Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Những biện pháp quản lý nhằm hạn chế học sinh yếu kém, lưu ban và bỏ học ở trường THPT vinh xuân, huyện phú vang, tỉnh thừa thiên huế trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (313.63 KB, 33 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Hiện nay, Việt Nam đang diễn ra công cuộc đổi mới sâu sắc trong phạm vi toàn
xã hội. Sự nghiệp giáo dục của nước ta đang được nhận thức một cách sâu sắc và rất
quan trọng là “quốc sách hàng đầu”, được thể hiện rõ ở Nghị quyết Đại hội Đảng lần
thứ VIII và được khẳng định lại ở Đại hội X, Đại hội XI của Đảng. Đảng và Nhà nước
ta đã, đang có những chủ trương, chính sách quan trọng đối với giáo dục để thúc đẩy
nền giáo dục Việt Nam phát triển toàn diện, hiện đại phù hợp với xu thế chung của thế
giới. Do đó giáo dục cần đẩy mạnh hơn cơng tác xã hội hố cho mọi người tham gia
học tập, hoàn thành phổ cập THPT đáp ứng yêu cầu mới của xã hội nhằm góp phần
xây dựng thành cơng sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố tiến lên xây dựng xã hội
chủ nghĩa của nước ta.
Trong văn kiện Hội nghị lần II Ban chấp hành Trung ương Đảng khố VIII
khẳng định rằng: Muốn tiến hành cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá thắng lợi phải phát
triển mạnh giáo dục và đào tạo, phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự
phát triển nhanh và bền vững, để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng dân chủ văn minh. Phát triển nguồn lực con người là phát triển đức và tài.
Trong điều kiện đời sống hiện nay, xã hội có những bước chuyển biến không
ngừng, sâu rộng và to lớn về mọi mặt. Tuy nhiên với sự phát trển của nền kinh tế thị
trường đã có những mặt trái của nó; mặt trái của cơ chế thị trường đang tác động rất
mạnh đến tư tưởng và lối sống của một bộ phận nhân dân. Trong đó sự tác động đối
với thanh niên, thiếu niên là rất lớn, các tệ nạn xã hội đang xâm nhập vào các trường
học. Qua những năm thực hiện công cuộc đổi mới của Đảng, chúng ta đã đạt được
nhiều thành tựu to lớn về kinh tế - xã hội. Tuy vậy, về mặt học tập của một bộ phận
thanh niên, thiếu niên và các bậc phụ huynh vẫn chưa xác định rõ, còn xem nhẹ. Đặc
biệt là thế hệ trẻ, một số bộ phận học sinh sống khơng có lí tưởng, khơng có mục đích,
sống thực dụng chạy theo các nhu cầu tầm thường, ngại cống hiến, ngại khó khăn, sống
thích hưởng thụ, sống khơng có niềm tin, hoang mang, sống buông thả dẫn đến lười
biếng trong học tập nên xếp loại yếu kém để rồi lưu ban, bỏ học. Trước tình hình và
thực trạng này, trong những năm qua đã được các cấp các ngành, đặc biệt là ngành
giáo dục đã quan tâm, đầu tư giáo dục tồn diện, nhưng vấn đề này có những nơi còn


bị xem nhẹ, chưa được quan tâm và đầu tư đúng mức, việc tổ chức thực hiện chưa
đồng bộ và thiếu hiệu quả .
Trong những năm học gần đây, đặc biệt là đầu năm học 2006 - 2007, Bộ Giáo
dục và Đào tạo phát động cuộc vận động: Nói khơng với tiêu cực trong thi cử và bệnh
thành tích trong giáo dục với cam kết: Các thầy cô giáo và cán bộ quản lý ngành giáo
dục không chấp nhận, không tiếp tay cho gian lận thi cử, không chấp nhận bệnh chạy
theo thành tích trong đánh giá các cơ sở giáo dục và đào tạo, đánh giá ngành giáo dục
các tỉnh thành và đánh giá giáo viên thì chất lượng giáo dục ở nước ta đã có sự thay
đổi về chất nhưng chất lượng giáo dục cũng bộc lộ những hạn chế cần được khắc phục
kịp thời như: tỉ lệ học sinh yếu kém gia tăng; tỉ lệ học sinh thi đỗ tốt nghiệp THPT

1


thấp, nhiều trường khơng có học nào đỗ tốt nghiệp, hoặc đỗ tốt nghiệp rất thấp; phát
hiện nhiều học sinh ngồi nhầm lớp; tỉ lệ học sinh bỏ học đáng báo động…
Do đó vấn đề chất lượng giáo dục, học sinh bỏ học được xã hội rất quan tâm;
các phương tiện thông tin đại chúng liên tiếp đưa tin về tình trạng học sinh bỏ học với
số lượng ngày càng tăng và trải khắp nhiều địa phương trong cả nước. Có nhiều
ngun nhân dẫn đến tình trạng này, như do các học sinh này học lực yếu hoặc bị lưu
ban, gia đình khó khăn khơng thể đến trường, chương trình học quá căng thẳng, đạo lý
thầy trò xuống cấp…
Việc thực hiện cuộc vận động "Hai không" của Bộ Giáo dục và Đào tạo trong
thời gian qua đã đạt được một số kết quả bước đầu rất đáng khích lệ. Mặt khác, nó
cũng đã bộc lộ rõ ràng hơn những hạn chế, tồn tại xảy ra từ trước đây. Đó là chất lượng
dạy và học cịn yếu kém, bệnh thành tích trong giáo dục nên các học sinh yếu kém vẫn
được lên lớp, vẫn được khen thưởng, quan hệ thầy trò bị "thị trường hóa"... khi thực
hiện "hai khơng" đã nhanh chóng phát hiện ra tình trạng này và đã có bước chấn chỉnh,
khắc phục. Tuy nhiên, lại xuất hiện vấn đề mới, phức tạp và rất nghiêm trọng, cấp bách
cần phải tìm hướng giải quyết để hạn chế hậu quả về sau - Đó là tình trạng học sinh

yếu kém, lưu ban và bỏ học.
Cùng chung tình hình của ngành giáo dục, tình trạng học sinh yếu kém, học sinh
yếu kém, lưu ban và bỏ học ở trường THPT Vinh Xuân cũng diễn ra khá phức tạp.
Trường THPT Vinh Xuân thành lập và phát triển trong bảy năm, nằm trên vùng ven
biển đầm phá huyện Phú Vang, nằm trong vùng các xã bãi ngang có kinh tế đặc biệt
khó khăn; đời sống nhân dân đa số cịn có nhiều khó khăn nên hiện tượng học sinh yếu
kém, lưu ban bỏ học vẫn có tỉ lệ cao trở thành một vấn đề quan tâm đặc biệt của Chi
bộ, Ban Giám hiệu, các tổ chức đoàn thể của trường THPT Vinh Xuân, đồng thời đã đã
triển khai thực hiện nhiều biện pháp để ngăn chặn và hạn chế học sinh yếu kém, lưu
ban, bỏ học để từng bước nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường.
Đối với trường THPT Vinh Xuân từ khi mới thành lập mặc dù còn nhiều khó
khăn nhưng qua từng năm học đã có nhiều tiến bộ, đạt được nhiều kết quả đáng khích
lệ trong giáo dục tồn diện, góp phần ngăn ngừa, hạn chế một bộ phận lớn học sinh lưu
ban, bỏ học. Đó là nhờ vào kết quả của việc tăng cường giáo dục kỷ cương nề nếp
trong hoạt động dạy và học, đặc biệt là sự tận tâm, tận tình của Chi bộ, Ban Giám hiệu
cùng tập thể giáo viên trong nhà trường luôn kịp thời động viên, tạo mọi điều kiện cho
học sinh học tập và đến trường. Bản thân đang là Phó Hiệu trưởng, được nhà trường
phân cơng quản lí hoạt động ngoài giờ lên lớp, giáo dục đạo đức tư tưởng cho học sinh,
quản lý hoạt động của Đoàn thanh niên đồng thời qua việc giảng dạy, tôi nhận thấy
cơng tác tìm hiểu, nghiên cứu những biện pháp ngăn ngừa và hạn chế học sinh yếu
kém dẫn đến lưu ban, bỏ học phải được luôn được coi trọng và có nhiều giải pháp
thích hợp, từ đó làm nền tảng góp phần nâng cao chất lượng giáo dục ở trường THPT
Vinh Xuân, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế nói riêng và ở trường THPT nói
chung.
Xuất phát từ những lý do như đã nêu trên, tôi chọn đề tài: Những biện pháp
quản lý nhằm hạn chế học sinh yếu kém, lưu ban và bỏ học ở trường THPT Vinh Xuân,
huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế trong giai đoạn hiện nay.
2



2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất những biện pháp ngăn ngừa và hạn chế học sinh yếu kém, lưu ban và bỏ
học nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh trường THPT Vinh Xuân, huyện Phú
Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế; để có những nhận thức đầy đủ và đúng đắn về vai trị của
việc duy trì sĩ số và giúp cho học sinh luôn được đến trường học tập ở bậc THPT, góp
phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đáp ứng điều kiện đào tạo con người
mới phù hợp với yêu cầu của đất nước trong giai đoạn phát triển hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Xác định cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý của những biện pháp quản lí nhằm
nâng cao chất lượng giáo dục ngăn ngừa và hạn chế học sinh yếu kém, lưu ban và bỏ
học ở trường THPT Vinh Xuân, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế.
3.2. Phân tích, đánh giá thực trạng học sinh lưu ban, bỏ học ở trường THPT
Vinh Xuân, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế.
3.3. Đề xuất những biện pháp quản lí nhằm nâng cao chất lượng giáo dục nhằm
hạn chế học sinh yếu kém, lưu ban, bỏ học ở trường THPT Vinh Xuân, huyện Phú
Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng nghiên cứu
4.1. Nghiên cứu thực tế từ cán bộ, giáo viên và học sinh của trường THPT Vinh
Xuân, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế.
4.2. Từ thực trạng, nghiên cứu những biện pháp quản lí nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục hạn chế học sinh yếu kém, lưu ban và bỏ học ở trường THPT Vinh
Xuân, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Nghiên cứu các văn kiện, tài liệu
của Đảng và Nhà nước về giáo dục và đào tạo, của Bộ Giáo dục và Đào tạo, các ngành
có liên quan.
5.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Nghiên cứu các giáo trình, tài
liệu, các kinh nghiệm thực tiễn về giáo dục và những biện pháp hạn chế học sinh yếu
kém, lưu ban, bỏ học qua quá trình cơng tác quản lí ở Tổ chun mơn và cơng tác
Đồn thanh niên (trước đây); cơng tác quản lý được Hiệu trưởng phân công hiện nay;

khảo sát thực tế, tổng kết thực tế, so sánh, thống kê chất lượng giáo dục trong 7 năm
học 2003-2004; 2004-2005; 2005-2006; 2006-2007; 2007-2008; 2008-2009 và 20092010 của trường THPT Vinh Xuân, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế.
5.3. Nhóm phương pháp nghiên cứu hỗ trợ: Bảng biểu, thống kê, điều tra xử lý
số liệu.
5.4. Từ những phương pháp trên, tiến hành phân tích, tổng hợp và khái quát
thành những vấn đề cơ bản trong công tác thực hiện các biện pháp hạn chế học sinh
yếu kém, lưu ban và bỏ học ở trường THPT Vinh Xuân, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa
Thiên Huế.

3


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA VIỆC THỰC HIỆN NHỮNG
BIỆN PHÁP QUẢN LÝ NHẰM HẠN CHẾ HỌC SINH YẾU KÉM,
LƯU BAN, BỎ HỌC CỦA TRƯỜNG THPT VINH XUÂN,
HUYỆN PHÚ VANG, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
1.1. Cơ sở lý luận của việc thực hiện những biện pháp quản lý nhằm hạn
chế học sinh yếu kém, lưu ban và bỏ học của học sinh
Để xác định đúng mục tiêu của việc quản lí giáo dục và quản lí nhằm ngăn ngừa
và hạn chế học sinh yếu kém, lưu ban và bỏ học ở trường THPT chúng ta cần nhận
thức đúng đắn, đầy đủ về đối tượng giáo dục; từ đó người quản lí xác định được nội
dung, phương pháp chính xác, tồn diện để đảm bảo đạt hiệu quả cao trong công tác
giáo dục học sinh. Trước hết, nhà quản lí và giáo viên phải nhận thức rõ cơ sở pháp lí
về vấn đề giáo dục tồn diện cho học sinh THPT.
Xét về góc độ tâm lí lứa tuổi:
Theo tổ chức Y tế thế giới WHO độ tuổi vị thành niên có từ 10 đến 19 tuổi, ở
Việt Nam quy định độ tuổi vị thành niên từ 10 đến 18 tuổi, theo điều tra tỷ lệ thanh
niên ở nước ta năm 2009 chiếm 18,7% dân số, trong đó 83% đang theo học. Như vậy

học sinh THPT là lứa tuổi cuối lứa tuổi vị thành niên, giai đoạn này các em phát triển
mạnh về thể chất, sinh lí. Là thời kì chuyển tiếp từ trẻ em sang người lớn, các em ln
có xu hướng tự khẳng định mình, có ý thức vươn lên làm chủ bản thân. Ở giai đoạn
phát triển này sự quản lí, kiểm tra, giám sát của người lớn làm các em cảm thấy rất khó
chịu, bực bội và rất dễ nổi nóng. Trong lứa tuổi này các em muốn tìm tịi, phát hiện
khám phá, tìm hiểu những điều chưa biết của cuộc sống, các em muốn có quyền tự
quyết định trong các cơng việc, việc làm của mình; muốn khơng bị sự ràng buộc của
gia đình, bố mẹ và những người lớn tuổi. Cũng chính vì thế, lứa tuổi này thường ít xác
định đúng mục đích và phương hướng cho tương lai một cách đầy đủ nhất. Đôi lúc, sa
đà vào những suy nghĩ lệch lạc, đánh mất giai đoạn chỉ vì ham chơi, theo bạn bè và
cuối cùng chễnh mãng trong công việc học tập. Có em vì hồn cảnh gia đình khó khăn,
tự ái với đồng lứa dẫn đến nghĩ học; cũng có em do học tập yếu kém dẫn đến bất mãn
không theo học nữa. phải tháy được rằng ở lứa tuổi này, các em rất cần sự quan tâm,
giúp đỡ của người lớn là hết sức cần thiết. Đặc biệt là những thầy giáo, cô giáo, người
trực tiếp cung cấp cho các em tri thức và giúp các em từng bước hình thành nhân cách.
Xét về góc độ xã hội:
Ở lứa tuổi này sự giao tiếp với bạn bè là một nhu cầu rất lớn. Các em có xu
hướng tụ tập thành từng nhóm có cùng sở thích, phù hợp với tình tình để vui chơi, sinh
hoạt, có những lúc, những nơi các em có các hành động khơng đúng, không phù hợp

4


với lứa tuổi của mình. Trong giai đoạn này quá trình phát triển sinh lí ảnh hưởng đến
rất nhiều tính cách của các em: các em rất dễ bị xúc động khi có một tác động nào đó,
bản thân các em dễ bị lơi kéo, kích động, lịng kiên trì và khả năng tự kiềm chế yếu. Ở
lứa tuổi này tính tình khơng ổn định, dễ nổi nóng, khi thì q sơi nổi nhiệt tình nhưng
có trở ngại lại dễ buông xuôi, chán nản. Đối với các em ở lứa tuổi này, cái gì cũng dễ
dàng, đơn giản, các em ln ở trạng thái hiếu thắng hoặc tự ti.Vì thế dễ dàng đi đến
những hành động thiếu suy nghĩ chín chắn, hay tự ái.

Chính vì vậy, các thầy cơ giáo, các bậc phụ huynh và các tổ chức trong xã hội
phải có trách nhiệm quan tâm sát sao, động viên kịp thời để định hướng, điều chỉnh các
em có những suy nghĩ và hành động đúng, đặc biệt là các học sinh có học lực yếu kém,
bị lưu ban, hoặc bỏ học đi học lại. Để quản lí các hoạt động giáo dục tốt quá trình học
tập và rèn luyện học sinh trong nhà trường THPT, người cán bộ quản lí cần nắm vững
vấn đề cụ thể q trình học tập và rèn luyện nâng cao chất lượng giáo dục phát triển
tồn diện học sinh có các đặc điểm sau:
- Có sự gắn kết chặt chẽ với q trình dạy học trên lớp và dạy học giáo dục
ngoài giờ lên lớp.
- Có định hướng thống nhất các yêu cầu, mục đích giáo dục giữa các tổ chức
giáo dục trong và ngồi nhà trường.
- Tính biện chứng, phức tạp trong q trình phát triển, biến đổi về nhân cách của
học sinh về mặt ý thức tự giác, không ngừng tự vươn lên trong học tập, tìm tịi, sáng
tạo và rèn luyện để hình thành nhân cách, trí tuệ.
- Tính lâu dài của quá trình hình thành, phát triển tri thức và nhân cách.
- Có sự tương tác hai chiều giữa nhà giáo dục và đối tượng được giáo dục.
1.2. Cơ sở pháp lý của việc thực hiện những biện pháp quản lý nhằm hạn
chế học sinh yếu kém, lưu ban và bỏ học của học sinh
Q trình giáo dục tồn diện được xác định trong các văn kiện của Đảng, Nhà
nước và của ngành giáo dục:
Trong văn kiện Hội nghị lần thứ II Ban chấp hành TW Đảng khoá VIII đã nêu
rõ: Nhiệm vụ mục tiêu cơ bản của giáo dục là nhằm xây dựng những con người và thế
hệ thiết tha gắn bó với lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong
sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cơng nghiệp hố, hiện đại hố
đất nước, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá của dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh
hoa văn hố của nhân loại, phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có
ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và
cơng nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có tính tổ chức kỷ luật cao là những con người
kế thừa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa hồng vừa chuyên.
Quan điểm của Đảng về phát triển giáo dục trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 - 2010 đã khẳng định: Giáo dục con người Việt Nam phát triển tồn diện

có đạo đức, có tri thức, có sức khoẻ và thẩm mỹ... góp phần làm cho dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.

5


Điều 2 chương I của Luật Giáo dục năm 2005 nêu rõ: Mục tiêu giáo dục là đào
tạo con người Việt Nam phát triển tồn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ
và nghề nghiệp, trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình
thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong Điều 23 mục 2 chương II Luật Giáo dục cũng khẳng định: Mục tiêu của
giáo dục phổ thơng là giúp học sinh phát triển tồn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất,
thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam xã
hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp
tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Chỉ thị số 33/2006/CT-TTg ngày 08-9-2006 của Thủ tướng Chính phủ Về chống
tiêu cực và khắc phục bệnh thành tích trong giáo dục; Quyết định số 3859/QĐBGDĐT ngày 28-7-2006 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT về việc ban hành Kế hoạch tổ
chức cuộc vận động Nói khơng với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo
dục và hướng dẫn thực hiện cuộc vận động Nói khơng với tiêu cực trong thi cử và bệnh
thành tích trong giáo dục của Sở GD&ĐT Thừa Thiên Huế. Năm học 2007-2008, đưa
cuộc vận động này trở thành nội dung nhiệm vụ cụ thể là : Nói khơng với tiêu cực
trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục; khơng vi phạm đạo đức nhà giáo và
không để học sinh ngồi nhầm chỗ; Cuộc vận động Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương
đạo đức, tự học và sáng tạo; phong trào Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích
cực.
Tại Hội nghị giao ban lần thứ 2 cuộc vận động “Hai không" năm học 2007-2008
diễn ra ngày 01/02/2008 tại Tây Ninh do Bộ GD&ĐT tổ chức, hầu hết các địa phương
đều kiến nghị Bộ GD&ĐT cần có sự quan tâm đặc biệt và giải pháp đối với hiện tượng

học sinh bỏ học: ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, số học sinh bỏ học đến nay đã
lên tới trên 40.000 em, các tỉnh miền Trung có khoảng 18.000 học sinh... Trong học kỳ
I, học sinh bỏ học trên 100.000 em. Học sinh bỏ học do nhiều nguyên nhân nhưng nổi
lên chính là do làm nghiêm nội dung cuộc vận động “nói không với ngồi nhầm chỗ”
nên số học sinh thực sự yếu kém phải lưu ban, chán học rồi bỏ học.
Muốn giáo dục học sinh để nâng cao chất lượng giáo dục nói chung và hạn chế
học sinh yếu kém, lưu ban và bỏ học nói riêng đạt hiệu quả cao trước hết cần nắm vững
đặc điểm tâm lí lứa tuổi, đặc điểm tâm lí học sinh ở mỗi địa phương, tình hình thực
trạng các mặt chất lượng của học sinh trong nhà trường. Đồng thời, giáo dục học sinh
phải được tiến hành bằng nhiều biện pháp, có mục tiêu phù hợp. Phải được xây dựng
nội dung, kế hoạch cụ thể và được làm thường xuyên liên tục, phải có hệ thống mới đạt
kết quả cao.
Giáo dục văn hoá cho học sinh phải được tiến hành bằng nhiều hình thức phong
phú, linh hoạt, phù hợp với lứa tuổi học sinh. Thông qua các hoạt động giáo dục trong
và ngoài nhà trường. Đồng thời phải biết kết hợp giáo dục giữa nhà trường - gia đình xã hội để tạo nên sức mạnh tổng hợp. Huy động mọi nguồn lực, mọi sự hỗ trợ của tất
cả các tổ chức, các cơ quan ban ngành, các đoàn thể cùng phối hợp để thực hiện tốt xã
hội hố giáo dục, góp phần nâng cao chất lượng học tập và rèn luyện của học sinh.

6


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CỦA VIỆC QUẢN LÍ NHẰM HẠN CHẾ HỌC SINH YẾU
KÉM, LƯU BAN VÀ BỎ HỌC CỦA TRƯỜNG THPT VINH XUÂN,
HUYỆN PHÚ VANG, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
2.1. Những nét khái quát về trường THPT Vinh Xuân, huyện Phú Vang,
tỉnh Thừa Thiên Huế
Phú Vang là huyện vùng biển nằm ở phía Đơng tỉnh Thừa Thiên Huế, có nền
kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, ngư nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản, do đó nền kinh tế
chưa phát triển mạnh. Nguồn thu nhập của người dân còn thấp và đời sống của phần

lớn nhân dân cịn khó khăn . Những năm gần đây huyện Phú Vang được nhà nước và
tỉnh quan tâm đầu tư để thúc đẩy nền kinh tế của huyện phát triển , trong đó có việc
đầu tư xây dựng trường lớp ở các xã các cịn khó khăn, đặc biệt là xây dựng các trường
phổ thông trung học. Hiện nay, trên địa bàn của huyện Phú Vang có 4 trường THPT và
một trường THCS và THPT.
Trường THPT Vinh Xuân nằm ở xã Vinh Xuân, huyện Phú Vang , một xã
thuộc diện bãi ngang vùng cát ven biển. Học sinh chủ yếu của trường là con em vùng
dân cư của bốn xã Phú Diên, Vinh Xuân, Vinh Thanh, Vinh An, ngồi ra cịn có những
học sinh ở xã khác như: Thuận An, Phú Thuận, Phú Hải, Vinh Hà,Vinh Phú. Đời sống
người dân cơ bản là thu nhập từ nguồn nơng nghiệp, ngư nghiệp; chỉ có một bộ
phận học sinh có đời sống khá cao là con em của những gia đình có thân nhân
đi nước ngồi tập trung ở xã Vinh An.
Trường THPT Vinh Xuân được xây dựng năm 2001, lúc này trường là phân
hiệu cấp 3 của trường THCS Vinh Thanh, năm 2003 trường chính thức được thành lập
được mang tên là trường THPT Vinh Xuân. Trường THPT Vinh Xuân là ngôi trường
mới, xây dựng theo dự án trường bán nội trú dành cho vùng đầm phá. Về sau do nhu
cầu giáo dục của vùng bãi ngang ven biển Phú Vang nên được chuyển thành trường
THPT công lập. Khi mới thành lập trường chỉ có 4 lớp với số học sinh khoảng 200 em
và 15 giáo viên giảng dạy ở bậc THPT. Khi tách trường, trường có 18 lớp, 800 học
sinh và 32 giáo viên, 01 cán bộ quản lý. Đến nay trường đã có 28 lớp với số lượng học
sinh là 1269 em và 74 cán bộ, giáo viên và nhân viên.
Sau bảy năm được thành lập, nhà trường đã từng bước phát triển từ cơ sở vật
chất đến các mặt chất lượng dạy học. Ban đầu chỉ là một dãy nhà hai tầng với 14 phịng
học và một khoảng sân rộng tồn cát trắng, khơng một bóng cây xanh. Đến nay, trường
đã xây dựng một số hạn mục như : nhà hiệu bộ, nhà thi đấu đa chức năng; các phòng
chức năng như : phòng thực hành, thư viện, phịng vi tính ; đã trang bị một số thiết bị
dạy học như: máy tính, máy chiếu, máy projector... để phục vụ cho việc nghiên cứu
giảng dạy và học tập của giáo viên, học sinh; sân trường đã được lát gạch và cây xanh
đã vươn mình phủ bóng tạo nên sự khang trang cho ngơi trường mới ở vùng đầm phá
ven biển.


7


Do trường mới thành lập, ở trên địa bàn dân cư phần lớn đời sống cịn nhiều khó
khăn nên chất lượng đầu vào của trường qúa thấp, sức học không đồng đều, nhiều học
sinh bị hổng kiến thức cơ bản ở bậc THCS nên việc tiếp thu kiến thức mới cịn nhiều
hạn chế; ngồi ra cịn do nhiều ngun nhân khách quan và chủ quan khác nên chất
lượng giáo dục của trường còn thấp so với nhu cầu xã hội. Tuy nhiên từ khi mới thành
lập cho đến nay, với sự cố gắng không ngừng của cán bộ, giáo viên và học sinh toàn
trường, chất lượng giáo dục của nhà trường ngày càng đựơc nâng cao và phát triển rõ
rệt về mọi mặt như: kỷ cương nề nếp, chất lượng đội ngũ, cơ sở vật chất và chất lượng
giáo dục học sinh.
Hiện nay quy mơ nhà trường có 28 lớp, đội ngũ gồm 74 cán bộ giáo viên đều đạt
chuẩn và trên chuẩn. Cơ cấu tổ chức của nhà trường như sau:
- Chi bộ từ 02 đảng viên, mới tách Chi bộ ghép từ năm học 2005-2006. Hiện nay
Chi bộ gồm có 15 đồng chí.
- Ban giám hiệu gồm có 03 đồng chí được phân cơng nhiệm vụ cụ thể: Hiệu
trưởng phụ trách chung, Phó Hiệu trưởng phụ trách chuyên mơn (được bổ nhiệm trong
cuối năm học 2006-2007), Phó Hiệu trưởng phụ trách hoạt động giáo dục ngoài giờ lên
lớp (được bổ nhiệm từ năm học 2008-2009).
- Tổ chức Công đồn có 05 đồng chí trong Ban chấp hành được phân công phụ
trách về các mặt như đời sống, nữ cơng ...
- Tổ chức Đồn - Thanh niên gồm có 29 Chi đồn, trong đó có 28 Chi đồn học
sinh và 01 Chi đoàn giáo viên. Chi đoàn giáo viên gồm 58 đồng chí. Ban Thường vụ
Đồn trường có 04 đồng chí, được phân cơng quản lí cơng tác thi đua và giáo dục đạo
đức học sinh.
Những năm học gần đây, chất lượng giáo dục đã có sự thay đổi về chất, giáo
viên trong trưởng đã tích cực ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học và đã đạt
được nhiều giải giáo án điện tử do Sở GD&ĐT tổ chức , không ngừng đổi mới phương

pháp dạy học...đặc biệt từ khi nhà trường thực hiện nghiêm túc cuộc vận động của
ngành Nói khơng với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục, thực hiện
cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, từ đó đã thay
đổi nhận thức dạy và học của giáo viên và học sinh; đã đạt được một số kết quả khả
quan.
- Tỷ lệ tốt nghiệp THPT và học đạt giải học sinh giỏi cấp Tỉnh:
Năm học 2003-2004: 81,9% ; 01 giải KK
Năm học 2004-2005: 92,0% ;
Năm học 2005-2006: 72,0%.; 01 giải KK
Năm học 2006-2007: 76,7%;
02 giải ba, 02 giải KK
Năm học 2007-2008: 82,6%;
03 giải KK
Năm học 2008-2009: 89,9%;
01 giải ba, 05 giải KK
Năm học 2009-2010: 97,2% ; 10 giải KK

8


- Tỷ lệ học sinh lớp 12 đỗ vào các trường đại học hằng năm đạt khoảng 20 đến
36%; đỗ cao đẳng 25 – 30%
- Kết quả giáo dục trong 7 năm học như sau:
Năm
học
2003
2004

2004
2005


2005
2006

2006
2007

2007
2008

2008
2009

Khối
10
11
12
Toàn
trườn
g
10
11
12
Toàn
trườn
g
10
11
12
Toàn

trườn
g
10
11
12
Toàn
trườn
g
10
11
12
Toàn
trườn
g
10
11
12
Toàn
trườn
g

Hạnh kiểm (%)

Số
lớp

Tốt

Khá


09
05
04

60,2
65,0
68,2

32,0
30,5
31,5

18

65,2

11
08
05

TB

Học lực (%)
Yếu

Giỏi

Khá

TB


Yếu

Kém

7,3
4,2
0,3

0,5
0,3
0

6,2
4,0
2,2

32,0
30,5
25,5

58,1
49,2
34,4

18,3
14,2
6,7

1,6

0,5
0

30,3

4,2

0,3

4,1

35,5

45,9

14,2

0,3

59,2
66,0
69,2

34,0
31,0
30,3

6,5
2,5
0,5


0,3
0,5
0

6,0
4,0
2,2

32,0
30,5
25,5

58,6
49,2
34,4

18,5
14,2
6,7

1,6
0,5
0

24

66,2

31,3


2,3

0,2

4,5

36,2

45,9

13,2

0,2

10
10
08

58,0
65,0
68,7

34,0
30,5
31,0

7,3
4,0
0,3


0,7
0,5
0

6,5
4,2
2,5

32,8
30,3
26,5

58,1
49,0
34,3

18,0
14,0
6,7

1,6
0,5
0

28

65,5

30,2


4,1

0,2

4,7

36,3

46,4

12,3

0,3

10
09
09

62,0
56,9
64,7

28,0
32,9
32,3

1,4
9,7
3,0


0,6
0,5
0

0,5
1,7
0

15,3
17,0
14,6

56,6
55,9
61,3

26,4
25,0
24,0

1,2
0,4
0

28

60,9

31,2


7,5

0,4

0,7

15,6

56,7

26,2

0,7

10
09
09

70,0
63,2
64,4

27,0
34,8
34,6

2,7
1,5
1,0


0,3
0,5
0

1,0
1,9
0,5

17,4
18,2
20,5

62,0
59,9
64,3

18,5
19,5
14,7

1,1
0,5
0

28

65,6

32,4


1,7

0,3

1,1

18,7

62,0

17,6

0,6

10
09
09

73,7
71,8
79,1

24,3
23,7
20,9

1,8
3,7
0


0,2
0,8
0

1,3
1,1
1,2

27,0
25,8
34,3

50,4
57,1
48,4

21,1
15,3
16,1

0,2
0,7
0

28

74,7

23,1


1,9

0,3

1,2

28,7

52,0

17,8

0,3

9


10
10
72,2 24,0
3,4
0,4
1,9
29,7
11
09
68,5 24,2
6,6
0,7

0,7 25,7
2009
12
09
68,1 24,1
2,8
0
0,6
22,3
Toàn
2010 trườn
28
71,3 24,1
4,2
0,4
1,2 26,2
g
- Thực trạng học sinh lưu ban, bỏ học trong các năm học như sau:

49,5
52,8
55,6

18,1
20,1
21,5

0,8
0,7
0


52,3

19,7

0,6

Năm học

Tổng số
học sinh

Học sinh lưu ban

Học sinh bỏ học

2003 - 2004

800

26 (tỉ lệ 3,3%)

38 (tỉ lệ 4,7%)

2004 - 2005

1020

24 ( tỉ lệ 2,4%)


48 (tỉ lệ 4,7%)

2005 -2006

1225

20 (tỉ lệ 1,6%)

53 (tỉ lệ 4,4%)

2006 - 2007

1217

19 (tỉ lệ 1,6%)

52 (tỉ lệ 4,3%)

2007 - 2008

1172

18 (tỉ lệ 1,5%)

32 (tỉ lệ 2,7%)

2008 - 2009

1160


16 (tỉ lệ 1,4%)

20 (tỉ lệ 1,7%)

2009 - 2010

1242

11 (tỉ lệ 0,9%)

13 (tỉ lệ 1,0%)

Để đạt được kết quả trên đó là nhờ sự quan tâm giúp đỡ của các tổ chức, cơ
quan cấp trên, sự nỗ lực của đội ngũ quản lí, các tổ chức đồn thể, đặc biệt là tập thể
Hội đồng sư phạm của trường. Tuy vậy đội ngũ quản lí cần phải cố gắng tìm giải pháp
tốt hơn nữa để đưa nhà trường phát triển ngày càng vững mạnh đáp ứng được nhu cầu
của xã hội và của địa phương.
2.2. Những tồn tại, khó khăn
Qua những năm công tác tại trường, tôi nhận thấy do một số nguyên nhân khách
quan và chủ quan mà chất lượng giáo dục chưa cao là: đội ngũ cán bộ quản lí q
thiếu, đội ngũ giáo viên cịn thiếu một số bộ mơn, chỉ có Hiệu trưởng; khơng có giám
thị chuyên trách, chỉ có Ban giám thị kiêm nhiệm. Vì thế kỷ cương nề nếp dạy và học
của giáo viên, học sinh chưa thực sự được quan tâm đầy đủ, đúng mức, mặc dù đã đặt
lên vị trí hàng đầu, đồng thời còn thiếu những giải pháp cụ thể trong việc nâng chất
lượng chất lượng giáo dục chất lượng học lực cho học sinh.
Qua theo dõi việc học tập và rèn luyện của học sinh, có những biểu hiện việc
dẫn đến học tập yếu, kém, lưu ban, bỏ học và có nhiều nguyên nhân khiến học sinh
học tập yếu kém dẫn đến lưu và bỏ học.
2.2.1. Về phía học sinh
Chất lượng học sinh đầu vào thấp; có nhiều học sinh xếp loại học tập loại yếu,

lưu ban; có hạnh kiểm trung bình, yếu; sau khi thi lại, rèn luyện lại được xét tốt nghiệp
THCS vẫn được vào học lớp 10 của trường. Do đó có nhiều học sinh bị mất kiến thức
cơ bản từ cấp THCS vì cấp học này không thi tốt nghiệp, nên học sinh xem nhẹ việc

10


học hoặc khơng có phương pháp học tập phù hợp nên khi lên học ở bậc THPT các em
không theo kịp chương trình, nên chán nản, lại khơng cố gắng nên học tập yếu kém,
một số em lưu ban hoặc bỏ học.
Do cha mẹ lo làm ăn, đi làm ăn ở các tỉnh xa, ở nước ngoài thiếu quan tâm đối
với con cái, các em đã tự ý bỏ học nhưng gia đình khơng biết; số em khác thì lười học,
học vẹt, hay quay cóp trong kiểm tra, thi cử, kiến thức không vững dẫn đến chán nản,
bỏ học; số khác thì sa đà vào các trị chơi điện tử, internet. Sau khi kiểm tra học kỳ 1 là
thời điểm gần giáp Tết nguyên đán, học sinh có tư tưởng xả hơi, kỷ luật nhà trường có
phần lơi lỏng, thêm vào đó việc nghỉ Tết dài ngày, vui chơi thỏa thích, xa rời sách vở,
đến lúc đi học lại thì ngại hoặc kiến thức đã rơi rụng khiến học sinh đuối dần, không
theo kịp các bạn nên chán chường bỏ học. Một số học sinh có người thân đi làm ăn ở
các tỉnh xa như: Thành phố Hồ Chí Minh, Kon Tum, Đăk Lăk, Hà Tỉnh, Nghệ An,
Lào…về quê ăn Tết rủ rê, lôi kéo học sinh nghỉ học đi làm.
Một số học sinh có người thân đi nước ngồi, có kinh tế khá giả nên có tư tưởng
sống trơng chờ, ỷ lại vào sự giúp đỡ của người thân, học mang tính đối phó, xem nhẹ
việc học tập, khơng quan tâm đến việc học của mình; vừa học vừa “chờ thời” là chờ
đợi người thân tìm cách bảo lãnh đi nước ngồi.
Một số bộ phận học sinh sống khơng có lí tưởng, thiếu ý chí cố gắng phấn đấu,
khơng có bản lĩnh vững vàng trước những ảnh hưởng tiêu cực của xã hội; sống thờ ơ,
khơng thực sự hồ đồng với các bạn trong lớp, trong trường, khơng tích cực tham gia
các hoạt động xã hội, hoạt động từ thiện của nhà trường, chỉ lo vui chơi, đua đòi chạy
theo các trào lưu thời trang, bắt chước các thần tượng âm nhạc, điện ảnh, thể thao... của
mình một cách lố lăng không phù hợp với học sinh...

Một số em chưa xác định được mục tiêu học tập và phương pháp và nội dung
học tập. Có nhiều trường hợp coi việc học là do gia đình yêu cầu, bắt buộc nên động cơ
học tập chưa cao hoặc khơng có động cơ học tập, khơng có ý chí cố gắng phấn đấu học
tập và rèn luyện; thậm chí có em cịn uống rượu, đánh bạc, gây bè phái làm mất trật tự
nơi công cộng và trong nhà trường. Một số học sinh cá biệt có thái độ vơ lễ với thầy cô
giáo, xem thường việc học, dẫn đến học lực yếu kém lưu ban và bỏ học.
2.2.2. Về phía gia đình
Qua thống kê cho thấy phần lớn những học sinh yếu kém rơi vào các gia đình
khơng hịa thuận thiếu quan tâm, nhắc nhở con em, thậm chí có gia đình khơng quản
lý được con cái, phó mặc cho nhà trường, có người cịn cho con em nghỉ học để lao
động phụ giúp gia đình. Nhiều phụ huynh đi làm ăn ở các tỉnh xa, ở nước ngồi khơng
thể quản lí con cái dẫn đến các em chơi bời liêu lỏng bỏ việc học hành, không ai quan
tâm giáo dục nên vi phạm nội quy của nhà trường.
2.2.3. Về phía nhà trường
Do một số lớp do sĩ số học sinh đông, giáo viên phải tập trung hồn thành nội
dung chương trình tiết dạy, chưa quan tâm nhiều đến các học sinh yếu kém, vì vậy việc
một số em khơng tiếp thu bài kịp, dẫn đến học yếu kém, lưu ban.
Đa số học sinh có chất lượng đầu vào thấp, một số học sinh bị mất kiến thức cơ
bản các mơn Tốn, Vật lý, Hố học, Tiếng Anh; học sinh lại khơng thích học hoặc xem

11


nhẹ các môn khoa học xã hội như: Ngữ văn, Lịch sử, Địa lý nên khơng theo kịp
chương trình, chất lượng học tập không tiến bộ.
Một số khác hạnh kiểm trung bình, thường bỏ giờ, quậy phá trong lớp vì vậy khi
các em bỏ học, giáo viên chủ nhiệm cũng không thật sự mặn mà với việc vận động các
em quay lại trường, sợ ảnh hưởng đến lớp, đến phong trào chung. Mặt khác, việc phối
hợp giữa nhà trường và gia đình chưa thường xuyên, một số giáo viên chủ nhiệm chưa
thật sự quan tâm nhiều đến sự phối hợp với phụ huynh để giáo dục học sinh yếu kém,

chậm tiến chỉ khi có học sinh bỏ học giáo viên chủ nhiệm mới đến nhà vận động phụ
huynh đưa con đi học trở lại...
Mặc dù các nguyên nhân dẫn đến việc học sinh bỏ học đã được xác định nhưng
để giải quyết tình trạng này khơng đơn giản, nhất là trong bối cảnh xã hội nhiều phức
tạp, tác động đến việc học tập của học sinh.
Việc kết hợp giữa giáo dục nhà trường-gia đình-xã hội cịn chưa đồng bộ. Nhiều
phụ huynh học sinh khơng hoặc ít quan tâm đến việc học tập của con em, họ phó mặc
việc giáo dục con em cho nhà trường. Đồng thời các quán nhậu, quán cà phê, quán
internet...quá gần trường, dung túng, bao che, chứa chấp một số học sinh bỏ học để vui
chơi, trong khi đó chính quyền địa phương chỉ làm qua loa chiếu lệ khi nhà trường yêu
cầu phối hợp, không có biện pháp hữu hiệu và khơng tích cực phối hợp giúp đỡ nhà
trường giải quyết những vướng mắc đó.
2.3. Những vấn đề đặt ra trong quản lí nâng cao chất lượng giáo dục học
sinh ở trường THPT Vinh Xuân, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên trong giai
đoạn hiện nay
Từ phân tích cụ thể thực trạng của việc quản lí nhằm hạn chế học sinh học tập
yếu kém, lưu ban, bỏ học; đồng thời nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học
sinh ở trường THPT Vinh Xuân, Phú Vang, Thừa Thiên Huế; tơi nhận thấy có những
vấn đề đặt ra là :
- Tăng cường vai trò lãnh đạo của Chi bộ Đảng trong việc quản lí để nâng cao
chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh, đặc biệt là ngăn ngừa và hạn chế học sinh
có học lực yếu kém, lưu ban, bỏ học từng bước đưa sự nghiệp giáo dục nhà trường
ngày càng phát triển.
- Tăng cường công tác chỉ đạo, kiểm tra, thanh tra để nắm tình hình và khắc
phục hạn chế học sinh yếu kém, lưu ban và bỏ học.
- Nâng cao vai trò, trách nhiệm của đội ngũ giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ
môn trong việc nắm bắt và bồi dưỡng cho học sinh từng bước nâng cao chất lượng học
tập và rèn luyện đạt kết quả cao .
- Phát huy vai trị xung kích sáng tạo của tổ chức Đồn Thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh và Cơng đồn trong nhà trường.

- Phát huy hoạt động tự quản của tập thể học sinh trong việc tự học và giúp nhau
cùng tiến bộ.
- Kết hợp giáo dục giữa nhà trường - xã hội - gia đình trong việc ngăn ngừa và
hạn chế học sinh yếu kém, lưu ban và bỏ học.
- Nâng cao vai trò Hội phụ huynh học sinh các lớp, Hội phụ huynh học sinh của
trường và chính quyền địa phương trong công tác giáo dục học sinh nâng cao chất

12


lượng học tập, rèn luyện nhằm ngăn ngừa, hạn chế học sinh yếu kém, vi phạm nội quy,
lưu ban và bỏ học

CHƯƠNG 3
NHỮNG BIỆN PHÁP QUẢN LÝ
NHẰM HẠN CHẾ HỌC SINH YẾU KÉM,
LƯU BAN VÀ BỎ HỌC Ở TRƯỜNG THPT VINH XUÂN, HUYỆN PHÚ
VANG, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Học sinh yếu kém, lưu ban và bỏ học là một tồn tại khách quan, có nhiều nguyên
nhân từ xã hội, gia đình, nhà trường và bản thân học sinh, cụ thể một phần do giáo viên
chưa quan tâm đúng mức, chưa giúp đỡ kịp thời để các em hổng kiến thức cơ bản; một
phần là do các em khơng thích học, khơng biết cách học dẫn đến ngày một tụt hậu so
với trình độ chung của lớp, hay các em có hồn cảnh khó khăn, thiếu ý thức tự giác học
tập dẫn đến học tập yếu kém, lưu ban và bỏ học.
Không kể nguyên nhân do đâu, giúp đỡ học sinh yếu kém, lưu ban, bỏ học đi học
lại giúp các em vượt qua mọi khó khăn vươn lên trong học tập là việc làm cần thiết,
không nóng vội, có lộ trình hợp lý, có biện pháp hiệu quả và kịp thời, có sự kết hợp
của nhà trường, gia đình và xã hội, đặc biệt là sự cố gắng không ngừng của học sinh.
Trong phạm vi nhà trường cần có những biện pháp quản lý để hạn chế học sinh yếu
kém, lưu ban và bỏ học như sau:

3.1. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Chi bộ Đảng
Từ khi mới thành lập, Chi bộ Đảng đã tăng cường vai trò lãnh đạo trong các
hoạt động giáo dục của nhà trường, có những định hướng, nghị quyết, kế hoạch đúng
đắn để nâng cao hiệu quả chất lượng giáo dục của nhà trường. Bởi vì trong trường
THPT vị trí của Chi bộ Đảng là trung tâm chính trị tập hợp các lực lượng quần chúng
nhằm thực hiện tốt các chủ trương, đương lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Trong trường học, Chi bộ Đảng nắm quyền lãnh đạo quản lí các hoạt động của
nhà trường, là hạt nhân, là nền tảng của sự đồn kết, chính vì thế phải xây dựng Chi bộ
Đảng nhà trường luôn luôn trong sạch vững mạnh, thực hiện tốt vai trị của mình, luôn
thực hiện theo phương châm "Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lí".
Mỗi một đảng viên trong Chi bộ luôn gương mẫu trong mọi hoạt động, đặc biệt là
trong cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng, công tác dạy và học để nâng cao chất lượng
giáo dục của nhà trường.
Chi bộ thường xuyên cập nhật thông tin, quán triệt các quan điểm, đường lối,
nghị quyết của Đảng và các cấp chính quyền. Họp định kỳ vào cuối tháng để đánh giá
cơng tác đã thực hiện, tìm ra ưu điểm để phát huy và những mặc tồn tại để khắc phục,
từ đó đề ra chủ trương cụ thể, giao trách nhiệm cho các tổ chức trong nhà trường thực
hiện. Đặc biệt là cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức cho cán bộ giáo viên,
13


học sinh; chú trọng giáo dục học sinh chậm tiến, chưa ngoan, học lực yếu kém, bỏ tiết,
vắng nhiều…. Chỉ đạo công tác bồi dưỡng, rèn luyện và giáo dục học sinh từng bước
nâng cao chất lượng học tập, hoàn thiện nhân cách.
Chi bộ thực hiện và quán triệt Chỉ thị 34-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương
Đảng, Chi bộ đã tăng cường cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng trong trường học;
thực hiện tốt các cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh”, cuộc vận động “Hai khơng” với bốn nội dung và phong trào “Xây dựng trường
học thân thiện, học sinh tích cực” của Bộ GD&ĐT, triển khai kịp thời việc giáo dục tư
tưởng chính trị cơng tác bồi dưỡng chun mơn nghiệp vụ sư phạm và học tập nâng

cao trình độ của đội ngũ CBGV góp phần nâng cao chất lượng giáo dục tồn diện của
trường.
Chi bộ phân cơng đảng viên theo dõi kiểm tra, đôn đốc, uốn nắn, sửa chữa kịp
thời những học sinh có tư tưởng lệch lạc, làm sai đường lối chủ trương mà Chi bộ đã
đề ra. Đồng thời phân công đảng viên phụ trách chỉ đạo, giúp đỡ Ban chấp hành Cơng
đồn, Ban Thường vụ Đồn trường có kế hoạch tổ chức những hoạt động có chủ điểm
và thường xuyên, phát động nhiều phong trào thi đua cho giáo viên, đồn viên, thanh
niên; thơng qua đó giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức cho học sinh, giúp đỡ học sinh
yếu kém, lưu ban, bỏ học đi học lại, xây dựng trường học thân thiện, tạo niềm vui cho
học sinh để các em thích đi học. Từ đó giúp các em có ý thức phấn đấu, tự giác hăng
say học tập và yêu thích đến trường.
3.2.Tăng cường công tác chỉ đạo, kiểm tra, thanh tra của nhà trường
Quản lí học sinh về nề nếp, kỷ cương theo Điều lệ trường THPT và nội quy của
nhà trường. Tổ chức cho học sinh học tập Điều lệ trường THPT và nội quy, quy định
của trường.
Ngay từ đầu năm học, nhà trường đã triển khai khảo sát chất lượng đầu năm, rà
soát những học sinh yếu kém, lưu ban để lập kế hoạch cho việc triển khai các biênn
pháp giúp đỡ, phụ đạo, phân công giáo viên dạy kèm, nhằm giúp đỡ học sinh củng cố
kiến thức, theo kịp chương trình. Nếu học sinh khơng tiến bộ, khơng theo kịp chương
trình thì tư vấn với phụ huynh học sinh để phân luồng cho các em theo học các lớp hệ
bổ túc, trung tâm dạy nghề ngay từ đầu.
Căn cứ vào kết quả thi tốt nghiệp, kết quả học tập năm trước để phân tích kết
quả, tìm ngun nhân các mơn có học sinh yếu kém nhiều như Tiếng Anh, Địa lý, Lịch
sử, Tốn, Vật lý; các lớp có học sinh kém bị thi lại, lưu ban và bỏ học nhiều để tìm các
giải pháp phù hợp khắc phục trong các năm học sau. Chỉ đạo giáo viên trong tổ bộ
môn bàn bạc thống nhất kế hoạch, thực hiện quyết liệt giải pháp đã bàn, báo cáo tiến
độ thực hiện để Ban Giám hiệu kiểm tra, đánh giá.
Qua tổ chức khảo sát, phân loại khả năng học tập của học sinh ngay từ đầu năm
học. Chú trọng, quan tâm đến cả chất lượng đại trà và mũi nhọn. Tổ chức công tác bồi
dưỡng học sinh giỏi. Tổ chức các lớp phụ đạo nhằm nâng cao chất lượng học tập cho

các em cịn yếu. Tổ chức phụ đạo, ơn tập kiến thức cho học sinh khối 12 từ đầu năm
học.

14


Chỉ đạo các tổ khối chuyên môn chú trọng tới việc ra đề thi chính xác, kiểm tra,
coi thi học kỳ nghiêm túc nhằm xây dựng thái độ học tập đúng đắn, nghiêm túc cho
học sinh. Giáo viên đánh giá đúng trình độ học sinh với thái độ khách quan, công minh
trên cơ sở chuẩn kiến thức và các kỹ năng của chương trình và hướng dẫn học sinh biết
tự đánh giá kết quả học tập của mình. Các tổ khối chun mơn có kế hoạch từng bước
để xây dựng quỹ đề kiểm tra thường xuyên, định kỳ của tổ, thường xuyên bổ sung quỹ
đề với sự đóng góp của giáo viên, trao đổi với đơn vị bạn, tham khảo ngân hàng đề của
Sở, của Bộ GD& ĐT trên internet...Cần kết hợp một cách hợp lý hình thức tự luận với
trắc nghiệm khách quan, sử dụng các hình thức kiểm tra đánh giá khác nhau trong quá
trình đánh giá kết quả học tập của học sinh. Nhà trường kiểm tra, thanh tra đề kiểm tra,
đề thi của tổ, của giáo viên để có điều chỉnh phù hợp với sự phân hoá của học sinh, phù
hợp với chuẩn kỹ năng, kiến thức và quy định của Bộ GD& ĐT.
Chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm tăng cường công tác chủ nhiệm lớp, giáo viên chủ
nhiệm ngồi việc theo dõi tình hình học tập, rèn luyện của học sinh cần quan tâm đến
hoàn cảnh điều kiện học tập và giáo dục các em ở gia đình. Đặc biệt là những em có
hồn cảnh khó khăn, cha mẹ bất hồ, mồ cơi hoặc những học sinh cha mẹ khơng có
điều kiện chăm sóc giáo dục. Nắm được tâm tư nguyện vọng, hướng học sinh cố gắng
học tập rèn luyện, có chí tiến thủ, ngăn chặn kịp thời các hiện tượng tiêu cực dẫn đến
vi phạm pháp luật.
Tiếp tục duy trì, phát huy hiệu quả “Hộp thư giúp bạn” nhằm ngăn chặn các hoạt
động xấu trong học sinh, ngăn ngừa học sinh vi phạm nội quy, học tập yếu kém dẫn
đến lưu ban, bỏ học.
Tổ chức các hội thảo chuyên đề trong hội đồng sư phạm, các tổ khối chuyên
môn để bàn những biện pháp nâng cao chất lượng dạy học, khắc phục hiện tượng học

sinh yếu kém, lưu ban, bỏ học nhiều, giáo dục học sinh chậm tiến, chưa ngoan, cá biệt,
giúp đỡ học sinh khối 12 có đủ kiến thức cơ bản để thi đỗ tốt nghiệp THPT.
Thường xuyên nắm tình hình học sinh yếu kém, bỏ tiết, vắng học nhiều, kiểm
tra, thanh tra giáo viên về công tác giảng dạy, việc dạy phụ đạo giúp đỡ học sinh yếu
kém của giáo viên, các tổ khối chun mơn; đồng thời có biện pháp hỗ trợ vật chất cho
giáo viên tham gia dạy bồi dưỡng, ơn tập, phụ đạo cho học sinh ngồi giờ dạy theo quy
chế trường THPT.
Nhà trường chỉ đạo các tổ, khối chuyên môn thường xuyên tập hợp danh sách
học sinh yếu kém để báo cáo cho nhà trường hàng tháng, học kỳ. Trong sinh hoạt
chuyên môn tăng cường sinh hoạt chuyên đề “khắc phục học sinh yếu kém, nâng cao
chất lượng bộ mơn” để cùng phân tích ngun nhân, bàn kế hoạch, biện pháp hạn chế
học sinh yếu, kém; đồng thời đề xuất với nhà trường về cách khắc phục học sinh yếu,
kém; giao trách nhiệm cho từng giáo viên phụ đạo giúp đỡ học sinh yếu kém, thường
xuyên đôn đốc, kiểm tra các biện pháp khắc phục học sinh yếu kém của giáo viên;
hàng tháng tổ khối chuyên môn sinh hoạt chun mơn với nhà trường thì Tổ chun
mơn báo cáo tiến độ tiếp thu của những em học sinh yếu kém.
3.3. Nâng cao vai trò, trách nhiệm của đội ngũ giáo viên chủ nhiệm và giáo
viên bộ môn
15


3.3.1. Đối với giáo viên chủ nhiệm
Trong nhà trường THPT, giáo viên chủ nhiệm có vai trị rất quan trọng, có tác
dụng đến sự thành cơng của một lớp học và góp phần quan trọng đến cơng tác giáo dục
học sinh tồn trường. Muốn tìm hiểu và nắm vững những đặc điểm của học sinh thì
người quản lí cần lựa chọn giáo viên có năng lực và nhiều kinh nghiệm giáo dục học
sinh làm công tác chủ nhiệm.
Giáo viên chủ nhiệm là người trực tiếp quản lí học sinh, gần gũi, gắn bó dễ tìm
hiểu được tâm tư, nguyện vọng và hoàn cảnh của các em, là người mà các em cảm thấy
gần gũi thân thiết, muốn thổ lộ, giải bày những cảm xúc tình cảm của mình. Vì thế để

làm tốt cơng tác giáo dục học sinh thì người cán bộ quản lí cần phải làm tốt các cơng
việc sau:
- Khi phân công giáo viên chủ nhiệm, người quản lí phải chọn trong những giáo
viên có lập trường chính trị tư tưởng vững vàng, có phẩm chất đạo đức tốt, có nhiều
kinh nghiệm, yêu nghề, năng động, thương yêu học sinh, hết lịng vì sự nghiệp giáo
dục, đặc biệt nên quan tâm đến giáo viên là người ở địa phương để có những điều kiện
thuận lợi hơn trong việc kết hợp giáo dục giữa nhà trường, giáo viên chủ nhiệm với gia
đình học sinh .
- Có kế hoạch bồi dưỡng đội ngũ giáo viên chủ nhiệm thường xuyên để giáo
viên nắm vững được nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của mình, kế hoạch cụ thể, phù
hợp trong cơng tác chủ nhiệm. Đồng thời phải kết hợp với giáo viên bộ môn, Ban cán
sự lớp và Ban chấp hành Hội Phụ huynh học sinh để theo dõi, giúp đỡ để kịp thời uốn
nắn, giáo dục học sinh. Nhất là các học sinh có vấn đề về học lực yếu kém, lười biếng
trong học tập, bỏ tiết, vắng học nhiều hoặc học sinh có hồn cảnh khó khăn, như trong
Điều 29 chương IV Điều lệ trường trung học quy định về nhiệm vụ của giáo viên chủ
nhiệm là: Cộng tác chặt chẽ với phụ huynh học sinh, chủ động phối hợp với các giáo
viên bộ mơn... trong q trình giảng dạy và giáo dục học sinh. Giáo viên chủ nhiệm là
người thay mặt nhà trường phối hợp với các lực lượng giáo dục khác để tổ chức giáo
dục đạo đức và giáo dục toàn diện cho học sinh.
- Ngoài các tổ khối chuyên môn, cần thành lập tổ giáo viên chủ nhiệm, tổ chức
hội nghị hội thảo dành cho giáo viên chủ nhiệm để trao đổi và học tập lẫn nhau. Chú
trọng công tác học tập kinh nghiệm bằng cách cho các giáo viên chủ nhiệm đi dự giờ
thăm lớp các giờ sinh hoạt lớp của đồng nghiệp có năng lực và kinh nghiệm chủ nhiệm
hoặc giao lưu với các giáo viên chủ nhiệm của trường bạn để học hỏi và nâng cao năng
lực chủ nhiệm.
- Trong cơng tác quản lí, cần quán triệt chỉ đạo cho giáo viên chủ nhiệm phải kết
hợp chặt chẽ với Ban chấp hành Đoàn trường, Ban giám thị để tìm hiểu tình hình học
sinh trong lớp để uốn nắn và xử lý kịp thời, nghiêm minh đối với những học sinh vi
phạm nội quy, quy định của trường như: đi muộn, trốn học, bỏ tiết, trang phục không
đúng quy định....Đồng thời động viên khen thưởng những học sinh trong lớp có sự tiến

bộ, đạt thành tích tốt trong các hoạt động của Đồn và nhà trường cũng như trong học
tập. Giáo viên chủ nhiệm phải thực sự khách quan, công bằng trong việc đánh giá xếp

16


loại để tạo niềm tin cho các em. Đây là biện pháp tâm lí rất quan trọng, có hiệu quả
tích cực.
- Chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm có kế hoạch mời Ban đại diện Hội Phụ huynh học
sinh của lớp tham gia sinh hoạt cùng với học sinh, một tháng một lần. Qua đó để phụ
huynh nắm bắt tình hình học tập và rèn luyện của các em, đồng thời có ý kiến động
viên, phê bình để giáo dục học sinh ở mỗi lớp. Đây là biện pháp giáo dục hữu hiệu, kịp
thời có tác dụng tích cực trong việc giáo dục, nâng đỡ kịp thời những học sinh có chiều
hướng học tập sa sút, chơi bời và cả những học sinh gặp phải hồn cảnh khó khăn cần
sự giúp đỡ có hướng sửa chữa và cố gắng vượt qua khó khăn, vươn lên trong học tập
và rèn luyện. Giáo viên chủ nhiệm cùng phối hợp với Đoàn thanh niên, Hội Phụ huynh
học sinh có biện pháp vận động học sinh bỏ học đi học trở lại có hiệu quả, đảm bảo
duy trì sĩ số của lớp, hạn chế thấp nhất học sinh bỏ học.
- Ban Giám hiệu cùng giáo viên chủ nhiệm, đại diện Hội Phụ huynh học sinh
của trường mỗi tháng một lần họp giao ban nhằm thông tin hai chiều về những vấn đề
tồn tại của học sinh các lớp về tình hình học tập, rèn luyện, thực hiện các nội quy nhà
trường cũng như nguyện vọng của các em để tìm ra các biện pháp khắc phục trong quá
trình giáo dục học sinh yếu kém, chậm tiến và đặc biệt là học sinh cá biệt, vắng học, bỏ
tiết nhiều, tụ tập bạn bè chơi bời và những học sinh gia đình có hồn cảnh gia đình gặp
phải khó khăn để có biện pháp kịp thời chấn chỉnh và giúp đỡ.
- Lựa chọn giáo viên có năng lực, có tâm huyết để phân cơng chủ nhiệm các lớp
có nhiều học sinh yếu kém, lưu ban; lưu ý giáo viên chủ nhiệm chủ động tìm hiểu hồn
cảnh học sinh của lớp mình để có biện pháp giáo dục phù hợp hiệu quả để giúp đỡ
thường xuyên, hạn chế học sinh yếu, kém, dẫn đến bỏ học. Lãnh đạo nhà trường
thường xuyên kiểm tra, đánh giá, xếp loại để động viên và khen thưởng cho những

giáo viên chủ nhiệm làm tốt cơng việc, bên cạnh đó cũng nhắc nhở các giáo viên chủ
nhiệm làm chưa tốt công việc của mình. Trường hợp đã nhắc nhở mà vẫn khơng
chuyển biến thì có biện pháp xử lí, nếu có điều kiện cho phép thì khơng để cho giáo
viên đó làm cơng tác chủ nhiệm nữa. Sau mỗi đợt thi đua cần có tổng kết rút kinh
nghiệm kịp thời để giáo viên phát huy những ưu điểm và khắc phục những thiếu sót
hạn chế trong cơng tác chủ nhiệm .
3.3.2. Đối với giáo viên bộ mơn
Trong nhà trường THPT, ngồi giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn là một
thành phần hết sức quan trọng hợp thành một tập thể sư phạm có sức mạnh to lớn.
Người giáo viên vừa là nhà sư phạm, vừa là nhà tổ chức, vừa tham gia các hoạt động
chính trị, xã hội. Phương tiện lao động của người giáo viên là phẩm chất nhân cách và
trí tuệ của chính họ. Những phẩm chất đó tạo nên sức mạnh, niềm tin và lí tưởng nó
thấm nhuần vào bài giảng, từng hoạt động giáo dục của họ. Để tác động lực phấn đấu
cho học sinh trước hết người quản lí cần phải chú ý bồi dưỡng lịng nhân ái sư phạm
cho đội ngũ giáo viên. Lòng nhân ái, tình yêu thương con người là cái gốc của đạo lý
làm người, tình yêu thương học sinh là điểm xuất phát của sự sáng tạo sư phạm làm
cho giáo viên có trách nhiệm cao với cơng việc của mình. Tình yêu thương học sinh
thể hiện trong các hoạt động dạy học và giáo dục, đó cũng là cơ sở xuất phát của tình

17


yêu nghề nghiệp, ý thức thái độ và tình yêu nghề nghiệp thể hiện ở việc không ngừng
nâng cao phẩm chất đạo đức để trở thành gương sáng, tạo nên niềm tin trước học sinh,
trước nhân dân. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt yêu cầu đạo đức của người
thầy lên hàng đầu, Người đòi hỏi thầy giáo Khơng những phải có trí tuệ phổ thơng mà
phải có đạo đức cách mạng, vì quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách đạo
đức .... Đối với người giáo viên lòng yêu nghề, sự say sưa hứng khởi, sự kiên trì, khắc
phục khó khăn trong học hỏi rèn luyện, toàn tâm toàn ý với sự nghiệp giáo dục, tất cả
vì học sinh thân yêu là biểu hiện đạo đức cách mạng và lí tưởng nghề nghiệp. Người

quản lí cần có trách nhiệm :
- Xây dựng được phong trào tự học, tự rèn luyện, không ngừng nâng cao phẩm
chất chính trị, tư tưởng, trình độ chun mơn và năng lực sư phạm cho cán bộ giáo
viên thông qua các buổi sinh hoạt chuyên môn các tổ khối, họp hội đồng.
- Tổ chức các buổi hội thảo, học tập chính trị để từ đó giáo viên thấy vai trị
của mình, nhận thức đầy đủ trách nhiệm giáo dục học sinh của mỗi người và nhiệt tình
tích cực tham gia vào hoạt động thực hiện tốt các biện pháp ngăn ngừa và hạn chế học
sinh học sinh yếu kém, lưu ban và bỏ học góp phần đưa sự nghiệp giáo dục và đào tạo
của nhà trường ngày càng phát triển bền vững thông qua các bài học trên lớp.
- Thường xuyên động viên, nhắc nhở các giáo viên bộ môn để họ hiểu trách
nhiệm giáo dục ngăn ngừa và hạn chế học sinh học sinh yếu kém, lưu ban và bỏ học
trong trường là một nhiệm vụ của mọi người, không của riêng ai. Từ đó trong các giờ
lên lớp giáo viên sẽ chú ý hơn, quan tâm hơn để có biện pháp thích hợp trong giảng
dạy các đối tượng học sinh và có sự động viên, khuyến khích tạo tinh thần say mê học
tập cho các em.
Trong Điều lệ trường Trung học, Điều 29 chương IV nêu rõ vai trò trách nhiệm
của người giáo viên: Giữ gìn phẩm chất, danh dự, uy tín của nhà giáo, gương mẫu
trước học sinh, thương yêu, tôn trọng học sinh, đối xử công bằng với học sinh. Như
vậy vai trò của giáo viên rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục và rèn
luyện cho học sinh.
Phải thấy rằng, vai trò của giáo viên là rất quan trọng trong việc nâng cao chất
lượng dạy học, làm thế nào để việc học không là áp lực đối với học sinh, người giáo
viên là người chủ đạo trong việc khắc phục học sinh yếu kém, thành hay bại là phần
lớn do giáo viên. Vì vậy giáo viên là người hết sức quan trọng trong việc khắc phục
học sinh yếu kém, lưu ban, bỏ học. Vì vậy giáo viên cần chủ động sử dụng một số biện
pháp cụ thể như sau:
- Lập danh sách học sinh yếu kém, lưu ban để báo cáo cho tổ, trường ngay từ
đầu năm học.
- Phân tích nguyên nhân và tìm biện pháp khắc phục hợp lý và có hiệu quả.
- Đề xuất với nhà trường về cách khắc phục để tất cả cùng tập trung giải quyết

có hiệu quả tốt nhất.

18


- Giáo viên chủ động gặp phụ huynh trao đổi về việc học tập của các em, cùng
với phụ huynh tìm biện pháp giáo dục học sinh cố gắng tích cực học tập hạn chế học
sinh yếu kém, lưu ban dẫn đến bỏ học.
- Giáo viên lập kế hoạch phụ đạo học sinh yếu kém ngồi giờ học chính khóa có
thể ở trường hoặc ở nhà nếu nhà trường và phụ huynh đồng ý.
- Trong tiết dạy học bình thường giáo viên soạn bài nhất thiết phải có lưu ý đến
đối tượng những học sinh yếu kém. Kế hoạch dạy học cho học sinh yếu kém, lưu ban
phải phù hợp với trình độ học sinh đó, từng bước bổ sung kiến thức cơ bản cho học
sinh, có thể dạy kiến thức của lớp dưới; học sinh hỏng kiến thức ở đâu thì giáo viên
phải có kế hoạch ơn tập, bổ sung ở đó, giúp đỡ các em bằng tất cả tình thương và trách
nhiệm.
- Giáo viên phân cơng học sinh khá, giỏi giúp đỡ bạn ở trường, ở nhà. Tạo ra các
nhóm học tập, thi đua trong các nhóm có học sinh yếu kém, lưu ban và các em bỏ học
trở lại trường.
- Giáo viên luôn luôn động viên, tuyên dương kịp thời, có các biện pháp cho
điểm thưởng, cộng điểm thưởng cho học sinh có tiến bộ, phát biểu xây dựng bài.
- Trong buổi sinh hoạt chuyên môn hàng tháng hai lần, giáo viên bộ môn và giáo
viên chủ nhiệm báo cáo tiến độ tiếp thu bài của những học sinh yếu kém, lưu ban cho
Tổ trưởng và giáo viên trong khối, từ đó giáo viên nào cịn vướng mắc thì bàn bạc, trao
đổi đề các giáo viên trong tổ khối chun mơn góp ý bổ sung, tìm hướng giải quyết
phù hợp có hiệu quả.
Những năm học vừa qua, cán bộ quản lí của trường đã áp dụng những biện pháp
đã nêu trên để tăng cường giáo dục học sinh, tuy nhiên có một số biện pháp có lúc
chưa thực hiện, hoặc có thực hiện nhưng chưa có sự kiểm tra đánh giá nghiêm túc, kịp
thời, thường xuyên, đồng bộ; có những giáo viên chủ nhiệm và giáo viên bộ mơn cịn

thiếu năng lực và kinh nghiệm để tổ chức tốt các hoạt động dạy và học, giáo dục đạo
đức cho học sinh nên chất lượng và hiệu quả chưa được như mong muốn. Tuy nhiên
với sự nỗ lực cố gắng chung của tập thể cán bộ giáo viên trong nhà trường, chất lượng
học tập và đạo đức của học sinh năm sau tiến bộ hơn năm trước và có những chuyển
biến tích cực hơn, số học sinh yếu kém, lưu ban và bỏ học ngày càng giảm, số học sinh
trung bình, khá giỏi, tỉ lệ học sinh đỗ tốt nghiệp THPT, tỉ lệ thi đỗ đại học-cao đẳng
ngày càng tăng, từng bước khẳng định chất lượng giáo dục của nhà trường.
3.4. Phát huy vai trị xung kích sáng tạo của Đồn TNCS Hồ Chí Minh và
Cơng đồn trong nhà trường
Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trong trường THPT là tổ chức chính
trị-xã hội, tổ chức quần chúng của thanh niên, hoạt động dưới sự lãnh đạo trực tiếp của
Chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam trong trường. Tổ chức Đoàn cùng với nhà trường tổ
chức giáo dục thế hệ trẻ theo lí tưởng của Đảng và Bác Hồ, tổ chức và động viên đoàn
viên thanh niên tham gia học tập tốt và rèn luyện tốt nhằm phát triển nhân cách ngày
càng hoàn thiện hơn.
19


- Trong năm học phải bám sát nhiệm vụ năm học của nhà trường; các nhiệm vụ
của Đồn, Cơng đồn cấp trên, Cơng đồn cơ sở và Đồn thanh niên xác định phương
hướng mục tiêu để từ đó lập ra các kế hoạch cụ thể. Tổ chức các đợt thi đua theo từng
chủ đề, thi đua dài hạn và ngắn hạn, thường xuyên kiểm tra đánh giá thi đua. Đồng thời
có tổng kết, kiểm tra, đánh giá chất lượng hoạt động để có sự động viên khen thưởng
các cá nhân, tập thể kịp thời và phê bình khiển trách các cá nhân vi phạm để kịp thời
sửa chữa.
- Chỉ đạo cho Ban Thường vụ Đoàn trường kết hợp với giáo viên chủ nhiệm,
Ban giám thị để theo dõi, kiểm tra nhắc nhở, xử lí việc học sinh thực hiện Nội quy của
trường, đặc biệt có kế hoạch kiểm tra thường xuyên với học thường vi phạm Nội quy,
nhất là số học sinh cá biệt. Từ đó Ban Thường vụ Đồn trường hàng tuần, hàng tháng
lên danh sách và thông báo cho giáo viên chủ nhiệm số học sinh vi phạm để giáo viên

thông báo và làm việc với phụ huynh học sinh. Mặt khác, Ban Thường vụ Đồn trường
thơng báo cho phụ huynh của học sinh vi phạm bằng thư (giấy báo, giấy mời) qua Bưu
điện nhằm tránh việc học sinh che dấu và phụ huynh sẽ nắm được các hành vi vi phạm
của con em mình để có biện pháp phối hợp giáo dục kịp thời.
- Xây dựng kế hoạch, phối hợp chặt chẽ giữa Đoàn trường, giáo viên chủ nhiệm,
giáo viên bộ mơn, đặc biệt với Đồn cấp trên, với Ban đại diện Hội Phụ huynh học
sinh, tạo ra các hoạt động bổ ích góp phần giúp đỡ học sinh yếu kém, lưu ban, bỏ học
đi học lại; giáo dục đạo đức học sinh đạt kết quả cao hơn, đặc biệt là học sinh chưa
ngoan, cá biệt.
- Tổ chức các các hoạt động ngoại khóa về văn nghệ, thể dục thể thao, hoạt động
từ thiện, hoạt động lao động cơng ích, từ đó giúp các em có ý thức làm chủ, bồi dưỡng
tình u thương, ý chí cộng đồng tạo ra sự gắn kết giữa cá nhân - gia đình - xã hội. Bồi
dưỡng lịng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình đạo lý. Rèn luyện đức tính, cần cù,
sáng tạo, quan tâm đến môi trường sống, ham học hỏi, suy nghĩ độc lập và có sự quyết
đốn trong mọi hoạt động. Lực lượng đoàn viên Chi đoàn Giáo viên là lực lượng tiên
phong trong công tác giúp đỡ, động viên học sinh tham gia tích cực vào phong trào và
qua đó tăng cường bồi dưỡng, rèn luyện cho các em ý thức tự giác học tập, nâng cao
các giá trị đạo đức từng bước hoàn thiện nhân cách, bằng các hoạt động, phong trào cụ
thể như dạy phụ đạo cho học sinh yếu kém miễn phí, giúp đỡ tăng cường kiểm tra, dò
bài đối với các em học sinh yếu kém, phát động gây quỹ khuyến học giúp đỡ các em có
hồn cảnh gia đình khó khăn, động viên những học sinh hư hỏng thiếu tinh thần học
tập và sẵn sàng cùng phụ huynh học sinh giải quyết mọi vấn đề khi các em vấp phải
làm ảnh hưởng đến việc học tập, rèn luyện.
Thời gian qua, tổ chức Đoàn được Hội đồng sư phạm và cán bộ quản lí của
trường đặc biệt quan tâm chỉ đạo sâu sát, kịp thời nên đã tổ chức nhiều hoạt động
phong trào tăng cường giáo dục học sinh thường xuyên và đạt được nhiều thành tích
cao trong các phong trào thi đua học tốt và rèn luyện tốt, như các phong trào: Học tập
để ngày mai lập nghiệp, Đôi bạn cùng tiến, Nhóm bạn cùng tiến,...Đồn thanh niên
20



phát động phong trào thi đua Tuần học tốt, Tháng học tốt giữa các lớp thúc đẩy việc thi
đua học tập của học sinh để lập thành tích cao chào mừng kỷ niệm các ngày lễ trọng
đại của dân tộc. Từ đó giúp đỡ học sinh yếu kém, lưu ban, cá biệt tiến bộ, tạo hứng thú
học tập cho các em, xây dựng bầu khơng khí tâm lý tập thể sinh động, vui tươi thông
qua việc tổ chức các hoạt động phong trào, tạo môi trường học tập thân thiện, gắn bó
cho các em để góp phần nâng cao chất lượng văn hoá và hạnh kiểm của học sinh.
Tuy nhiên các biện pháp đã nêu để phát huy vai trò xung kích sáng tạo của
Đồn TNCS Hồ Chí Minh vẫn còn chưa được sử dụng một cách đồng bộ và có lúc
triển khai thực hiện chưa kịp thời, tồn diện nên cơng tác giáo dục cho học sinh cịn có
những hạn chế cần rút kinh nghiệm để khắc phục và hồn thiện hơn trong cơng tác
quản lí giáo dục ở nhà trường.
Hàng năm Ban Giám hiệu tổ chức ngày thành lập trường để đồn viên, thanh
niên có cơ hội gặp gỡ và giao lưu với học sinh cũ. Tổ chức Ngày tri ân cho học sinh
khối 12, tổ chức gặp mặt và phát thưởng cho học sinh đỗ Đại học. Tổ chức buổi nói
chuyện của học sinh cũ đã thành đạt với học sinh nhà trường. Đây là cơ hội và việc làm
có tác động tích cực động viên học sinh trong học tập và rèn luyện ngày càng tiến bộ.
Tổ chức các buổi nói chuyện, toạ đàm của các cán bộ lão thành cách mạng, các
cựu chiến binh với đoàn viên, thanh niên, tổ chức các đợt đi thăm các di tích lịch sử
như: Tháp Chăm Phú Diên, Bảo tàng Hồ Chí Minh và các di tích của Bác Hồ và gia
đình ở Thừa Thiên Huế, Bảo tàng Tổng hợp Thừa Thiên Huế, ... Thơng qua các hoạt
động đó, giáo dục học sinh tình yêu quê hương đất nước, ý chí tự cường, có tình cảm
gắn bó với mái trường, với q hương và có lịng tự hào dân tộc, giáo dục học sinh
không ngừng cố gắng học tập và rèn luyện để khẳng định bản thân, giúp đỡ gia đình,
góp phần xây dựng q hương đất nước ngày càng phát triển.
Là trường mới được thành lập nên việc xây dựng phòng truyền thống của nhà
trường chưa thực hiện được. Song nhà trường thường xuyên tổ chức các hoạt động để
bồi dưỡng cho học sinh có những hiểu biết sâu sắc về những kết quả và thành tích mà
giáo viên và học sinh của trường đã đạt được, tổ chức các hoạt động tham quan ngoại
khoá, các phong trào thi đua chào mừng các ngày Lễ trọng đại của quê hương và đất

nước... để giáo dục học sinh giữ gìn, phát huy truyền thống tốt đẹp của nhà trường và
của quê hương đất nước. Từ đó, các em cảm nhận được giá trị của việc đến lớp và ý
thức về trách nhiệm học tập của mình, cố gắng học tập, giúp đỡ cùng nhau tiến bộ để
góp phần giữ gìn và xây dựng truyền thống hiếu học của học sinh trường THPT Vinh
Xuân.
3.5. Phát huy hoạt động tự quản của tập thể học sinh
Ban Giám hiệu đã có định hướng và tổ chức tốt việc xây dựng, phối hợp các tổ
chức tự quản của học sinh, đây là nhiệm vụ không chỉ của Ban giám hiệu mà của tất cả
giáo viên, đặc biệt là giáo viên chủ nhiệm. Phát huy hoạt động tự quản của học sinh là
phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh và là điều kiện, là yếu tố quan

21


trọng trong hoạt động dạy và học, giáo dục đạo đức hình thành và phát triển nhân cách
của các em.
Tập thể học sinh là một tổ chức có cùng mơi trường học tập, có cùng lứa tuổi, là
nơi các em dễ bộc lộ bản thân. Vì thế người cán bộ quản lí kết hợp với giáo viên chủ
nhiệm phải giúp các em xây dựng được một tập thể lớp có kế hoạch và tổ chức hoạt
động tự quản tốt.
Ban Giám hiệu cần định hướng chỉ đạo cho giáo viên chủ nhiệm, tổ chức Đồn
trong q trình tổ chức các hoạt động giáo dục, tổ chức các hoạt động ngoại khoá, văn
hoá tinh thần, thể dục thể thao, vui chơi giải trí...; giáo viên khi lập kế hoạch, hướng
dẫn thực hiện cần tạo điều kiện thuận lợi về thời gian để học sinh tự tổ chức tập luyện
và tham gia. Chú ý đến tính tự nguyện, tự giác, chủ động tích cực và sáng tạo, thu hút
đông đảo học sinh tham gia một cách hứng thú, tạo nhiều sân chơi “học mà chơi, chơi
mà học” bổ ích cho học sinh trong các buổi tổ chức hoạt động giáo dục ngoài giờ lên
lớp hàng tháng.
Để phát huy được hoạt động tự quản của học sinh cần có sự đầu tư về đội ngũ
cán bộ lớp, cán bộ chi đoàn cụ thể:

- Ban cán sự lớp là những học sinh có phẩm chất, có năng lực, nhiệt tình và có
uy tín với tập thể lớp.
- Căn cứ vào số lượng học sinh phân chia lớp thành các tổ có tỷ lệ chất lượng,
phù hợp với vị trí địa lý. Trong mỗi tổ có thể chia thành các nhóm nhỏ có cùng sở
thích, tổ chức tốt phong trào “học nhóm”, “học vì bản thân, gia đình và xã hội”, “học vì
ngày mai lập nghiệp”.
- Có sự định hướng giữa giáo viên chủ nhiệm với Ban chấp hành Đoàn trường
về cơ cấu nhân sự của Ban chấp hành chi đồn để có sự thống nhất điều hành hoạt
động của tập thể lớp.
- Giáo viên chủ nhiệm và giáo viên bộ môn phối hợp chặt chẽ với nhau để tổ
chứ xây dựng ban cán sự bộ mơn ở các lớp, đó là những học sinh học khá giỏi các mơn
học, có khả năng diễn đạt, nhiệt tình để giúp đỡ các bạn học tập như: giải đáp thắc mắc
cho bạn nắm được bài, hiểu bài, hướng dẫn giải các bài tập…đặc biệt là các bạn vắng
học, học tập yếu kém, lưu ban hoặc bỏ học đi học lại.
- Sau mỗi đợt phát động thi đua, cuối học kỳ, cuối năm học, cán sự lớp phải có
trách nhiệm đánh giá và xếp loại kịp thời để biểu dương, khen thưởng các tổ, các cá
nhân thành viên tốt, đồng thời nhắc nhở, khiển trách và có biện pháp điều chỉnh các vi
phạm của học sinh như bỏ tiết, vắng học không lý do, không học bài cũ và làm bài tập,
vi phạm các nội quy khác của trường.
- Cán sự lớp kết hợp với giáo viên chủ nhiệm, Đồn trường, tìm hiểu và nắm
được hồn cảnh, sức khoẻ, đặc biệt là các em có hồn cảnh khó khăn, hạn chế về nhận
thức hoặc có mặc cảm về cuộc sống, còn học yếu kém, bị lưu ban hoặc bỏ học đi học
lại để có kế hoạch giúp đỡ, chia sẻ, tương thân tương ái, động viên khuyến khích bạn

22


vượt qua hoàn cảnh, tin yêu bạn bè vượt lên hoàn cảnh, cố gắng tiến bộ. Học sinh trong
lớp giúp đỡ lẫn nhau hoàn thành tốt việc học tập và rèn luyện trang bị đầy đủ kiến thức
bước vào đời.

Thông qua đội ngũ cán bộ lớp, chi đoàn và học sinh ưu tú, nhà trường đã nắm
bắt thông tin và xử lí kịp thời, chính xác các tình huống, trường hợp học sinh vi phạm,
có biện pháp giáo dục cụ thể, kịp thời, thích hợp với từng đối tượng học sinh góp phần
nâng cao chất lượng học tập và rèn luyện của học sinh, góp phần hạn chế học sinh yếu
kém, bỏ học và lưu ban.
3.6. Kết hợp giáo dục giữa nhà trường - xã hội - gia đình để giáo dục học
sinh
Gia đình là tế bào của xã hội. Xã hội có sự tác động vơ cùng to lớn đến việc
giáo dục thế hệ trẻ. Do đó giáo dục gia đình và xã hội là một bộ phận hữu cơ trong sự
nghiệp giáo dục. Hoạt động giáo dục học sinh là nhiệm vụ của tồn xã hội, do đó nhà
trường nhận thức được tầm quan trọng của mối quan hệ nhà trường - gia đình và xã hội
trong cơng tác giáo dục nâng cao chất lượng toàn diện; người quản lí giáo dục cần
phải:
- Xây dựng Ban đại diện cha mẹ học sinh có tổ chức hoạt động tích cực có hiệu
quả : Hàng tuần Ban chấp hành Hội Phụ huynh học sinh cùng Ban giám hiệu, giáo viên
chủ nhiệm nắm bắt các thông tin về rèn luyện của con em mình kịp thời thơng báo với
gia đình để cùng nhau giáo dục .
- Thực hiện tốt cam kết giữa học sinh - nhà trường - gia đình - xã hội, trong
chương VI điều 84 quy định về trách nhiệm của xã hội: Giúp nhà trường trong công
tác các hoạt động giáo dục... góp phần xây dựng phong trào học tập và môi trường
giáo dục lành mạnh, ngăn chặn những hoạt động có ảnh hưởng xấu đến thanh niên....
Như vậy gia đình - xã hội có vai trị rất lớn trong việc cùng nhà trường nâng cao chất
lượng giáo dục ngăn ngừa, hạn chế học sinh học tập yếu kém, lưu ban và bỏ học.
- Thực hiện cam kết không vi phạm pháp luật, không sa vào các tệ nạn xã hội
giữa học sinh và công an được làm thường xuyên trong năm học. Xây dựng đề án an
ninh trường học kết hợp với an ninh địa phương có học sinh học tại trường, họp giao
ban hàng tháng, thông tin, thông báo các hiện tượng học sinh vi phạm và có biện pháp
cùng nhau giáo dục. Giúp các em yên tâm và tập trung vào việc học tập.
- Các giáo viên chủ nhiệm phải có trách nhiệm thơng tin đầy đủ, thường xuyên,
kịp thời về tình hình học tập và rèn luyện của học sinh đến Ban giám hiệu, đặc biệt là

với phụ huynh học sinh. Đồng thời phải nắm chắc, tìm hiểu cụ thể những thơng tin
phản hồi từ phía phụ huynh học sinh. Từ đó phối hợp với gia đình để uốn nắn, giáo dục
học sinh khi các em có hiện tượng lười biếng học tập, vi phạm nội quy, tránh trường
hợp xảy ra mới xử lý.
- Trường hợp có học sinh vi phạm kỷ luật, Ban Giám hiệu phải kết hợp với BCH
Hội Phụ huynh và cha mẹ học sinh vi phạm; phối hợp với chính quyền địa phương để

23


kịp thời giáo dục một cách nghiêm khắc. Sau đó phải có kế hoạch theo dõi và giúp đỡ
học sinh vi phạm tiến bộ.
- Nhà trường cùng với BCH Hội Phụ huynh học sinh của trường, Ban đại diện
phụ huynh của lớp cần có sự liên hệ chặt chẽ với chính quyền địa phương, thơng qua
các cấp chính quyền địa phương để quản lí học sinh cùng với nhà trường và gia đình,
tạo mọi điều kiện cho các em đến trường và tham gia tích cực những hoạt động học
tập, rèn luyện, tạo điều kiện thuận lợi để học sinh tham gia các phong trào chung của
nhà trường để giúp các em hoàn thiện nhân cách.
Bên cạnh những biện pháp quản lý, nhà trường cần phối hợp với chính quyền
địa phương và gia đình, hướng dẫn phụ huynh học sinh để thực hiện các biện pháp cụ
thể để ngăn ngừa, hạn chế học sinh học tập yếu kém, lưu ban, bỏ học như sau:
- Nhà trường thường xuyên giao ban định kỳ hàng tháng với chính quyền địa
phương ở địa bàn của trường và phối hợp với chính quyền địa phương có học sinh
đang học tại trường để thơng báo tình hình an ninh trật tự, giải quyết các vụ việc liên
quan đến học sinh kịp thời đảm bảo cho học sinh đi học an tồn, mơi trường sư phạm
thân thiện cho học sinh học tập. Nhà trường thường xuyên báo cáo về những phụ
huynh không quan tâm hoặc để con em ở nhà đi học không chuyên cần cho chính
quyền địa phương. Từ đó thơn, UBND xã có biện pháp nhắc nhở, động viên những phụ
huynh này. Chính quyền địa phương có các biện pháp hỗ trợ vật chất cho những gia
đình gặp khó khăn, vận động phụ huynh học sinh tạo điều kiện thuận lợi, quan tâm

động viên học sinh đi học chuyên cần, vắng học khi có lý do rất quan trọng. Nhà
trường duy trì liên lạc thường xuyên với phụ huynh học sinh, với chính quyền địa
phương.
- Phụ huynh học sinh thường xuyên theo dõi và kiểm tra bài vở của con em
mình. Tạo điều kiện tối đa để giúp đỡ học sinh trong quá trình học tập ở nhà, phải có
thời gian biểu học tập cho các em, động viên con em đi học chuyên cần, đến lớp phát
biểu xây dựng bài. Phụ huynh thường xuyên có sự kiểm tra và chuẩn bị cho con em
trước khi đến trường, lưu ý đến trang phục của học sinh, nếu khơng đúng quy định thì
nhắc nhở và bắt buộc học sinh thay đổi trang phục đúng nội quy của trường vì khi học
sinh vi phạm sẽ bị nhà trường xử lý làm ảnh hưởng đến việc học tập và tâm lý của học
sinh. Đồng thời thường xuyên liên hệ với giáo viên chủ nhiệm lớp để nắm được tình
hình học tập của con em mình, từ đó giáo viên chủ nhiệm cùng trao đổi với phụ huynh
để tìm biện pháp tốt nhất cho con em mình học tập. Phụ huynh cũng cần quan tâm đến
các mối quan hệ bạn bè của học sinh để tư vấn, hướng dẫn giúp học sinh có định
hướng đúng đắn trong quan hệ bạn bè để cùng nhau học tập và tiến bộ tránh hiện tượng
chơi với bạn xấu, bị lôi kéo ham vui chơi, lười học, vi phạm nội quy của trường dẫn
đến học tập sa sút, ngày càng yếu kém dẫn đến lưu ban và bỏ học.
Với việc thực hiện và kết hợp nhiều phương pháp giáo dục khác nhau, qua từng
năm học số lượng học sinh học tập xếp loại yếu kém, học sinh bị lưu ban, bỏ học ngày
càng giảm, tỉ lệ học sinh bị thi lại, bị lưu ban cũng được hạn chế và học sinh bỏ học đã
24


khắc phục đến mức thấp nhất, góp phần làm chuyển biến tích cực, tạo tiền đề cho sự
phát triển chất lượng giáo dục tồn diện cho học sinh, góp phần xây dựng nhà trường
ngày càng phát triển và vững mạnh.

PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Giáo dục phổ thông là nền tảng văn hoá của đất nước, đặt nền móng ban đầu rất

quan trọng cho việc phát trển tồn diện của thế hệ trẻ Việt Nam, góp phần đáp ứng nhu
cầu nâng cao dân trí, tạo nguồn cho việc đào tạo nhân lực có kỹ thuật và đào tạo nhân
tài cho đất nước. Giáo dục cho học sinh là giáo dục cơ bản, nền tảng cho các mặt giáo
dục khác. Trong giai đoạn hiện nay Đảng và Nhà nước ta hết sức coi trọng đến công
tác giáo dục và đào tạo. Đảng đã xem Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Như vậy đòi
hỏi nhà trường nhất là người làm cơng tác quản lí phải đặt sự nghiệp trồng người lên
hàng đầu, đặc biệt nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài, mà vấn đề cốt lõi là trang bị vốn
kiến thức vào đời cho học sinh là hết sức quan trọng. Từ đó đáp ứng được mục tiêu của
giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển tồn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất,
thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học
lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Để đạt được hiệu quả trong công tác giáo dục và đào tạo trong sự nghiệp trồng
người; trong đó, cơng tác ngăn ngừa và hạn chế học sinh vì lí do lưu ban, “ngồi nhằm
chỗ” mà dẫn đến chán nản không muốn đến trường rồi bỏ học là nhiệm vụ hết sức
quan trọng trong chiến lược giáo dục của nhà nước ta.
Cơng tác duy trì sĩ số học sinh, khắc phục tình trạng học sinh, lưu ban, bỏ học là
việc làm thường xuyên và lâu dài của nhà trường, gia đình và cộng đồng. Xét về tổng
thể, vừa do sự tiến bộ của xã hội, sự đầu tư của Nhà nước cho giáo dục và quan trọng
nhất là sự chuyển biến về thái độ của gia đình và xã hội đối với sự phát triển của giáo
dục, đặc biệt sự quan tâm của các thầy cô giáo tâm huyết với nghề nghiệp sẽ làm cho
áp lực bỏ học giảm đi, hạn chế học sinh bỏ học.
Để hoàn thành tốt nhiệm vụ này, người quản lí cần ý thức đầy đủ vai trị, quyền
hạn và trách nhiệm của mình, kết hợp với nhiều lực lượng giáo dục khác nhau để quản
lí, lãnh đạo các hoạt động của nhà trường một cách chặt chẽ, khoa học, đảm bảo sự
đoàn kết thống nhất mọi lực lượng, tạo nên sức mạnh đồng bộ để đạt được chất lượng
cao trong sự nghiệp giáo dục của trường.
Ngoài ra muốn giáo dục học sinh có hiệu quả, người quản lí cần quan tâm bồi
dưỡng thường xuyên về tư tưởng, lí tưởng và phẩm chất đạo đức; quan tâm tạo điều
kiện thuận lợi bồi dưỡng trình độ chun mơn, nghiệp vụ cho cán bộ, giáo viên. Bởi vì

phẩm chất và năng lực của người giáo viên ảnh hưởng vô cùng sâu sắc đối với học
sinh, phẩm chất của thầy cô giáo là vừa là điều kiện, vừa là phương tiện để giáo dục
học trị. Người thầy có nhiều phẩm chất tốt và càng tồn diện thì càng đạt hiệu quả giáo
25


×