Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (34.75 KB, 2 trang )
Soạn bài tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão
(Thuật hoài)
I. Gợi ý trả lời câu hỏi.
Câu 1. Chỉ ra điểm khác nhau giữa câu thơ đầu trong nguyên tác chữ Hán (qua phần dịch nghĩa) với câu thơ
dịch. Có gì đáng lưu ý về không gian, thời gian trong đó con người xuất hiện? Con người ở đây mang tư thế,
dáng vóc như thế nào?
Hai chữ “múa giáo” chưa thể hiện được âm hưởng hào hùng của hai từ “hoành sóc” trong câu thơ nguyên
tác “Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu” (có bản là “cáp kỉ thu”). “Hoành sóc” là tư thế cầm ngang ngọn giáo
của con người trấn giữ đất nước. Con người xuất hiện với tư thế hiên ngang, lẫm liệt, mang tầm vóc của vũ
trụ. Chính không gian rộng lớn (giang sơn) và thời gian trải dài dường như vô tận (kháp kỉ thu) đã làm cho
hình ảnh con người trở nên kì vĩ, hào hùng lạ thường. Ngọn trường giáo dường như được đo bằng chiều dài
của sông núi. Cầm ngang ngọn giáo là tư thế con người luôn luôn sẵn sàng chiến đấu, so với phần dịch “múa
giáo” thì hình ảnh đó mạnh mẽ, hào hùng hơn nhiều.
Câu 2. Anh chị cảm nhận như thế nào về sức mạnh của quân dân nhà Trần qua câu thơ “Ba quân khí mạnh
nuốt trôi trâu”?
Câu thơ “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu” có hai cách hiểu. Ngoài cách hiểu trong phần dịch của SGK, câu thơ
này còn được hiểu là “Ba quân như hổ báo, khí thế hùng dũng át cả sao Ngưu”. Cách hiểu nào cũng nêu bật
lên sức mạnh và sự hào hùng của binh lính đời nhà Trần. Ở đây chúng ta hiểu theo cách SGK đã đưa ra.
Hình ảnh “Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu” là sự cảm nhận chủ quan của tác giả trước hình ảnh khách quan
là đội quân nhà Trần, chính vì thế mà câu thơ mang vẻ đẹp vừa lãng mạn vừa hiện thực. Nghệ thuật so sánh
(ba quân như hổ báo) đã cụ thể hóa sức mạnh của “ba quân” vừa tạo cho câu thơ một âm hưởng hào hùng
mang “hào khí Đông A”, thể hiện tinh thần của thời đại.
Câu 3. “Nợ” công danh mà tác giả nói tới trong bài thơ có thể hiểu theo nghĩa nào dưới dây?
- Thể hiện chí làm trai theo tinh thần Nho giáo: lập công (để lại sự nghiệp), lập danh (để lại tiếng thơm).
- Chưa hoàn thành nghĩa vụ đối với dân, với nước.
- Cả hai nghĩa trên.
Nam nhi thời phong kiến coi việc lập công (để lại sự nghiệp) và lập danh (để lại tiếng thơm) là nhiệm vụ
quan trọng của cuộc đời. Đây là chí làm trai theo quan niệm Nho giáo. Lập công danh là món nợ của kẻ làm
trai. Chừng nào chưa lập được công danh, chưa tạo được tiếng thơm là chưa hoàn thành nghĩa vụ đối với
dân, với nước. Đặt trong xã hội phong kiên thời loạn, đất nước luôn bị họa ngoại xâm, chí làm trai có tác
dụng mãnh mẽ, cổ vũ con người từ bỏ lối sống cá nhân, ích kỉ để sẵn sàng hi sinh cho sự nghiệp “bình quốc