giá các tình tiết của vụ
án.
Sai sự thật vụ án, không tìm được đúng người thực hiện tội phạm, hoặc không
hình dung đúng hành vi phạm tội, dẫn đến tình trạng ra quyết định truy tố sai là những
hậu quả khi trong quá trình điều tra, cơ quan tiến hành điều tra nói chung, Bộ đội biên
phòng nói riêng không tuân thủ nguyên tắc xác định sự thật vụ án. Việc xác định sự
thật vụ án là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt toàn bộ quá trình giải quyết vụ án hình sự.

Xác định sự thật vụ án cũng tức là bảo đảm cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự
đúng người đúng tội, không làm oan người vô tội và không bỏ lọt tội phạm. Xác định
sự thật vụ án hình sự còn có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết các biện pháp tư
pháp, giải quyết trách nhiệm dân sự và những vấn đề khác có liên quan. Trong quá
trình giải quyết vụ án hành chính và dân sự, trách nhiệm chứng minh thuộc về các
đương sự đã đưa ra yêu cầu7. Trách nhiệm chứng minh tội phạm trong giải quyết vụ án
hình sự thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng, bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc
phải chứng minh mình vô tội. Bị can, bị cáo có quyền đưa ra các chứng cứ chứng minh
mình vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Nếu bị can, bị cáo không chứng minh
được thì cơ quan tiến hành không được dựa vào đó để kết tội bị can, bị cáo.
1.3.3. Nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo
Để bảo đảm cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Bộ đội biên phòng
trong điều tra vụ án hình sự được pháp luật quy định. Khoản 3 Điều 5 Pháp lệnh tổ
chức điều tra hình sự quy định hoạt động điều tra của Bộ đội biên phòng phải tuân thủ
nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo, không phụ thuộc vào bất kỳ cơ quan Nhà
nước nào ở địa phương. Nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo có nội dung cơ bản
là toàn bộ hoạt động điều tra của Bộ đội biên phòng cấp dưới chịu sự lãnh đạo hướng
dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ của Bộ đội biên phòng cấp trên. Nguyên tắc này có ý nghĩa
quan trọng đối với việc bảo đảm thực hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa - một
trong những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự. Để Bộ đội biên phòng hoạt động
thực sự hiệu quả, nhất thiết Bộ đội biên phòng phải được tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo.
Về mặt tổ chức, Bộ đội biên phòng được tổ chức, chỉ huy thống nhất từ Trung
ương đến đơn vị cơ sở, đặt dưới sự quản lý, chỉ huy của Bộ Quốc phòng, bao gồm: Bộ
Tư lệnh Bộ đội biên phòng trực thuộc Bộ Quốc phòng; Bộ Chỉ huy Bộ đội biên phòng
ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có biên giới, bờ biển (sau đây gọi chung
là Bộ chỉ huy Bộ đội biên phòng cấp tỉnh) Hải đoàn biên phòng trực thuộc Bộ Tư lệnh
7

Điều 8, Điều 72, Điều 77 Bộ luật Tố tụng hành chính 2010; Điều 6, Điều 79, Điều 84 Bộ luật Tố tụng Dân sự


2004(sửa đổi, bổ sung năm 2011).

V D: guyễn hí

iếu

14

SVT : ê Thị Thúy am


Quy định của pháp luật về quyền hạn điều tra của Bộ đội biên phòng trong điều tra vụ
án hình sự

Bộ đội biên phòng; Đồn biên phòng, Hải đội biên phòng, các đơn vị cơ động và tiểu
khu biên phòng (nếu có) trực thuộc Bộ chỉ huy Bộ đội biên phòng cấp tỉnh. Trong kế
hoạch điều tra của mình, Bộ đội biên phòng vừa phải tuân thủ sự chỉ đạo của Bộ tư
lệnh Bộ đội biên phòng, đồng thời vừa phải thực hiện nghiêm túc các Nghị quyết của
cấp Đảng, góp phần tích cực vào việc tăng cường pháp chế và củng cố trật tự pháp luật
ở địa phương. Bộ Tư lệnh đã tập trung chỉ đạo các cơ quan, đơn vị: làm tốt công tác
nắm tình hình, nghiên cứu, dự báo tình hình tội phạm, xây dựng thế trận bí mật, kết
hợp chặt chẽ đồng bộ các biện pháp công tác biên phòng; phối hợp chặt chẽ với các
lực lượng công an kịp thời phát hiện và tổ chức đấu tranh triệt phá các tổ chức, ổ
nhóm, đường dây hoạt động của các loại tội phạm.
Mặt khác, chỉ khi được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung thống
nhất, Bộ đội biên phòng mới có khả năng thực hiện đầy đủ chức năng mà pháp luật
quy định; bảo đảm mọi hoạt động thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ của Bộ đội biên
phòng được thực hiện theo tinh thần thống nhất từ Bộ tư lệnh đến đồn biên phòng và
giữa các đồn biên phòng với nhau. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra Bộ đội biên

phòng không phải là một cơ quan biệt lập với mọi hoạt động của các cơ quan điều tra
khác và bộ máy ở địa phương. Bộ đội biên phòng vừa thực hiện quyền hạn điều tra
vừa phối hợp với các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân địa phương
trong việc xác minh, xử lý tội phạm, người phạm tội.
Với việc nhận thức và thực hiện đúng nguyên tắc tập trung thống nhất trong Bộ
đội biên phòng đã góp phần quan trọng vào kết quả thực hiện điều tra vụ án hình sự
của Bộ đội biên phòng, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất.
Hoạt động điều tra của Bộ đội biên phòng đáp ứng có hiệu quả yêu cầu đấu tranh
phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật trong từng thời kỳ; thực hiện đồng thời cả
hai mục tiêu chống bỏ lọt tội phạm và chống làm oan người vô tội…
1.4. Vai trò của bộ đội biên phòng trong điều tra vụ án hình sự
Hoạt động điều tra của Bộ đội biên phòng góp phần nâng cao hiệu quả hoạt
động điều tra. Quá trình điều tra cũng chính là quá trình đi tìm chứng cứ, để làm rõ nội
dung vụ án, hành vi phạm tội, người phạm tội. Kết quả điều tra phụ thuộc rất nhiều
vào nghiệp vụ điều tra của Cơ quan điều tra nói chung, Bộ đội biên phòng nói riêng,
các biện pháp ngăn chặn, cưỡng chế được tiến hành trong quá trình điều tra. Qua thực
tiễn, điều tra các loại tội phạm trên địa bàn và lĩnh vực do mình quản lý, Bộ đội biên
phòng đã tổ chức tổng kết các chuyên án lớn, chuyên án phối hợp nhiều lực lượng,
nhiều biện pháp nhằm đánh giá công tác lãnh đạo, chỉ đạo, sử dụng lực lượng, biện
pháp trong đấu tranh chuyên án để kịp thời rút kinh nghiệm chung, rút ra nhiều kinh

V D: guyễn hí

iếu

15

SVT : ê Thị Thúy am



Quy định của pháp luật về quyền hạn điều tra của Bộ đội biên phòng trong điều tra vụ
án hình sự

nghiệm phá án, đặc điểm, tình hình tội phạm; đưa ra nhiều đề xuất góp phần nâng cao
hiệu quả điều tra.
Hoạt động điều tra của Bộ đội biên phòng góp phần thúc đẩy quá trình giải
quyết vụ án hình sự. Qua công tác nắm tình hình, các đơn vị đã tổ chức xác minh kết
luận các nguồn tin ban đầu; nắm chắc tình hình địa bàn, báo cáo kịp thời từ đó phục vụ
tốt cho công tác tham mưu chỉ huy, chỉ đạo, các đơn vị tổ chức đấu tranh có hiệu quả
với các loại đối tượng, làm chủ được tình hình địa bàn trong mọi tình huống. Khi phát
hiện sự việc có dấu hiệu tội phạm, Bộ đội biên phòng khẩn trương vào cuộc, tiến hành
các hoạt động điều tra một cách có hiệu quả. Một khi hoạt động điều tra của Bộ đội
biên phòng không tái hiện được sự thật vụ án trong thời gian do luật định thì sẽ kéo dài
thời gian phá án là cơ hội để người phạm tội bỏ trốn, tái phạm gây nguy hiểm cho xã
hội. Hoạt động điều tra của Bộ đội biên phòng thuận lợi, đạt kết quả tốt, chuyển hồ sơ
vụ án đúng thời gian pháp luật quy định, công tác điều tra sẽ nhanh chóng kết thúc, các
giai đoạn tiếp theo được diễn ra thuận lợi và nhanh chóng.
Hoạt động điều tra của Bộ đội biên phòng góp phần tích cực vào cuộc đấu
tranh phòng, chống tội phạm. Bộ đội biên phòng đã tổ chức lực lượng, sử dụng
phương tiện, triễn khai đồng bộ các biện pháp điều tra, chủ động phát hiện đấu tranh
với các loại tội phạm trên địa bàn và trong lĩnh vực quản lý. Lực lượng Bộ đội biên
phòng đã xác lập hàng trăm chuyên án và kế hoạch nghiệp vụ triệt phá nhiều đường
dây, ổ nhóm, tổ chức phạm tội. Nhiều tội phạm đã được xử lý kịp thời, kiên quyết,
không để lan rộng kéo dài. Ngăn chặn hiệu quả hoạt động của các loại tội phạm, nhất
là tội phạm ma tuý, buôn lậu, buôn bán phụ nữ, trẻ em qua biên giới, góp phần giữ
vững an ninh trật tự khu vực biên giới. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn đấu tranh phòng
chống tội phạm và qua khảo sát tại các cơ quan Bộ đội biên phòng cho thấy hoạt động
điều tra của các cơ quan này đã góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh phòng, chống tội
phạm nói chung, trên địa bàn và trong lĩnh vực mà họ quản lý nói riêng.
1.5. ược khảo quy định của pháp luật về quyền hạn của bộ đội biên phòng

trong điều tra vụ án hình sự
Trước khi có Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, các văn bản pháp luật nước ta
đã có những quy định về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan điều tra nói
chung, Bộ đội biên phòng nói riêng. Trách nhiệm, quyền hạn của Bộ đội biên phòng
được quy định trong từng điều khoản nhất định. Tuy nhiên, ở mỗi giai đoạn phát triển
khác nhau của pháp luật, tuỳ theo bối cảnh kinh tế - xã hội, phương thức tổ chức bộ
máy nhà nước, nhận thức và sự phát triển chung của xã hội mà phạm vi quyền hạn,
trách nhiệm của Bộ đội biên phòng có khác nhau. Trong bối cảnh Cách Mạng Tháng
Tám thành công, nhà nước công nông vừa mới ra đời và cuộc kháng chiến lâu dài của
V D: guyễn hí

iếu

16

SVT : ê Thị Thúy am


Quy định của pháp luật về quyền hạn điều tra của Bộ đội biên phòng trong điều tra vụ
án hình sự

đất nước, hoạt động xét xử các vụ án hình sự chủ yếu do các Toà án quân sự, các Toà
án binh thực hiện với sự buộc tội của Uỷ viên Chính phủ trên cơ sở điều tra của Quân
pháp. Các Toà án quân sự, các Toà án binh không phải là các cơ quan thường trực, mà
là Toà án sự việc, được hình thành để xét xử từng vụ án cụ thể; các Chánh án, Uỷ viên
Chính phủ thực hiện việc buộc tội thường là kiêm nhiệm. Hơn nữa, pháp luật tố tụng
hình sự giai đoạn này còn rất sơ sài… Cho nên, quy định của pháp luật về quyền hạn
điều tra của bộ đội biên phòng trong giai đoạn từ sau cách mạng tháng tám thành công
đến Hiến Pháp 1959 được ban hành chưa hoàn thiện.
1.5.1. Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 1988 (sửa đổi, bổ sung năm 1990, 1992,

2000) và Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 1989
Năm 1980, Quốc hội thông qua Hiến pháp mới. Trên cơ sở của Hiến pháp năm
1980, Luật tổ chức Toà án nhân dân và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981
được ban hành thay thế Luật tổ chức Toà án nhân dân và Luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân năm 1960. Các văn bản pháp luật trên là nguồn quan trọng của tố tụng hình
sự lúc bấy giờ, góp phần hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự giai đoạn này. Kế thừa
và phát triển pháp luật tố tụng hình sự nước ta từ Cách mạng tháng tám với tinh thần
đổi mới trên mọi mặt của đời sống xã hội, tham khảo pháp luật tố tụng hình sự các
nước trên thế giới, ngày 28/6/1988 tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khóa VIII đã thông qua Bộ luật tố tụng hình sự. Đây là Bộ luật tố
tụng hình sự đầu tiên pháp điển hóa các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự nước ta
trong một văn bản pháp luật thống nhất. Sự ra đời của Bộ luật Tố tụng hình sự năm
1988 đánh dấu bước phát triển của khoa học luật tố tụng hình sự, của ngành luật tố
tụng hình sự và kỹ thuật lập pháp tố tụng hình sự ở nước ta.
Năm 1988, lần đầu tiên quyền hạn điều tra của Bộ đội biên phòng được quy
định tại văn bản luật có tính pháp lý cao8. Cụ thể Khoản 2 Điều 93 Bộ luật Tố tụng
hình sự quy định về quyền hạn điều tra của Bộ đội biên phòng, Hội đồng Nhà nước
ban hành Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 1989. Pháp lệnh quy định nhiệm vụ,
quyền hạn điều tra của Bộ đội biên phòng trong hoạt động điều tra tại Điều 27.
Cùng với sự đổi mới toàn diện các mặt đời sống xã hội và phát triển của đất
nước, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 đã được sửa đổi, bổ sung ba lần vào ngày 30
tháng 6 năm 1990, ngày 22 tháng 12 năm 1992 và ngày 09 tháng 6 năm 2000. Theo
đó, quyền hạn điều tra của Bộ đội biên phòng cũng được sửa đổi, bổ sung trong lần
sửa đổi, bổ sung thứ ba. Nhìn chung, qua các lần sửa đổi, bổ sung, quy định quyền hạn

8

Điều 93 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988.

V D: guyễn hí


iếu

17

SVT : ê Thị Thúy am


Quy định của pháp luật về quyền hạn điều tra của Bộ đội biên phòng trong điều tra vụ
án hình sự

điều tra của Bộ đội biên phòng về mặt kỹ thuật lập pháp được thay đổi để phù hợp hơn
nhưng về mặt nội dung hầu như không có thay đổi gì.
1.5.2. Pháp lệnh Bộ đội biên phòng năm 1997 và Nghị định số 02/1998/NĐ-CP
Để xây dựng Bộ đội biên phòng vững mạnh, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ, an ninh biên giới Quốc gia; Để tăng cường quản lý Nhà nước về Bộ đội
biên phòng. Năm 1997, Ủy ban thường vụ quốc hội ban hành Pháp lệnh Bộ đội biên phòng.
Pháp lệnh Bộ đội biên phòng được ban hành đã đánh dấu một bước phát triển quan trọng
đối với lực lượng Bộ đội biên phòng với những quy định cụ thể về chức năng, nhiệm vụ, tổ
chức biên chế, xây dựng lực lượng, chế độ chính sách. Trong đó, Pháp lệnh quy định Bộ đội
biên phòng được quyền tiến hành hoạt động điều tra của Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng
hình sự và Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự9.
1.5.3. Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 và Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình
sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2006, 2009)
Qua gần 15 năm thi hành với ba lần sửa đổi, bổ sung, Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 1988 đã là cơ sở pháp lý quan trọng giúp hoạt động tố tụng hình sự được tiến
hành một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ, góp phần phát triển chính xác, nhanh
chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm,
không làm oan người vô tội. Tuy nhiên cùng với công cuộc đổi mới toàn diện của đất
nước trên tất cả các lĩnh vực trong đó có cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết

08/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư
pháp trong thời gian tới và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội hủ nghĩa ở nước ta,
dân chủ hóa hơn nữa hoạt động tố tụng hình sự, đổi mới tổ chức, hoạt động của các cơ
quan tư pháp… Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 không còn phù hợp nữa và bộc lộ
những hạn chế nhất định.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 được Quốc hội khóa XI thông qua ngày
26/01/2003 tại kỳ họp thứ 4 thay thế cho Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988. Kế thừa
những quy định của pháp luật tố tụng hình sự trước đó và tiếp nhận những tư tưởng,
quan điểm mới về xây dựng nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp ở nước ta, Bộ
luật Tố tụng hình sự năm 2003 đã hoàn thiện một bước đáng kể quy định về quyền hạn
của Bộ đội biên phòng cụ thể tại Điều 111.
Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự được Hội đồng Nhà nước ban hành năm
2004 nhằm cụ thể hóa các Điều 34, 35, 110, 111 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2003 về cơ quan điều tra hình sự. Trong đó, pháp lệnh cụ thể hóa quyền điều tra của
Bộ đội biên phòng tại điều 19. Tại Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp
9

Điều 12 Pháp lệnh Bộ đội biên phòng năm 1997.

V D: guyễn hí

iếu

18

SVT : ê Thị Thúy am


Quy định của pháp luật về quyền hạn điều tra của Bộ đội biên phòng trong điều tra vụ
án hình sự


lệnh tổ chức điều tra hình sự số 09 năm 2009. Thẩm quyền điều tra của các chủ thể
trong Bộ đội biên phòng được quy định cụ thể hơn. Pháp lệnh đã bổ sung thêm quyền
hạn điều tra của Cục phòng, chống ma túy về các tội phạm ma túy nhằm đáp ứng kịp
tình hình tội phạm ma túy đang diễn ra. Theo quy định của Pháp lệnh, quyền hạn điều
tra của bộ đội biên phòng được quy định rất chặt chẽ.

V D: guyễn hí

iếu

19

SVT : ê Thị Thúy am


Quy định của pháp luật về quyền hạn điều tra của Bộ đội biên phòng trong điều tra vụ
án hình sự

2
QUY Ị
Ủ P ÁP U T VỀ QUYỀ
ỀU TR
Ủ BỘ Ộ B Ê P Ò
TR
ỀU TR VỤ Á
Ì
SỰ
2.1. Thẩm quyền và phạm vi điều tra của Bộ đội biên phòng
Hoạt động điều tra là hoạt động quan trọng giúp cho cơ quan tiến hành tố tụng

giải quyết vụ án hình sự một cách khách quan, nhanh chóng, chính xác, công bằng và
hạn chế oan sai cũng như bỏ lọt tội phạm. Do đó, chủ thể tiến hành hoạt động điều tra
chiếm vị trí rất quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Bộ luật Tố tụng
hình sự quy định Bộ đội biên phòng được quyền thực hiện hoạt động này với tư cách
là cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra10.
Điều 19 Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 2004 quy định những chủ thể
sau đây có quyền tiến hành các hoạt động điều tra là Cục trưởng, Phó Cục trưởng Cục
trinh sát biên phòng; Chỉ huy trưởng, Phó Chỉ huy trưởng Bộ đội biên phòng tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương, Trưởng đồn, Phó Trưởng đồn biên phòng. Ngày
27/02/2009 Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh số 09/2009/PLUBTVQH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm
2004 (Pháp lệnh số 09/2009/PL-UBTVQH12) sửa đổi, bổ sung thêm thẩm quyền điều
tra của Cục trưởng, Phó Cục trưởng Cục phòng, chống tội phạm ma tuý Bộ đội biên
phòng. Trước đây, các tội phạm ma tuý ở cấp Bộ tư lệnh thuộc quyền điều tra của Cục
trưởng, Phó Cục trưởng Cục trinh sát biên phòng, khi Pháp lệnh số 09/2009/PLUBTVQH12 có hiệu lực thì thẩm quyền đó được chuyển sang cho Cục trưởng, Phó
Cục trưởng Cục phòng, chống tội phạm ma tuý Bộ đội biên phòng. Việc thành lập Cục
phòng, chống tội phạm ma túy và sửa đổi, bổ sung thẩm quyền điều tra của Bộ đội
biên phòng ở cấp Bộ tư lệnh sẽ tháo gỡ được vướng mắc, khó khăn trong phòng chống
tội phạm ma tuý như hiện nay. Pháp luật chỉ quy định cho một cấp trưởng và một cấp
phó khi được ủy quyền có quyền tiến hành các hoạt động điều tra là vì những người
này được đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ điều tra, có trình độ chuyên môn, là người
trực tiếp tiến hành các hoạt động điều tra.
Sự khác nhau về thẩm quyền điều tra vụ án của các cơ quan tiến hành tố tụng
nói chung, giữa các chủ thể trong Bộ đội biên phòng nói riêng xuất phát từ tính chất
hoạt động tố tụng và đặc điểm trong nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm của
mỗi cơ quan. Bộ đội biên phòng là cơ quan quản lý nhà nước về biên giới, địa bàn hoạt
10

Điều 111 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003; Điều 2 Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 2004 (sửa đổi, bổ

sung năm 2006, 2009).


V D: guyễn hí

iếu

20

SVT : ê Thị Thúy am


×