Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Thực tế triển khai bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển trên thị trường bảo hiểm Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (258.16 KB, 30 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368

LỜI MỞ ĐẦU
Thương mại thế giới ngày nay mở rộng không ngừng, phân công lao động
và hợp tác quốc tế ngày càng phát triển. Do đó yếu tố Ngoại thương trở thành
một địi hỏi khách quan, một yếu tố không thể thiếu được của quá trình tái sản
xuất ở tất cả các nước. Và tất nhiên, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thương
mại quốc tế sẽ kéo theo dịch vụ vận chuyển nói chung và vận chuyển bằng
đường biển nói riêng ngày càng phát triển. Hiện nay, hơn 90% tổng lượng hàng
hóa được vận chuyển giữa các nước bằng đường biển. Bảo hiểm hàng hóa XNK
vận chuyển bằng đường biển là một nghiệp vụ bảo hiểm truyền thống của bảo
hiểm hàng hải và đến ngày nay nó đã trở thành tập quán thương mại quốc tế. Sự
phát triển của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa XNK vận chuyển bằng đường biển
đã tạo điều kiện cho các nhà XNK yên tâm mở rộng quy mơ hoạt động, đảm bảo
khả năng tài chính của doanh nghiệp, đồng thời đẩy nhanh quá trình thu hút vốn
đầu tư nước ngoài. Việt Nam đang trên con đường hiện đại hóa nền kinh tế với
sự phát triển mạnh mẽ của tất cả các thành phần kinh tế. Đặc biệt, sau khi Việt
Nam ra nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, hội nhập vào nền kinh tế sâu
hơn, thì hoạt động XNK diễn ra càng mạnh mẽ hơn. Điều này chứng tỏ tiềm
năng lớn về hàng hóa XNK, cũng như tiềm năng cho hoạt động bảo hiểm hàng
hóa XNK vận chuyển bằng đường biển phát triển.
Qua quá trình học tập, nghiên cứu và sự hiểu biết của em, em đã quyết
định chọn đề tài của mình là: “Thực tế triển khai bảo hiểm hàng hóa xuất
nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển trên thị trường bảo hiểm Việt
Nam”.
Nội dung gồm 4 phần chính:
1. Giới thiệu chung về bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển
bằng đường biển.
2. Nội dung cơ bản của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu
vận chuyển bằng đường biển.
3. Thị trường bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng


đường biển tại Việt Nam.
4. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa
xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại Việt Nam thời gian
tới.

SV: Hoàng Thị Phương Loan

Kinh tế bảo hiểm 49


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

NỘI DUNG
Phần 1: Giới thiệu chung về bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển
bằng đường biển.
I. Lịch sử hình thành và phát triển của bảo hiểm hàng hóa xuất nhập
khẩu vận chuyển đường biển:
Như chúng ta đã biết thì Bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển
bằng đường biển là một bộ phận của Bảo hiểm hàng hải. Bảo hiểm hàng hải bao
gồm: Bảo hiểm hàng hóa(Cargo Insurance), Bảo hiểm thân tàu(Hull Insurance),
Bảo hiểm trách nhiệm của chủ tàu (P and I Insurance).
Bảo hiểm hàng hải có lịch sử rất lâu đời, nó ra đời và phát triển cùng với
hàng hải và ngoại thương. Khoảng thế kỉ thứ năm trước cơng ngun đã xuất
hiện việc vận chuyển hàng hóa bằng đường biển. Trong quá trình vận chuyển
thường gặp thiên tai, tai nạn bất ngờ gây ra tổn thất. Ngày đó người ta đã biết
tránh tổn thất tồn bộ một lơ hàng bằng cách chia nhỏ, phân tán hàng hóa để vận
chuyển.
Đến thế kỉ XI sau công nguyên thương mại và giao lưu hàng hóa bằng
đường biển phát triển, tổn thất xảy ra càng nhiều, làm cho thương mại lo lắng.
Họ tập trung nhau lại để thông báo những tin tức về hành trình vận chuyển, tình

hình tổn thất và tìm biện pháp khắc phục. Để đối phó với những tổn thất nặng
nề, có khả năng dẫn đến phá sản, các thương nhân đi vay vốn để buôn bán. Theo
thỏa thuận trước nếu hành trình gặp rủi ro dẫn đến tổn thất tồn bộ hàng hóa thì
các thương nhân được xóa nợ. Ngược lại thì họ phải trả một khoản lãi rất nặng
cho chủ nợ. Có thể hiểu việc cho vay nặng lãi và hình thức xóa nợ này là hình
thức sơ khai ban đầu của bảo hiểm .
Đến năm 1182, ở Lomborde, Bắc Italia, người ta đã nghĩ ra biện pháp bảo
hiểm hàng hải. Policy (Đơn mua) được coi là Hợp đồng bảo hiểm hàng hải đã ra
đời. Trong đó người bảo hiểm (Insurer) và người được bảo hiểm (Insured) cam
kết với nhau những điều đã được ghi trên đơn.
Năm 1468, tại Venise, Italia, đạo luật đầu tiên về hàng hải đã ra đời. Sự
phát triển của thương mại hàng hải đã dẫn đến sự ra đời và phát triển mạnh mẽ
của Bảo hiểm hàng hải và hàng loạt các thể lệ, hiệp ước và công ước quốc tế,
qui định những vấn đề có liên quan đến thương mại hàng hải và Bảo hiểm hiểm
hàng hải như: Một Hợp đồng bảo hiểm Lloyd’s năm 1776, Luật bảo hiểm hàng
hải của Anh 1906-MIA (Marine Insurance ACT 1906), Công ước Brucxen 1924,
Công ước Hague Visby 1968, Công ước Hamburg 1978, Incoterms 1953, 1980,
1990, 2000 và các ICC 1963, 1982.
Các điều khoản về bảo hiểm hàng hải cũng ra đời và ngày càng hồn
thiện. Nước Anh là một nước có sự phát triển thương mại hàng hải sớm nhất
trên Thế Giới. Có thể nói lịch sử phát triển của ngành thương mại gắn liền với
lịch sử phát triển của nước Anh.Vào đầu thế kỉ 17 nước Anh đã có ngành ngoại
SV: Hồng Thị Phương Loan

Kinh tế bảo hiểm 49


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

thương phát triển với đội tàu buôn mạnh nhất Thế Giới và trở thành trung tâm

thương mại và hải cảng lớn nhất Thế Giới. Tàu chở hàng của các nước cũng đều
tập trung ở hai bên bờ sông Time-London và đội tàu buôn của Anh cũng có mặt
ở khắp các cảng của các nước.Họ sớm có các nguyên tắc, thể lệ bảo hiểm hàng
hải nói chung và bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển nói riêng, do
hội những người bảo hiểm London ban hành. Những nguyên tắc, thể lệ này khá
hoàn chỉnhvà được rất nhiều nước trên Thế Giới áp dụng.
Một trong những công ty Bảo Hiểm lớn nhất nước Anh và Thế Giới là
công ty Bảo Hiểm Lloyd’s khoảng thế kỉ 17, luồng buôn bán cà phê giữa Anh và
các nước rất phát triển. Những người buôn bán cà phê thành lập Sở giao dịch cà
phê gọi là: (Lloyd’s coffee house) trở thành trung tâm giao dịch của các thương
nhân xuất nhập khẩu về giao dịch thương mại, thuê tàu và Bảo hiểm hàng hải.
Khoảng 1690-1692 Lloyd’s đặt ra chế độ thông báo thương mại và phát
hành một bản tin về hàng hóa và tàu. Lức đầu bản tin chỉ được lưu hành nội bộ
nhưng về sau ảnh hưởng của nó bành trướng một cách nhanh chóng khơng chỉ
đối với Lloyd’s, nước Anh mà cả Châu Âu và khắp Thế Giới . Bản tin của
Lloyd’s không chỉ dừng lại ở những tin tức về tàu hàng, nó cịn bao gồm cả tin
tức về giá cả, tỉ giá hối đoái, chứng khoán, thống kê...
Năm 1979, các hội viên của Lloyd’s đã thu nhập tất cả các nguyên tắc về
bảo hiểm hàng hải qui thành một hợp đồng chung gọi là hợp đồng Lloyd’s. Hợp
đồng này được quốc hội Anh thông qua, cho đến trước 1982 nó vẫn được nhiều
nước áp dụng.
Hiện nay Lloyd’s là một trong số ít các Cơng ty bảo hiểm lớn nhất Thế
Giới, với 400 nghiệp đoàn khai thác bảo hiểm và các chi nhánh ở khắp Thế Giới,
doanh thu riêng về phí bảo hiểm khoảng 70 triệu bảng Anh một ngày.
Tại hầu hết các nước trên Thế Giới hoạt động bảo hiểm do các công ty tư
bản tổ chức, cạnh tranh và tích cực dần dần hình thành những tổ chức bảo hiểm
độc quyền lớn như: Lloyd’s, Worrld insurance Co, Swiss...
Các tổ chức độc quyền bảo hiểm có quan hệ rất chặt chẽ với chính phủ,
giữ một khối lượng chứng khoán chủ yếu của nhà nước, là chủ nợ thường xuyên
của nhà nước, có thể cấp phát kinh phí cho mọi hoạt động của nhà nước.Số nước

cịn lại, nhà nước nắm trọn quyền kinh doanh bảo hiểm. Thông thường nhà nước
giao cho một công ty chuyên môn thuộc bộ Tài Chính kinh doanh bảo hiểm .
Đối với ngoại thương nước ta, ngày nay Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam
hoàn toàn đủ khả năng bảo hiểm cho hàng hóa xuất nhập khẩu.Năm 1965, khi
Bảo hiểm Việt Nam đi vào hoạt động, Bộ Tài chính đã ban hành qui tắc chung
về bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển(General regulation of
Marine Insurance on good Intransit). Gần đây, để phù hợp với sự phát triển của
hàng hải và thương mại, Bộ Tài chính lại ban hành qui tắc mới - Qui tắc chung
1990 (QTC1990). Cùng với luật hàng hải của Việt Nam 1990, những qui tắc
chung này là cơ sở pháp lí chủ yếu, điều chỉnh các vấn đề bảo hiểm hàng hóa
xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển. Như chúng ta đã biết, nghiệp vụ
bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển là một bộ phận
SV: Hoàng Thị Phương Loan

Kinh tế bảo hiểm 49


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

chủ yếu của hoạt động bảo hiểm và nó khơng thể tách rời hoạt đơng xuất nhập
khẩu nghiệp vụ này có vai trị rất quan trọng đối với ngoại thương.
Cũng như thông lệ quốc tế nhà nước ta bắt buộc phải mua bảo hiểm trong
nước đối với hàng hóa nhập khẩu, khuyến khích mua bảo hiểm trong nước đối
với hàng hóa xuất khẩu vì mua bảo hiểm trong nước sẽ có những lợi ích sau:
- Tăng thu và giảm chi ngoại tệ cho nhà nước
- Góp phần thúc đẩy cho ngoại thương phát triển
- Góp phần bảo đảm tính độc lập tự chủ trong hoạt đơng kinh tế đối ngoại
nâng cao uy tín của Việt Nam trong lĩnh vực Bảo hiểm.
- Giúp cho ngoại thương và Bảo hiểm có điều kiện phối hợp chặt chẽ,
nghiên cứu và trao đổi các biện pháp có hiệu quả cao nhất để đè phịng

hạn chế tổn thất.
Vì vậy trách nhiệm của người kinh doanh xuất nhập khẩu là phải giành
lấy quyền mua bảo hiểm trong nước (mua FOB,CIF bán CIF) ngay từ khi kí kết
hợp đồng mua bán ngoại thương.
II. Rủi ro, tổn thất và sự cần thiết phải bảo hiểm hàng hóa xuất nhập
khẩu vận chuyển bằng đường biển.
1. Rủi ro, tổn thất trong vận chuyển bằng đường biển:
1.1. Các loại rủi ro:
Trong hoạt động bảo hiểm hàng hóa XNK vận chuyển bằng đường biển các
chủ hàng cũng như các chủ tàu thường gặp rất nhiều loại rủi ro gây tổn thất. Rủi
ro ở đây được hiểu là rủi ro hàng hải, đó là những rủi ro do thiên tai, tai nạn bất
ngờ trên biển gây ra làm hư hỏng hàng hóa và phương tiện chuyên chở. Để
thuận tiện trong việc xây dựng quy tắc bảo hiểm và để hạn chế tối đa hiện tượng
tranh chấp, khiếu nại trong giám định và bồi thường, người ta phải tiến hành
phân loại rủi ro. Có hai tiêu thức phân loại chủ yếu:
• Căn cứ vào nguyên nhân, rủi ro hàng hải bao gồm:
+ Rủi ro do thiên tai gây ra: như biển động, bão,lốc, sét đánh, thời tiết
xấu, sóng thần, động đất, núi lửa,... mà con người khơng chống lại được.
+ Rủi ro do tai nạn bất ngờ trên biển gây ra: mắc cạn, chìm đắm, bị phá
hủy, mất tích, cháy, nổ, đâm va với tầu hoặc một vật thể cố định hay di động
khác không phải là nước, phá hoại của thuyền trưởng và thủy thủ trên tàu.,...
+ Rủi ro do con người và xã hội gây ra: ăn trộm, ăn cắp hàng, mất cướp,
chiến tranh, đình cơng, bạo loạn, nội chiến,...
Ngồi ra cịn có các rủi ro khác như rủi ro lúc xếp dỡ hàng, hàng bị nhiễm
mùi, lây bẩn,...
• Căn cứ vào tính chất rủi ro, rủi ro hàng hải bao gồm:
+ Rủi ro thông thường được bảo hiểm: là các rủi ro được bảo hiểm một
cách bình thường theo các điều kiện bảo hiểm gốc A, B, C (Ví dụ: mắc cạn,
SV: Hồng Thị Phương Loan


Kinh tế bảo hiểm 49


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

chìm đắm, đâm va, cháy nổ,...). Đây là những rủi ro có tính chất bất ngờ, ngẫu
nhiên, xảy ra ngoài ý muốn của người được bảo hiểm như: thiên tai, tai họa của
biển, tai nạn bất ngờ khác, tức bao gồm cả rủi ro phụ và rủi ro chính. Trong đó,
4 rủi ro chính (mắc cạn, chìm đắm, đâm va, cháy nổ) ln được bảo hiểm theo
cả 3 điều kiện A, B,C. Các rủi ro phụ như: rủi ro mất tích, rách, vỡ, cong, bẹp,
hấp hơi, gỉ, dây bẩn, va đập vào hàng hóa khác, giao thiếu hàng, hay mất nguyên
kiện hàng, mất trộm, mất cắp,... chỉ được bảo hiểm theo điều kiện A (bảo hiểm
mọi rủi ro), còn nếu mua theo điều kiện B, C và muốn được bảo hiểm thêm bởi
một trong số nhũng rủi ro này thì phải mua kèm theo các điều kiện bảo hiểm phụ.
+ Rủi ro không được bảo hiểm( thậm chí loại trừ tuyệt đối): là những rủi ro
không được nhà bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm hoặc bồi thường trong mọi
trường hợp. Đó là các rủi ro đương nhiên xảy ra, chắc chắn xảy ra, hoặc các thiệt
hại do nội tỳ, do bản chất của hàng hóa, do lỗi của người được bảo hiểm, thiệt
hại mà nguyên nhân trực tiếp là chậm trễ, những rủi ro có tính chất thảm họa mà
con người khơng lường trước được quy mô, mức độ và hậu quả của nó.
+ Rủi ro đặc biệt: bao gồm rủi ro chiến tranh, đình cơng, bạo loạn, khủng
bố. Loại rủi ro này, nếu các chủ hàng, chủ tàu mua bảo hiểm thì nhà bảo hiểm
vẫn bán. Tuy nhiên, khi xây dựng các điều khoản bảo hiểm, loại rủi ro này
thường được coi là các điều khoản bổ sung. Phần lớn phí bảo hiểm của loại rủi
ro này là do sự thỏa thuận của các bên.
Cách phân loại này giúp các nhà bảo hiểm xây dựng được những quy tắc
bảo hiểm phù hợp, sát với thực tế. Đồng thời nó cũng giúp các chủ hàng cân
nhắc lựa chọn điều khoản bảo hiểm thích hợp.
1.2. Các loại tổn thất:
Tổn thất trong bảo hiểm hàng hóa XNK là những thiệt hại, hư hỏng của

hàng hóa được bảo hiểm do rủi ro gây ra.
Căn cứ vào quy mơ, mức độ tổn thất có thể chia ra: tổn thất bộ phận
(TTBP) và tổn thất toàn bộ (TTTB).
- TTBP: có nghĩa là một bộ phận của đối tượng được bảo hiểm theo
HĐBH bị mất mát, hư hỏng, thiệt hại, phá hủy. Loại tổn thấy này thường tồn tại
ở 4 dạng sau: giảm giá trị; giảm số lượng; giảm trọng lượng; giảm thể tích.
- TTTB: là tồn bộ đối tượng được bảo hiểm theo HĐBH bị hư hỏng, mất
mát, thiệt hại 100% giá trị hoặc giá trị sử dụng. TTTB gồm 2 loại:
+ TTTB thực tế: là toàn bộ hàng hóa bị hư hỏng hoặc bị phá hủy. Có thể số
lượng cịn ngun nhưng giá trị khơng cịn gì cả (Ví dụ: xi măng, da thuộc).
TTTB thực tế bao gồm:
. Hàng hóa bị phá hủy hồn tồn;
. Hàng hóa bị tước đoạt hồn tồn khơng lấy lại được;
. Hàng hóa khơng cịn là vật thể bảo hiểm;
. Hàng hóa ở trên tàu mà tàu được tuyên bố mất tích.
+ TTTB ước tính: hàng hóa bị tổn thất đến mức nếu bỏ chi phí ra để cứu
vớt hàng thì giá trị hàng hóa cứu vớt được nhỏ hơn chi phí bỏ ra và TTTB thực
tế là không thể tránh khỏi. Hoặc tồn bộ chi phí mà chủ hàng gửi hàng đến nơi
SV: Hoàng Thị Phương Loan

Kinh tế bảo hiểm 49


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

nhận lại lớn hơn bản thân lơ hàng đó tại một thời điểm nhất định. Khi gặp
trường hợp này tốt nhất chủ hàng thông báo từ bỏ lô hàng và bảo hiểm phải bồi
thường TTTB. Làm như vậy chủ hàng sẽ thu hồi vốn nhanh, tránh phiền phức
cho các bên và quyền sở hữu lô hàng thuộc về bảo hiểm.
Nếu phân loại theo trách nhiệm của các bên liên quan trong một hành

trình, tổn thất được chia ra tổn thất chung (TTC) và tổn thất riêng (TTR).
- TTR: là loại tổn thất liên quan đến từng quyền lợi trên một con tàu. Tổn
thất này thuộc quyền lợi của bên nào thì bên đó phải chịu.
TTR có thể là TTBP hoặc TTTB.
- TTC: là những thiệt hại xảy ra do chi phí hoặc hy sinh đặc biệt được
tiến hành một cách cố ý và hợp lý nhằm mục đích cứu tàu, hàng hóa và cước phí
trong một hành trình chung trên biển khỏi sự nguy hiểm chung đối với chúng.
Hay nói cách khác TTC là loại tổn thất liên quan đến tất cả quyền lợi trên tàu.
Các thiệt hại, chi phí hoặc hành động được coi là TTC khi có các đặc
trưng sau:
. Hành động TTC phải là hành động tự nguyện, hữu ý của những người trên tàu
theo lệnh của thuyền trưởng hoặc người thay mặt thuyền trưởng;
. Hy sinh hoặc chi phí phải đặc biệt, bất thường;
. Hy sinh hoặc chi phí phải hợp lý và vi an toàn chung cho tất cả các quyền lợi
trong hành trình;
. Nguy cơ đe dọa tồn bộ hành trình phải nghiêm trọng và thực tế;
. Mất mát, thiệt hại hoặc chi phí phải là hậu quả trực tiếp của hành động TTC;
. TTC phải xảy ra trên biển.
TTC thường bao gồm hai bộ phận: hy sinh TTC và chi phí TTC.
+ Hy sinh TTC: là những thiệt hại hoặc chi phí do hậu quả trực tiếp của
một hành động TTC.
+ Chi phí TTC: là chi phí phải trả cho người thứ ba trong việc cứu tàu,
hàng, cước phí thốt nạn hoặc chi phí làm cho tàu tiếp tục hành trình. Những chi
phí sau đây được coi là chi phí tổn thất chung: Chi phí tàu ra vào cảng lánh nạn, chi
phí lưu kho lưu bãi tại cảng lánh nạn, chi phí tạm thời sửa chữa những hư hại của
tàu, chi phí tăng thêm về nhiên liệu,… do hậu quả của hành động tổn thất chung.
2. Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm hàng hóa XNK vận chuyển bằng
đường biển:
Hoạt động XNK hàng hóa vận chuyển bằng đường biển gặp rất nhiều rủi
ro và tổn thất khó lường. Trong lịch sử đã có khơng ít rủi ro gây tổn thất nghiêm

trọng cho các chủ hàng, để lại những ảnh hưởng rất xấu đến hoạt động kinh
doanh của họ. Và con người đã có nhiều biện pháp đối phó với tác động xấu
này, nhưng thực tế cho thấy biện pháp hữu hiệu nhất vẫn là bảo hiểm.
Từ lâu hàng hóa XNK tham gia bảo hiểm đã trở thành thơng lệ quốc tế vì
căn cứ vào 4 bài học kinh nghiệm mang tính quốc tế:
+ Hàng hóa XNK vận chuyển bằng đường biển thường gặp rất nhiều loại
rủi ro gây tổn thất như: mắc cạn, đắm, chìm, bão, cướp biển,...
+ Vận chuyển bằng đường biển thời gian thường kéo dài nên xác suất rủi
SV: Hoàng Thị Phương Loan

Kinh tế bảo hiểm 49


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

ro đã lớn lại càng lớn hơn so với các phương tiện khác;
+ Mỗi chuyến hàng có thể là cả gia tài của một công ty, một doanh
nghiệp. Nếu không mua bảo hiểm mà TTTB xảy ra thì cơng ty dễ bị phá sản.
+ Vận chuyển bằng đường biển phải được thực hiện thông qua người vận
chuyển. Bởi vậy để đảm bảo tuyệt đối an tồn thì phải mua bảo hiểm.
Như vậy, có thể nói bảo hiểm chính là tấm lá chắn che chở cho hoạt động
kinh tế của các chủ thể diễn ra một cách an tồn và thơng suốt. Hơn thế nữa, bảo
hiểm hàng hóa XNK vận chuyển bằng đường biển cịn góp phần thúc đẩy các
mối quan hệ kinh tế quốc tế thông qua con đường giao lưu thương mại. Và nó cịn
ảnh hưởng tới cả vấn đề kinh tế xã hội của nước xuất khẩu và nước nhập khẩu.
Chính vì những lý do trên mà bảo hiểm hàng hóa XNK vận chuyển bằng
đường biển ngày càng quan trọng và cần thiết đối với mỗi quốc gia. Nó đã dần
trở thành tập quán thương mại quốc tế bắt buộc được áp dụng rộng rãi trên thế
giới ngày nay.
Phần 2: Nội dung cơ bản của nghiệp vụ Bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu

vận chuyển bằng đường biển.
1. Đối tượng bảo hiểm:
Đối tượng được bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hóa XNK vận chuyển bằng
đường biển là hàng hóa XNK được vận chuyển và xếp dỡ bằng đường biển, có
giấy tờ mua bán và xuất xứ rõ ràng được thể hiện qua các hợp đồng mua bán,
hợp đồng vận chuyển và hợp đồng giao nhận.
2. Giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm:
2.1. Giá trị bảo hiểm (GTBH):
Giá trị bảo hiểm là giá trị thực tế của lô hàng đăng ký tham gia bảo hiểm,
thường là giá CIF, bao gồm: giá hàng hóa ghi trên hóa đơn bán hàng (hoặc giá
thực tế tại nơi gửi hàng nếu khơng có hóa đơn), cộng cước phí vận chuyển, phí
bảo hiểm và các chi phí khác liên quan.
Cơng thức xác định giá CIF:
CIF = (C + F) / (1 – R)
Ngoài ra để đáp ứng nhu cầu của người tham gia bảo hiểm, đối với hàng
thương mại, nhà bảo hiểm có thể nhận bảo hiểm thêm cả phần lãi dự tính, tức
mức chênh lệch giữa giá mua ở cảng đi và giá bán ở cảng đến (thực ra đây là lợi
nhuận thương mại, khơng hồn tồn là giá trị của hàng được bảo hiểm).
Giả sử là các hợp đồng bảo hiểm đều bảo hiểm cho cả lơ hàng hóa và cả
lợi nhuận thương mại của lô hàng (tối đa 10% giá CIF) thì giá trị bảo hiểm của
lơ hàng lớn nhất bằng 110% CIF.
GTBH được xác định theo công thức:
V = ( C + F) / (1 – R)
Trong đó:
V (Value): GTBH của hàng hóa XNK theo giá CIF
C (Cost): Giá hàng được tính bằng giá FOB ở cảng đi
F (Freight): Cước phí vận chuyển
R (Rate): Tỷ lệ phí bảo hiểm
SV: Hoàng Thị Phương Loan


Kinh tế bảo hiểm 49


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Hoặc nếu bảo hiểm theo lãi đự tính thì GTBH được tính theo công thức:
V = ( C + F).(a + 1) / (1- R)
Trong đó:
a: là tỷ lệ phần trăm lãi dự tính của lơ hàng so với tổng giá trị của lô hàng.
II.2. Số tiền bảo hiểm (STBH):
Số tiền bảo hiểm là số tiền được đăng ký bảo hiểm, ghi trong hợp đồng bảo
hiểm. Số tiền bảo hiểm được xác định trên cơ sở GTBH. Hóa đơn hàng là tài liệu
chắc chắn nhất để xác định GTBH của hàng hóa. Trừ khi có thỏa thuận khác, nếu
người tham gia bảo hiểm u cầu, người bảo hiểm có thể tính gộp cả tiền lãi ước
tính vào STBH. Tuy nhiên tiền lãi này không được vượt quá 10% GTBH.
Về nguyên tắc STBH chỉ có thể nhỏ hơn hoặc bằng GTBH. Vì vậy nếu:
+ STBH bằng GTBH thì gọi là “bảo hiểm ngang giá trị” hay “bảo hiểm
tồn phần”
+ STBH cao hơn GTBH thì gọi là “bảo hiểm trên giá trị” hay “bảo hiểm
vượt mức”
+ STBH thấp hơn GTBH thì gọi là “bảo hiểm dưới giá trị” hay “bảo hiểm
dưới mức”.
Trong thực tế, chủ hàng thường mua bảo hiểm ngang giá trị hoặc thấp hơn
giá trị. Khi bảo hiểm trên giá trị (nếu STBH bao gồm cả tiền lãi ước tính) thì
phần lớn hơn đó vẫn có thể phải nộp phí bảo hiểm nhưng không được bồi
thường khi tổn thất bộ phận xảy ra, tức là bồi thường như bảo hiểm ngang giá
trị, còn tổn thất toàn bộ xảy ra sẽ được bồi thường bằng STBH.
2.3. Phí bảo hiểm:
Phí bảo hiểm là một khoản tiền do người tham gia bảo hiểm nộp cho người
bảo hiểm để hàng hóa được bảo hiểm. Phí bảo hiểm được xác định trên cơ sở

GTBH hoặc STBH và tỷ lệ phí bảo hiểm. Phí bảo hiểm (P) được xác định như sau:
P = Sb ( a + 1) R
Trong đó:
Sb: STBH
R: tỷ lệ phí bảo hiểm (được tính tốn dựa trên các điều kiện liên quan đến
đối tượng bảo hiểm như: GTBH, điều kiện bảo hiểm, mức khấu trừ, hạn mức
trách nhiệm của các công ty bảo hiểm...
Trong thực tế, chủ hàng thường mua bảo hiểm ngang giá trị nên phí bảo
hiểm cịn có thể được xác định theo công thức:
P = CIF . R (nếu không bảo hiểm lãi dự tính)
Hoặc:
P = CIF.(a+1).R (nếu bảo hiểm thêm phần lãi dự tính a)
Tỷ lệ phí bảo hiểm (R) được ghi trong hợp đồng bảo hiểm theo thỏa thuận
giữa người bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm. R phụ thuộc vào các yếu tố sau:
+ Loại hàng hóa: Hàng hóa dễ bị tổn thất như dễ vỡ, dễ bị mất cắp... thì tỷ
lệ phí bảo hiểm sẽ cao hơn.
+ Loại bao bì: Bao bì càng chắc chắn tỷ lệ phí bảo hiểm càng hạ.
+ Phương tiện vận chuyển: Hàng hóa được chở trên tàu trẻ và có chất
lượng chuyên chở tốt sẽ có tỷ lệ phí bảo hiểm thấp hơn hàng chở trên tàu già.
SV: Hoàng Thị Phương Loan

Kinh tế bảo hiểm 49


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

+ Hành trình: Tỷ lệ phí bảo hiểm tăng lên đối với những hành trình có
nhiều rủi ro hoặc hành trình qua những vùng có xung đột vũ trang...
+ Điều kiện bảo hiểm: Điều kiện bảo hiểm có phạm vi càng hẹp thì tỷ lệ
phí bảo hiểm càng thấp.

Trong một số trường hợp có nguy cơ gia tăng rủi ro (ví dụ hàng được vận
chuyển trên tàu già...), tỷ lệ phí bảo hiểm bao gồm hai phần như sau:
R = Rphụ + Rgốc
Với: Rgốc: là tỷ lệ phí gốc
Rphụ: là tỷ lệ phí phụ (phụ phí tàu già, chuyển tải, chiến tranh...)
Các bộ luật và quy tắc bảo hiểm hàng hải đều lưu ý rằng HĐBH chỉ có
hiệu lực ngay sau khi phí bảo hiểm được trả, cơng ty bảo hiểm có quyền hủy
HĐBH nếu người được bảo hiểm không thực hiện đúng nghĩa vụ trả phí bảo
hiểm hoặc có quyền từ chối bồi thường khi có rủi ro xảy ra.
3. Điều kiện bảo hiểm:
Điều kiện bảo hiểm hàng hóa XNK vận chuyển bằng đường biển thể hiện
rõ phạm vi bảo hiểm và căn cứ vào điều kiện bảo hiểm hàng hóa các nước sẽ
xây dựng cho mình những quy tắc bảo hiểm phù hợp. Hàng hóa được bảo hiểm
theo điều kiện bảo hiểm nào thì chỉ những rủi ro tổn thất quy định trong điều
kiện đó mới được bồi thường.
• Bộ điều kiện bảo hiểm ra đời 01/01/1963 (ICC 1963)
a. Điều kiện bảo hiểm miễn TTR (FPA _ Free from Particular Average)
Theo điều kiện bảo hiểm FPA, trách nhiệm bảo hiểm bao gồm:
- TTTB do thiên tai, tai nạn bất ngờ trên biển hoặc dỡ hàng tại cảng lánh
nạn thuộc TTR.
- TTTB vì thiên tai, tai nạn bất ngờ trên biển hoặc dỡ hàng tại cảng lánh
nạn do rủi ro chính đem lại.
- Mất nguyên kiện hàng trong quá trình xếp dỡ hay chuyển tải (nhưng
không phải mất cắp).
- Bồi thường các chi phí sau:
+ Chi phí đóng góp tổn thất chung;
+ Chi phí cứu nạn;
+ Chi phí đề phịng, hạn chế tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm do người
thứ ba không phải là người được bảo hiểm hay người làm cơng của họ gây nên;
+ Chi phí giám định tổn thất nếu tổn thất này do rủi ro được bảo hiểm gây ra;

+ Chi phí tố tụng, khiếu nại.
Để đảm bảo an tồn tài chính tối đa, tùy theo tính chất của hàng hóa, các
rủi ro phụ: rách vỡ, chảy, cong, hở, hẹp, bẹp, cẩu móc, hấp hơi, lây bẩn, nước
mưa, nước biển, han rỉ...Ngồi ra, chủ hàng có trách nhiệm chứng minh tổn thất
là thuộc rủi ro được bảo hiểm.Với điều kiện này, mọi chi phí chứng minh tổn
thất thuộc về chủ hàng. Điều kiện này rất phù hợp với những loại hàng hóa khó
hư hỏng do đổ vỡ.
b. Điều kiện bảo hiểm TTR (WA – With Particualr Average)
Theo điều kiện bỏa hiểm TTR, công ty bảo hiểm không những chịu trách
SV: Hoàng Thị Phương Loan

Kinh tế bảo hiểm 49


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

nhiệm về những rủi ro tổn thất và chi phí của điều kiện bảo hiểm FPA mà cịn
mở rộng thêm TTBP vì thiên tai, tai nạn bất ngờ gây ra không giới hạn trong
bốn rủi ro chính và khi dỡ hàng tại cảng lánh nạn.
Công ty bảo hiểm đề ra mức miễn thường và giải quyết theo các nguyên tắc sau:
- Không đề cập mức miễn thường tổn thất do rủi ro chính, rủi ro chiến
tranh, đình cơng và các rủi ro phụ do con người gây ra.
- Khơng cộng các chi phí để đạt mức miễn thường, chỉ tính tổn thất thực tế.
- Được tính các tổn thất liên tiếp xảy ra để đạt được mức miễn thường.
- Mỗi sà lan được coi là một con tàu để tính mức miễn thường.
- Người được bảo hiểm có quyền chọn cách tính mức miễn thường có lợi
nhất cho mình để được bồi thường nhiều hơn.
Như vậy, so với điều kiện bảo hiểm FPA thì điều kiện bảo hiểm WA có phạm vi
bảo hiểm rộng hơn và có áp dụng mức miễn thường.
c. Điều kiện bảo hiểm mọi rủi ro (AR – All Risks)

Phạm vi bảo hiểm của điều kiện bảo hiểm AR ngoài các rủi ro tổn thất và
chi phí của điều kiện bảo hiểm WA thì cịn mở rộng thêm các rủi ro phụ.Người
bảo hiểm không áp dụng mức miễn thường.
Như vậy, trong ba điều kiện bảo hiểm theo ICC 1963, chủ hàng đều có
trách nhiệm chứng minh tổn thất là thuộc rủi ro được bảo hiểm. Nhưng điều kiện
bảo hiểm AR có phạm vi bảo hiểm rộng nhất, vì vậy người mua bảo hiểm không
cần tham gia bảo hiểm các rủi ro phụ; điều kiện bảo hiểm AR không phân biệt
TTTB và TTBP như hai điều kiện bảo hiểm FPA và WA. Chỉ điều kiện bảo
hiểm WA có áp dụng mức miễn thường.
• Bộ điều kiện bảo hiểm ra đời 01/01/1982 (ICC 1982)
a. Điều kiện bảo hiểm C (ICC C)
- Phạm vi bảo hiểm theo điều kiện C bao gồm:
+ Tổn thất hay tổn hại của hàng hóa được bảo hiểm có nguyên nhân hợp lý
do cháy hoặc nổ; tàu bị mắc cạn, chìm đắm, bị lật, đâm va; dỡ hàng tại cảng lánh
nạn, hàng hóa được bảo hiểm bị mất do tàu hoặc phương tiện chở hàng mất tích.
+ Hy sinh TTC, ném hàng khỏi tàu, phần đóng góp TTC.
+ Phần trách nhiệm mà người được bảo hiểm phải chịu theo điều khoản
“hai tàu đâm va đều có lỗi”. Khi tai nạn đâm va xảy ra giữa hai tàu sẽ làm phát
sinh trách nhiệm dân sự của các chủ tàu và được giải quyết theo điều khoản
“Hai tàu đâm va nhau đều có lỗi”. Mức trách nhiệm dân sự phát sinh được tính
dựa vào mức độ lỗi của chủ tàu và tổng giá trị thiệt hại của tàu kia (gồm thiệt
hại thân tàu, con người, hàng hóa và thiệt hại kinh doanh). Do đó, sau khi được
bồi thường trách nhiệm dân sự thì phần trách nhiệm của chủ hàng phải chịu là
kết quả của giá trị hàng hóa nhân với mức độ lỗi của chủ tàu kia.
- Các rủi ro loại trừ:
+ Tổn thất hay tổn hại do đóng gói bao bì khơng đủ điều kiện, khơng thích hợp.
+ Tổn thất hay tổn hại do hành vi xấu,cố ý của người được bảo hiểm.
+ Tổn thất hoặc tổn hại mà nguyên nhân trực tiếp là chậm trễ.
+ Rò rỉ, hao hụt thông thường về trọng lượng, khối lượng hoặc hao mịn
SV: Hồng Thị Phương Loan


Kinh tế bảo hiểm 49


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

tự nhiên của đối tượng được bảo hiểm.
+ Do nội tỳ hoặc bản chất của hàng hóa.
+ Tổn thất hoặc tổn hại do khơng trả được nợ hoặc thiếu thốn về tài chính
của chủ tàu, người quản lý, người thuê tàu hoặc người khai thác tàu.
+ Thiệt hại cố ý hoặc sự phá hoại cố ý đối tượng được bảo hiểm do hành
động phạm pháp của bất kỳ người nào.
+ Tổn thất hoặc tổn hại do việc sử dụng bất kỳ một loại vũ khí chiến tranh
nào có dùng phản ứng hạt nhân, phản ứng hóa học, chất phóng xạ...
+ Do tàu khơng đủ khả năng đi biển, hoặc khơng thích hợp cho việc vận
chuyển hàng hóa mà người được bảo hiểm đã biết tình trạng đó vào lúc hàng
hóa được xếp lên phương tiện vận tải.
+ Tổn thất xảy ra do mìn, thủy lơi, bom và các loại vũ khí chiến tranh khác.
+ Tổn thất xảy ra do chiến tranh, nội chiến, bạo loạn, hành động thù địch,
tịch thu, bắt giữ, quản chế, giam cầm...
+ Tổn thất được gây ra bởi người đình cơng, cơng nhân bị cấm xưởng
hoặc những người tham gia gây rối loạn lao động, bạo động hoặc nổi loạn.
+ Tổn thất xảy ra do bạo động chính trị, động cơ chính trị.
Khi có tổn thất xảy ra thì trách nhiệm chứng minh tổn thất thuộc về người
được bảo hiểm (chủ hàng).
b. Điều kiện bảo hiểm B (ICC B)
Theo điều kiện này, ngoài các rủi ro được bảo hiểm theo điều kiện C,
cơng ty bảo hiểm cịn bồi thường tổn thất hay tổn hại đối với hàng hóa được bảo
hiểm do động đất, núi lửa, sét đánh; bị nước biển cuốn khỏi tàu; nước biển, nước
sông hồ xâm nhập vào hầm tàu, vào container hoặc nơi để hàng; tổn thất nguyên

kiện hàng trong quá trình xếp dỡ, chuyển tải.
c. Điều kiện bảo hiểm A (ICC A)
Đây là điều kiện bảo hiểm có phạm vi rộng nhất, bảo hiểm tất cả những
hư hỏng, mất mát của hàng hóa, kể cả rủi ro cướp biển, chỉ trừ những rủi ro loại
trừ theo quy định và không áp dụng mức miễn thường.Trong điều kiện bảo hiểm
A, không loại trừ hư hại hoặc phá hủy do hành vi cố ý có chủ tâm do hành động
sai lầm của bất kỳ người nào gây ra. Còn các điều khoản loại trừ khác giống với
các điều kiện B, C.
Như vậy, ba điều kiện bảo hiểm C, B, A theo ICC 1982 đều không phân
biệt TTTB và TTBP, chủ hàng đều có trách nhiệm chứng minh tổn thất là thuộc
rủi ro được bảo hiểm. Nhưng điều kiện bảo hiểm A có phạm vi bảo hiểm rộng
nhất và chỉ điều kiện bảo hiểm B có áp dụng mức miễn thường.Các điều kiện
bảo hiểm C, B, A có hiệu lực từ ngày 01/4/1983 và hiện nay được áp dụng rộng
rãi trên thị trường bảo hiểm thế giới.
4. Hợp đồng bảo hiểm:
HĐBH hàng hóa XNK vận chuyển bằng đường biển là một văn bản, trong
đó cơng ty bảo hiểm cam kết sẽ bồi thường cho người tham gia bảo hiểm các tổn
thất của hàng hóa theo các điều kiện bảo hiểm đã ký kết, còn người tham gia bảo
hiểm cam kết trả phí bảo hiểm.Trừ khi có thỏa thuận khác, người được bảo hiểm
SV: Hoàng Thị Phương Loan

Kinh tế bảo hiểm 49


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

phải thanh toán phí bảo hiểm ngay khi nhận Đơn bảo hiểm. Người bảo hiểm chỉ
bồi thường khi đã nhận được phí bảo hiểm trước khi tổn thất xảy ra (trừ khi có
thỏa thuận khác).
Có hai loại hợp đồng là HĐBH chuyến và HĐBH bao.

• HĐBH chuyến:
HĐBH chuyến là hợp đồng bảo hiểm cho một chuyến hàng chuyên chở từ
địa điểm này đến địa điểm khác ghi trong hợp đồng.HĐBH chuyến được trình
bày dưới hình thức Đơn bảo hiểm hay Giấy chứng nhận bảo hiểm do Công ty
bảo hiểm cấp. Đơn bảo hiểm và Giấy chứng nhận bảo hiểm đều có giá trị pháp
lý như nhau nhưng hình thức và cách sử dụng khác nhau.
Nội dung HĐBH chủ yếu bao gồm:
- Ngày cấp đơn bảo hiểm
- Nơi ký kết HĐBH
- Tên và địa chỉ của người mua bảo hiểm
- Tên khách hàng được bảo hiểm
- Qui cách đóng gói, loại bao bì và ký mã hiệu của hàng
- Số lượng, trọng lượng của hàng
- Tên tàu hoặc phương tiện vận chuyển hàng
- Cách xếp hàng trên tàu
- Ngày tàu khởi hành
- GTBH và STBH
- Điều kiện bảo hiểm
- Phí bảo hiểm
- Địa chỉ của giám định viên bảo hiểm
- Số bản đơn được phát hành
- Phương thức và địa điểm trả tiền bồi thường, do người được bảo hiểm chọn
- Cảng khởi hành, cảng chuyển tải và cảng cuối. Trong trường hợp nơi
đến của hàng ghi trong Đơn bảo hiểm là một điểm nằm sâu trong nội địa thì phải
tăng thêm phụ phí bảo hiểm vì ngồi rủi ro hàng hải cịn có thêm rủi ro trên đoạn
đường phụ trong toàn bộ hành trình được bảo hiểm.
• HĐBH bao:
HĐBH bao là HĐBH cho một khối lượng hàng vận chuyển trong nhiều
chuyến kế tiếp nhau trong một thời gian nhất định (thường là một năm) hoặc nhận
bảo hiểm cho một lượng hàng vận chuyển nhất định (không kể đến thời gian).

Nội dung bao gồm: Nguyên tắc chung, phạm vi trách nhiệm, tên hàng
được bảo hiểm, việc đóng gói hàng, loại phương tiện vận chuyển, cách tính
GTBH và STBH tối đa cho mỗi chuyến hàng, điều kiện bảo hiểm, tỷ lệ phí bảo
hiểm và thanh tốn phí bảo hiểm, giám định, khiếu nại địi bồi thường, hiệu lực
của hợp đồng, xử lý tranh chấp,... Trong hợp đồng phải có ba điều kiện cơ bản sau:
- Điều kiện xếp hạng tàu được thuê chuyên chở hàng hóa sẽ được bảo hiểm:
+ Tàu phải có cấp hạng cao và nếu do 10 hãng đăng kiểm nổi tiếng trên
thế giới cấp mới được chấp nhận một cách tuyệt đối.
+ Tàu phải có khả năng đi biển bình thường và tuổi tàu thấp (dưới 15 năm).
SV: Hoàng Thị Phương Loan

Kinh tế bảo hiểm 49


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

- Điều kiện về GTBH: Người được bảo hiểm phải kê khai giá trị hàng
theo từng chuyến về số kiện, giá CIF hoặc giá FOB, số hợp đồng mua bán, số
thư tín dụng (L/C), ngày mở và trị giá L/C, số vận đơn B/L...
- Điều kiện về quan hệ trên tinh thần thiện chí: Nghĩa là đã mua bảo hiểm
bao của người bảo hiểm nào thì trong thời gian đó người được bảo hiểm khơng
được phép mua bảo hiểm hàng hóa của người bảo hiểm khác.
Khi ký kết HĐBH bao chủ hàng cần phải lưu ý các vấn đề sau:
+ Mỗi chuyến hàng đều phải thông báo cho nhà bảo hiểm biết bằng văn bản;
+ Nếu chủng loại hàng hóa có sự thay đổi chủ hàng cũng phải thông báo
cho nhà bảo hiểm biết bằng văn bản và phải thỏa thuận lại tỷ lệ phí bảo hiểm;
+ Nếu chủ hàng đã ký HĐBH bao nhưng sau một khoảng thời gian nào
đó, vì một lý do nào đó cần phải chuyển nhượng cho người khác thì hai bên phải
làm thủ tục chuyển nhượng đúng pháp luật. Và chủ hàng cũ phải ký hậu vào tất
cả các đơn bảo hiểm đã ký kết.

+ Tất cả những giấy tờ, thơng báo thay đổi, thỏa thuận phí,... đều phải
được đính kèm với HĐBH gốc. Sau khi ký kết hợp đồng, nhà bảo hiểm sẽ cấp
đơn bảo hiểm cho chủ hàng. Đơn bảo hiểm là bằng chứng chứng tỏ chủ hàng đã
ký kết đầy đủ, đúng qui phạm. Đơn này có thể chuyển nhượng từ người đứng
tên trong đơn cho người khác được hưởng quyền lợi của đơn bảo hiểm. Người
chuyển nhượng cũng chỉ cần ký hậu vào đơn và chuyển cho người thụ hưởng
quyền lợi bảo hiểm mới.
5. Giám định và bồi thường tổn thất:
5.1. Nghĩa vụ của người được bảo hiểm khi xảy ra tổn thất:
Trong trường hợp xảy ra rủi ro tổn thất thuộc phạm vi trách nhiệm bảo
hiểm thì người được bảo hiểm (chủ hàng) phải làm ngay những việc sau:
- Thông báo ngay cho nhà bảo hiểm hay đại diện của họ tại địa phương
gần nhất biết để tiến hành giám định trong thời gian sớm nhất.
- Nếu có vấn đề gì nghi ngờ cần viết giấy yêu cầu nhà bảo hiểm giám
định ngay. Việc giám định phải do nhà bảo hiểm tiến hành theo đơn đề nghị của
chủ hàng. Nếu giám định viên khơng phải là người của nhà bảo hiểm thì nhà bảo
hiểm có quyền khơng chấp nhận kết quả giám định.
- Khai báo ngay với cơ quan chức năng địa phương để xử lý và lập biên
bản theo luật hiện hành.
- Phải có những biện pháp đề phịng hạn chế tổn thất kịp thời.
- Bảo lưu quyền khiếu nại để nhà bảo hiểm địi người thứ ba nếu có.
5.2. Khiếu nại đòi bồi thường:
Trong mọi trường hợp, người được bảo hiểm hay đại lý của họ có trách
nhiệm đảm bảo việc thực hiện và bảo lưu đầy đủ cho người bảo hiểm quyền
khiếu nại đối với người chuyên chở, người nhận ủy thác hàng hóa hay người thứ
ba khác. Đặc biệt họ cần làm theo các quy định sau:
- Khiếu nại ngay người vận chuyển, chính quyền cảng hay những người
nhận ủy thác hàng về bất kỳ kiện hàng nào bị mất.
- Yêu cầu người đại diện chuyên chở hay người nhận ủy thác hàng hóa
SV: Hồng Thị Phương Loan


Kinh tế bảo hiểm 49


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

tham gia việc chứng kiến giám định ngay khi phát hiện hàng hóa có hiện tượng
mất mát, hư hỏng và qua giám định nếu thấy thực tế có giám định tổn thất thì
phải lập hồ sơ khiếu nại họ.
- Trừ khi đã có thư kháng nghị, trong mọi trường hợp không được cấp
giấy biên nhận hồn chỉnh cho những hàng hóa có hiện tượng nghi vấn.
- Gửi giấy báo cho đại diện người chun chở hay người nhận ủy thác
hàng hóa trong vịng ba ngày sau khi nhận hàng nếu tổn thất thuộc loại khó phát
hiện vào thời gian nhận hàng.
Nếu người được bảo hiểm không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ như đã quy
định trên đây thì người bảo hiểm có quyền từ chối những khiếu nại thuộc trách
nhiệm người chuyên chở, người nhận ủy thác hàng hóa hay người thứ ba khác.
Khi đòi người bảo hiểm bồi thường về những mất mát hay hư hỏng thuộc
trách nhiệm HĐBH, người được bảo hiểm cần phải nộp đầy đủ các giấy tờ
chứng minh, bao gồm:
- Bản chính của Đơn bảo hiểm hoặc Giấy chứng nhận bảo hiểm;
- Bản chính hợp đồng vận chuyển, giấy vận chuyển hàng hóa do chủ
phương tiện cấp;
- Bản chính hoặc bản sao hóa đơn bán hàng, kèm theo bản kê chi tiết hàng
hóa, phiếu ghi trọng lượng và số lượng hàng hóa;
- Biên bản điều tra tại cơ quan chức trách địa phương;
- Biên bản giám định và chứng từ tài liệu khác chỉ rõ mức độ tổn thất;
- Giấy biên nhận và giấy chứng nhận tàu giao hàng và phiếu ghi trọng
lượng tại nơi nhận cuối cùng;
- Bản sao báo cáo hải sự và / hoặc trích sao nhật ký hàng hải;

- Văn bản khiếu nại, người chuyên chở hay người thứ ba khác về trách
nhiệm đối với tổn thất họ gây ra;
- Thư đòi bồi thường;
- Bản chính HĐBH và giấy sửa đổi bổ sung (nếu có);
- Phiếu đóng gói bản chính.
Trường hợp các chứng từ trong bộ hồ sơ khiếu nại chưa làm sáng tỏ được
tổn thất thuộc trách nhiệm bảo hiểm hay không, người bảo hiểm yêu cầu cung
cấp thêm các chứng từ sau:
- Hợp đồng mua bán;
- Thư tín dụng;
- Lược khai;
- Phiếu kiểm đếm;
- Biên bản giám định hàng XNK;
- Nhật ký hàng hải;
- Giấy chứng nhận đăng kiểm tàu;
- Giấy chứng nhận xuất xứ hàng...
Sau khi kiểm tra lại tất cả các giấy tờ, chứng từ nhà bảo hiểm sẽ thanh
toán tiền bồi thường. Mọi khoản khiếu nại hoặc quyền khiếu nại của chủ hàng
đối với người thứ ba đều phải chuyển cho nhà bảo hiểm. Khi bồi thường TTTB
SV: Hoàng Thị Phương Loan

Kinh tế bảo hiểm 49


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

nhà bảo hiểm có quyền thu hồi phần cịn lại của hàng hóa đã được bồi thường.
Đối với TTTB ước tính nếu có chủ hàng phải thông báo từ bỏ lô hàng một cách
nhanh chóng bằng văn bản và nhà bảo hiểm sẽ xét bồi thường TTTB và quyền
sở hữu lô hàng lúc đó thuộc về nhà bảo hiểm.

5.3. Giám định và bồi thường tổn thất:
Giám định là công việc của người bảo hiểm hoặc người được ủy thác.
Trong quá trình giám định cần phải làm rõ: nguyên nhân, mức độ và trách nhiệm
đối với tổn thất của hàng hóa. Đơi khi phải quy định cụ thể về thời gian. Sau khi
giám định xong cán bộ giám định sẽ cấp chứng từ giám định, trong giấy này có:
xác định mức độ tổn thất, mức giảm giá trị thương mại (nếu có) để nhà bảo hiểm
có cơ sở bồi thường chính xác.Việc bồi thường tổn thất phải tuân thủ các nguyên
tắc sau:
+ STBH là giới hạn tối đa của STBT của người bảo hiểm. Tuy nhiên các
khoản tiền sau (ngoài số tiền tổn thất) cũng được bồi thường như: các chi phí đã
chi ra để cứu vớt hàng hóa, chi phí cứu nạn, phí giám định, chi phí bán đấu giá
hàng bị hư, tiền đóng góp TTC dù tổng STBT vượt qúa STBH.
+ Nộp phí bằng đồng tiền nào thì bồi thường bằng đồng tiền đó. Bồi
thường bằng tiền, khơng bồi thường bằng hiện vật.
+ Khi thanh toán trả tiền bồi thường nhà bảo hiểm sẽ khấu trừ những
khoản như: mức miễn thường, số tiền địi được từ người thứ ba (nếu có).
Trong q trình bồi thường, nhà bảo hiểm thường chia thành hai phần: bồi
thường TTC và bồi thường TTR.
Bồi thường TTC
- Nhà bảo hiểm bồi thường cho chủ hàng (người được bảo hiểm) phần
TTC theo mọi điều kiện bảo hiểm. Nhưng nếu STBH thấp hơn giá trị phải đóng
góp vào TTC, nhà bảo hiểm chỉ bồi thường theo tỷ lệ giữa số tiền được bảo
hiểm và giá trị phải đóng góp vào TTC.
- Không bồi thường trực tiếp cho chủ hàng (người được bảo hiểm) mà thanh
tốn cho người tính tốn phân bổ TTC do hãng tàu (người chuyên chở) chỉ định.
- STBT này được cộng thêm hay khấu trừ phần chênh lệch giữa số tiền
thực tế đã đóng góp vào TTC và số tiền phải đóng góp vào TTC.
- STBT đóng góp TTC cần phải hiểu tính thực tế của nó đó là TTC chỉ
được xảy ra trên sơng, trên biển.
Bồi thường TTR

- Đối với TTTB thực tế: Bồi thường toàn bộ STBH;
- Đối với TTTB ước tính: Bồi thường tồn bộ STBH nếu người được bảo
hiểm từ bỏ hàng;
Trường hợp người được bảo hiểm không từ bỏ hàng hoặc xin từ bỏ nhưng
người bảo hiểm không chấp nhận, sẽ bồi thường theo mức độ tổn thất thực tế.
- Đối với TTBP: Bồi thường số kiện, số bao hàng bị thiếu, mất hay giá trị
trọng lượng số hàng rời bị thiếu, mất hoặc bồi thường theo mức giảm giá trị
thương mại của phần hàng bị tổn thất.
- Ngoài tổn thất hàng do những rủi ro được bảo hiểm gây ra, có một số
SV: Hoàng Thị Phương Loan

Kinh tế bảo hiểm 49


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

loại chi phí hợp lý sau cũng được bồi thường: chi phí đề phịng, hạn chế tổn thất,
chi phí tổn thất riêng, chi phí cứu nạn, chi phí gửi tiếp hàng và các chi phí khác
có liên quan. Ngồi ra, nếu trong HĐBH có ấn định mức miễn thường của cơng
ty bảo hiểm thì khi tổn thất xảy ra, khi xác định mức bồi thường phải tính đến
mức miễn thường này.
Trong q trình bồi thường TTR phải hết sức chú ý đến chế độ miễn thường.
Chế độ miễn thường chỉ áp dụng đối với TTR, không áp dụng đối với TTC.
Trong bảo hiểm hàng hóa XNK có thể áp dụng hai chế độ miễn thường: miễn
thường có khấu trừ hoặc khơng khấu trừ, tùy theo sự thỏa thuận của các bên.
Phần 3: Thị trường bảo hiểm hàng hóa XNK vận chuyển bằng đường biển tại
Việt Nam.
1. Tình hình XNK tại Việt Nam thời gian qua:
Với doanh thu bảo hiểm phi nhân thọ đạt 8.500 tỉ đồng, tăng trưởng 30%,
cao nhất trong 5 năm qua. Nghị định 45 và 46 cùng các Thông tư 155 và 156

hướng dẫn thi hành Luật kinh doanh bảo hiểm theo xu hướng minh bạch cơng
khai đã được Chính phủ ban hành. Bảo Minh chọn AXA, Bảo Việt chọn HSBC
là cổ đông chiến lược... đã là những cảm xúc và động lực tạo nên một bức tranh
tổng thể của toàn bộ thị trường bảo hiểm hàng hải Việt nam trong năm 2007.
Bước vào năm 2007, Việt nam có thuận lợi cơ bản là sau hơn 20 năm đổi
mới thế và lực của nền kinh tế cũng như những kinh nghiệm tổ chức, quản lý và
điều hành nền kinh tế thị trường đều đã được tăng lên đáng kể. Việc nước ta trở
thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã tạo thêm
cơ hội để nền kinh tế nước ta hội nhập sâu hơn và rộng hơn vào kinh tế thế giới.
Khối lượng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2007 đạt 461,9 nghìn tỷ
đồng, bằng 40,4% tổng sản phẩm trong nước và tăng 15,8% so với năm 2006. Giá
trị xuất, nhập khẩu dịch vụ cả năm 2007 đạt khoảng 12,4 tỷ USD, tăng 21,6% so
với năm trước, trong đó giá trị xuất khẩu dịch vụ 6 tỷ USD, tăng 18,2% và giá trị
nhập khẩu dịch vụ, gồm cả phí vận tải và bảo hiểm hàng nhập khẩu đạt 6,4 tỷ USD,
tăng 24,9%. Theo số liệu thống kê của Hiệp hội bảo hiểm Việt nam tính đến hết
năm 2007, tổng doanh thu thị trường bảo hiểm Hàng hải Việt nam đạt gần 1.529 tỷ
đồng tăng gần 33% so với cùng kỳ năm trước.
Giá trị hàng hóa xuất khẩu năm 2007 đạt gần 48,4 tỷ USD, tăng 21,5% so với
năm 2006. Có 10 mặt hàng xuất khẩu đạt giá trị trên 1 tỷ USD là Dầu thô 8,5 tỷ
USD, dệt may 7,8 tỷ USD, giày dép gần 4 tỷ USD, thủy sản 3,8 tỷ USD, tăng 12,9%;
sản phẩm gỗ 2,4 tỷ USD, tăng 22,3%; điện tử máy tính 2,2 tỷ USD, tăng 27,5%; cà
phê 1,8 tỷ USD, tăng 52,3%; gạo 1,4 tỷ USD, tăng 13,9%; cao su cũng đạt 1,4 tỷ
USD, tăng 8,8%; than đá trên 1 tỷ USD, tăng 11,3%. Thị trường xuất khẩu hàng hoá
tiếp tục phát triển, hầu hết các thị trường lớn đều tăng so với năm trước. Năm 2007
có 10 thị trường đạt giá trị xuất khẩu trên 1 tỷ USD, trong đó Mỹ 10 tỷ USD, tiếp
đến là EU 8,7 tỷ USD; ASEAN 8 tỷ USD; Nhật Bản 5,5 tỷ USD và Trung Quốc 3,2
tỷ USD. Bên cạnh đó, trong năm 2007 một số thị trường có xu hướng giảm như
Australia và Irăc.
SV: Hoàng Thị Phương Loan


Kinh tế bảo hiểm 49


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Song song với chủ trương khuyến khích mạnh mẽ xuất khẩu, hoạt động
nhập khẩu cũng được xác định có vai trị hết sức quan trọng được Đảng và Nhà
nước quan tâm, hướng mục tiêu phục vụ cho sự phát triển thị trường nội địa, cho
sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và nhanh chóng hội nhập với
khu vực và thế giới. Cơ cấu mặt hàng nhập khẩu có sự chuyển biến theo hướng
tích cực, tăng tỷ trọng máy móc, thiết bị, nguyên nhiên vật liệu phục vụ cho sản
xuất, giảm dần tỷ trọng hàng tiêu dùng.
Giá trị hàng hóa nhập khẩu năm 2007 đạt hơn 60,8 tỷ USD, tăng 35,5% so
với năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 39,2 tỷ USD, tăng 38,1%
và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 21,6 tỷ USD, tăng 31%. Các mặt hàng có
giá trị nhập khẩu cao trong năm 2007 là máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt
gần 10,4 tỷ USD, tăng 56,5%; xăng dầu 7,5 tỷ USD, tăng 25,7%; sắt thép gần 4,9
tỷ USD, tăng 66,2%; vải 4 tỷ USD, tăng 33,6%; điện tử, máy tính và linh kiện 2,9
tỷ USD, tăng 43,7%; chất dẻo 2,5 tỷ USD, tăng 34,3%; nguyên phụ liệu dệt, may,
da 2,2 tỷ USD, tăng 12,1%; hóa chất 1,4 tỷ USD, tăng 39,1%; ô tô 1,4 tỷ USD,
tăng 101%; sản phẩm hóa chất gần 1,3 tỷ USD, tăng 27,1%; thức ăn gia súc và
nguyên phụ liệu 1,1 tỷ USD, tăng 52,6%, gỗ và nguyên phụ liệu gỗ 1 tỷ USD, tăng
31,9%.
Có thể nói, hoạt động XNK của Việt Nam trong giai đoạn vừa qua đã đạt
được những thành tựu to lớn, góp phần tích cực thúc đẩy kinh tế trong nước phát
triển, hình thành nhiều ngành sản xuất phục vụ xuất khẩu, tạo việc làm cho
người lao động, tạo cơ sở và khuyến khích các nước hợp tác kinh tế và đầu tư
vào Việt Nam. Hoạt động XNK từng bước nâng cao vị thế của Viêt Nam trên
trường quốc tế.
2. Thực trạng triển khai bảo hiểm hàng hóa XNK vận chuyển đường

biển tại Việt Nam:
2.1. Các doanh nghiệp đang kinh doanh trong lĩnh vực này:
Lịch sử bảo hiểm hàng hóa XNK của Việt Nam đã có từ lâu. Ngay từ khi
thành lập, ngày 15/1/1965, Công ty bảo hiểm Việt Nam nay là Tổng Công ty
Bảo hiểm Việt Nam đã được giao nhiệm vụ bảo hiểm cho hàng hóa XNK của
nước ta với các nước xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên cho đến nay, hoạt động bảo
hiểm cho hàng hóa XNK do các công ty bảo hiểm Việt Nam tiến hành vẫn cịn ở
mức rất hạn chế, tốc độ tăng trưởng khơng cao, có giai đoạn theo chiều hướng
giảm xuống. Tính đến cuối năm 2000, các nhà bảo hiểm Việt Nam mới chỉ bảo
hiểm được 4,7% kim ngạch hàng xuất khẩu và 23,26% kim ngạch hàng nhập
khẩu. Đây là con số nhỏ bé không phản ánh đúng tiềm năng XNK của nước ta.
Thực trạng trên là do:
Thứ nhất: Hoạt động XNK của nước ta chủ yếu áp dụng phương thức xuất
khẩu theo điều kiện giao hàng FOB và nhập khẩu theo điều kiện giao hàng CIF.
Với các phương thức XNK trên đã hạn chế khả năng ký kết của các công ty bảo
hiểm Việt Nam.
Hai là: Năng lực hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam còn
hạn chế, chưa mang tầm quốc tế. Ngoại trừ Bảo Việt thành lập năm 1965 có vốn
SV: Hồng Thị Phương Loan

Kinh tế bảo hiểm 49


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

lớn, các công ty bảo hiểm khác đều vừa mới được thành lập sau Nghị định
100/CP ngày 18/12/1993, với mức vốn kinh doanh chưa tới 80 tỷ đồng, trong
khi đó, nhiều cơng ty bảo hiểm nước ngoài ra đời cách đây hàng trăm năm, vốn
kinh doanh hàng tỷ Đơla Mỹ. Thêm vào đó, trình độ cán bộ làm cơng tác bảo
hiểm nói chung còn bất cập so với đòi hỏi của thị trường mà còn non yếu so với

mặt bằng thế giới. Theo đánh giá khách quan, các nhà XNK nước ngoài chưa
thực sự yên tâm khi mua bảo hiểm của Việt Nam và điều này làm giảm sức
thuyết phục khi các nhà đàm phán ngoại thương yêu cầu đối tác nước ngoài trao
cho ta quyền mua bảo hiểm.
Ba là: Các nhà XNK Việt Nam đã quen với tập quán thương mại xuất
khẩu theo điều kiện FOB, nhập khẩu theo điều kiện CIF. Việc thay đổi tập quán
cũ này khó thực hiện trong một sớm một chiều. Tuy nhiên, ở một chừng mực
nhất định với phương thức giao hàng như trên, phía Việt Nam sẽ tránh được
nghĩa vụ thuê tàu và mua bảo hiểm, đơi khi cơng việc này khó thực hiện do phải
đáp ứng đầy đủ yêu cầu của đối tác nước ngồi trong bối cảnh năng lực hoạt
động của các cơng ty bảo hiểm và đội tàu biển Việt Nam còn hạn chế.
2.2. Tình hình cạnh tranh giữa các doanh nghiệp:
Bước sang giai đoạn 2006-2007, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền
kinh tế nói chung và của thị trường bảo hiểm nói riêng thì nghiệp vụ bảo hiểm
hàng hóa XNK vận chuyển bằng đường biển của Việt Nam đã có sự thay đổi
đáng kể.
Theo số liệu thống kê của Hiệp hội bảo hiểm Việt nam tính đến cuối năm
2007, tổng doanh thu thị trường bảo hiểm hàng hóa Việt nam đạt trên 688 tỷ
đồng tăng trên 30% so với cùng kỳ năm trước. Top 7 về doanh thu bảo hiểm
hàng hóa bao gồm các cơng ty:
Tên doanh nghiệp
Bảo Việt
Bảo Minh
PJICO
Bảo Long
PVI
UIC
VIA
Các công ty khác
Tổng


Doanhthu (tỷ đồng)
190,97
143,58
79,12
65,68
54,90
39,36
31,98
82,71
688,31

Thị phần
27.75%
20.86%
11.49%
9.54%
7.98%
5.72%
4.65%
12.02%
100.00%

Nguồn: Hiệp hội bảo hiểm Việt nam
Năm 2007 tiếp tục chứng kiến tình hình cạnh tranh gay gắt để giành
quyền bảo hiểm từ các khách hàng quen thuộc cũng như những mặt hàng có tỷ
lệ tổn thất cao. Tỷ lệ bồi thường bình quân của nghiệp vụ trong năm trên 65%.
Các mặt hàng nhạy cảm như bột mì, khơ đậu nành, phân bón … vẫn có tỷ lệ bồi
thường rất cao do bảo hiểm rủi ro thiếu hụt qua cân. Các doanh nghiệp vẫn chạy
SV: Hoàng Thị Phương Loan


Kinh tế bảo hiểm 49


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

đua nhau để có doanh thu mặc dù họ đều biết bảo hiểm cho mặt hàng này gần
như chắc chắn là lỗ. Cũng có một số ít doanh nghiệp đã nhìn nhận được vấn đề
và chấp nhận “bỏ thị trường”, không tiếp tục khai thác các mặt hàng này nữa.
Ngoài các mặt hàng nhạy cảm đã được các doanh nghiệp nhận biết và
thông báo rộng rãi, trong năm 2007 cạnh tranh khai thác hàng sắt thép vẫn tiếp
tục gay gắt. Đối với các lơ hàng gỗ trịn nhập khẩu, năm 2006 đã có tới 4 vụ tổn
thất mỗi vụ trung bình thiệt hại khoảng 400.000 USD, tuy nhiên chưa thấm tháp
gì so với năm 2007 cũng với 4 vụ tổn thất nhưng tổng thiệt hại lên đến trên 42 tỷ
đồng. Dưới đây là các vụ tổn thất lớn về hàng hóa trong năm:
Cơng ty bảo
hiểm

Tên tàu

BẢO MINH Hoàng Đạt 36
BẢO LONG
BẢO VIỆT

Harvest

BẢO MINH Khanh Hoi 07
BẢO VIỆT

PAILIN

MARITIME 1

BẢO LONG Hoàng đạt 126
BONGGAYA
BIC
88/BONGGAY
93
BẢO MINH Goodline 2
BẢO MINH Captain Uskov

Loại hàng

Nguyên nhân
tổn thất

Tổn thất

992 tấn thép tấm Chìm tàu do
4,552,612,734.00đ
1,004 tấn thép đâm va tại Cảng
283,212.07 USD
tấm
Đâm va và chìm
Thép đóng tàu tại biển Trung 3,055,462 USD
Quốc
Lật tàu tại cảng
Gỗ trịn
2,625,499,771 đ
Đồng Nai
Gỗ trịn


Chìm tàu

574,066 USD

Soda Ash Light

Chìm tàu do
bão

316,996 USD

Gỗ trịn

Hàng bị rơi do
420.000 USD
thời tiết xấu

Gỗ trịn

Mắc cạn do bão 1.500.000 USD
Mất tích trên
đường từ
Thép cuộn nóng
602.000 USD
Vladivostok về
Việt nam
Nguồn: VINARE

2.3.Các kết quả đạt được và còn tồn tại:

Năm 2007 ngành bảo hiểm Việt Nam đã đạt được tầm cao mới cả về qui
mô lẫn chất lượng doanh nghiệp. Tất cả các công ty đều bổ sung vốn theo quy
định của Chính phủ (tối thiểu 300 tỷ đồng), chất lượng dịch vụ và trình độ
chuyên môn của đội ngũ nhân viên bảo hiểm đã được nâng lên rõ rệt. Đặc biệt
một số công ty đã tìm kiếm và ký kết các thoả thuận hợp tác toàn diện đối với
các đối tác chiến lược có năng lực tài chính và trình độ chuyên môn ở cấp đợ
toàn cầu để có thể tranh thủ khả năng chun mơn cũng như tiềm năng tài chính
SV: Hồng Thị Phương Loan

Kinh tế bảo hiểm 49


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

của họ. Bên cạnh đó Nhà nước cũng cần có cơ chế, chính sách cụ thể khuyến
khích các cơng ty XNK ký kết hợp đồng theo điều kiện xuất CIF nhập FOB
hoặc C&F như giảm thuế XNK, thuế GTGT cũng như thuế thu nhập doanh
nghiệp, giảm thủ tục hải quan… cho chủ hàng tham gia bảo hiểm tại Việt Nam.
Mặc dù có mức tăng trưởng cao, tuy nhiên các nhà bảo hiểm Việt Nam mới
chỉ bảo hiểm được khoảng 5% tổng kim ngạch hàng xuất khẩu và 33% kim ngạch
hàng nhập khẩu. Đây là con số nhỏ bé không phản ánh đúng tiềm năng XNK của
nước ta. Thực trạng này đã tồn tại trong một thời gian dài, chủ yếu là do các thói
quen mua FOB bán CIF trong hoạt động ngoại thương và một phần do năng lực
hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam còn hạn chế, chưa mang tầm
quốc tế. Việc thay đổi tập quán cũ này khó thực hiện trong một sớm một chiều.
3. Những thuận lợi và khó khăn khi triển khai nghiệp vụ bảo hiểm
hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển:
3.1. Thuận lợi:
Trong xu hướng tồn cầu hóa, Việt Nam gia nhập tổ chức WTO đã thúc
đẩy nền kinh tế đất nước lên một bước phát triển mới, quan hệ giao lưu buôn

bán giữa nước ta và các nước trên thế giới ngày càng phát triển, kim ngạch xuất
khẩu tăng lên không ngừng qua từng năm. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng
hóa trong năm 2008 đạt 143,4 tỷ USD, tăng 28,9% so với năm 2007, trong đó
xuất khẩu đạt 62,69 tỷ USD, tăng 29,1%so với năm trước, vượt 7% kế hoạch
năm và nhập khẩu là 80,71 tỷ USD, tăng 28,8% thấp hơn tốc độ tăng xuất
khẩu.Tình hình nhập siêu của Việt Nam là 18,03 tỷ USD đạt con số kỷ lục từ
trước đến nay, tăng 27,7% so với con số 14,12 tỷ USD của năm 2007.
Như vậy, tình hình xuất nhập khẩu tại Việt Nam đang diễn ra rất sôi động,
kim ngạch xuất khẩu tăng cao, đạt được những thành tựu to lớn, góp phần tích
cực thúc đẩy kinh tế trong nước phát triển, hình thành nhiều ngành sản xuất
phục vụ xuất khẩu, tạo việc làm cho người lao động, tạo cơ sở và khuyến khích
các nước hợp tác kinh tế và đầu tư vào Việt Nam.Hoạt động XNK từng bước
nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.Điều đó chính là một cơ hội
tốt cho sự phát triển nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu.
Chiến lược của Đảng và Nhà nước ta là phấn đấu đến năm 2009 nước ta
cơ bản trở thành một nước công nghiệp.Với mơi trường chính trị ổn định đã tạo
điều kiện cho sự thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam, thúc đẩy các mối quan hệ hợp
tác quốc tế.Trên con đường hội nhập của mình, mối quan hệ hợp tác kinh tế và
buôn bán giữa nước ta với các nước trên thế giới ngày càng mở rộng và phát
triển, kim ngạch XNK hàng năm tăng mạnh (cao hơn nhiều so với tốc độ tăng
GDP), tạo ra nhiều cơ hội cho ngành bảo hiểm, ngành vận tải phát triển.Hơn thế
nữa,thị trường tiềm năng về bảo hiểm hàng hóa XNK của Việt Nam còn rất lớn
(95% với hàng xuất khẩu, 67% với hàng nhập khẩu).
Việt Nam có nhiều điều kiện để phát triển kinh tế hàng hải: bờ biển dài
hơn 3200km cùng với nhiều cảng biển chạy dọc từ Bắc xuống Nam, nằm trên
tuyến đường quốc tế chạy từ Ấn Độ Dương sang Thái Bình Dương.Đội tàu biển
của nước ta đã khá lớn mạnh.Ngành cơng nghiệp tàu biển hàng năm mang lại
SV: Hồng Thị Phương Loan

Kinh tế bảo hiểm 49



Website: Email : Tel (: 0918.775.368

một nguồn thu lớn cho đất nước.Với lợi thế này sẽ cho phép chủ hàng ngoại
thương Việt Nam hoặc nước ngoài dễ dàng ký kết hợp đồng bảo hiểm và thuê
tàu co hàng hóa.
Chế độ quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo hiểm đã khá hồn
chỉnh, tạo ra mơi trường pháp lý bình đẳng giữa các DNBH thuộc mọi thành
phần kinh tế.Và theo xu thế hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, Nhà nước đã
có những định hướng để các DNBH dần thay đổi và thích nghi với điều kiện thị
trường bảo hiểm mở.
Năm 2007, ngành BHVN đã đạt được tầm cao mới cả về quy mô lẫn chất
lượng doanh nghiệp.Tất cả các công ty đều bổ sung vốn theo quy định của
Chính phủ (tối thiểu 300 tỷ đồng), chất lượng dịch vụ và trình độ chun mơn
của đội ngũ nhân viên bảo hiểm đã được nâng lên rõ rệt.Đặc biệt một số cơng ty
đã tìm kiếm và ký kết các thỏa thuận hợp tác toàn diện đối với các đối tác chiến
lược có năng lực tài chính và trình độ chun mơn ở cấp độ tồn cầu để có khả
năng tranh thủ khả năng chun mơn cũng như tiềm năng tài chính của họ.
3.2. Khó khăn:
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế, thị trường BHVN đã có sự
thay đổi đáng kể.Tuy nhiên, nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa XNK vận chuyển
bằng đường biển, các Người BHVN mới chỉ bảo hiểm được khoảng 5% tổng
kim ngạch xuất khẩu và 33% kim ngạch hàng nhập khẩu.Đây là con số nhỏ bé
không phản ánh đúng tiềm năng XNK của nước ta.Việc bán bảo hiểm hàng hóa
và trách nhiệm sản phẩm cho các doanh nghiệp Việt Nam vốn đã gặp khó khăn
thì hiện nay vẫn tiếp tục khó khăn và chưa cải thiện nhanh trong thời gian tới.
Thực trạng này đã tồn tại trong một thời gian dài, chủ yếu là do các thói
quen mua FOB bán CIF trong hoạt động ngoại thương, tức là việc mua bảo hiểm
thường thuộc trách nhiệm bên bán (nếu VN nhập giá FOB) và bên mua (nếu VN

xuất giá CIF).Và một phần do năng lực hoạt động của các DNBH VN còn hạn
chế, chưa mang tầm quốc tế.Việc thay đổi tập quán cũ này khó thực hiện trong
một sớm một chiều.
Tập quán kinh doanh xuất – nhập khẩu nước ta đang hoàn tồn ngược lại
với thơng lệ quốc tế đã dẫn đến hậu quả là: các DN kinh doanh BH phi nhân tho
VN gần như hoàn toàn mất thị phần BH trong lĩnh vực này.Đó là điều khơng có
gì khó hiểu khi cả xuất khẩu và nhập khẩu các thương nhân nước ngoài đều
giành lấy quyền thuê tàu và giao hàng tại cảng VN.Khi quyền thuê tàu là của
thương nhân nước ngoài thì quyền lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ BH hàng hóa
tất yếu cũng thuộc quyền của thương nhân nước ngoài.
Cũng giống như các nghiệp vụ BH khác, BH hàng hóa phải đối mặt với
một thực tế là khách hàng cùng một lúc san sẻ dịch vụ cho nhiều công ty bảo
hiểm khác nhau để tranh thủ việc cạnh tranh về phí BH. Đặc biệt đối với một số
cơng ty BH mới ra đời khi thương hiệu còn chưa được nhiều người biết đến và
thiếu đội ngũ cán bộ nghiệp vụ có kinh nghiệm thì việc hạ phí tăng mức cạnh
tranh là khó tránh khỏi.
SV: Hồng Thị Phương Loan

Kinh tế bảo hiểm 49


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Trình độ cán bộ làm cơng tác BH nói chung khơng những bất cập so với
đòi hỏi của thị trường mà còn non yếu so với mặt bằng thế giới.
Phần 4: Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa
XNK vận chuyển bằng đường biển tại Việt Nam thời gian tới.
1. Nâng cao hiệu quả và đẩy mạnh hoạt động khai thác:
 Thực hiện tốt công tác đánh giá rủi ro trước khi ký hợp đồng và tư vấn
cho khách hàng

Phân tích đánh giá rủi ro là khâu quan trọng vì nó có liên quan đến việc
tính phí bảo hiểm, tư vấn các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất cũng như thuê
vận tải. Nó chi ra những đặc tính quan trọng nhất của đối tượng cần bảo hiểm và
giúp nhà bảo hiểm quyết định xem có nên bảo hiểm cho hàng hóa đó hay khơng.
Đồng thời trên cơ sở những rủi ro được đánh giá, hai bên có thể thống nhất một
phạm vi bảo hiểm và mức phí phù hợp, đảm bảo lợi ích cho các bên. Nếu khâu
này không được làm tốt sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh nghiệp
vụ. Một số biện pháp để làm tốt hơn khâu này:
- Giáo dục tốt tư cách đạo đức cho cán bộ khai thác, tránh trường hợp có
sự thơng đồng giữa cán bộ khai thác và khách hàng trong việc làm sai lệch thông
tin về đối tượng bảo hiểm để trục lợi
- Công ty bảo hiểm nên hợp tác với những công ty đăng kiểm tàu có uy
tín trên thế giới để đánh giá được chính xác chất lượng con tàu chở hàng.
- Yêu cầu người tham gia bảo hiểm kê khai đầy đủ, trung thực các thông
tin cần thiết liên quan trong giấy yêu cầu bảo hiểm- Công ty bảo hiểm nên thiết
lập mối quan hệ với những đội tàu trong nước để có thể giới thiệu dịch vụ tàu chất
lượng tốt cho khách hàng khi họ đề nghị.
- Đặc biệt chú ý đánh giá rủi ro cho khách hàng mới.
Thông qua đánh giá rủi ro, khai thác viên có thể tư vấn cho khách hàng lựa chọn
điều kiện bảo hiểm, điều kiện mở rộng hợp lý nhất để khách hàng thực hiện mục
tiêu tối đa hóa lợi ích một cách hiệu quả nhất.
 Phát triển và nâng cao chất lượng kênh phân phối
Khác với các lĩnh vực kinh doanh khác, bảo hiểm có phạm vi khách hàng
rất rộng nên mỗi doanh nghiệp phải sử dụng nhiều kênh phân phối khác nhau để
tiếp cận thị trường, để bao phủ thị trường. Ở Việt Nam kênh phân phối được các
DNBH sử dụng phổ biến là bán hàng trực tiếp và đại lý bảo hiểm (ĐLBH); cịn
các kênh trung gian như Mơi giới (MG), ngân hàng thương mại (NHTM),
thương mại điện tử,... chưa được sử dụng nhiều.Tuy nhiên để nâng cao hiệu quả
và đẩy mạnh hoạt động khai thác, DNBH có thể tham khảo một số kênh phân
phối sau:

- Công ty phải chú ý đến đội ngũ khai thác viên của cơng ty mình.
- Đẩy mạnh và thắt chặt mối quan hệ với các công ty mơi giới bảo hiểm uy
tín. Vì BH hàng hóa là trong những nghiệp vụ bảo hiểm khó và phức tạp, khi ký kết
HĐBH thông qua môi giới, DNBH sẽ tiết kiệm được chi phí đào tạo đại lý, sẽ
khơng mất thời gian tìm kiếm và thuyết phục khách hàng,... Mặt khác, do đặc thù
của bảo hiểm hàng hóa XNK vận chuyển bằng đường biển là HĐBH thường có giá
SV: Hồng Thị Phương Loan

Kinh tế bảo hiểm 49


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

trị bảo hiểm lớn, nên khách hàng nhiều khi không tin tưởng đại lý, mà thỏa thuận
trực tiếp với công ty bảo hiểm thì khơng thể. Vì thế, việc lựa chọn cơng ty MGBH
là phương án hợp lý nhất.
- Phát triển và nâng cao chất lượng ĐLBH: Bán hàng qua hệ thống đại lý
là một kênh phân phối rất quan trọng với các DNBH. Đối với nghiệp vụ bảo
hiểm hàng hóa XNK vận chuyển bằng đường biển, DNBH nên mở rộng hệ
thống đại lý theo hướng:
+ Tuyển dụng đại lý là những người có nhiều mối quan hệ tốt;
+ Đẩy mạnh khai thác qua các tổ chức trung gian tài chính như: NHTM,
quỹ tín dụng, cơng ty cho th tài chính,... Các tổ chức này thường cho doanh
nghiệp vay tiền để XNK hàng hóa, hoặc thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh.
+ Đẩy mạnh khai thác qua các Hiệp hội ngành hàng: Như một xu hướng
của thế giới hiện nay, Việt Nam đã có rất nhiều Hiệp hội ngành hàng được thành
lập như: Hiệp hội bảo hiểm, Hiệp hội da giày, Hiệp hội dệt may, Hiệp hội thủy
sản,... Vì vậy, cơng ty bảo hiểm có thể tìm thấy đối tác ở các Hiệp hội thông qua
thiết lập mối quan hệ chặt chẽ với các Hiệp hội.
 Đầu tư nhiều hơn cho những thị trường trọng điểm; tăng chi phí cho

đơn vị khai thác; tạo mối quan hệ thật tốt với khách hàng truyền thống
và mở rộng khai thác sang những đối tượng khách hàng mới.
Với các thị trường trọng điểm như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh,... một
mặt phải đầu tư hồn thiện cơ sở vật chất, hệ thống công nghệ thông, mặt khác
cơng ty cũng nên đưa ra cơ chế, chính sách riêng cho thị trường này để tăng
cường tính chủ động của các chi nhánh, đồng thời thường xuyên đào tạo về
nghiệp vụ và ngoại ngữ cho các cán bộ.Những khách hàng mới, tiềm năng mà
cơng ty phải hướng tới đó là: các nhà xuất khẩu, các doanh nghiệp trong khu chế
xuất, khu cơng ngiệp, các doanh nghiệp của nước ngồi hoặc liên doanh,... Đây
là nhóm khách hàng với tiềm năng XNK rất lớn nhưng khó tiếp xúc, vì thế các
cơng ty bảo hiểm cần có những bước đi cẩn thận. Tuy nhiên, qua thực tế về tình
hình tổn thất, các công ty bảo hiểm cần thận trọng đối với việc bảo hiểm cho các
lô hàng là gạo xuất khẩu, phân bón, thức ăn gia súc nhập khẩu từ Trung Quốc,
thép cây nhập khẩu,... được khuyến cáo là thường xuyên xảy ra tổn thất. Đồng
thời, cơng ty phải ln có chính sách thích hợp để duy trì mối quan hệ tốt đẹp
với khách hàng truyền thống. Xu hướng khu vực hóa và tồn cầu hóa đang diễn
ra ngày càng mạnh mẽ, do vậy, các công ty bảo hiểm cần sớm nghiên cứu đến
mơ hình liên kết giữa người vận chuyển, người XNK hàng hóa và cơng ty bảo
hiểm.
Ngồi ra, khi năng lực tài chính mạnh các cơng ty bảo hiểm nên nên xem
xét để mở rộng phạm vi hoạt động ra nước ngồi.
2. Cơng tác đề phịng, hạn chế tổn thất:
Đề phịng, hạn chế tổn thất, đây là một cơng tác làm giảm chi phí bồi
thường khá lớn, do đó các công ty bảo hiểm nên tập trung chú ý và có thể thực
hiện một số biện pháp như sau:
- Đối với từng chuyến hàng, từng chuyến hành trình, cơng ty cần xem xét
SV: Hoàng Thị Phương Loan

Kinh tế bảo hiểm 49



Website: Email : Tel (: 0918.775.368

kỹ lưỡng dặc điểm tuyến hành trình, cảng đi, cảng đến, vùng biển mà họ sẽ đi
qua, tình trạng hiện tại của phương tiện vận chuyển, trình độ của người lái tàu,...
- Quản lý rủi ro: tăng doanh thu, tăng số lượng khách hàng phải gắn liền
với việc kiểm soát rủi ro, xây dựng sổ tay quản lý rủi ro, có lịch kiểm tra định kỳ
và kiểm tra đột xuất;
- Các công ty bảo hiểm cần phối hợp, liên kết với nhau để xây dựng hệ
thống báo hiệu, đội cứu nạn, hệ thống thơng tin liên lạc để có thể thường xun
theo dõi hành trình của các chuyến hàng, để có thể ứng phó kịp thời khi rủi ro xảy
ra.
3. Thực hiện tốt khâu giám định và bồi thường:
 Với công tác giám định
Bảo hiểm hàng hóa XNK vận chuyển bằng đường biển thường liên quan
đến trách nhiệm của nhiều bên. Để tăng hiệu quả hoạt động của khâu giám định,
đồng nghĩa với việc tăng uy tín của cơng ty bảo hiểm, thì các công ty bảo hiểm
cần phải:
- Luôn nhắc nhở giám định viên thực hiện theo đúng quy trình giám định
mà cơng ty đã ban hành.
- Nên chun mơn hóa khâu giám định. Vì đây là nghiệp vụ phức tạp, liên
quan đến nhiều bên khi có tổn thất xảy ra. Do đó, cần phải có đội ngũ giám định
viên chuyên nghiệp mới đáp ứng được yêu cầu công việc.
- Bên cạnh đào tạo và trang bị kiến thức cho các giám định viên thường
xun; xử lý nghiêm cán bộ khơng hồn thành công việc, thông đồng với khách
hàng để trục lợi,... thì cơng ty bảo hiểm cũng phải có chế độ ưu đãi hợp lý đối
với đội ngũ giám định viên vì họ thường xuyên phải làm việc ở hiện trường rất
vất vả.
- Phối hợp tốt với lãnh đạo cảng, bộ phận hải quan và cứu hộ trên biển để
công việc giám định được tiến hành thuận lợi, chính xác.

- Thiết lập và quan hệ chặt chẽ với các công ty giám định độc lập, các công
ty bảo hiểm, tái bảo hiểm,... trên phạm vi tồn cầu để có thể được giúp đỡ hoặc
giám định hộ khi tổn thất xảy ra ở vị trí địa lý xa hoặc tổn thất quá phức tạp, khả
năng của công ty nhận bảo hiểm không thể giám định được. Điều này vừa giúp
công ty tiết kiệm được chi phí, vừa nâng cao mối quan hệ hợp tác quốc tế.
 Với công tác bồi thường
Trong công tác bồi thường thì cơng ty bảo hiểm cần chú trọng hơn tới các
vấn đề sau: Khi nhận được hồ sơ khiếu nại của khách hàng thì người người được
phân cơng phải thực hiện thật đúng theo quy trình bồi thường hàng hóa, khơng
được làm tắt, làm ẩu. Nếu thấy nghi ngờ một loại giấy tờ nào đó hoặc khơng rõ về
thời gian, khơng gian thì phải xác minh lại ngay.Khi bồi thường, cơng ty bảo
hiểm cần giải thích rõ với khách hàng căn cứ tính mức bồi thường của khách hàng
như trong điều kiện bảo hiểm của hợp đồng, tổn thất xảy ra đối với hàng hóa
thuộc rủi ro được bảo hiểm hay rủi ro loại trừ...
Nhân viên phải phục vụ khách hàng tận tình, chu đáo khơng gây khó dễ
cho khách hàng khi đến lấy tiền bảo hiểm. Cơng ty bảo hiểm cần thực hiện phân
SV: Hồng Thị Phương Loan

Kinh tế bảo hiểm 49


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

cấp bồi thường theo cơ cấu doanh thu. Do đó, hàng năm cơng ty bảo hiểm nên
dựa vào doanh thu các chi nhánh để thực hiện phân cấp lại theo nguyên tắc tăng
giảm dựa theo doanh thu.
4. Công tác chống trục lợi bảo hiểm:
Bất kỳ ai cũng có thể là người thực hiện hành động trục lợi bảo hiểm. Đó
có thể là nhân viên của chính cơng ty bảo hiểm, cán bộ khai thác, đại lý, cán bộ
giám định bồi thường hay khách hàng,... Một số biện pháp mà các công ty bảo

hiểm có thể tham khảo để giảm thiểu hiện tượng trục lợi trong bảo hiểm hàng hóa
XNK vận chuyển bằng đường biển:
- Phối hợp với lực lượng hải quan và cảng giám sát chặt chẽ quá trình xếp
dỡ, vận chuyển hàng.
- Nên tăng chi cho công tác kiểm tra, giám sát hoạt động nghiệp vụ.
- Quan tâm giáo dục ý thức trách nhiệm, tính kỷ luật trong tất cả các khâu
cơng việc cho cán bộ nhân viên, kể cả đại lý và cộng tác viên trong doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, phải có chính sách đãi ngộ thỏa đáng với họ, thưởng phạt phải hết sức
rõ ràng.
- Công ty bảo hiểm phải tổ chức các đầu mối quản lý, theo dõi và kiểm tra
chặt chẽ các cán bộ, đại lý, cộng tác viên khai thác bảo hiểm. Đồng thời, phải nâng
cao hiệu quả làm việc của ban pháp chế và ban thanh tra.
5. Tăng cường công tác tuyên truyền, quảng cáo:
Tuyên truyền quảng cáo là một trong những chính sách marketing hiệu quả
nhất để đưa sản phẩm đến với khách hàng. Đặc biệt, sản phẩm bảo hiểm là sản
phẩm vơ hình, khách hàng khơng thể cảm nhận được tính năng và hiệu quả của sản
phẩm khi khơng có cơng tác tiếp cận, tuyên tuyền của bộ phận kinh doanh.Tuy
nhiên, hiện nay hoạt động tuyên truyền quảng cáo của các DNBH vẫn chưa phổ
biến. Chỉ có Bảo Việt là có quảng cáo trên các kênh truyền hình và báo chí một
cách thường xun, cịn các cơng ty khác hầu như thưa thớt hoặc khơng có.
Do vậy, trong thời gian tới các cơng ty bảo hiểm cần đặc biệt chú trọng vào
công tác tuyên truyền quảng cáo để hình ảnh của cơng ty in sâu vào tâm trí khách
hàng, từ đó họ sẽ có sự an tâm khi lựa chọn sản phẩm của công ty mình. Một số
hình thức tuyên truyền quảng cáo:
- Tăng cường quảng cáo qua pano, áp phích, hình ảnh giới thiệu về công ty
bảo hiểm ở gần các công ty XNK, cơng ty đóng tàu, cảng sơng, cảng biển
- Quảng cáo trên một số thời báo kinh tế của Việt Nam với lượng độc giả
chủ yếu là các doanh nghiệp( như: Thời báo kinh tế Sài gòn, Thời báo kinh tế, Báo
đầu tư Tài chính,...) và trên các website có lượng độc giả truy cập nhiều.
6. Mở rộng và nâng cao chất lượng đại lý, cộng tác viên khai thác:

Muốn cho cơng ty bảo hiểm kinh doanh tốt thì phải có hệ thống đại lý,
cộng tác viên có kinh nghiệm. Để làm được điều này các công ty bảo hiểm cần:
- Trang bị và không ngừng cập nhật cho đại lý và cộng tác viên những
kiến thức cơ bản về chun mơn nghiệp vụ. Cơng tác này có thể được thực hiện
thông qua việc tổ chức các buổi đào tạo nâng cao chuyên môn, các buổi giao lưu
học hỏi kinh nghiệm.
SV: Hoàng Thị Phương Loan

Kinh tế bảo hiểm 49


×