Tải bản đầy đủ (.pdf) (51 trang)

Khoá luận tốt nghiệp văn hóa gia đình trong tiểu thuyết mùa lá rụng trong vườn của ma văn kháng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 51 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC s ư PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGŨ VĂN
------------ -------------------------

Lưu THỊ THANH NGA

VĂN HÓA GIA ĐÌNH TRONG HẺU THUYÉT

MÙA LẢ RỤNG TRONG VƯỜN
CỦA MA VĂN KHÁNG

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC






C h u y ên n g à n h : V ăn h ọc V iệ t N am

HÀ NỘI - 2015




TRƯỜNG ĐẠI HỌC s ư PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGŨ VĂN
------ -------------------------

L ư u THỊ THANH NGA


VĂN HÓA GIA ĐÌNH TRONG HÊU THUYẾT

MÙA LẢ RỤNG TRONG VƯỜN
CỦA MA VĂN KHÁNG

KHÓA LUẬN TỔT NGHIỆP ĐẠI HỌC








C h u y ên n g à n h : V ă n h ọc V iệ t N am

N gư òi hướng dẫn khoa học:
TS. NGUYỄN THI TUYÉT MINH

HÀ NỘI - 2015


LỜI CẢM ƠN

Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết on sâu sắc tói TS Nguyễn Thị Tuyết Minh.
Cô đã trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập nghiên
CÚ11 cũng như luôn động viên khuyến khích tôi thực hiện đề tài này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong tổ Văn học Việt
Nam, khoa Ngữ văn, trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện
thuận lợi cho tôi thực hiện và hoàn thành khóa luận này.


Hà Nội, tháng 5 nẫm 2015
Tác giả khóa ỉuận

Lưu Thị Thanh Nga


LỜI CAM ĐOAN

Kết quả nghiên cứu này là của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của TS
Nguyễn Thị Tuyết Minh. Khóa luận không trùng với kết quả nghiên cứu của
nhũng tác giả khác. Tôi xin cam đoan rằng:
- Khóa luận là kết quả nghiên cứu, tìm tòi của riêng tôi.
- Mọi tư liệu trích dẫn trong khóa luận là hoàn toàn trung thực.
Neu sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm!

Hà Nội, thảng 5 năm 2015
Tác giả khóa luận

Lưu Thị Thanh Nga


MỤC LỤC
M Ở Đ Ầ U .......................................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài........................................................................................................1
2. Lịch sử vấn đ ề .......................................................................................................... 2
3. Nhiệm vụ nghiên cứ u .............................................................................................. 5
4. Đối tương và phạm vi nghiên cún......................................................................... 5
5. Phương pháp nghiên cứu........................................................................................ 6
6. Đóng góp của khóa luận..........................................................................................6

7. Cấu trúc khóa lu ậ n .................................................................................................. 6
NỘI DUNG................................................................................................................... 7
CHƯƠNG 1. GIỚI THUYẾT C H U N G ............................................................... 7
1.1. Đặc điểm gia đình truyền thống Việt N am ...................................................... 7
1.2. Đe tài gia đình trong văn học Việt Nam hiện đ ạ i........................................... 9
1.3. Ma Văn Kháng và tiểu thuyết Mùa lả rụng trong vư ờ n .............................. 16
1.3.1. Vài nét về tiếu sử Ma Văn K h ả n g ..............................................................16
1.3.2. Sự nghiệp văn h ọ c........................................................................................ 18
1.3.3. Tiều thuyết Mùa lá rụng trong vườn............................................................ 19
CHƯƠNG 2 BIÉU HIỆN CỦA VĂN HÓA GIA ĐÌNH.TRONG TIÉU
THUYẾT MÙA LẢ RỤNG TRONG VƯỜN CỦA MA VĂN KHÁNG .... 22
2.1. Hiện thực đời sống xã hội và gia đình người Việt những năm 80 của
thế kỉ X X ..................................................................................................................... 22
2.1.1. Gia đình truyền thong trước sự tác động của hoàn cảnh xã h ộ i............. 22
2.1.2. Gia đình và mâu thuân thế h ệ .......................................................................26
2.1.3.Gia đình và mâu thuân giữa các tính cách, lối số n g ................................. 29
2.2.

Bi kịch gia đ ìn h ..............................................................................................37


CHƯƠNG 3. NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN VĂN HÓA GIA ĐÌNH.
TRONG TIẺU THUYẾT MÙA LẢ RỤNG TRONG VƯỜN CỦA
MA VĂN K H Á N G ...................................................................................................40
3.1. Nhan đề tác phẩm ............................................................................................... 40
3.2. Tạo dựng cốt truyện........................................................................................... 41
3.3. Ngôn ngữ ............................................................................................................. 42
KÉT L U Ậ N ..............................................................................................................45
TÀI LIỆU THAM KHẢO



M Ở ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1 Với chiến thắng mùa xuân năm 1975, sự nghiệp thống nhất đất nước
đã hoàn thành, lịch sử dân tộc bước sang một trang mới. Cả nước tiến hành đi
lên chủ nghĩa xã hội và kiến thiết, đổi mới đất nước. Sự chuyển đổi của đất
nước từ thời chiến sang thời bình, đặc biệt là sự chuyến đổi từ nền kinh tế tập
trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường đã đem lại nhiều mặt tích cực, đời
sống nhân dân được nâng lên một tầm cao mới. Tuy nhiên nền kinh tế thị
trường cũng bộc lộ mặt trái của nó. Đồng tiền chứng tỏ sức mạnh vạn năng,
nhiều cá nhân đã bị cuốn vào vòng xoáy của đồng tiền khiến cho những chuẩn
mực và đạo lí đi xuống. Gia đình là tổ ấm của mỗi cá nhân, là chiếc nôi nuôi
dưỡng tâm hồn con người, là tế bào của xã hội. Sự phát triển vững chắc của
gia đình sẽ là nền tảng vũng chắc cho sự phồn vinh, phát triển của xã hội. Đã
có một thời, gia đình được coi là chuẩn mực. Nhưng xã hội thay đổi thì con
người sẽ có những đổi thay, thời thế góp phần tạo ra suy nghĩ con người,
nhiều cá nhân đã thay đổi ý thức và quan niệm sống, họ ích kỷ, hám danh,
hám lợi, chạy theo giá trị vật chất... khiến những mối quan hệ tốt đẹp trong
gia đình bị phá vỡ. Văn hóa gia đình đang có nguy cơ bị xói mòn.
1.2 Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975 là nền văn học cách mạng,
mang cảm hứng sử thi, hướng về những cái lớn lao, cao cả của dân tộc. Sau
1975, xã hội có nhiều thay đổi phức tạp, cảm hứng “sử thi” trong văn học
trước đây được thay bằng cảm hứng “thế sự”. Các nhà văn không né tránh,
ngại ngùng khi khai thác các mặt trái, góc khuất, phần chìm của hiện thực
cuộc sống. Vấn đề văn hóa gia đình một thời bền vững ổn định nay bị lung
lay, xói mòn. Gia đình trước đây là khuôn mẫu, chuẩn mực của xã hội thì nay
có sự biến đổi. Các cá nhân muốn khẳng định cá tính bản thân, chạy theo xã
hội thị trường thời mở cửa đã bắt đầu phá vỡ những khuôn thước, đạo lí của

1



gia đình. Hiện thực xã hội này đã trở thành mảnh đất màu mỡ, nguồn cảm
hứng sáng tác lớn cho các nhà văn. Họ hướng ngòi bút của mình về thực tại,
đi sâu khai thác đời tư thế sự, nổi bật là vấn đề văn hóa gia đình hiện nay. Các
nhà văn đã đi sâu khám phá con người cá nhân với cá tính, phẩm chất, mặt tốt
và cả mặt xấu trong cuộc sống thường nhật. Có rất nhiều cây bút tham gia vào
mảng sáng tác này, từ những nhà văn dày dặn kinh nghiệm như Nguyễn Minh
Châu, Ma Văn Kháng, Nguyễn K hải... cho đến các cây bút thuộc thế hệ sau
như Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh, Nguyễn Ngọc Tư...Trong những sáng
tác của đội ngũ nhà văn đông đảo đó, Mùa lả rụng trong vườn của Ma Văn
Kháng được xem là tác phẩm tiêu biểu dự báo cho những vấn đề mới của đời
sống gia đình trong hoàn cảnh xã hội đương đại.
Có thể nói, vấn đề văn hóa gia đình không chỉ là mối quan tâm của
nhũng người làm công tác quản lí xã hội hay giáo dục, của những lóp người
đi trước trải qua biến cố thăng trầm của lịch sử, mà đó còn là mối quan tâm
của cả đất nước, cả dân tộc và của mỗi cá nhân. Khóa luận của chúng tôi
nghiên cứu, đánh giá tác phẩm Mùa lả rụng trong vườỉĩ nhằm chỉ ra những
đóng góp của nhà văn Ma Văn Kháng về vấn đề thời sự ấy của đời sống xã hội.
2. Lịch sử vấn đề
Ma Văn Kháng là một trong những tác giả văn xuôi lực lưỡng của văn
học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XX. Ông là một nhà văn dồi dào năng lực sáng
tác, đặc biệt là ở mảng tiểu thuyết. Năm 1985, cuốn tiểu thuyết Mùa lả rụng
trong vườn ra đời và vào năm 1986 nhận giải thưởng loại B của Hội Nhà văn.
Tiếu thuyết Mùa ỉá rụng trong vườn ngay sau khi ra đời, đã thu hút được
sự quan tâm chú ý của các nhà nghiên cún, giới phê bình. Tính đến nay đã có
rất nhiều bài nghiên cún quan tâm tới tiểu thuyết Mùa ỉả rụng trong vườỉi,
trong đó phải kể đến:
-


Trần Cương (1985), “Mùa lả rụng trong vưòn - Một đóng góp mới của

Ma Văn Khảng ”, Báo Nhân dân chủ nhật
2


- Lã Duy Lan (1985), “Mùa lả rụng trong vườn - M ột đóng góp mới của
Ma Vãn Khảng ”, Báo Nhân dân chủ nhật
- Trần Đăng Suyền (1985), “Ma Văn Khảng với Mùa ỉả rụng trong
vườn ”, Báo Văn nghệ, (40)
- Hoàng Sơn (1985), “Trò chuyên với tác giả Mùa lá rụng trong vườn ”,
Báo Tiền phong, (46)
- Nguyễn Văn Lưu (1986), “Bàn thêm về tiếu thuyết Mùa lả rụng trong
vườn ", Báo Văn nghệ
- Vân Thanh (1986), “M ột mảnh đời trong cuộc sổng hôm nay qua Mùa
lả rụng trong vườn ”, Tạp chí Văn học, (3)
- Hà Ân (1988), “Đọc Mùa lả rụng trong vườn ”, Báo Người Hà Nội
- Nguyễn Công Thanh (2006) Bỉ kịch gia đình trong tiểu thuyết Mùa ỉả
rụng trong vườn của Ma Văn Khảng, Tạp chí Đại học Vinh, (4b)
Có thể thấy, Mùa lả rụng trong vưòn là sáng tác thuộc đề tài gia đình
trong đời sống đô thị hiện đại - một vấn đề thời sự lúc bấy giờ nên nhận được
sự quan tâm lớn của dư luận và công chúng.
Năm 1985, ngay sau khi cuốn Mùa lả rụng trong vườn ra đời, Báo
Người Hà Nội đã tổ chức thảo luận rất sôi nổi khiến tác phẩm trở thành
“Cuốn tiếu thuyết bán chạy nhất của Nhà xuất bản Phụ nữ từ xưa đến nay và
đã có hàng chục ý kiến thảo luận, phê bình, khen ngợi, động viên rồi mà vẫn
vẫn có dấu hiệu tiếp tục” [tr 2]. Nhà nghiên cún Trần Cương đánh giá cao giá
trị nội dung tư tưởng của tác phẩm: “Cuốn tiểu thuyết Mùa ỉả rụng trong
vườn xoay quanh vấn đề gia đình - một chủ đề liên quan mật thiết tới những
chuyện hàng ngày, những chuyện tưởng như tầm thường, tẻ nhạt nhưng thực

ra chứa đựng những nguyên nhân sâu xa, những diễn biến rối rắm phức tạp
mà nếu cặp mắt nhà văn hời hợt, nông cạn thì dễ gì chỉ ra đúng bản chất của
nó”. Trần Cương còn cho rằng: “Ma Văn Kháng có tài trong miêu tả dựng
người, dựng chuyện”.
3


Trong bài “M ột mảnh đời trong cuộc sống hôm nay qua Mùa lả rụng
trong vườn”, tác giả Vân Thanh cũng cho rằng: “Có thể xem Mùa lả rụng
trong vườn là một tiếng nói của tác giả trước hiện thực hôm nay; một tiếng
nói về quan hệ cá nhân, gia đình và xã hội; về trách nhiệm của mỗi người đối
với đời sống và cuộc sống dành cho mỗi người”.
Giáo sư Trần Đăng Suyển nhấn mạnh: “Sức hấp dẫn của tiếu thuyết Ma
Văn Kháng không phải là nhũng trang chính luận sắc sảo, thông minh mà chủ
yếu là những hình tượng nhân vật khá độc đáo, hấp dẫn” và “viết Mùa lả rụng
trong vườn, Ma Văn Kháng đã rọi một luồng ánh sáng nhân đạo khi đánh giá
con người ở thời kỳ khó khăn, phức tạp hiện nay”.
Tác giả Hoàng Sơn nhận định: “ Thật ra vấn đề gia đình chỉ là cái cớ, vỏ
bọc bên ngoài. Điều nhà văn tìm hiếu cũng là điều muốn nói với bạn đọc là
vấn đề sống của con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” [tr 4].
Tác giả Kim Vinh nhận xét: “Tác phẩm của anh được đọc nhiều và thảo
luận sôi nổi một phần vì đã đề cập đến vấn đề gia đình... và Ma Văn Kháng
có lẽ cũng là một trong số ít các nhà văn hiện nay quan tâm đặc biệt đến tầng
lớp bình dân, cụ thể là bình dân Hà Nội. Dưới ngòi bút của anh, hình ảnh
người bình dân hiện lên với tất cả sự tốt đẹp và phức tạp trong tính cách,
phẩm chất. Có thể coi Lý là một nhân vật thành công nhất của Ma Văn Kháng
và của cả văn học sau 1975 ở lĩnh vực này” [13, tr 18].
Trong bài Bi kịch gia đình trong tiếu thuyết Mùa lá rụng trong vườỉĩ của
Ma Văn Khảng (bài đăng Tạp chí Đại học Vinh, số 4b, năm 2006), tác giả
Nguyễn Công Thanh đã điểm lại những trang viết về gia đình trong văn học

Việt Nam từ những năm 30 của thế kỷ XX đến nay và khẳng định: Mùa lả
rụng trong vườn của Ma Văn Kháng có công khơi lại mạch viết về đề tài gia
đình vốn bị ngưng đọng gần nửa thế kỉ trong văn học Việt Nam. Tác giả nhận
xét: “Truyền thống văn hóa dân tộc và truyền thống văn hóa gia đình Việt
Nam cùng sự đổi mới và thích ứng của nó trong thời đại mới là những vấn đề
4


cơ bản mà nhà văn đặt ra trong tác phẩm. Khăng khăng giữ lại tất cả nhũng gì
của ngày xưa không phải là chuyện họp thời, nhưng thoát ly truyền thống, phá
vỡ mọi nề nếp nhất định sẽ dẫn tới bi kịch”. Mùa ỉả rụng trong vườn còn đề
cập tới một vấn đề đáng báo động nữa trong buổi giao thời là không ít người
chạy theo vật chất, bị cuốn vào vòng xoáy đồng tiền, thoát ly truyền thống,
phá vỡ mọi chuẩn mực đạo đức xã hội. Đây là tác phẩm để lại nhiều dư âm
trong lòng người đọc.
Như vậy, đã có khá nhiều công trình quan tâm nghiên cún tác phẩm Mùa
lả rụng trong vườn nhưng đi sâu vào vấn đề văn hóa gia đình thì đến nay, vẫn
chưa có công trình nào tìm hiểu. Tiếp thu gợi ý của các nhà nghiên cứu đi
trước, khóa luận của chúng tôi tập trung tìm hiểu Văn hóa gia đình trong tiểu
thuyết Mùa ỉả rụng trong vườn của Ma Văn Khảng nhằm tiếp tục khắng định
tài năng và đóng góp của Ma Văn Kháng trên văn đàn Việt Nam đương đại.
Đồng thời cũng muốn nhìn nhận và khẳng định ý nghĩa quan trọng của vấn đề
gia đình trong đời sống xã hội người Việt Nam ngày nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ chính của khóa luận là nghiên cún vấn đề Văn hóa gia đình
trong tiêu thuyết Mùa lá rụng trong vườỉĩ của Ma Vãn Kháng. Qua đó, thấy
được đóng góp của Ma Văn Kháng đối với văn học Việt Nam đương đại ở đề
tài gia đình trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Đồng thời, cũng
nhằm phát hiện những dự báo về vấn đề gia đình trong xã hội ngày nay.
4. Đối tương và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là cuốn tiểu thuyết Mùa lả rụng
trong vườìĩ của Ma Văn Kháng.
- Trong giới hạn của một khóa luận, chúng tôi chỉ tập trung nghiên
cứu vấn đề Văn hỏa gia đình trong tiếu thuyết M ùa ỉả rụng trong vườn
của M a Văn Kháng.

5


5. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận chủ yếu sử dụng một số phương pháp nghiên cún sau:
Phương pháp hệ thống
Phương pháp so sánh
Phương pháp phân tích - tổng hợp
6. Đóng góp của khóa ỉuận
Tìm hiếu Vãn hóa gia đình trong tiểu thuyết Mùa ỉả rụng trong vườn của
Ma Văn Khảng, khóa luận sẽ làm rõ hơn vấn đề văn hóa gia đình trong thời
đại mở cửa của nền kinh tế thị trường ngày nay với những thời cơ thuận lợi và
cả nhũng thách thức mới.
Thực hiện đề tài này, người viết sẽ có được những kinh nghiệm nghiên
cứu bổ ích đối với một sinh viên sắp tốt nghiệp. Đồng thời, khóa luận cũng
trở thành một tài liệu tham khảo hữu ích đối với nghiên cún và giảng dạy văn
xuôi đương đại Việt Nam trong nhà trường phổ thông.
7. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Ket luận, Tài liệu tham khảo, Nội dung khóa luận
được triển khai thành ba chương như sau:
Chương 1: Giới thuyết chung
Chương 2: Biểu hiện của văn hóa gia đình trong tiếu thuyết Mùa ỉả rụng
trong vườn
Chương 3: Nghệ thuật biểu hiện văn hóa gia đình trong tiểu thuyết Mùa

lá rụng trong vườn

6


NỘI DƯNG
CHƯƠNG 1
GIỚI THƯYÉT CHƯNG
1.1. Đặc điểm gia đình truyền thống Việt Nam
Gia đình là một hình thức tổ chức cộng đồng của con người, một thiết
chế xã hội đặc thù được hình thành, tồn tại và phát triển trên quan hệ hôn
nhân, quan hệ nuôi dưỡng và giáo dục giữa các thành viên.
Gia đình của người Việt Nam được hình thành từ rất sớm và trải qua một
quá trình phát triển lâu dài trong lịch sử, dựa trên sự kế thừa những nét đẹp
của gia đình truyền thống, đồng thời tiếp thu những tiến bộ của thời đại.
Trong tâm hồn mỗi người Việt, gia đình là tổ ấm mang lại giá trị hạnh phúc,
sự hài hòa cho đời sống. Được xây dựng trên cơ sở bình đẳng thương yêu và
có trách nhiệm cùng chia sẻ của các thành viên, gia đình thực sự là một tế bào
quan trọng của xã hội, là cái nôi thân yêu nuôi dưỡng cả đời người, là môi
trường quan trọng trong giáo dục nhân cách và nếp sống. Dân gian có câu
“chim có tổ, người có tông/ như cây có cội, như sông có nguồn” để chỉ về cội
nguồn gia đình của mỗi con người. Con người sống với nhau dựa vào luân lí,
lễ giáo và tình thương của gia đình. Gia đình chính là điều tự hào nhất khi
mỗi con người kể về bản thân mình và bất kể đi đâu, làm gì cũng luôn nhớ về
gốc rễ, nguồn cội.
Nét đẹp lớn nhất mà ai cũng có thể nhận thấy, bắt nguồn từ thuở cha ông
chảy mãi đến tận ngày nay, đó là mối quan hệ nghĩa tình trong gia đình. Gia
đình - một tổ chức dựa trên quan hệ nghĩa tình. Đây là nét đặc trung, một nét
đẹp văn hoá mà có lẽ chỉ có ở một dân tộc hình thành từ nền nông nghiệp lúa
nước, lại phải trường kỳ chịu cảnh thiếu thốn khó khăn, phải chống chọi với

ngoại xâm, thiên tai và thú dữ. Gia đình Việt Nam có lối sống với nhau bằng
7


nghĩa, bằng tình nên mới có câu ca dao: “Râu tôm nấu với ruột bầu/ Chồng
chan vợ húp gật đầu khen ngon”. Cha ông xưa khắt khe trong quan niệm về
tình yêu, hôn nhân, ấy vậy mà trải qua hàng nghìn năm, với biết bao thế hệ
nối tiếp nhau, những chuẩn mực của gia đình như nề nếp gia phong, mô hình
“tứ đại đồng đường” vẫn được hình thành, nâng niu, gìn giữ. Chẳng phải đó là
xuất phát từ nghĩa tình hay sao? Cũng vì đề cao nghĩa tình trong gia đình mà
cha ông ta coi trọng sự đồng thuận, sự tôn trọng nhau giữa vợ và chồng và coi
đó là cơ sở vững bền để phát triển đời sống: “Thuận vợ, thuận chồng tát biển
Đông cũng cạn”.
Bên cạnh quan niệm về tình nghĩa, về thuỷ chung, gia đình Việt Nam
còn coi trọng chữ “hiếu”. Chữ “hiếu” tạo nên một mối ràng buộc trong quan
hệ cha (mẹ) - con. Con phải hiếu thảo với cha mẹ, kính trọng, lễ phép và vâng
lời cha mẹ. Cha mẹ phải luôn mẫu mực, hiền từ.
Đối với mỗi người chúng ta, gia đình có vai trò rất quan trọng. Gia đình
là cái nôi hình thành nhân cách. Mỗi người khi sinh ra và lớn lên luôn được
nuôi dưỡng và bao bọc bởi cha mẹ, rộng hon nữa là ông bà, cô bác, anh chị
em ruột thịt. Cha mẹ có công nuôi dưỡng mỗi người con nhưng cha mẹ cũng
đã tác động lên mỗi người con những ảnh hưởng từ thói quen ăn uống, sinh
hoạt hằng ngày đến các ứng xử văn hoá. Neu ai đó đã từng nói, trẻ con như tờ
giấy trắng, thì người đã đặt nét chữ đầu tiên lên tâm hồn ngây thơ, trong trắng
ấy là cha mẹ. Không cha mẹ nào không dành những gì tốt nhất cho con và chỉ
mong mỏi một điều duy nhất là con nên người.
Quan niệm về gia đình của người Việt Nam còn coi trọng mối quan hệ
giữa các gia đình với nhau và cũng trên nguyên tắc tình nghĩa, sống có nghĩa,
có tình, tình làng nghĩa xóm. Không chỉ gần nhau về không gian sinh hoạt mà
còn do đặc điểm sản xuất lúa nước nên các gia đình đã tự nhiên xích lại gần

nhau. Cùng một đám ruộng ở một cánh đồng, từ khâu gieo vãi, chăm sóc, thu
hoạch, các gia đình đều phải liên kết với nhau. Cùng nhau làm kênh mương


dẫn nước, rồi lấy nước từ ruộng nhà này sang nhà khác mà không sợ ai thiệt ai
hơn, rồi đắp đê ngăn lũ lụt, xây dựng các hồ đập chống hạn mùa khô, thậm
chí những khi cần lao động để sản xuất cho kịp thời vụ, các gia đình còn đổi
công cho nhau. Cùng họp tác với nhau trong sản xuất, trong việc chống chọi
thiên tai, thú dữ, nên người Việt Nam sớm sinh sống theo lối quần cư. Làng từ
đó mà hình thành rồi sau này, làng trở thành các đơn vị hành chính.
Ngày nay, kinh tế thị trường đang gây một sức ép lớn lên mọi người,
thời gian trở nên eo hẹp, tâm lí trở nên nặng nề, nhiều người đã đặt cái tôi
hưởng thụ và thực dụng của mình lên trên hết, bỏ quên gia đình, người thân,
xóm giềng, coi nhẹ các giá trị nhân văn truyền thống, thậm chí còn ngược đãi
với cha mẹ, anh em. Đó là điều mà chúng ta phải cùng nhau lên án. Hãy quay
về với gia đình, coi gia đình là điếm tựa bền vũng, hãy sống tốt với nhũng
người thân trong gia đình, những người xung quanh. Nhận thức đúng giá trị
văn hoá và bằng tình yêu thương chân thành đối với gia đình, suy đến cùng đó
chính là lòng yêu Tổ quốc.
1.2.

Đe tài gia đình trong văn học Việt Nam hiện đại

Gia đình có vị trí rất quan trọng trong tâm hồn người Việt. Văn học là tấm
gương phản ánh chân thực mọi mặt của cuộc sống con người. Vì thế, trong văn
học, gia đình cũng là đề tài được rất nhiều tác giả quan tâm khai thác. Do mỗi
giai đoạn có bối cảnh lịch sử khác nhau nên vấn đề gia đình được các tác giả
nhìn nhận và miêu tả ở những góc nhìn và mức độ khác nhau.
Từ đầu thế kỉ XX đến 1945, văn học bắt đầu phát triển theo hướng hiện
đại hóa. Lúc đầu là những truyện ngắn của các nhà nho tân học, hoặc những

trí thức mới làm quen văn học với các thể loại sáng tác phương Tây. Nguyễn
Bá Học viết truyện ngắn lấy tên là Câu chuyên gia đình đăng trên báo Nam
Phong. Ngoài ra còn nhũng tác phẩm khác như những vở kịch Chén thuốc
độc, Tòa án lương tâm của Vũ Đình Long. Nhà văn Hồ Biểu Chánh viết
những truyện dài trong đó có tác phẩm Cha con nghĩa nặng- tác phẩm đầu
9


tiên có khuynh hướng thiên về luân lý gia đình. Nhà văn thường muốn duy trì
đạo đức phong hóa cũ, tỏ ý bất bình vì những sự lố lăng đang diễn ra trong
một số gia đình Việt Nam hiện tại bấy giờ: trên dưới hỗn láo, không còn lễ
nghĩa, chuyện đam mê cờ bạc, hút xách, gia đình tha hóa, đảo điên. Các tác
phẩm này đã đề cập đến vấn đề triết lí về gia đình và gợi ra khả năng thức tỉnh
người đọc.
Từ những năm ba mươi của thế kỉ XX, các nhà văn Tự lực văn đoàn đã
khai thác rất thành công đề tài này. Những tác phấm hay nhất, có nhiều đóng
góp nhất cho nền văn học nước nhà của Tự lực văn đoàn là những tác phẩm
đấu tranh giải phóng cá nhân, đấu tranh cho tự do hôn nhân, cho quyền sống
của người phụ nữ chống lại sự ràng buộc khắt khe của lễ giáo phong kiến
trong đại gia đình phong kiến. Trong Đoạn tuyệt Khái Hưng đã đề cập đến
vấn đề cũ- mới trong gia đình Việt Nam lúc đó. Cũ là nhũng con người theo lễ
giáo, phong tục hủ hậu thể hiện rõ nhất trong các bà mẹ chồng. Các bà mẹ
chồng có quyền hành dựa vào những quan niệm phong kiến lỗi thời, lạc hậu
đó cũng là những người bảo vệ gia đình. Mới là những người tiếp nhận những
tư tưởng mới và có ý thức về quyền con người không chịu được áp bức. Khái
Hưng cho hai phe này xung đột với nhau cụ thể là xung đột mẹ chồng - nàng
dâu khó có thể dung hòa và gia đình tan vỡ. Loan - nàng dâu trong tác phẩm
này mâu thuẫn kịch liệt với gia đình nhà chồng đặc biệt là mẹ chồng, xung
đột này khiến chồng Loan bất ngờ ngã vào con dao mà chết. Loan mang tội
giết chồng, bị kiện. Tòa án xử Loan trắng án và cô thoát khỏi gia đình tù ngục

đó. Nhất Linh cũng còn tác phẩm Lạnh lùng lên án luật tam tòng không cho
người vợ góa chồng được tái giá mà phải thủ tiết nuôi con thơ. Đó là tác phẩm
gây nhiều tranh cãi và lên tiếng phá vỡ gia đình cũ. Đọc tiểu thuyết Gia đình
của Khái Hưng, bên cạnh việc miêu tả cái xấu xa, cũ kĩ của đại gia đình
phong kiến, tác giả cũng dựng lên một mô hình gia đình mới. Neu gia đình
Viết - Phụng, An - Nga đại diện cho mô hình cũ thì gia đình Hạc - Bảo là hình
10


mẫu lí tưởng cho kiểu gia đình mới. Tuy nhiên trong hoàn cảnh xã hội của
nước ta lúc bấy giờ, mô hình ấy vượt quá xa so với thực tế
Ngoài Tự lực văn đoàn còn phải kể đến một số tác phẩm như Giông tố của
Vũ Trọng Phụng cũng phản ánh mặt trái của gia đình tư sản giàu có: cha cướp
vợ của con, con thông dâm với vợ của bố, mẹ có nhiều con mà vẫn đi ngoại
tình, anh em ruột lấy nhau, anh em ghen ghét cốt hại bố để chiếm gia sản. Hay
trong lả ngọc cành vàng Nguyễn Công Hoan cũng thể hiện những bi kịch của
gia đình. Gia đình cổ hủ, lạc hậu, đi theo phép tắc của lễ giáo phong kiến, ép
duyên con cái, ngăn cấm tình yêu của giới trẻ, để gây ra những cảnh điên loạn,
chết chóc. Vấn đề về gia đình trong văn học giai đoạn này đã thể hiện được
những cái nhìn mới, luồng gió mới cho bước đầu phát triển.
Trong nửa đầu thế kỉ XX, các sáng tác hiện thực xã hội tuy không đi sâu
vào vấn đề gia đình nhưng tác phẩm nào cũng đề cập đến vấn đề này. Nam Cao
là nhà văn phê phán vì vậy ông cũng nhìn gia đình dưới góc độ hiện thực của
người nông dân và trí thức cùng gia đình của họ. Ông miêu tả từ những gia
đình thiếu thốn, đói khổ ở nông thôn như Lão hạc, Trẻ con không được ăn thịt
chó, Nghèo, M ột đảm cưới...Trong những gia đình này cái đói, cái nghèo đeo
bám làm cuộc sống khó khăn, mỗi con người phải vật lộn, thậm chí bóp méo
nhân cách người cha (Trẻ con không được ăn thịt chó), gia đình biến đổi, lục
đục, vợ chồng bất hòa, gia đình li tán. Bên cạnh đó, Nam Cao cũng rất chú ý
đến tầng lớp trí thức tiểu tư sản. Họ bị gánh nặng áo cơm “ghì sát đất”. Hộ

trong Đời thừa là một nhà văn nghèo, phải lo cho một gia đình gồm mẹ già,
Từ, đàn con đông đúc. Bao nhiêu thứ phải chăm lo dồn lên vai khiến Hộ không
thể viết được những tác phẩm lớn của cuộc đời, không theo đuổi được ước mơ
hoài bão. Chính điều đó khiến gia đình rạn nút và nguy cơ tan vỡ.
Kim Lân cũng là nhà văn viết nhiều về đề tài gia đình và tác phẩm nhiều
người nhớ đến nhất có lẽ là Vợ nhặt. Truyện lấy bối cảnh nạn đói lịch sử năm
1945 với nhũng xóm làng xơ xác, “người chết như ngả rạ” . Nhưng chính
11


trong hoàn cảnh cận kề cái chết đấy mà anh cu Tràng nhặt được vợ chỉ với
câu nói đùa và bốn bát bánh đúc. Thị - người vợ nhặt cũng rất liều lĩnh khi
theo người đàn ông vừa quen biết về làm vợ dù không hề biết hoàn cảnh gia
đình ra đình Tràng ra sao. Đúng là trong cái đói người ta không nghĩ đến cái
chết mà nghĩ đến cái sống và tình thương.
Sau Cách mạng tháng Tám, đất nước ta phải trải qua 30 năm chiến tranh
giải phóng dân tộc. Lúc này vận mệnh đất nước được đặt lên hàng đầu.
Nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng Việt Nam (trong đó có văn học nghệ thuật)
là phục vụ công cuộc kháng chiến kiến quốc, cổ vũ chiến đấu. Các nhà văn
trở thành người chiến sĩ, chuốt nhọn vũ khí văn chưong để phục vụ cho cách
mạng. Họ không ngần ngại làm anh “tuyên truyền viên”, hoà mình vào cuộc
sống công - nông - binh, ca ngợi nhân dân, ca ngợi anh bộ đội, ca ngợi những
chiến công vang dội của dân tộc... Đe tài hôn gia đình không thích hợp trong
thời chiến nên được gác lại. Vì vậy, những vấn đề gia đình dường như không
được đề cập như một mảng sáng tác lớn trong văn học cách mạng Việt Nam
1945 - 1975. Vấn đề gia đình trong các sáng tác thời kì này là nhũng gia đình
lí tưởng, gia đình cách mạng.
Thời kì này, Tô Hoài có rất nhiều sáng tác đề cập đến vấn đề gia đình.
Đọc Vợ chồng A Phủ ta thấy thái độ phê phán, tố cáo tội ác của tầng lớp
phong kiến miền núi trói buộc con người vào gia đình bằng thần quyền, tôn

giáo. Mị trong Vợ chồng A Phủ bị bắt về làm dâu trong nhà thống lí Pá Tra để
trò nợ, món nợ truyền kiếp từ cha mẹ Mị. Ngày ngày, Mị tưởng mình là con
trâu con ngựa chỉ biết ăn cỏ và làm việc mà thôi vì MỊ đã được cúng trình ma
nhà thống lí rồi, chết cũng phải làm con ma nhà thống lí. Cuộc sống của Mị
héo mòn dần trong căn phòng bé tí với một ô cửa mờ mờ trắng trắng không
biết là sương hay nắng, nếu không gặp A Phủ và bỏ trốn cùng A Phủ. Cuộc
sống của vợ chồng A Phủ ở Phiềng Sa là những tháng ngày đẹp, hai con

12


người yêu tự do có sức mạnh vưọt qua cường quyền đã sớm giác ngộ và đi
theo cách mạng.
Khi miền Bắc đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa thì gia đình trong văn
học chủ yếu đề cập đến vấn đề mâu thuẫn bất hòa giữa lớp trẻ và thế hệ đi
trước trong việc hợp tác hóa và đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa. Các tác
phẩm tiêu biểu như Cải sân gạch, Vụ lúa chiêm (Đào Vũ), Bão Biển (Chu
Văn) đã phản ánh kịp thời vấn đề gia đình trong xây dụng xã hội mới.
Sau chiến thắng 30/4/1975, đất nước ta hoàn toàn độc lập, thống nhất.
Lịch sử sang trang nhưng văn học vẫn trượt theo quán tính một thời gian nữa.
Đe tài chiến tranh cách mạng vẫn là đề tài ưa thích của văn nghệ sĩ. Cảm
hứng ca ngợi vẫn là cảm hứng chủ đạo của phần lớn tác phẩm ra đời trước
1980. Tuy nhiên người đọc không còn nhiều cảm hứng cho mảng đề tài này
như trước nữa. Đặc biệt là sau Đại hội Đảng lần VI, các nhà văn luôn trăn trở
cho sự đổi mới văn học, cảm hứng “sử thi” trong cách mạng được thay bằng
cảm hứng “thế sự”, con người nói về những vấn đề tồn tại trong xã hội. Các
nhà văn không né tránh, ngại ngùng khi khai thác các mặt trái, góc khuất,
phần chìm của hiện thực cuộc sống. Đe tài gia đình có phần bị chìm lấp sau
Cách mạng tháng Tám được khơi nguồn trở lại, tạo thành dòng chảy chính và
thu được những thành tựu đáng kế. Có thể nói chưa bao giờ đề tài gia đình lại

giành được sự quan tâm của đông đảo giới cầm bút như thế. Văn học thời kỳ
này xuất hiện với mật độ dày đặc tác phẩm viết về đề tài gia đình hoặc có liên
quan đến vấn đề gia đình như Mùa lả rụng trong vườn, Côi cút giữa cảnh đời,
Trăng soi sân nhỏ, Anh thợ chữa khoá, Chọn chồng, Anh cả tôi, N ợ đời, Gái
có con, Phép lạ thường ngày, Nhan sắc đàn bà, c ỏ dại... (Ma Văn Kháng),
Thời xa vắng, Hai nhà, Sóng ở đáy sông (Lê Lựu), Ben không chồng (Dương
Hướng), Tướĩĩg về hưu, Không có vua, Tâm hồn mẹ (Nguyễn Huy Thiệp), Gia
đình bẻ mọn (Dạ Ngân), Nôi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Mảnh đất lắm
người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường)... Trong đó có nhiều tác phẩm xuất
13


sắc, đạt các giải thưởng cao của Hội Nhà văn và để lại nhiều dư âm trong lòng
độc giả như Mùa lá rụng trong vườn, Thời xa vắng, Ben không chồng, Mảnh
đất lắm người nhiều m a...Các tác phẩm viết về đề tài gia đình trong văn học
Việt Nam sau 1975 đã đi sâu khai thác các mối quan hệ phức tạp, đa chiều
của gia đình Việt Nam trong thời mở cửa. Nhà văn tập trung phản ánh cuộc
sống cá nhân trong mối quan hệ với gia đình và xã hội. v ấ n đề cá tính được
tôn trọng, được đề cao. Neu như văn học cách mạng 1945 - 1975 thường đặt
lợi ích quốc gia, dân tộc, cộng đồng lên trên lợi ích cá nhân thì các sáng tác về
đề tài gia đình sau 1975 lại có xu hướng nghiêng về thể hiện vai trò của văn
học đối với cá nhân - gia đình. Mỗi nhà văn có một cách riêng gắn với phong
cách của mình để thể hện vấn đề hôn nhân gia đình.
Thời xa vắng của Lê Lựu kể về một thời gần đây thôi mà người ta đã
muốn quyên nó đi, muốn chôn sâu vào tiềm thức. Tác giả kể về cuộc đời của
Giang Minh Sài, một người “nửa đời yêu cái mà người khác yêu, nửa còn lại
yêu cái mà mình không có”. Cuộc đời anh là một tấn bi kịch về gia đình.
Ngày đầu Sài lấy Tuyết vì sự sắp đặt của gia đình, sau đó anh buộc phải yêu
vợ, mục đích là để vào Đảng. Cuộc đời anh rẽ sang trang mới khi Sài trở
thành anh hùng, quyết định bỏ vợ và lập gia đình với người con gái mà anh

yêu. Nhung thật trớ trêu khi Châu - vợ anh không hề yêu anh mà chỉ muốn lấy
anh để hợp thức hóa cái thai trong bụng với người tình cũ. Bi kịch cứ theo
đuổi cuộc đời Sài. Nguyên nhân là do Sài thiếu bản lĩnh nhưng nguyên nhân
sâu xa chính là sự áp đặt của xã hội, công đồng lên cá nhân. Sài có phản
kháng nhưng bị gia đình, xã hội đè bẹp. Tác phẩm cho thấy một cái nhìn mới,
chân thực hơn về xã hội đương thời.
Không chỉ có những gia đình giàu có bị mặt trái của nền kinh tế thị
trường làm méo mó, biến dạng mà ngay cả trong nhũng gia đình vốn êm ấm
giản dị cũng bị đồng tiền làm cho điêu đứng, tan vỡ. Trong Tiễn biệt những
ngày buồn của Trung Trung Đỉnh, vợ chồng Xoay - Sương sống cuộc sống
14


êm đềm hạnh phúc với một sổ gạo, một suất lương. Nhung thời thế thay đổi
thì suy nghĩ con người cũng thay đổi. Sương tìm được công việc mới và đời
sống vật chất ngày một cải thiện. Song chính từ công việc mới này mà Sương
thay đổi từ cách ăn mặc, nói năng đến cử chỉ, hành động. Cuối cùng cô đã
lạnh lùng rời bỏ người chồng từng êm đềm yêu thương, hạnh phúc với mình
bởi giờ đây cô thấy anh là người chồng tốt, thừa tình yêu và thiếu tiền tài, của
cải để tìm cuộc sống mới.
Mùa lả rụng trong vườn của Ma Văn Kháng kể chuyện một gia đình trí
thức còn giữ nhiều nền nếp cổ truyền. Nhìn trên nét lớn, đây cũng là một gia
đình kiểu “tứ đại đồng đường” (dù không thật điển hình), bởi ở trong gia đình
lớn có sự tồn tại của các gia đình nhỏ (gia đình Đông - Lý, gia đình Luận Phượng và sau này có thêm vợ con Cừ). Be ngoài đây là một gia đình mô
phạm mẫu mực, có nề nếp gia phong. Vậy mà cuộc sống khó khăn, đầy biến
động của đất nước sau chiến tranh đã đẩy gia đình “mẫu mực” ấy vào một
bước ngoặt với những dấu hiệu rạn nứt rõ ràng, không dễ khắc phục. Trong
Đám cưới không có giấy giả thủ Ma Văn Kháng đã khai thác rất thành công
đề tài gia đình. Tự là một thầy giáo hết lòng yêu nghề nhưng xã hội đổi thay
đã làm Tự cảm thấy lạc lõng, hụt hẫng. Xuyến, vợ anh chạy theo món lợi vật

chất, luôn coi thường và chì chiết chồng. Chị ta ngang nhiên ngoại tình. Cuộc
sống bình yên trước đây không còn nữa. Câu nói “Đời là một vại dưa muối
hỏng” đã ám ảnh trong tâm thức người đọc về một thời kì biến động không
chỉ vật chất mà còn tinh thần của đất nước sau chiến tranh.
Nguyễn Huy Thiệp trong Tướng về hưu đã dụng lên một bức tranh gia
đình mà các quan hệ giữa các thành viên trở nên hời hợt, lỏng lẻo. Ông tướng
Thuấn cả đời phục vụ cho cách mạng, cho lí tưởng của mình nên khi về hun
ông cảm thấy lạc lõng trong chính gia đình mình khi mà ngay cả vợ cũng hiểu
về mình rất ít. Những đứa con, đứa cháu chẳng được nuôi nấng, chăm sóc, ít
có điều kiện gần gũi nên không biết gì thậm chí không có cả tình cảm với cha,
15


với ông nội “khi lớn lên tôi chẳng biết gì về cha mình cả”. Hay trong truyện
Không có vua, Nguyễn Huy Thiệp cũng thể hiện xã hội thời hậu chiến trong
gia đình lão Kiền. Gia đình đó là một gia đình không có tôn ti, trật tự, trên
dưới và có rất nhiều loại người trong xã hội. Lão Kiền sống với năm người
con trai nhưng người đọc khó có thể nhận ra ai là chủ gia đình đó. Trong một
gia đình có rất nhiều loại người trong xã hội: Một thợ cắt tóc, một công chức
ngành giáo dục, một nhân viên lò mổ, một sinh viên đại học và một đứa con
út bị bệnh thần k inh.. .thì ai là người kiếm ra nhiều tiền nhất thì người ấy sẽ là
chủ gia đình. Đúng là trong xã hội thời mở cửa, đồng tiền chi phối tất cả, giá
trị vật chất được đề cao trên giá trị đạo đức.
Như vậy, đề tài gia đình có bước thăng trầm theo tiến trình lịch sử, nhất
là trong thời kì vận mệnh đất nước được đặt lên hàng đầu, nhung cuối cùng
cũng đã hòa vào các đề tài khác góp phần đưa văn học việt Nam đi đúng quỹ
đạo của văn học nhân loại, thực sự trở thành một khoa học của con người,
vì con người.
1.3. Ma Văn Kháng và tiểu thuyết M ùa lá rụng trong vườn
1.3.1. Vài nét về tiễu sử Ma Văn Kháng

Ma Văn Kháng tên thật là Đinh Trọng Đoàn, sinh ngày 01/12/1936. Quê
gốc ở ở phường Kim Liên - quận Đống Đa - Hà Nội, nay là Quận Ba Đình Hà Nội. Thuở xưa vùng này nằm ở cửa ngõ phía Nam kinh thành Thăng
Long, một vùng nông thôn lam lũ và nghèo khổ. Mọi người cần cù và chịu
khó làm ăn nhung cuộc sống vẫn không thay đổi. Cho đến khi cách mạng về
thì người dân được học hành, làng quê thay đổi da thịt. Cũng vì vậy, Ma Văn
Kháng sớm ý thức được trách nhiệm của bản thân đối với đất nước với cuộc
đời. Ông là Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, Hội viên Hội Nhà văn Việt
Nam.
Vào năm 1950 Ma Văn Kháng học trường Thiếu sinh quân Việt Nam.
Từ năm 1952- 1954 ông tiếp tục học tại trường Sư phạm Khu học xá Nam
16


Ninh (Quảng Tây - Trung Quốc). Năm 1960, Ma Văn Kháng vào học tại
trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Sau khi tốt nghiệp, ông xung phong lên dạy
học ở Lào Cai, là giáo viên dạy Văn, là hiệu trưởng trường trung học.

về sau

ông được Tỉnh ủy điều về làm thư kí cho đồng chí Bí thư tỉnh ủy Trường
Minh, rồi làm phóng viên, phó Tổng biên tập báo của Đảng bộ Tỉnh. Bí danh
Ma Văn Kháng được dùng làm bút danh đế nói lên sự gắn bó sâu sắc và tình
yêu của tác giả đối với vùng đất mà ông từng hoạt động hơn 20 năm. Sau khi
đất nước thống nhất, từ năm 1976 đến nay ông về công tác tại Hà Nội, từng
làm Tổng biên tập, phó giám đốc Nhà xuất bản Lao Động. Từ tháng 3/1995 là
ủ y viên ban chấp hành, ủ y viên Đảng đoàn Hội Nhà văn Việt Nam khóa V,
Tổng biên tập Tạp chí Văn học nước ngoài.
Đinh Trọng Toàn khi mới ngoài hai mươi tuổi với lí tưởng thời đại và
lòng say mê văn học đã hăm hở đi lên vùng đất mới lạ và cũng rất vất vả, khó
khăn - Lào Cai. Tại đây ông đã dâng hiến tuổi thanh xuân của mình và bạn bè

để xây dựng, thay đổi vùng đất còn nghèo nàn, lạc hậu này. Cũng chính nơi đây
đã để lại cho ông nhiều kỉ niệm in sâu vào trong tùng tác phẩm. Từ khi chuyển
về Hà Nội công tác, Ma Văn Kháng vẫn cống hiến hết sức lực cho văn học qua
rất nhiều tác phẩm. Xã hội đô thành với rất nhiều bộn bề, bon chen và phức tạp
trở thành nguồn cảm hứng của ông giai đoạn này. Ồng đã quan sát cuộc sống
rất kĩ, từ dưới lên, từ trên xuống, từ ngoài vào, từ trong ra, tất cả đều được phản
ánh, nhào nặn qua ngòi bút của ông để tạo thành rất nhiều tác phẩm có giá trị.
Cuộc đời Ma Văn Kháng là những chuyến đi, là sự trải nghiệm qua rất
nhiều khó khăn và thăng trầm của lịch sử. Ông cống hiến hết mình, làm việc
hết mình, không biết mệt mỏi để chi chút chắt lọc từng mẩu nhỏ cuộc đời, tạo
nên nhũng nhân vật độc đáo, giàu cá tính. Có thể nói, nhà văn Ma Văn Kháng
đã toàn tâm, toàn lực để tạo ra những dòng văn giàu cảm xúc cho những trang
tiểu thuyết của mình.

17


1.3.2. Sự nghiệp văn học
Sáng tác của Ma Văn Kháng tập trung vào hai đề tài chính là cuộc sống
của đồng bào miền núi phía Bắc và cuộc sống thành thị đầy phức tạp trong
cuộc chuyển mình mạnh mẽ của đất nước sau chiến thắng năm 1975. Các tác
phẩm chính của ông bao gồm:
Đồng bạc trắng hoa xòe (tiểu thuyết - 1979)
Vùng biên ải (tiểu thuyết - 1983)
Trăng non (tiểu thuyết - 1984)
Mưa mùa hạ (tiểu thuyết - 1982)
Mùa lả rụng trong vưòn (tiếu thuyết - 1985)
Võ sỹ lên đài (tiểu thuyết - 1986)
Côi cút giữa cảnh đời (tiếu thuyết - 1989)
Đảm cưới không có giấy giả thủ (tiểu thuyết - 1989)

Chó Bi, đời lưu lạc (tiểu thuyết - 1992)
Ngày đẹp trời (truyện ngắn - 1986)
Vệ s ĩ của Quan Châu (truyện ngắn - 1988)
Giấy trắng (tiểu thuyết)
Trái chín mùa thu (truyện ngắn - 1988)
Heo may gió lộng (truyện ngắn - 1992)
Trăng soi sân nhỏ (truyện ngắn - 1994)
Ngoại thành (truyện ngắn - 1996)
Truyện ngắn Ma Văn Kháng (tuyến tập - 1996)
Vòng quay cổ điển (truyện ngắn - 1997)
M ột chiều giỏ lộng (tiểu thuyết - 1998)
Ngược dòng nước lũ (tiếu thuyết -1999)
M ột mình một ngựa (Tiếu thuyết 2009)
Năm tháng nhọc nhằn, năm thảng nhớ thương (hồi ký 2011)

18


Sáng tác của Ma Văn Kháng được đánh giá cao ở cả thể loại truyện
ngắn và tiểu thuyết. Tính đến nay, nhà văn đã có trên 200 truyện ngắn và
15 tiểu thuyết.
Ồng được trao nhiều giải thưởng trong đó có giải thưởng loại B của Hội
Nhà văn Việt Nam năm 1986 cho quyển tiểu thuyết Mùa lả rụng trong vườn\
Giải thưởng của Hội đồng văn xuôi Hội Nhà văn Việt Nam 1995 cho tập
truyện ngắn Trăng soi sân nhỏ; Giải thưởng Văn học ASEAN. Giải thưởng
Nhà nước về Văn học - Nghệ thuật năm 2001; Giải thưởng Hồ Chí Minh về
Văn học - Nghệ thuật năm 2012 cho các tác phẩm Truyện ngắn chọn lọc, Mưa
mùa hạ, Côi cút giữa cảnh đời, Gặp gỡ ở La Pan Tần.
Ồng đã từng bộc bạch “Thôi thúc tôi viết là cái đẹp thật xúc động, thật
cao cả, thật khiêm nhường và lớn lao trong nhũng hoàn cảnh đau buốc nhất.

Tôi gửi gắm niềm tin yêu của tôi vào tất cả những cay đắng, xót xa của thân
phận. Bằng cách đó tôi biểu lộ tình yêu với cái đẹp của cuộc sống” đó cũng
chính là quan niệm sáng tác của tác giả. Ma Văn kháng là nhà văn lão làng
của văn học Việt Nam hiện đại, đã cống hiến cho nền văn học một khối lượng
tác phẩm khá lớn, góp phần quan trọng vào dòng chảy văn chương nước nhà
cả về nội dung và nghệ thuật, làm cho văn học trở nên phong phú và đa dạng.
1.3.3. Tiễu thuyết Mùa lá rụng trong vườn
Mùa lả rụng trong vườn là một tiểu thuyết đặc sắc Ma Văn Kháng, hoàn
thành vào tháng 12 năm 1982 và được xuất bản lần đầu vào năm 1985. Lấy
bối cảnh một gia đình truyền thống vào những năm 80 của thế kỉ XX, khi đất
nước bắt đầu có nhũng bước chuyển mình mạnh mẽ sau chiến tranh, gây ra
nhiều thay đổi tốt có, xấu có; truyện đã phản ánh chân thực những biến động
trong xã hội thời bấy giờ và những ảnh hưởng to lớn của nó tới gia đình - tế
bào của xã hội.
Chuyện xoay quanh đời sống gia đình ông Bằng - một gia đình có truyền
thống, nề nếp ở Hà Nội, gồm ba thế hệ chung sống với nhau thời hậu chiến, cơ
19


×