Tải bản đầy đủ (.pdf) (48 trang)

Khoá luận tốt nghiệp con người và hiện thực đời sống trong tập truyện thành phố đi vắng của nguyễn thị thu huệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 48 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC s u PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGŨ VĂN

NGUYỄN THỊ YẾN

CON NGƯỜI VÀ HIỆN THỰC ĐỜI
SỐNG TRONG TẬP TRUYỆN
THÀNH PHÔ ĐI VẮNG CỦA
NGUYỄN THỊ THU HUỆ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC






C h u y ên n g à n h : V ă n h ọc V iệ t N am

HÀ NỘI- 2015




TRƯỜNG ĐẠI HỌC s u PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỦ VĂN

NGUYỄN THỊ YẾN

CON NGƯỜI VÀ HIỆN THỰC ĐỜI
SỐNG TRONG TẬP TRUYỆN


THÀNH PHÓ Đ I VÂNG

CỦA NGUYỄN THỊ THU HUỆ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC








C h u y ên n gàn h : V ăn h ọc V iệt N am

N gười hướng dẫn khoa học

TS. N guyễn T hị T uyết M inh

HÀ NỘI- 2015


L Ờ I CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo, TS. Nguyễn Thị Tuyết
Minh - người đã quan tâm, động viên và tận tình hướng dẫn tôi trong quá
trình thực hiện khóa luận này.
Tôi chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong tổ Văn học Việt Nam đã
giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành khóa luận.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, thảng 5 năm 2015

Tác giả khóa luận

Nguyễn Thị Yến


LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận tốt nghiệp này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của cô
giáo - TS. Nguyễn Thị Tuyết Minh. Tôi xin cam đoan:
Đây là kết quả nghiên cứu của riêng tôi.
Đe tài không trùng lặp với bất cứ một công trình có sẵn nào.
Neu sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm!
Hà Nội, thảng 5 năm 2015
Tác giả khóa luận

Nguyễn Thị Yến


M ỤC LỤC

MỞ Đ Ầ U ........................................................................................................................ 1
1. Lí do chọn đề tài........................................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đ ề .......................................................................................................... 3
3. Mục đích nghiên cún............................................................................................... 4
4. Nhiệm vụ nghiên cứ u ..............................................................................................4
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu......................................................................... 4
6. Phương pháp nghiên cứu........................................................................................ 4
7. Đóng góp của khóa luận..........................................................................................5
8. Bố cục của khóa lu ậ n .............................................................................................. 5
NỘI D Ư N G ................................................................................................................... 6
CHƯƠNG 1: TRUYỆN NGẮN NGUYỄN THỊ THU HUỆ

TRONG ĐỜI SỐNG VĂN XUÔI ĐƯƠNG ĐẠI VIỆT N A M ............................6
1.1. Thể loại truyện ngắn trong đời sống văn xuôi đương đ ạ i..............................6
1.2. Tác giả Nguyễn Thị Thu Huệ và tập truyện Thành phố đi vắ n g .................. 8
1.2.1 .Vài nét về tác giả................................................................................................ 8
1.2.2. Sự nghiệp sáng t á c ............................................................................................9
1.2.3.Tập truyện Thành phố đi vắng........................................................................11
CHƯƠNG 2: BỨC TRANH HIỆN T H ự C

ĐỜI SÓNG VÀ CON NGƯỜI

TRONG TẬP TRUYỆN THÀNH PHÓ Đ I VẮNG.............................................. 13
2.1. Bức tranh hiện thực đời sống............................................................................13
2.1.1. Đời sống thời toàn cầu h ó a .........................................................................14
2.1.2. Đời sống thời văn minh kỹ tr ị.................................................................... 19
2.2. Con người trong đời sống đương đ ạ i.............................................................21
2.2.1. Con người với nhu cầu hưởng thụ vật chất.................................................22
2.2.2. Con người vô cảm ...........................................................................................25


2.2.3.Con người với nguy cơ đánh mất giá trị truyền thống............................... 31
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN CON
NGƯỜI VÀ HIỆN THỰC ĐỜI SÓNG TRONG THÀNH PHÓ Đ I VẲNG
......................................................................................................................................34
3.1. Nhan đề giàu ý nghĩa biểu tư ợ ng................................................................... 34
3.2. Ngôn ngữ đậm màu sắc văn hóa đương đ ại...................................................36
3.3. Giọng đ iệu ........................................................................................................... 37
KẾT LU Ậ N ................................................................................................................ 40
TÀI LIỆU THAM KHẢO



M Ở ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Đề tài đô thị là một đề tài lớn của văn xuôi Việt Nam đương đại nói
chung, truyện ngắn nói riêng. Trong cảm quan của nhiều người, đô thị hiện
đại có một sức hấp dẫn lớn, bởi đó là chốn phồn hoa, dân cư đông đúc, tốc độ
phát triển kinh tế nhanh, điều kiện sống cao hơn trong tương quan với các khu
vực khác, là nơi có nhiều cơ hội thăng tiến... Nhiều truyện ngắn viết về bức
tranh đô thị hiện đại thật hào nhoáng, sang trọng, lịch lãm. Tuy nhiên, hình
ảnh đô thị trong truyện ngắn đương đại còn có những góc khuất, nơi diễn ra
những xáo trộn dữ dội, những ngổn ngang bát nháo. Cuộc sống đô thị vừa là
biểu tượng của cái hiện đại, của văn minh công nghiệp, đầy cám dỗ vừa ấn
chứa những đe dọa, với sự tha hóa nhân tính và nỗi mặc cảm ... Cái nhìn đa
chiều của các nhà văn về bức tranh hiện thực cuộc sống đô thị cho bạn đọc có
cái nhìn chân thực và khách quan hơn về cuộc sống đô thị hiện đại phức tạp
ngày nay.
Văn học đô thị được hiểu là văn học phản ánh cuộc sống ở các đô thị từ
mọi góc độ cũng như mọi khía cạnh. Những cây bút lựa chọn đô thị làm chất
liệu sáng tác được cộng hưởng từ sự hình thành một đội ngũ những người viết
trẻ mà đa phần trong số họ đều có thời gian sinh sống, học tập và làm việc ở
các đô thị. Bị quy định bởi vốn sống, môi trường sống, sáng tác của các cây
bút trẻ thường đi vào những vấn đề của đời sống đương đại, về cuộc sống của
những người trẻ ở các đô thị hiện đại. Cũng chính bởi ý thức “đô thị mang
trong mình quá nhiều câu chuyện cần phải viết ra” mà đề tài đô thị thường
được trở đi trở lại trong các sáng tác. Có nhiều con đường để người viết đến
với đề tài đô thị: một phần là do vốn sống, sự trải nghiệm, sự hứng thú của
người viết và đôi lúc cũng rất ngẫu nhiên, đô thị lá cái phông, là nguyên cớ để

1



nhà văn xây dựng và truyền tải những thông điệp khác. Cũng cần phải nói
rằng, sự lựa chọn đề tài đô thị trong truyện ngắn một phần còn bị chi phối bởi
đối tượng và thị hiếu độc giả. Những tác giả viết về cuộc sống và con người
đô thị hiện đại dành được sự quan tâm của phần lớn độc giả.
Trong văn học đương đại có những tác giả thành công khi viết về đô thị
như: Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Việt Hà, Đỗ Phấn, Nguyễn Danh Lam, Trần
Nhã Thụy... Và không thể không nhắc đến Nguyễn Thị Thu Huệ.
Là một gương mặt tiêu biểu cho văn xuôi nữ sau Đổi mới, Nguyễn Thị
Thu Huệ ngay từ những truyện ngắn đầu tiên đã thu hút được sự chú ý của
độc giả. Trong sáng tác của Nguyễn Thị Thu Huệ người đọc nhận thấy một
thế giới rất riêng tư của phụ nữ. Ở đó, tác giả xây dựng bức tranh cuộc sống
nhiều màu, nhiều vẻ, nhung mối quan tâm lớn nhất, trở thành tâm điếm hút
xoáy vẫn là phụ nữ với nỗi ám ảnh cô đơn và hành trình kiếm tìm hạnh phúc.
Cách đây khoảng mười năm, người ta gọi Nguyễn Thị Thu Huệ là nhà văn
của thị dân - tức chị viết nhiều về đời sống của thị dân. Nối tiếp hành trình đó,
những vấn đề mới nhất mà tác giả Thu Huệ phản ánh gần đây, đó là vấn đề đô
thị hiện đại với những suy tư về tình người ngày càng cạn kiệt mà tiêu biểu là
tập truyện Thành phố đì vắng - Tập truyện dành giải nhất Hội Nhà văn Việt
Nam năm 2012 của chị.
Vì những lí do trên, chúng tôi chọn nghiên cún đề tài: Con người và hiện
thực đời sống trong tập truyện Thành phố đi vắng của Nguyễn Thị Thu Huệ.
Ket quả nghiên cún của đề tài sẽ giúp người viết có cái nhìn toàn diện
hon về truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ. Qua đó, thấy được tài năng và đóng
góp của nữ nhà văn đối với sự phát triển của văn xuôi đương đại Việt Nam.
Đồng thời, đề tài cũng là tư liệu cần thiết cho tác giả khóa luận đối với việc
nghiên cún, học tập và giảng dạy văn xuôi Việt Nam giai đoạn sau 1975.

2



2. Lịch sử vấn đề
Nguyễn Thị Thu Huệ không thuộc số nhà văn viết khỏe, vì thế, hơn 20
năm cầm bút, số lượng truyện ngắn của chị không nhiều. Tuy nhiên, so với
những cây bút cùng thế hệ, truyện ngắn của chị lại có những nét riêng, độc
đáo. Ngay từ những tập truyện đầu tiên, Thu Huệ đã được nhiều bạn đọc yêu
thích và nhiều nhà phê bình chú ý. Có thế kể tên một số công trình và bài viết
sau đây:
- Bùi Việt Thẳng (1994), Năm truyện ngắn dự thi của một cây bút trẻ,
Văn nghệ Quân đội (số 1). Trong công trình này, nhà nghiên cún Bùi Việt
Thắng đã nhận xét về nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ:
“Nhân vật nữ của Thu Huệ thường cô đơn, dường như tác giả quan niệm đó là
mặt trái của tình yêu thương” [17]. - Tác giả Hồ Phương (1994) lại lun ý đến
vốn sống và sự trải nghiệm trong truyện ngắn của Thu Huệ khi nhận xét:
“Trong các tác giả trẻ, Thu Huệ là cây bút hết sức sắc sảo. Đọc Huệ tôi ngạc
nhiên lắm, sao còn ít tuổi mà Huệ lại lọc lõi thế. Nó như con mụ phù thủy lão
luyện. Nó đi guốc trong bụng mình. Ruột gan mình có gì hình như nó cũng
biết cả” [16].
- Tác giả Hồ Sĩ Vịnh trong bài Thi pháp truyện ngắn của Nguyễn Thị
Thu Huệ, Báo Văn nghệ (số 35) năm 2002 nhận xét: Nguyễn Thị Thu Huệ là
nhà văn nữ “độc đáo và tài hoa”, ( Lời của Hồ Sĩ Vịnh) là một trong số những
tác giả đã gặt

hái được 1'ất nhiều những thành công khi tuổi đời đang còn rất

trẻ. Với cách viết như “lên đồng” (Chữ dùng của Đoàn Hương), chịđã cho ra
đời những tác

phẩm có giá trị và được bao bạn đọc yêu mến.[23]


Ngoài ra

còn phải kể đến các bài viết như:

Nguyên Hương, Nguyễn Thị Thu Huệ - Nhà vãn của nồng ấm tình yêu,
Nguyễn Xuân Thủy, Nguyễn Thị Thu Huệ:
Người tốt đang co ro, ư...

3


Nhìn chung, các bài nghiên cún, bài báo ở trên quan tâm đến nhiều khía
cạnh khác nhau trong truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ, chủ yếu là tập
truyện của chị trước đó của chị. Riêng tập truyện gần đây nhất của chị -Thành
phố đi vắng (Giải nhất Hội Nhà văn Việt Nam năm 2012), đến nay vẫn chưa
có bài viết nào tìm hiểu một cách hệ thống và chuyên sâu về nó. Tiếp thu gợi
ý của những nhà nghiên cún đi trước, đề tài của chúng tôi sẽ đi sâu tìm hiểu:
Con người và hiện thực đời sống trong tập truyện Thành pho đi vẳng của
Nguyễn Thị Thu Huệ.
3. Mục đích nghiên cứu
Khóa luận tập trung làm rõ những phát hiện về con người và hiện thực
đời sống trong tập truyện Thành phố đi vắng của Nguyễn Thị Thu Huệ. Từ
đó, thấy được đóng góp của nữ tác giả trong nền văn xuôi đương đại dân tộc.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
-Thấy được ưu thế của thể loại truyện ngắn trong đời sống văn xuôi
đương đại.
- Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Thị Thu Huệ.
- Tìm hiểu về con người và hiện thực đời sống trong tập truyện Thành
phố đi vắng.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cửu

- Đối tượng nghiên cún của khóa luận là tập truyện Thành phố đi vắng
của Nguyễn Thị Thu Huệ, gồm 16 truyện, NXB Trẻ ấn hành năm 2012.
- Phạm vi nghiên cún của khóa luận là đi sâu nghiên cún về con người
và hiện thực đời sống trong tập truyện Thành phố đi vắng của Nguyễn Thị
Thu Huệ.
6. Phương pháp nghiên cửu
Khóa luận sử dụng chủ yếu các phương pháp sau đây:
-Phương pháp hệ thống.

4


- Phương pháp so sánh.
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
7. Đóng góp của khóa luận
Khóa luận là công trình khoa học đầu tiên tìm hiểu một cách hệ thống về
con người và hiện thực đời sống trong tập truyện Thành phố đi vắng của
Nguyễn Thị Thu Huệ. Thực hiện đề tài này, người viết sẽ có được những kinh
nghiệm nghiên cứu bổ ích đối với một sinh viên sắp tốt nghiệp. Đồng thời,
khóa luận cũng trở thành một tài liệu tham khảo hữu ích đối với nghiên cứu
và giảng dạy văn xuôi đương đại Việt Nam.
8. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần M ở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Nội dung
của khóa luận gồm ba chương:
Chương 1: Truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ trong đời sống văn xuôi
Việt Nam đương đại
Chương 2: Bức tranh hiện thực đời sống và con người trong tập truyện
Thành pho đi vắng
Chương 3: Một số phương diện nghệ thuật biểu hiện con người và hiện
thực đời sống trong tập truyện Thành pho đi vắng


5


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
TRUYỆN NGẤN NGUYỄN THỊ THU HUỆ
TRONG ĐỜI SÓNG VĂN XUÔI ĐƯƠNG ĐẠI VIỆT NAM

1.1. Thể loại truyện ngắn trong đời sống văn xuôi đương đại
Sau 1975, cùng với sự đổi mới đất nước, văn học Việt Nam cũng có
nhũng cách tân đáng kể ở cả phương diện nội dung lẫn hình thức nghệ thuật.
Văn xuôi Việt Nam, đặc biệt là truyện ngắn đạt được nhũng thành tựu khởi sắc.
Truyện ngắn là “Tác phẩm tự sự cỡ nhỏ. Nội dung của thể loại truyện
ngắn bao trùm hầu hết các phương diện của đời sống, đời tư, thế sự hay sử thi,
nhung cái độc đáo của nó là ngắn. Truyện ngắn được viết ra để tiếp thu liền
một mạch, đọc một hơi không nghỉ” [8]. Thực ra, nói độ ngắn, dài của một tác
phẩm không phải thước đo giá trị văn chương. Càng không thể nói rằng,
truyện càng ít chữ càng nông cạn và càng nhiều chữ là chứa đựng được nhiều
giá trị. Giá trị, hay chất lượng tác phẩm đôi khi không phụ thuộc vào số lượng
từ ngữ. Truyện ngắn với những yêu cầu khắt khe về thể loại: Ngắn gọn mà
hàm súc, chứa đựng một “sức nổ” nhân văn lớn. Truyện ngắn có khả năng
sống và chóp lấy sự thật nếu không quá chăm chú vào cái đặc biệt độc đáo nổi
lên như một hiện tượng đời sống. Sự thật ấy tiềm ẩn trong cái bình thường,
trong những sự kiện hoàn toàn có thực bởi sự truyền ngôn chứ không phải là
truyền thuyết đế đem lại cho loại truyện ngắn những con người thực sự và sự
thật về con người. Với ưu thế về thể loại, truyện ngắn hàm chứa cái thú vị của
những điều sâu sắc trong một hình thức nhỏ, gọn, xinh xinh và đầy truyền
cảm, truyền dẫn cực nhanh những thông tin. Nhanh cũng là một thế mạnh để
truyện ngắn chinh phục độc giả đương đại.


6


Văn học phản ánh hiện thực. Văn học nói chung và truyện ngắn nói
riêng thể hiện cuộc sống như một thực tại cùng thời và hấp thu vào bản
thân mọi yếu tố ngổn ngang, bề bộn của cuộc đời. Trước 1975, do tác động
của hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, truyện ngắn mang đặc trưng “sử thi
hóa” . Truyện ngắn sau 1975, lại hàm chứa những nội dung chân thực về
cuộc sống và những mảnh đời đơn lập trong đó. Đối tượng phản ánh của
truyện ngắn sau 1975 bao gồm cả ánh sáng và bóng tối, cái tích cực và cái
tiêu cực. Các tác giả không né tránh cái xấu, cái ác, những vùng khuất tối
của đời sống nhân sinh hàng ngày. Quá trình công nghiệp hóa ngày nay,
một mặt, đời sống vật chất và tinh thần của con người không ngừng được
nâng cao, nhưng mặt trái của nó là những nguy cơ đáng quan ngại: sự phân
hóa giàu- nghèo sâu sắc, những giá trị mới chưa được khắng định rõ ràng,
giới trẻ hoang mang, vỡ mộng, những tiêu cực tràn lan... Đã đến lúc cần
lưu tâm đến tính toàn diện của bản chất người, tính đa dạng của quan hệ
người. Lúc này đây văn học chú tâm đến không chỉ là những con người mà
giai đoạn trước phản ánh, truyện ngắn còn chú tâm đến con người tâm linh,
con người tự nhiên, con người cá thể và con người đời thường - những
phương diện và những quan hệ mà trước đây do nhu cầu của đời sống thời
chiến không được chú ý một cách thích đáng. Mảng hiện thực ngổn ngang,
phức tạp của đời sống được truyện ngắn đương đại phản ánh khá đầy đủ.
Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp lật xới lên những mảng tối, những góc
khuất của cuộc đời và xã hội. Truyện ngắn của Y Ban lại xoáy sâu vào
những mâu thuẫn phức tạp giữa vợ chồng, con cái, chỉ ra những bất hạnh,
những nỗi đau mà con người phải gánh chịu. Những truyện ngắn gần đây
của Nguyễn Thị Thu Huệ đề cập nhiều đến cuộc sống của con người trong
đô thị hiện đại, với bao nghịch lí trớ trêu khi thành tựu khoa học kĩ thuật

đang tỷ lệ nghịch với đời sống tinh thần của con người, khiến con người trở

7


nên vô cảm, có nguy cơ đánh mất tình người... Không chỉ mở rộng khả
năng phản ánh hiện thực, truyện ngắn đương đại còn dung nạp vào bản thân
nó những yếu tố hình thức nghệ thuật mới. Truyện ngắn hôm nay có sự
phối trộn giữa hư và thực, giữa cái huyền bí và đời thường, cùng những
kiểu cấu trúc mới như liên văn bản, gián cách, trò chơi ngôn ngữ, nhại,
nghịch dị, huyền ảo ... Nòng cốt thế loại truyện ngắn đương đại cũng giãn
nở tối đa. Nó hấp thu chất văn xuôi của tiểu thuyết, chất trữ tình của thơ,
chất thoại của kịch, và thậm chí có cả chất báo chí, thời sự, phóng sự...
Truyện ngắn đương đại đã bỏ qua những lối mòn quen thuộc mà tìm đến
một cách viết mới. Hiện tại, Hội Nhà văn Việt Nam có khoảng gần 1000
hội viên và trong đó, có nhiều nhà văn thành danh bằng truyện ngắn. Chính
lực lượng sáng tác truyện ngắn hùng hậu này góp phần quan trọng làm giàu
có và phong phú cho nền văn xuôi đương đại nói riêng và nền văn học Việt
Nam nói chung.
1.2. Tác giả Nguyễn Thị Thu Huệ và tập truyện Thành ph ố đi vắng
1.2.1. Vài nét về tác giả
Nguyễn Thị Thu Huệ sinh năm 1966. Chị là một trong số ít nữ nhà văn
“tài - sắc vẹn toàn” của văn học Việt Nam đương đại. Công chúng biết đến
Nguyễn Thị Thu Huệ với hai vai trò, vừa là nhà văn vừa là nhà biên kịch của
hãng phim truyền hình Việt Nam.Tác giả đã từng là ủ y viên thường vụ Hội
Nhà văn Việt Nam khóa VIII. Hiện chị đang công tác tại Đài truyền hình Việt
Nam- Ban thư kí biên tập.
Nguyễn Thị Thu Huệ là con gái của nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Tú và
nhà báo Nguyễn Ngọc Chánh. Như thế, Thu Huệ ngay từ nhỏ đã được sống
trong không khí “văn nghệ”, được thừa hưởng độ thâm sâu rộng lớn của

người cha và chất văn nữ duyên dáng của người mẹ. Từ nhỏ chị đã có một tái
tim đa cảm và một cái nhìn tinh tế, tâm hồn ấy, trái tim ấy được nhen nhóm từ

8


thủa ấu thơ trong con người Thu Huệ. Những con người, những sự kiện,
những đổi thay trong cuộc đời mình đã thấm vào tâm hồn, kí ức, tư duy của
chị; rồi những kỉ niệm về người bố kính yêu hiện về trong những giấc mơ,
những buôi tâm sự với bố sau những giờ làm việc đã trở thành những ngọn
nguồn tư duy mang tính triết lí trong tác phẩm của chị. Hiểu Thu Huệ ta còn
thấy chị là một phụ nữ sắc sảo, mạnh mẽ, tự tin và thông minh, điều ấy ta thấy
rõ trong những trang viết của tác giả. Với công việc, chị luôn hết mình và nỗ
lực cao nhất. Là một người phụ nữ tài năng trong khiếu văn chương, chị tâm
sự “dù viết kịch bản hay biên tập kịch bản của tác giả khác, tôi đều có thái độ
nghiêm túc như nhau”. Với vai trò là một người phụ nữ trong gia đình, Thu
Huệ luôn là người lo toan, chịu trách nhiệm từ chuyện to nhất đến những điều
bé nhỏ “trong gia đình, chăm một mẹ già và là bạn của hai con trai đã lớn,
ngoài việc lo đời sống vật chất đầy đủ thì mối quan hệ tinh thần rất quan
trọng”. Thu Huệ của gia đình và Thu Huệ của công việc luôn là một người
biết tận tâm, tận lực.
1.2.2. Sự nghiệp sáng tác
Nguyễn Thị Thu Huệ - Nhà văn có cái nhìn “ trách nhiệm” với cuộc
sống con người đã làm cho văn của Thu Huệ đậm chất đời, chất người - điều
khiến cho nhà văn Hồ Phương phải ngạc nhiên: “Sao còn ít tuổi mà Huệ lại
lọc lõi thế. Nó như là một con mụ phù thủy lão luyện. Nó đi guốc trong bụng
mình”. Am hiểu, tường minh mọi ngõ ngách trong cuộc sống, đã làm nên nét
đặc sắc trong văn chị. Nguyễn Thị Thu Huệ tài năng trong nhiều lĩnh vực,
nhung có lẽ văn chưong là mảng mà chị đam mê, tâm huyết và gửi gắm vào
đó nhiều trăn trở, vui buồn nhất. Chính chị đã từng tâm sự rằng: “Với tôi, văn

chương chưa bao giờ là những điều thần bí, chỉ đơn giản đó là một phần của
cuộc sống mà nhũng ai đã trót mang nặng kiếp người đều lấy đó để cất bót đi
gánh nặng đã mang”. Có lẽ cái duyên văn chương đã gắn với Thu Huệ ngay

9


từ thuở lọt lòng. Bằng chứng là cái tên Huệ của chị là do mẹ chị đặt theo tên
nhân vật chính trong cuốn Cô giáo Huệ của bà. Ngay khi còn ngồi trên ghế
nhà trường, Nguyễn Thị Thu Huệ đã bộc lộ năng khiếu văn chương nhưng
chưa bao giờ cô nghĩ sẽ là nhà văn. Vừa tốt nghiệp khoa Văn - Đại học tổng
họp, cô giấu bố mẹ đăng hai truyện ngắn Mưa trải mùa và Mùa sấu rụng trên
Báo Văn nghệ, khiến văn đàn xôn xao một thời. Nhưng con đường trở thành
nhà văn bị ngắt quãng bởi đám cưới sớm hon dự định khi còn quá trẻ. Sau 2
năm ở nhà trông con, cô quyết định vào làm tại Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật
với vai trò biên tập viên sân khấu. Cuộc sống nhàn hạ cứ thế trôi đi nếu như
không có một lần chị thấy mẹ mình buồn lắm. Cụ tủi thân vì thấy nhiều người
bằng tuổi con mình đã có tiếng tăm, con mình dường như quên hẳn văn
chương. Một phần vì mẹ, một phần vì huyết mạch văn chương hình như vẫn
lặng lẽ bồi đắp tâm hồn nên chị viết như chạy đua với thời gian. Cứ mỗi buổi
chiều cơm nước xong, chị đạp xe đến cơ quan, mượn chiếc máy đánh chữ và
lạch cạch gõ đến tận khuya. Ket quả của niềm đam mê và sự cố gắng đó là sự
ra đời của 5 truyện ngắn: Hậu thiên đường, Cõi mê, Phù thủy, Cát đợi đem đi
dự thi Tạp chí Văn nghệ, khiến Ban giám khảo không biết chọn tác phẩm nào
đạt giải nhất. Bắt đầu từ đây Nguyễn Thị Thu Huệ đã trở nên nổi bật và được
nhiều bạn đọc biết đến.
Cho đến nay, Nguyễn Thị Thu Huệ đã xuất bản 7 tập truyện ngắn: Cát
đợỉ( 1993), Hậu thiên đườỉĩgi 1994), Phù thủy (1995), 21 truyện ngắn Nguyễn
Thị Thu Huệ (2001), Nào, ta cùng lãng quên (2003), 37 truyện ngắn Nguyễn
Thị Thu Huệ (2004), Thành phố đi vắng (2012). Nguyễn Thị Thu Huệ đã vinh

dự nhận nhiều giải thưởng như: Giải nhất Cuộc thi Tạp chí Văn nghệ Quân
đội, Giải A Cuộc thi tiếu thuyết và truyện ngắn Hà Nội, Giải thưởng Tác
phẩm Tuổi xanh của báo Tiền phong, Giải thưởng của Hội Nhà văn vói tác

10


phấm Hậu thiên đưỏng. Gần đây nhất, tập truyện ngắn Thành phố đi vắng đã
được trao Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2012.
1.2.3.Tập truyện Thành ph ố đi vắng
Vắng mặt trên văn đàn trong khoảng thời gian khá lâu, kể từ tập Nào,
ta hãy cùng lãng quên và 37 truyện ngắn, ngỡ tưởng nhà văn Nguyễn Thị Thu
Huệ dừng lại nghiệp văn chương của mình để tập trung vào truyền thông ,
điện ảnh. Nhưng đến khi Thành phố đi vắng(2012) được xuất bản, bạn đọc
mới hay sức sống văn chương trong chị vẫn còn tràn đầy với bao điểm nhìn
mới khác. Thành phố đi vắng gồm 16 truyện ngắn mới nhất của Thu Huệ
được viết chủ yếu trong 2 năm 2009 - 2010.
Sống trong thời đại mới, đời sống của con người được năng cao, thành
quả của quá trình hiện đại hóa đã đáp ứng được những nhu cầu của con người.
Tuy vậy, ta luôn thấy những mặt trái sau những thành tựu. đó là một xã hội có
sự phân hóa các giai tầng một cách sâu sắc, những giá trị mới chưa được
khẳng định. Giới trẻ hoang hoải, lạc loài, hoài nghi và vỡ mộng. Những tiêu
cực tràn lan trong mọi lĩnh vực đòi sống... Đen với Thành phố đi vắng người
ta thấy sự đổi khác trong tư duy của một nhà văn nổi tiếng một thời xinh đẹp
và đa sầu, đa cảm. Neu nhiều nhà văn nữ phản ánh hiện thực bằng những ẩn
dụ nhẹ nhàng thì Thu Huệ lại đem giọng văn sắc sảo và ngòi bút lạnh lùng đế
phản ánh hiện thực. Đọc Thành phố đi vắng, người ta thấy ở đó những giá trị
cuộc sống bị đảo lộn, đời sống đô thị hiện đại với nhiều mặt trái, thật giả lẫn
lộn, con người không còn niềm tin vào nhau, sống vô cảm, lạnh lùng. Thời
đại toàn cầu hóa, thời văn minh kĩ trị đã và đang biến con người trở thành

những cỗ máy công nghiệp không còn nhịp đập của những trái tim ấm nóng.
Mỗi truyện trong Thành phố đi vắng được Nguyễn Thị Thu Huệ viết lại giống
như những thước phim thực tế, cảnh quay rất rõ ràng, hình ảnh hiện lên với
những mảng màu tối, sáng không phân biệt được, v ẫn bút lực dồi dào, chi tiết

11


ngồn ngộn, tập truyện có thêm sự hấp dẫn trong bút pháp mới của nhà văn,
với nhiều yếu tố kinh dị, ma quái.
Mới đọc, cứ lầm tưởng rằng đây là văn chương của một người phẫn
uất, bất mãn trước cuộc đời. Nhưng đâu phải thế, đây là những câu chữ của
nhà văn nồng ấm tình yêu thương, lạnh lùng từng câu chữ nhưng xót xa tận
tâm can. Mỗi truyện trong Thành phố đi vẳng không chỉ đơn giản là phơi
bày hiện thực mà còn rung lên hồi chuông cảnh tỉnh cho thế hệ trẻ hãy biết
sống yêu thương, trân trọng, biết chia sẻ và tri nhận những giá trị quý giá
của con người.

12


CHƯƠNG 2
BỨC TRANH HIỆN THỤC ĐỜI SÓNG VÀ
CON NGƯỜI TRONG TẬP TRUYỆN THÀNH PHÓ Đ I VẲNG
2.1. Bức tranh hiện thực đòi sống
Văn học là tấm gương phản chiếu đời sống xã hội, nhà văn là người thư
kí trung thành của thời đại. Như vậy, văn học gắn bó với chức năng phản ánh
hiện thực. Hiện thực của đất nước hôm nay là những biểu hiện của một xã hội
đang vận hành trong cơ chế thị trường, từng bước hội nhập với thế giới, chính
vì vậy đời sống con người trở nên phong phú và phức tạp. Các nhà văn hôm

nay hướng vào mảng hiện thực ấy của xã hội. Nhà thơ Trần Nhuận Minh tâm
sự: “Hiện thực trong sáng tác của tôi là số phận của nhân dân Việt Nam trong
nhũng va đập của thế cuộc, ở cả trong nước và nước ngoài, với đủ mọi biếu
hiện của đời sống mà tôi không hề né tránh, dù hiện thực đó có nghiệt ngã và
đau đớn đến đâu”. Tác giả Lê Anh Hoài nói: “Tôi quan tâm đến mảng đời
sống của văn nghệ sĩ, trí thức, vì tôi thấy thú vị, và dường như từ đó, có thể
phóng chiếu ra nhiều hiện thực khác” . Còn nhà văn Đặng Thân lại cho rằng:
“Tôi nghĩ ai cũng phải đương đầu với hiện thực bằng cách nào đó, mọi cuộc
trốn chạy đều vô nghĩa lý. Cái hiện thực đau buồn, u ám, tù đọng và cứng
nhắc không chỉ có ở quê hương tôi, dân tộc tôi... Tôi đã đương đầu với hiện
thực bằng cách bổ sung cho nó (hiện thực đời tôi) bằng một thế giới ý tưởng
của mình”. Đó là kết quả của quá trình nhà văn tích lũy, trải nghiệm vốn sống,
là vốn kiến thức, là vốn văn hóa của một cá nhân. Hiện thực được bứt phá từ
chính trái tim đầy yêu thương, nhiều khi đến ứa máu của các nhà văn, cho dù
hiện thực ấy là hạnh phúc hay cay đắng, u ám. Còn với nhà văn Nguyễn Thị
Thu Huệ, chị chia sẻ: “Bây giờ, đời sống của đám đông, của những thân phận
bị trồi lên tụt xuống quẫy đạp nhằm tồn tại trong những con sóng táp thẳng,
khiến tôi chao đảo, buồn bã và đau đớn. Và tôi đã kể những truyện qua lăng

13


kính của tôi, nhũng ngày tháng này”. Và tập truyện Thành phố đi vắng của
Nguyễn Thị Thu Huệ đã tập trung phản ánh hiện thực đời sống thời toàn cầu
hóa, thời văn minh kỹ trị ngày nay.
2.1.1. Đòi sống thời toàn cầu hóa
Trong những năm đất nước mở cửa, hội nhập, giao lưu quốc tế đa
chiều, các giá trị của toàn cầu hóa đã tác động mạnh mẽ tới người Việt, tạo ra
những chuyển biến quan trọng trong lối sống của người Việt hôm nay. Những
giá trị phổ quát của văn minh nhân loại đang từng ngày, từng giờ thâm nhập

vào xã hội Việt Nam thông qua mạng Internet và truyền thông. Những vấn đề
của toàn cầu hóa được chọn lọc, đón nhận và tiếp cận tối đa bởi những con
người Việt Nam vốn thông minh, rộng mở và cầu thị. Chúng trang bị cho
người Việt những nhận thức mới và tầm nhìn mới. Tuy nhiên, nhìn nhận ở
một góc độ khác, bên cạnh những điểm tích cực mà toàn cầu hóa đem lại thì
không ít những điểm tiêu cực cũng tràn vào xã hội ta hiện nay. Đối diện với
bối cảnh xã hội như vậy, văn học đã nhạy bén phản ánh kịp thời và thể hiện
bằng nhiều chiều kích, thông qua cách nhìn của mỗi nhà văn. Nguyễn Thị Thu
Huệ là một nhà văn đã bắt nhịp và phản ánh kịp thời những biểu hiện của mặt
trái hiện thực đời sống đương đại. Trong Thành phố đi vắng, mặt trái của toàn
cầu hóa đã tác động đến từ gia đình ra xã hội, gây ra bao đổ vỡ, thiếu hụt tình
yêu thương cho con người. Một vị cán bộ ngoại giao giỏi, cả cuộc đời tùng đi
khắp quốc gia này đến quốc gia khác, “cộng thời gian ông sóng ở nhà chỉ
bằng 1/8 cuộc đời của ông... Ỏng hướỉĩg ngoại từ nhỏ, khi lấy vợ - Bà Mây,
vợ ông cũng phải hưóng ngoại” (sống gửi thác về). Công việc bề bộn khiến
ông không có thời gian chăm chút và quan tâm cho gia đình. Khi từ “bên kia
trái đất trở về”, nhà ngoại giao ấy đã không tìm được cách nói chuyện với
nhũng người thân trong gia đình, không tìm được sự sẻ chia đối với con cháu,
tìm cách bù đắp nhưng lại là cách bù đắp sai lầm. Một vị tiến sĩ tên Văn trong

14


truyện Coi như không biết thành công trong sự nghiệp “thưa đồng chí thứ
trưởỉĩg. Thưa đồng chí vụ trưởng... Thưa tất cả các đồng chí. Và hai tiếng ba
mươi phút sau. vỏ tay rào rào...nghe thầy Văn bảo vệ luận án tầm cỡ quốc tế
nhưng may thế, làm ở Việt Nam nên bọn em có cơ hội tiếp cận... Chân thành
mừng. Chân thành chia sẻ. Chân thành ký đê bản danh sách tiến s ĩ toàn quốc
dài thêm một d ò n g ”. Vợ anh cũng tài giỏi, suốt đời cô ấy sống và theo đuổi
những nghiên cún khoa học, những hội thảo quốc tế về bảo vệ môi trường.

Cuộc sống của họ rất hào nhoáng: “Complet. Tóc bóng keo trơn. Văn ngả
ngon giữa những đô ẫn thức uổng vợ chuẩn bị cho còn nguyên la liệt. Giữa
tiền đô. Tiền Việt. Giữa thẻ tín dụng, s ố tiết kiệm. Giữa cơ man hoa tươi chúc
mừng tân giảo sư tiến s ĩ ”. Nhưng đời sống gia đình của họ lại đầy thiếu hụt
và bất ổn. Chỉ khi ở bên người tình (cô cave),Văn mới cảm nhận được cuộc
sống thật giản dị với nhũng tình cảm, những tâm sự thầm kín, còn khi về nhà
Văn lại khoác trên mình cái danh tiến sĩ. Câu nói của vợ Văn khi kết thúc
truyện khiến người đọc phải suy nghĩ: ‘T ạ / em bỏ anh đủng lúc anh cần em
nhất. Anh thành tiến s ĩ roi. Đủng là làm tiến s ĩ thật tốn hại thần kinh đen tâm
thần thế này. Vợ bỗng cười nhạt tự mãn như thể trước mặt có rất đông tiến s ĩ
rởm. Đấy. Mấy nghìn tiến s ĩ bảo vệ xong cỏ ai phát điên lên như thế này
đâu. Tiến s ĩ thật thì phải khác chứ”.
Đọc truyện của Nguyễn Thị Thu Huệ, người đọc cảm thấy xót xa vì quá
nhiều đắng cay, nào là tình cảnh trớ trêu của những gia đình ham mê khoa
học, những người mải mê tham vọng, chạy đua theo chức vị, những người
đàn ông tìm sự sẻ chia với những cô cave cho vơi bớt cô đơn. Nào là câu
chuyện gia đình đổ vỡ, những ông bố, bà mẹ mải mê chạy theo những cuộc
tình ngoài chồng ngoài vợ, khiến những đứa trẻ bơ vơ, đơn độc... Trong
truyện Của Cha, của Con, những cành vạn niên thanh, Thu Huệ đã không
ngần ngại phanh phui về những bất hạnh của một gia đình. Cuộc sống cảnh

15


“gà trống nuôi con” của một người đàn ông tưởng có thể giữ mãi cái bí mật về
sự ra đi của người vợ. Nhưng rồi khi đứa con lớn lên, nó đã biết sự thật: “С/ш
đã phản bội Mẹ. Cha quan hệ với một người đàn bà khác. Đủng khỉ M ẹ đang
thành đạt nhất, cha chuấn bị được thăng chức thì người đàn bà kia lại mang
tài liệu của cha và cô ta, cùng cái bụng bầu đến gặp Mẹ, đòi một số tiền lỏn,
đế cô ấy không tung tóe mọi chuyên ra. Cô ấy biết chờ đợi đủng lúc, xuất hiện

và ra đi với những gì cô ấy cần. Sau khi chuyến tiền hai trăm triệu, viết giấy
cam kết không gặp lại nhau vĩnh viễn, có người làm chứng, Mẹ nhận lại
những tấm ảnh, bức thư in từ hòm thư email, những cuộn băng ghi âm. M ẹ ra
đi vào buổi sáng” . Sự phản bội không thể tha thứ của ông bố đã làm tan vỡ
một gia đình lẽ ra đã rất hạnh phúc. Rồi ông bố, trong bận rộn mưu sinh đã bỏ
quên con gái mỗi ngày. Vì phải chứng kiến thường xuyên cảnh vợ chồng nhà
hàng xóm “yêu” nhau để rồi đứa con gái cũng sớm bước chân vào cuộc
“khám phá” thế giới của người lớn. Chính vào lúc đứa con trượt ngã, người
cha vì cún người mà nhận lấy những vết chém từ bọn giang hồ. Nỗi đau nào
lớn nhất trong cuộc đời của hai cha con hay tất cả cũng chỉ là những mảnh
ghép rời rã như cách người cha đã gắn lá giả cho những cành vạn niên thanh.
Nhũng hiện tượng sống thử, cặp bồ, sống độc thân sau hôn nhân, hay “tự
do” trong hôn nhân đã không còn là hiện tượng xa lạ trong cuộc sống hiện đại.
Nguyễn Thị Thu Huệ không né tránh những hiện tượng đó trong sáng
tác của mình. Chúng ta cần phải suy nghĩ về chyện này là câu chuyện sống
thử của một cặp già nhân ngãi non vợ chồng: “Anh năm mươi ba.Hân bốn
mươi. Hai người đều chưa có gia đình con cải trước khi song tám năm với
nhau. Ảnh cũng đã sống với vài cô trước khi gặp Hân. Hân cũng vậy. Môi
cuộc tình của anh hay Hân với ai đấy, thường kéo dài mấy năm. Dăm ba cuộc
như vậy, bây giờ là ngần này tuối vẫn số không”. Sau mỗi chuyến đi công tác
của hai người, Hân lại đặt ra câu hỏi: “Chúng ta cần phải suy nghĩ về chuyên

16


này”. Rồi một năm, hai năm, ba năm, hai người gặp nhau, anh hỏi: “Sao ngày
ẩy em lại bỏ anh”, cô trả lời: “Em không bỏ anh, em đi vì còn anh nữa đâu”.
Câu chuyện mà Thu Huệ nói đến ta có thế bắt gặp trong đời sống của những
cặp đôi trẻ ngày nay. Họ vừa yêu nhau đã xóa bỏ mọi khoảng cách, sống thử
với nhau như vợ chồng. Đe rồi kết cục mỗi người mỗi ngả, ê chề và bẽ bàng.

Thu xếp cuối đời là câu chuyện về hai người đàn bà. Câu chuyện thật
buồn mà ta không khó để bắt gặp trong cuộc sống hôm nay. Một ông chồng
thì lười nhác, không lo làm ăn, một ông chồng thì suốt ngày cờ bạc khiến cả
hai người đàn bà ấy không còn thiết tha gì chuyện giữ “lửa” cho gia đình
mình. Hai người đàn bà đã thu xếp, định liệu sẵn cho phía cuối cuộc đời:
“А/ш kia thẳng Thắng nhà tao đi du học, con Tuyết nhà mày đi lấy chồng. Rồi
chủng nó cũng có đời sống riêng...Cứ nghĩ ngày bọn trẻ đi hết, mình già,
không ở với ai được. Bây giờ đã không thì sau này lại càng không. Càng nghĩ
càng thấy tao vói mày sống là đủ”. Vậy là câu thành ngữ xưa của cha ông:
“đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm” đã không còn được lun giữ trong bao gia
đình hôm nay.
Truyện Củ mèo và rượu hoa lại phơi bày bao nghịch lí về tình yêu và
hôn nhân. Sau khi vợ chết, ông Nhân đến với Túy, không phải vì tình yêu hay
nhan sắc của cô mà chỉ đơn giản vì lí do là con ông cần có mẹ, ông cần có
thời gian vào thư viện làm việc của mình. Được vài tháng, Túy ngộ ra thân
phận của mình “tại sao lại bỏ ngày tháng của mình cho ông chồng nói hay,
làm dở và thăng nhóc mặt hằm hằm mẹ mẹ con con, có chui từ trong bụng
mình ra đâu mà mẹ với con thế này”. Và rồi Túy có bồ, ông Nhân phát hiện ra
nên bị tình nhân của Túy chém và từ đó ông Nhân suốt đời phải ngồi xe lăn.
Tiếng đay nghiến của Túy đối với ông Nhân: “ơ/ig lừa tôi, ông yêu thương gì
tôi đâu, lấy tôi về cốt đế làm con ở nuôi con trông nhà cho ông. Đàn ông gì
mà đến sinh hoạt vói vợ cũng phải theo lịch, đủng giờ. Đã vậy, còn đủng số

17


phút, dài hay ngắn hơn sách dạy đều phản khoa học, thế thì chó 1ĨÓ chịu được
chứ người không ai chịu được hết” cho ta thấy bao bất ổn của đời sống hôm
nay, nó luôn rình rập đe dọa cuộc sống của mỗi con người trong cuộc sống
hằng ngày của chúng ta.

Truyện của Thu Huệ còn tìm hiểu về thực tế cuộc sống với bao bất ổn
của lớp trẻ ngày nay. Với tay là đến là câu chuyện kế về chàng sinh viên đại
học tên Đại Dưong. Bố mẹ cố gắng cho Dương đi học, đặt bao niềm hi vọng
vào con. Nhưng Dương sa đọa, lao vào rượu và thuốc phiện, để rồi cậu ta
chạy trốn khỏi gia đình, trượt dài trên con đường tha hóa. Rõ 1'àng, cha ông
thuở trước nghèo khổ về vật chất nhung cuộc sống rất bình yên. Còn hôm
nay, đời sống vật chất đầy đủ hơn nhưng con người lại mất đi sự bình yên,
mất sự an toàn ở mọi nơi mọi lúc. Cô gái Trong ỉủc ăn một bát phở gia truyền
muốn thưởng cho mình nhũng giây phút yên bình khi thưởng thức hương phở
và hương cà phê. Nhưng chỉ một nơi bình yên không có cướp ấy là “góc
phòng 12 mét vuông, không của sổ” của chính mình. Cô gái này nhất quyết
không chịu đi bệnh viện, vì “vào viện cho bọn bác s ĩ dọa khôn dọa dại lấy
tiền. Có ai vào viện mà không moi một đống bệnh?Không vào cũng dê mà
chết chẳc?Luyến một tấc không đi, một li không rời cái tố chim câu của
mình” (Song gửi thác về). Truyện Chúng ta cần phải suy nghĩ về việc này,
nhân vật Hân nói: thời buổi này cứ hở ra cái gì là sẽ biến mất, “Hôm qua, hai
đứa thanh niên đi vu vơ qua cửa hàng bán ga. Thấy không ai trông hàng, một
đứa nhảy vào ôm một bình ga rồi nhảy lên xe đứa kia chở đi. Cả ga lãn bình
chỉ ba trăm ngàn. Thế là xã hội có thêm hai thẳng ăn cuởp... Anh có thấy
hiếm khi nào phụ nữ ra đường đeo dây chuyền, hoa tai và tủi như ngày xưa.
H ở ra là bị giật ngay... M ấy cái bóng đèn cao áp, cột đèn vừa bé vừa trơn,
thế mà chủng nó cũng trèo lên thảo được. Hôm qua, bọn đồng nát cắt hết dây
thép gai nhà bà bún riêu ...”

18


Xã hội tiêu dùng, vật chất lên ngôi, đồng tiền ngày càng có vị thế,
“Tiền là tiên, là phật”. Tiền có thể khiến người cha cảm thấy tâm thế thanh
nhàn, giải quyết được biết bao day dứt ở trong lòng, khi “vứt” cho đứa con gái

10 nghìn USD (vị chi là 180 triệu tiền Việt Nam đồng). “Đủng là không gì
xoa dịu vết thương tinh thần nhanh bang một nắm tiền. Ông quên phắt ngay
lũ người thân ừ ỏi lâu nay làm nặng lòng, tay trong tay nhân tình trẻ người
Pháp, chu du khắp đó đây. Hóa ra, coi như tao chết rồi hay lũ chủng mày
chết rồi không ốn, mà tao nợ chúng mày một tội, là hồn nhiên cho chúng mày
có mặt trên đời mà không kiếm soát. Giờ, tao trả lại ít tiền, mày tự giải quyết
cái đời mày thích.Thế là tao hết /2Ợ'” (Song gửi thác về). Có đôi khi vì tiền con
người bất chấp tất cả bán đi cả những thứ mà gắn bó với bao thế hệ của gia
đình. Minh chúng cho điều ấy, Thu Huệ qua truyện Không thể kết thúc, nhân
vật người bác dâu cả trong truyện lại có thể đem bán và tráo đổi đồ cổ của gia
đình cũng chỉ vì những đồng tiền.
Thu Huệ viết về vấn đề toàn cầu hóa bằng chính sự “thực nghiệm” của
mình, phía sau hào quang của những giá trị tiên tiến là chính những yếu điểm
của bản thân nó. Có thể nói, Nguyễn Thị Thu Huệ đã phanh phui mọi ung
nhọt của hiện thực đời sống hôm nay trong mỗi trang văn của mình.
2.1.2. Đời sống thòi văn minh kỹ trị
Ngày nay, cuộc cách mạng khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ
khiến máy móc đang dần thay thế cho những công việc của con người. Đây
chính là cơ sở tạo lối sống hiện đại. Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, cũng
xuất hiện không ít nguy cơ mà đáng sợ nhất là con người cũng trở thành máy
móc, lạnh lùng, vô cảm. Trong truyện của Thu Huệ con người sống trong ánh
hào quang của nền văn minh kỹ trị, bị vây bọc bởi các thiết bị công nghệ số,
Intenet và truyền thông: “Cớ ba tivi treo tưòng chính trung tâm sảnh, ai đến
cũng đi qua. Hai tivi truyền trực tiếp Chung kết Cuộc thi Duyên dáng Quý

19


×