Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

Vấn đề đào tạo nguồn nhân lực trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của việt nam trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (470.31 KB, 67 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA: GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

HỌ VÀ TÊN TÁC GIẢ: HOÀNG THỊ HOA

TÊN ĐỀ TÀI:
VẤN ĐỀ ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Kinnh tế chính trị

HÀ NỘI – 2012
1


LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn các thấy cô giáo trong khoa Giáo dục chính trị,
các thầy cô trực tiếp giảng dạy bộ môn Kinh tế chính trị, cùng các cô chú trong Thƣ
viện Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn thành tốt
khóa luận của mình.
Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn cô Nguyễn Thị Nhung – ngƣời cô đã
tận tình quan tâm, chỉ bảo, giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này trong suốt thời
gian qua.
Khóa luận tốt nghiệp với đề tài: “ Vấn đề đào tạo nguồn nhân lực trong
nền klinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam giai đoạn hiện
nay” là một đề tài hay và hấp dẫn. Song do thời gian có hạn cũng nhƣ sự hạn chế
về khả năng, khóa luận không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Kính mong các
thầy cô và các bạn đọc xem xét và đóng góp ý kiến.
Em xin chân thành cảm ơn!


Hà Nội, ngày 04 tháng 05 năm 2012
Tác giả khóa luận

Hoàng Thị Hoa

2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dƣới sự hƣớng
dẫn của cô Nguyễn Thị Nhung.
Tôi xin cam đoan những kết quả nghiên cứu khóa luận chƣa từng đƣợc công
bố ở bất kì một công trình nghiên cứu nào, đó là những kết quả đúng, nếu sai tôi
hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 04 tháng 05 năm 2012
Tác giả khóa luận

Hoàng Thị Hoa

3


PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ năm 1986, Việt Nam bắt đầu công cuộc đổi mới – một cuộc đổi mới kinh
tế chính trị tự thân – đánh dấu quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung sang nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng Xã hội chủ nghĩa. Từ năm 1990 đến
2010, nền kinh tế Việt Nam đã tăng trƣởng với tốc độ trung bình hàng năm là
7,3%, thu nhập đầu ngƣời tăng gấp 5 lần. Việt Nam cũng đang chuyển đổi từ một
nƣớc có nền công nghiệp lạc hậu sang thành một nƣớc có nền kinh tế công nghiệp

hiện đại. Hầu hết các nhà kinh tế đều khẳng định rằng, cuối cùng không phải vốn
hoặc nguyên liệu của một nƣớc, mà chính là nguồn nhân lực, sự tăng lên của vốn
nhân lực sẽ quyết định tính chất và bƣớc đi của công cuộc phát triển kinh tế xã hội
của nƣớc đó. Frederik Harbison viết: “ Các nguồn nhân lực là nền tảng chủ yếu để
tạo ra của cải cho các nước. Tiền vốn và các tài nguyên thiên nhiên là những nhân
tố thụ động trong quá trình sản xuất, con người là những tác nhân tích cực chủ
động tích lũy vốn, khai thác tài nguyên thiên nhiên, xây dựng các tổ chức xã hội,
kinh tế, chính trị và đưa sự nghiệp phát triển đất nước đi lên. Rõ rang là đất nước
nào bất lực trong việc phát triển tay nghề và kiến thức cho nhân dân mình và
không sử dụng cái đó một cách hữu hiệu trong nền kinh tế quốc dân sẽ không thể
phát triển được bất cứ thứ gì”[6,3].
Việt Nam đã và đang bƣớc vào hội nhập kinh tế thế giới, từng bƣớc chiếm
lĩnh khoa học công nghệ cao vì thế đòi hỏi một lực lƣợng đông đảo nhân lực có
trình độ cao, có khả năng làm việc trong môi trƣờng cạnh tranh. Đặc biệt với một
số ngành đặc thù thì càng đòi hỏi nhân lực đạt đến trình độ quốc tế hóa. Nhƣng
thực tế thì nguồn nhân lực của nƣớc ta vẫn chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu của nền
kinh tế. Trong báo cáo năng lực cạnh tranh 2010 của Việt Nam đƣợc xây dựng bởi
Viện quản lý kinh tế Trung ƣơng (CIEM) và Học viện Năng lực cạnh tranh Châu Á
thực hiện đã chỉ ra 3 điểm yếu của kinh tế Việt Nam hiện nay là: thiếu kinh tế cụm
4


ngành, chính sách kinh tế vĩ mô không ổn định, và đặc biệt là năng suất lao động
còn ở mức quá thấp.
Để nâng cao năng suất, chất lƣợng lao động là yêu cầu đặt ra đối với công
tác đào tạo nguồn nhân lực. Để tìm hiểu rõ hơn về yêu cầu của nền kinh tế thị
trƣờng đối với công tác đào tạo nguồn nhân lực và để từ đó tìm ra một số giải pháp
trong đào tạo tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài: “Vấn đề đào tạo nguồn nhân lực
trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay”.

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Vấn đề nguồn nhân lực và vai trò của nó đồi với sự phát trển của kinh tế đã
đƣợc nhiều nhà nghiên cứu chú ý và nghiên cứu, đặc biệt là tìm ra những giải pháp
để nâng cao chất lƣợng đào tạo nguồn nhân lực, có thể thấy nhƣ:
Trƣơng Gia Long: “Vấn đề phát triển nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay”.
PGS.TS Nguyễn Tiệp: “Đào tạo và phát triển lao động chuyên môn kĩ thuật
– tiền đề sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực”.
Nguyễn Minh Đƣờng – Phan Văn Kha: “Đào tạo nhân lực khoa học công
nghệ đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị
trường, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế”.
Nói chung, các tác giả đã nghiên cứu vấn đề nguồn nhân lực và đào tạo
nguồn nhân lực ở những phƣơng diện khác nhau, tuy nhiên, Vấn đề đào tạo nguồn
nhân lực trong nền Kinh tế thị trƣờng định hƣớng Xã hội chủ nghĩa thì mới chỉ
đƣợc đề cập rất ít. Trên cơ sở sƣu tầm, nghiên cứu những tài liệu tham khảo, và với
những hiểu biết của bản, em đi vào nghiên cứu vấn đề nguồn nhân lực trong nền
Kinh tế thị trƣờng định hƣớng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Từ đó đƣa ra
những giải pháp cơ bản để sao cho xây dựng đƣợc nguồn nhân lực đáp ứng đƣợc
yêu cầu của nhà tuyển dụng, và yêu cầu của nền kinh tế thị trƣờng đặt ra.

5


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích
Đề tài nghiên cứu một cách tổng quát về vấn đề nguồn nhân lực, sự cần thiết của
việc đào tạo nguồn nhân lực trong nền Kinh tế thị trƣờng định hƣớng Xã hội chủ
nghĩa, từ chỗ thấy đƣợc sự cần thiết của vấn đề đào tạo nguồn nhân lực, những
thành tựu và hạn chế mà nguồn nhân lực trong nền Kinh tế thị trƣờng mắc phải.
Dựa trên những thực trạng trong đào tạo, tìm hiểu một số giải pháp nhằm khắc
phục thực trạng đó. Qua đó, mỗi ngƣời có thể nhận thức đƣợc yêu cầu, vai trò và

nhiệm vụ của mình trong sự nghiệp phát triển của đất nƣớc, góp sức mình vào sự
phát triển kinh tế của đất nƣớc.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ sự cần thiết của vấn đề đào tạo nguồn nhân lực trong nền Kinh tế thị
Trƣờng định hƣớng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
- Chỉ ra thực trạng đào tạo nguồn nhân lực ở nƣớc ta hiện nay.
- Đƣa ra một số giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực trong nền kinh tế thị trƣờng
định hƣớng Xã hội chủ nghĩa.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Đề tài dựa trên phƣơng pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, quan điểm đổi mới của Đảng.
- Ngoài ra còn có các phƣơng pháp:
+ Phƣơng pháp phân tích và tổng hợp.
+ Phƣơng pháp thống kê, so sánh.
+ Phƣơng pháp kết hợp lý luận và thực tiễn.
5. Ý nghĩa của đề tài
5.1. Ý nghĩa lý luận
- Đề tài tiếp tục bổ sung, làm rõ và hoàn thiện vấn đề đào tạo nguồn nhân lực
trong nền Kinh tế thị trƣờng định hƣớng Xã hội chủ nghĩa.
6


- Tạo cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu các vấn đề nguồn nhân lực.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn
Nhận thức đƣợc sự cần thiết, đánh giá đúng thực trạng và đƣa ra một số giải
pháp có tính khả thi nhằm nâng cao chất lƣợng công tác đào tạo nguồn nhân lực,
đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực trong nền Kinh tế thị trƣờng định hƣớng
Xã hội chủ nghĩa.
6. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khóa luận đƣợc kết cấu gồm ba chƣơng:

Chương 1: Những vấn đề chung về nguồn nhân lực trong nền kinh tế thị
trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam giai đoạn hiện nay.
Chương 2: Thực trạng công tác đào tạo nguồn nhân lực trong nền kinh tế thị
trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Một số giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực trong nền kinh tế thị
trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam hiện nay.

7


PHẦN 2: NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUỒN NHÂN LỰC TRONG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG ĐỊNH HƢỠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1.1.

Khái niệm về đào tạo nguồn nhân lực

1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự thành công
hay không thành công trong phát triển Kinh tế - xã hội của một quốc gia, do vậy tất
cả các nƣớc trên thế giới đều quan tâm đến vấn đề nguồn nhân lực.
Nguồn nhân lực là nguồn lực con ngƣời, có quan hệ chặt chẽ với dân số, là bộ phận
quan trọng trong dân số, đóng vai trò tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội.
Nguồn nhân lực là tổng thể tiềm năng lao động của một đất nƣớc, một cộng đồng,
bao gồm dân số trong độ tuổi lao động lẫn dân số ngoài độ tuổi lao động.
Thuật ngữ nguồn nhân lực bắt đầu xuất hiện vào thập niên 80 của thế kỷ XX khi
mà có những thay đổi căn bản về phƣơng thức quản lý, sử dụng con ngƣời trong
kinh tế lao động. Có khá nhiều định nghĩa khác nhau về nguồn nhân lực nhƣ:

- “Nguồn nhân lực là nguồn lực con người của những tổ chức( với quy mô,
loại hình, chức năng khác nhau) có khả năng và tiềm năng tham gia vào quá trình
phát triển của tổ chức cùng với sự phát triển kinh tế xã hội của quốc gia, khu vực,
thế giới” [8, 256] . Cách hiểu này về nguồn nhân lực xuất phát từ quan niệm coi
nguồn nhân lực là nguồn nhân lực với các yếu tố vật chất, tinh thần tạo nên năng
lực, sức mạnh phục vụ sự phát triển nói chung của tổ chức.
- Trong các báo cáo của Liên hợp quốc đánh giá về những tác động của toàn
cầu hóa đối với nguồn nhân lực đã đƣa ra định nghĩa: “ Nguồn nhân lực là trình độ
lành nghề, kiến thức và năng lực có thực tế cùng với những năng lực tồn tại dưới
dạng tiềm năng của con người”. Quan niệm về nguồn nhân lực theo hƣớng tiếp cận
8


này có phần thiên về chất lƣợng nguồn nhân lực. Trong quan niệm này, điểm đƣợc
đánh giá cao là coi các tiềm năng của con ngƣời cũng là năng lực khả năng để từ đó
có những cơ chế thích hợp trong quản lý, sử dụng. Quan niệm về nguồn nhân lực
nhƣ vậy cũng đã cho ta thấy phần nào sự tán đồng của Liên hợp quốc đối với
phƣơng thức quản lý mới.
- “Nguồn nhân lực là tổng thể các yếu tố bên trong và bên ngoài của mỗi cá
nhân bảo đảm nguồn sáng tạo cùng các nội dung khác cho sự thành công, đạt được
mục tiêu của tổ chức”[7, 9].
- Theo giáo sƣ Phạm Minh Hạc, “nguồn nhân lực cần phải hiểu là tổng thể
các tiềm năng lao động của một nước hay một địa phương sẵn sàng tham gia một
công việc nào đó” [8, 269].
Ở dạng khái quát nhất ta có thể hiểu: kinh tế nguồn nhân lực là một phạm trù dùng
để chỉ sức mạnh tiềm ẩn của dân cƣ, khả năng huy động tham gia vào quá trình
tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội trong hiện tại cũng nhƣ trong tƣơng
lai. Sức mạnh và khả năng đó đƣợc thể hiện thông qua số lƣợng, chất lƣợng và cơ
cấu dân số. Nhất là số lƣợng và chất lƣợng con ngƣời có đủ điều kiện tham gia vào
nền sản xuất xã hội.

Tuy có những định nghĩa khác nhau tùy theo giác độ tiếp cận nghiên cứu nhƣng
điểm chung mà ta có thể rõ ràng nhận thấy qua các định nghĩa trên về nguồn nhân
lực là:
+ Số lƣợng nhân lực: Nói đến nguồn nhân lực của bất kỳ một tổ chức, một
địa phƣơng hay một quốc gia nào câu hỏi đặt ra là có bao nhiêu ngƣời và sẽ có bao
nhiêu nữa trong tƣơng lai. Đấy là câu hỏi cho việc xác định số lƣợng nguồn nhân
lực. Sự phát triển về số lƣợng nguồn nhân lực dựa trên hai nhóm yếu tố bên trong(
Ví dụ: nhu cầu thực tế đòi hỏi phải tăng số lƣợng lao động) và những yếu tố bên
ngoài của tổ chức nhƣ sự gia tăng về dân số hay lực lƣợng lao động do di dân.

9


+ Chất lƣợng nhân lực: chất lƣợng nhân lực là yếu tố tổng hợp nhiều yếu tố
bộ phận nhƣ trí tuệ, trình độ, sự hiểu biết, đạo đức, kĩ năng, sức khỏe, thẩm
mỹ,…của ngƣời lao động. Trong các yếu tố trên thì trí lực và thể lực là hai yếu tố
quan trọng trong việc xem xét, đánh giá chất lƣợng nguồn nhân lực.
+ Cơ cấu nhân lực: cơ cấu nhân lực là yếu tố không thể thiếu khi xem xét,
đánh giá về nguồn nhân lực. Cơ cấu nhân lực thể hiện trên các phƣơng diện khác
nhau nhƣ: cơ cấu trình độ đào tạo, giới tính, độ tuổi,…Cơ cấu nguồn nhân lực của
một quốc gia nói chung đƣợc quyết định bởi cơ cấu đào tạo và cơ cấu kinh tế theo
đó sẽ có một tỷ lệ nhất định.
Ở Việt Nam hiện nay đang hình thành hai loại hình nhân lực: nhân lực phổ
thông và nhân lực chất lƣợng cao. Nhân lực phổ thông hiện tại vẫn chiếm số đông
trong khi đó, tỷ lệ nhân lực chất lƣợng cao lại chiếm tỷ lệ rất thấp.
1.1.2. Khái niệm đào tạo nguồn nhân lực
Đào tạo nguồn nhân lực là một hoạt động có tổ chức, đƣợc thực hiện trong
một thời gian nhất định và nhằm đem đến sự thay đổi nhân cách và năng lực của
con ngƣời.
- Là quá trình học tập để chuẩn bị con ngƣời cho tƣơng lai, để họ có thể

chuyển tới công việc mới trong thời gian thích hợp.
- Là quá trình học tập nhằm mở ra cho cá nhân một công việc mới dựa trên
những định hƣớng tƣơng lai của tổ chức. Theo quan niệm này, khi nói đến đào tạo
nguồn nhân lực là nói đến việc trang bị cho ngƣời lao động: kiến thức phổ thông,
kiến thức chuyên nghiệp, kiến thức quản lý,….[12, 9].
Từ đó cho thấy, đào tạo là hoạt động làm cho con ngƣời trở thành ngƣời có
năng lực theo những tiêu chuển nhất định. Là quá trình học tập để làm cho ngƣời
lao động có thể thực hiện chức năng, nhiệm vụ có hiệu quả hơn trong công tác của
họ.

10


“Đào tạo nguồn nhân lực là quá trình trang bị kiến thức, kỹ năng, khả năng
thuộc một nghề, một chuyên môn nhất định để người lao động thực hiện có hiệu
quả chức năng và nhiệm vụ của mình” [3,103].
Đào tạo là những hoạt động học tập nhằm nâng cao trình độ học vấn, trình độ
chuyên môn, trình độ lành nghề nhằm giúp ngƣời lao động thực hiện công việc
hiện tại của họ tốt hơn. Hoạt động đào tạo sẽ trang bị những kiến thức thông qua
đào tạo mới áp dụng đối với những ngƣời chƣa có nghề, đào tạo lại đối với những
ngƣời đã có nghề nhƣng vì lý do nào đó mà nghề của họ không phù hợp nữa và đào
tạo nâng cao trình độ lành nghề. Trình độ lành nghề của nguồn nhân lực thể hiện ở
mặt chất lƣợng của sức lao động, nó có liên quan chặt chẽ với lao động phức tạp và
biểu hiện ở sự hiểu biết về mặt lý thuyết về kỹ thuật sản xuất và kĩ năng lao động,
cho phép ngƣời lao động hoàn thành đƣợc những công việc phức tạp. Hoạt động
đào tạo sẽ hƣớng cá nhân cụ thể và cần tiến hành ngay để đáp ứng yêu cầu hiện tại,
thực tế công việc đòi hỏi.
Đào tạo nguồn nhân lực là cần thiết cho sự thành công của tổ chức và phát
triển chức năng của con ngƣời. Việc đào tạo nguồn nhân lực không chỉ đƣợc thực
hiện bên trong một tổ chức, mà còn bao gồm một loạt những hoạt động khác đƣợc

thực hiện bên ngoài nhƣ: học nghề, hành nghề, học việc.
1.2. Khái niệm Kinh tế thị trƣờng định hƣớng Xã hội chủ nghĩa của Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay
1.2.1. Khái niệm về Kinh tế thị trường
Nền sản xuất xã hội trong mọi giai đoạn phát triển đều vấp phải giới hạn về
nguồn lực sản xuất và giới hạn về khả năng thỏa mãn các nhu cầu của con ngƣời.
Do đó, nhƣ kinh tế học đã chỉ ra, vấn đề cốt yếu của các hệ thống kinh tế là nhằm
giải quyết ba vấn đề cơ bản sau: Sản xuất cái gì? Sản xuất nhƣ thế nào? Sản xuất
cho ai?

11


Căn cứ vào cách thức giải quyết ba vấn đề nêu trên lịch sử tiến hóa của nhân
loại có thể chia làm ba hệ thống kinh tế lớn ( hay còn gọi là ba giai đoạn chủ yếu):
1. Hệ thống kinh tế tự nhiên.
2. Hệ thống kinh tế hàng hóa mà giai đoạn cao là kinh tế thị trƣờng.
3. Ngƣời ta cũng dự báo về một hệ thống kinh tế hậu thị trƣờng, hậu công
nghiệp trong tƣơng lai.
Kinh tế thị trƣờng không phải là một giai đoạn độc lập khác biệt so với kinh
tế hàng hóa mà là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hóa.
Kinh tế thị trường là mô hình kinh tế mà ở đó các quan hệ kinh tế đều được
thực hiện trên thị trường, thông qua quá trình trao đổi mua bán [2, 254]. Nếu kinh
tế hàng hóa giản đơn chỉ dừng lại ở sự trao đổi sản phẩm thông qua thị trƣờng trên
cơ sở giá trị và giá cả thị trƣờng thì khái niệm kinh tế thị trƣờng phản ánh trạng thái
tồn tại chuyển động của nền kinh tế theo cơ chế thị trƣờng. Trong đó tất cả các yếu
tố sản xuất cho ai? Sản xuất nhƣ thế nào? Sản xuất cái gì?...đều đƣợc quyết định
thông qua thị trƣờng (đều do thị trƣờng quyết định theo chỉ dẫn của các quan hệ
cung – cầu, giá cả,…). Thực chất kinh tế thị trƣờng không phải là phƣơng thức sản
xuất mà nó chỉ là cách thức tổ chức nền kinh tế đƣợc loài ngƣời sử dụng để phân bố

hiệu quả các nguồn lực xã hội.
Kinh tế thị trƣờng có một số đặc trƣng cơ bản sau:
- Trong nền kinh tế thị trƣờng tính tự chủ của các chủ thể kinh tế rất cao, các
chủ thể kinh tế hoàn toàn tự chủ trong sản xuất, kinh doanh trao đổi, sản xuất. Họ
tự bù đắp chi phí sản xuất, tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh của
mình. Các chủ thể kinh tế đƣợc tự do kinh doanh theo luật định. Đây là đặc trƣng
rất quan trọng của kinh tế thị trƣờng, nó xuất phát từ những điều kiện, kết quả của
việc tồn tại nền kinh tế hàng hóa đồng thời cũng là biểu hiện và là yêu cầu nội tạng
của nền kinh tế thị trƣờng.

12


- Trong nền kinh tế thị trƣờng hàng hóa rất đa dạng, phong phú, nhu cầu về
nguồn hàng cho sản xuất và tiêu dùng cho toàn xã hội đƣợc thỏa mãn. Đặc trƣng
này thể hiện tính ƣu việt hơn hẳn của kinh tế thị trƣờng so với kinh tế tự nhiên.
Đồng thời, sự đa dạng và phong phú về số lƣợng và chủng loại hàng hóa trên thị
trƣờng phản ánh trình độ cao của năng xuất lao động; phản ánh mức độ phát triển
của quan hệ trao đổi; thể hiện trình độ phân công lao động là hơn hẳn so với kinh tế
hàng hóa giản đơn.
- Trong nền kinh tế thị trƣờng, cạnh tranh là động lực, là môi trƣờng để phát
triển kinh tế. Cạnh tranh là tất yếu, nó tồn tại do sự độc lập về lợi ích kinh tế giữa
các chủ thể. Theo yêu cầu của quy luật giá trị thì tất cả các đơn vị sản xuất kinh
doanh trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Trong điều kiện đó muốn có
nhiều lợi nhuận, thậm chí muốn tồn tại trong thị trƣờng thì các đơn vị sản xuất kinh
doanh phải tìm mọi cách để cải tiến kĩ thuật, áp dụng kĩ thuật mới vào sản xuất
giảm chi phí, nâng cao năng xuất lao động…thông qua đó lực lƣợng sản xuất
không ngừng đƣợc phát triển.
- Cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trƣờng là cơ chế thị trƣờng tự do cạnh
tranh, tức là thông qua thị trƣờng để xác định giá trị sử dụng (sản xuất cái gì? Sản

xuất nhƣ thế nào?) và giá trị (sản xuất cho ai?). Cơ chế thị trƣờng có thể kích thích
hoạt động của các chủ thể, tạo điều kiện cho các hoạt động tự do của chủ thể đƣợc
phát huy nhờ đó nguồ lực trong xã hội đƣợc động viên, sử dụng có hiệu quả vào
phát triển kinh tế xã hội.
Nhƣ vậy, chỉ khi nào lực lƣợng sản xuất và phân công lao động xã hội đạt tới
trình độ cao, sản xuất hàng hóa phát triển cao, trao đổi hàng hóa trở nên phổ biến
và thị trƣờng mở rộng, các thể chế phù hợp, các loại thị trƣờng hình thành đồng bộ
và vận hành thông suốt thì mới có kinh tế thị trƣờng.

13


1.2.2. Khái niệm về Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa của Việt
Nam
Nƣớc ta đang thực hiện chuyển đổi nền kinh tế, chuyển từ nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế hàng hóa. Mô hình kinh tế Việt Nam đƣợc xác
định là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần , vận động theo cơ chế thị trƣờng có
sự quản lý của nhà nƣớc, định hƣớng xã hội chủ nghĩa ( nói ngắn gọn là Kinh tế thị
trƣờng định hƣớng Xã hội chủ nghĩa) [2,331].
Kinh tế hàng hóa vận hành theo cơ chế thị trƣờng phát triển từ sơ khai đến
hiện đại là một công trình sáng tạo của loài ngƣời trong quá trình sản xuất và trao
đổi. Trƣớc đây có quan niệm cho rằng kinh tế hàng hóa là sản phẩm riêng của Chủ
nghĩa Tƣ bản. Đây là quan điểm sai. Từ đó kinh tế Xã hội chủ nghĩa vận hành theo
cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp, làm cho nền kinh tế phát triển trì trệ, là một
trong những nguyên nhân làm cho Chủ nghĩa xã hội khủng hoảng. Đó là trình độ
văn minh mà nhân loại đã đạt đƣợc, chứ không phải là phát minh của chủ nghĩa Tƣ
bản. Nền kinh tế hàng hóa vận hành theo cơ chế thị trƣờng trên thực tế đã tỏ rõ
những lợi thế nhƣng đồng thời cũng bộc lộ những khuyết điểm cần khắc phục. Nhờ
có cơ chế thị trƣờng, việc phân bổ và sử dụng các nguồn lực của nền kinh tế đã có
hiệu quả hơn. Động lực lợi ích kinh tế đã phát huy tác dụng mạnh hơn.

Cơ chế quản lý mới đã đƣợc vận hành và ngày càng tham gia đầy đủ hơn
phân công lao động trong nƣớc và quốc tế. Chính sách phát triển nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trƣờng không những không làm hạn
chế khả năng thu hút, đầu tƣ xây dựng đất nƣớc, mà còn thực hiện chính sách đại
đoàn kết toàn dân và phát huy nội lực gắn với khai thác cao nhất nguồn lực bên
ngoài, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại vững bƣớc đƣa đất nƣớc đi
lên.
Trƣớc những lợi ích đó Đảng và Nhà nƣớc ta chủ trƣơng chuyển từ nền kinh
tế hành chính, quan liêu, bao cấp sang nền Kinh tế thị trƣờng định hƣớng Xã hội
14


chủ nghĩa. Về thực chất, ở đó vừa kế thừa những thành tựu tiến bộ trong lịch sử
phát triển nhân loại mà đỉnh cao là chủ nghĩa tƣ bản, vừa gắn liền với mục tiêu của
Chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội phải biết kế thừa và sử dụng các ƣu điểm của
Kinh tế thị trƣờng, loại bỏ những khuyết tật của nó để xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội.
1.2.3. Đặc trưng cơ bản của nền Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ
nghĩa của Việt Nam
Nền Kinh tế thị trƣờng định hƣớng Xã hội chủ nghĩa cũng có tính chất chung
của nền kinh tế thị trƣờng, nền kinh tế vận động theo những quy luật vốn có của
Kinh tế thị trƣờng nhƣ: quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu…Thị
trƣờng có vai trò quyết định trong việc phân phối các nguồn lực kinh tế. Giá cả do
thị trƣờng quyết định. Nhà nƣớc thực hiện điều tiết kinh tế vĩ mô để giảm bớt
những thất bại của kinh tế thị trƣờng.
Nhƣng bất cứ nền kinh tế nào cũng hoạt động trong những điều kiện lịch sử xã hội của một nƣớc nhất định nên nó bị chi phối bởi những điều kiện lịch sử đặc
biệt với nền kinh tế thị trƣờng của các nƣớc khác. Nền kinh tế thị trƣờng định
hƣớng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có những đặc trƣng sau đây:
Thứ nhất: Mục đích của nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa
là phát triển lực lƣợng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất

mới phù hợp trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý và phân phối nhằm thực hiện dân giàu,
nƣớc mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh.
Thứ hai: Nền kinh tế dựa trên cơ sở cơ cấu đa dạng về hình thức sở hữu, do
đó nền kinh tế gồm nhiều thành phần, trong đó kinh tế Nhà nƣớc giữ vai trò chủ
đạo.
Trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần nƣớc ta, thành phần kinh tế Nhà nƣớc
giữ vai trò chủ đạo. Việc xác định thành phần kinh tế Nhà nƣớc giữ vai trò chủ đạo
là sự khác biệt có tính chất bản chất giữa kinh tế thị trƣờng định hƣớng Xã hội chủ
15


nghĩa với Kinh tế thị trƣờng của các nƣớc khác. Tính định hƣớng Xã hội chủ nghĩa
của nền kinh tế thị trƣờng ở nƣớc ta đã quy định kinh tế Nhà nƣớc phải giữ vai trò
chỉ đạo trong cơ cấu kinh tế.
Thứ ba: trong nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng Xã hội chủ nghĩa, thực hiện nhiều
hình thức phân phối thu nhập, phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế,
phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực vào sản xuất kinh doanh. Phân
phối thông qua các quỹ phúc lợi xã hội, trong đó phân phối theo kết quả lao động
giữ vai trò nòng cốt, đi đôi với chính sách điều tiết thu nhập một cách hợp lý.
Chúng ta không coi bình đẳng xã hội nhƣ một trật tự tự nhiên, là điều kiện của sự
tăng trƣởng kinh tế, mà thực hiện mỗi bƣớc tăng trƣởng kinh tế gắn liền với cải
thiện đời sống của nhân dân, với tiến bộ xã hội và công bằng xã hội.
Nhƣ đã biết, mỗi chế độ xã hội có một chế độ phân phối tƣơng ứng với nó. Chế độ
phân phối do quan hệ sản xuất thống trị, trƣớc hết là quan hệ sản xuất quyết định.
Phân phối có liên quan đến chế độ xã hội, chính trị. Dƣới chủ nghĩa Tƣ bản, việc
phân phối tuân theo quy tắc giá trị, đối với ngƣời lao động theo giá trị sức lao động.
Nhƣ vậy, thu nhập của ngƣời lao động chỉ giới hạn ở giá trị sức lao động mà thôi.
Chủ nghĩa xã hội có đặc trƣng riêng về sử hữu, do đó chế độ sở hữu cũng có đặc
trƣng riêng. Phân phối theo lao động là đặc trƣng riêng của Chủ nghĩa xã hội. Thu
nhập của ngƣời lao động không chỉ giới hạn ở sức lao động mà nó phải vƣợt qua

đại lƣợng đó,nó phụ thuộc chủ yếu vào kết quả lao động và hiệu quả kinh tế.
Nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng Xã hội chủ nghĩa ở nƣớc ta gồm nhiều
thành phần kinh tế. Vì vậy, cần thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập. Chỉ
có nhƣ vậy mới khai thác đƣợc khả năng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần kinh tế,
huy động mọi nguồn lực của đất nƣớc vào phát triển kinh tế.
Thứ tư, Ở nƣớc ta,cơ chế vận hành của nền kinh tế là cơ chế thị trƣờng có sự quản
lý của Nhà nƣớc theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa cũng vận hành theo những quy
luật kinh tế nội tại của nền kinh tế thị trƣờng nói chung, thị trƣờng có vai trò quyết
16


định đối với việc phận phối nguồn lực kinh tế. Sự quản lý nhằm hạn chế, nhằm
khắc phục những thất bại của thị trƣờng, thực hiện mục tiêu xã hội nhân đạo mà
bản thân thị trƣờng không thể làm đƣợc.
Thứ năm: Nền Kinh tế thị trƣờng ở nƣớc ta là nền kinh tế mở, hội nhập với kinh tế
thế giới, thực hiện những thông lệ trong quan hệ kinh tế thế giới , nhƣng vẫn giữ
đƣợc độc lập chủ quyền và bảo vệ đƣợc lợi ích quốc gia dân tộc trong quan hệ kinh
tế đối ngoại. Thực ra đây không phải là đặc trƣng riêng của Kinh tế thị trƣờng định
hƣớng Xã hội chủ nghĩa mà là xu hƣớng chung của kinh tế Thế giới hiện nay.
Trong điều kiện hiện nay chỉ có mở của kinh tế hội nhập vào kinh tế thế giới và khu
vực mới thu hút đƣợc vốn, kĩ thuật công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên
tiến để khai thác tiềm năng và thế mạnh của nƣớc ta, thực hiện phát triển kinh tế thị
trƣờng theo kiểu rút ngắn. Thực hiện mở cửa kinh tế theo hƣớng đa phƣơng hóa và
đa dạng hóa. Các hình thức kinh tế đối ngoại hƣớng mạnh về xuất khẩu, đồng thời
thay thế nhập khẩu nhiều sản phẩm kỳ mức sản xuất có hiệu quả.
1.3. Sự cần thiết của đào tạo nguồn nhân lực trong nền Kinh tế thị trƣờng định
hƣớng Xã hội chủ nghĩa của Viêt Nam
Hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng, cuối cùng không phải nguồn vốn hoặc
nguyên liệu của một nƣớc, mà chính là nguồn nhân lực hay chính xác hơn là sự
tăng lên của vốn nhân lực sẽ quyết định tính chất, bƣớc đi của công cuộc phát triển

kinh tế và xã hội của nƣớc đó. Frederik Harbison viết: “ Các nguồn nhân lực là nền
tảng chủ yếu để tạo ra của cải cho các nước. Tiền vốn và các tài nguyên thiên
nhiên là những nhân tố thụ động trong sản xuất, con người là những tác nhân tích
cự chủ động tích lũy vốn, khai thác tài nguyên thiên nhiên, xây dựng các tổ chức xã
hội, kinh tế, chính trị và đưa sự nghiệp đất nước tiến lên. Rõ ràng là đất nước nào
bất lực trong việc phát triển tay nghề và kiến thức cho nhân dân của mình và không
chịu sử dụng những cái đó một cách hữu hiệu trong nền kinh tế quốc dân sẽ không
hề phát triển được bất kỳ một thứ gì” [6, 3].
17


Nền sản xuất mang bản chất Xã hội chủ nghĩa phải phát huy cao độ giữa mục
đích, phƣơng tiện, đó là lấy con ngƣời làm trung tâm, làm mục tiêu cao cả của mọi
mục tiêu sản xuất, kinh doanh. Nhƣ thế thì sự thống nhất giữa định hƣớng Xã hội
chủ nghĩa với phát triển bền vững, thống nhất giữa kinh tế thị trƣờng với định
hƣớng Xã hội chủ nghĩa, với phát triển kinh tế hiện đại ắt sẽ đƣợc bảo đảm. Trong
lý thuyết về tăng trƣởng kinh tế, con ngƣời đƣợc coi là một phƣơng tiện hữu hiệu
đảm bảo cho tốc độ tăng trƣởng kinh tế bền vững. Vì vậy vấn đề đào tạo, nâng cao
chất lƣợng nguồn nhân lực ngày càng đƣợc quan tâm và chú trọng hơn trong nền
kinh tế thị trƣờng.
* Từ bản thân nền kinh tế đã đặt ra yêu cầu là để xây dựng thành công nền
kinh tế thị trƣờng định hƣớng Xã hội chủ nghĩa, nhất thiết phải xây dựng đƣợc nền
kinh tế bền vững với 4 trọng tâm, đồng thời là bốn vấn đề cốt yếu đối với tiến trình
phát triển, cần tập trung vào giải quyết đó là: thị trƣờng, công nghiệp hóa, nguồn
nhân lực với chất lƣợng cao và chiến lƣợc hội nhập quốc tế.
- Một trong những tƣơng phản đã và đang diễn ra trong nền kinh tế Việt Nam
là những diễn biến trái chiều giữa mức tăng trƣởng cao và chỉ số cạnh tranh toàn
cầu. Yếu tố dẫn tới sự tụt hạng về chỉ số cạnh tranh là do chỉ số ổn định kinh tế vĩ
mô giảm từ vị trí thứ 51( năm 2007) xuống 112( năm 2009). Tiến đến là thể chế
kinh tế chƣa phát triển, chƣa có sự hội nhập đầy đủ vào hệ thống tài chính quốc tế,

mà chỉ đang ở giai đoạn đầu của quá trình tham gia vào mạng lƣới sản xuất trong
khu vực và thế giới, năng lực cạnh tranh ở cấp quốc gia, của sản phẩm của doanh
nghiệp ở mức thấp.
Bình ổn vĩ mô và an ninh kinh tế - xã hội là những vấn đề lớn đã và đạng
đƣợc đặt ra. Nhất là vào thời điểm xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính khu vực Châu
Á năm 1997- 1999 và khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008- 2008 càng bộc lộ rõ
những điểm yếu của nền kinh tế Việt Nam: tỷ lệ lạm phát tăng cao trở lại; tốc độ
tăng trƣởng chƣa đƣợc đo bằng hiệu quả kinh doanh và năng xuất lao động cao;
18


mức độ phụ thuộc vào thị trƣờng nƣớc ngoài, thâm hụt cán cân thanh toán và cán
cân thƣơng mại cao; nợ nƣớc ngoài đến hạn phải trả,…Đây là những mặt trái mà
kinh tế học gọi là “những thất bại của thị trƣờng” cần đƣợc khắc phục để đảm bảo
cho sự phát triển ổn định và bền vững.
- Thực thi mô hình công nghiệp hóa phát huy lợi thế so sánh. Yếu tố cốt lõi,
quyết định sự thay đổi của nền kinh tế Việt Nam là công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Chúng ta đã và đang trải qua hai cuộc thử nghiệm lớn, thứ nhất là thử nghiệm mô
hình công nghiệp hóa lấy công nghiệp nặng làm then chốt (từ thập niên 60 đến giữa
thập niên 80 thế kỷ XX); thứ 2 là mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
tiến trình đổi mới triển khai từ 1986 đến nay, có ngƣời gọi cuộc thử nghiệm thứ 2 là
mô hình công nghiệp hóa “rút ngắn” nhằm mau chóng đƣa nƣớc ta trở thành một
nƣớc công nghiệp rút ngắn vào năm 2020. Cả 2 cuộc thử nghiệm này đều mang lại
một số kết quả nhất định, tạo ra một số ngành công nghiệp non trẻ, bƣớc đầu phát
huy một số nội lực, nhƣng chƣa đạt đƣợc mục tiêu mong muốn là nhanh chóng
chuyển nƣớc ta từ một nƣớc nông nghiệp lạc hậu thành một nƣớc công nghiệp mặc
dù cả hai cuộc thử nghiệm đều đã kéo dài tổng cộng 6 thập niên, mà đến nay Việt
Nam thực chất vẫn là một nƣớc “nông nghiệp cận nghèo”. Nguyên nhân chính là
do chúng ta tiến hành công nghiệp hóa một cách duy ý chí, nôn nóng, muốn “đi tắt
đón đầu”, không xuất phát từ thực lực, thiếu thốn đủ mọi thứ, từ vốn đến công

nghệ, nguồn nhân lực am hiểu công nghệ và phƣơng pháp quản lý công nghiệp, nên
không những không tiến nhanh hay rút ngắn đƣợc, mà đã kéo dài hơn tiến trình
công nghiệp hóa. Nay cần chuyển sang một tƣ duy mới, một cách làm mới, một
mô hình mới, mô hình công nghiệp hóa phát huy lợi thế so sánh động, dựa trên
thực lực và lợi thế mà ta có thể tiếp cận đƣợc. Cần khắc phục những tác nhân ảnh
hƣởng đến sự phát triển bền vững của kinh tế là: tốc độ gia tăng dân số, tình trạng
nghèo đói, hậu quả chiến tranh kéo dài, tốc độ tăng trƣởng kinh tế nhanh nhờ tăng

19


đầu tƣ và một số chính sách bất cập. Bên cạnh đó có chiến lƣợc sử dụng hiệu quả
tài nguyên có sẵn với kiến tạo tài nguyên mới.
- Mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế theo hƣớng bổ xung nội lực và ngoại lực,
kết hợp hài hòa chiến lƣợc hƣớng xuất khẩu và thay thế nhập khẩu: Đứng trƣớc
thực tế chuyển biến kinh tế thế giới và trong kinh tế Việt Nam, đang đặt ra cho Việt
Nam một yêu cầu là, một chiến lƣợc hội nhập mới phù hợp hơn, cân đối, khắc phục
những lệch lạc, hƣớng nội hay hƣớng ngoại thái quá. Trong bối cảnh nhƣ vậy, thực
hiện chiến lƣợc mở rộng hội nhập quốc tế theo hƣớng bổ xung giữa nội lực và
ngoại lực, kết hợp hài hòa hai chiến lƣợc hƣớng xuất khẩu và thay thế nhập khẩu là
phù hợp nhất. Chiến lƣợc mới này không những cho phép chúng ta vừa phát huy
đƣợc nguồn nội lực có sẵn, vừa tranh thủ đƣợc các cơ hội mà toàn cầu hóa, khu vực
hóa mang lại, không quá dựa vào các cơ hội bên ngoài mà quên đi hoặc coi nhẹ
những nguồn lực trong nƣớc, bỏ trống thị trƣờng trong nƣớc cho tƣ bản nƣớc
ngoài. Khi kinh tế thế giới và khu vực rơi vào khủng hoảng và suy thoái thì hƣớng
nội mạnh, mở rộng thị trƣờng trong nƣớc, vào lúc bình thƣờng thì có thể phát huy
cả hai.
- Mọi quốc gia đều nhấn mạnh “phát triển vì con người và coi đó là động lực
của sự phát triển”. Trong chiến lƣợc phát triển kinh tế xã hội, hầu hết các nƣớc đều
đặt trọng tâm vào chiến lƣợc phát triển con ngƣời. Con ngƣời đƣợc coi là trung tâm

của sự phát triển. Trong nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng Xã hội chủ nghĩa, để
xây dựng mô hình kinh tế thị trƣờng bền vững thì nguồn nhân lực là một yếu tố
không thể thiếu, và nó còn đƣợc coi là trung tâm của sự phát triển. Xây dựng và
thực hiện chiến lƣợc phát triển dựa vào nguồn nhân lực chất lƣợng cao.
Một bất cập lớn trong hệ thống giáo dục nƣớc ta hiện nay là ít coi trọng đào
tạo kĩ năng, nghề nghiệp. Điều đó lý giải vì sao học sinh Việt Nam luôn đạt giải
cao trong các kỳ thi học sinh giỏi cả trong nƣớc và quốc tế, nhƣng thi tuyển dụng
việc làm thì hầu hết không đạt, hoặc đạt ở mực thấp. Một ví dụ điển hình là: hãng
20


Intel của Mỹ vào Việt Nam đầu tƣ, tổ chức thi tuyển nhân viên công nghệ thông
tin, kết quả: trong số 2000 ứng viên dự thi để vào làm việc cho cơ sở sản xuất của
hãng tại thành phố Hồ Chí Minh, chỉ có 90ứng viên, tức 5% đạt chuẩn chuyên môn,
trong đó 40 ứng viên đủ trình độ tiếng Anh để tuyển dụng, chung cuộc 2% đạt
chuẩn tuyển dụng. Hay Renesas, một hang thiết kế và sản xuất vi mạch hàng đầu
của Nhật Bản đầu tƣ vào Thành phố Hồ Chí Minh, muốn tuyển 500 kỹ sƣ cho giai
đoạn hoạt động đầu tiên mà suốt năm 2007 và 2008 chỉ tuyển đƣợc 60 ngƣời đạt
chuẩn. Bệnh thành tích đã lái hệ thống giáo dục, đào tạo Việt Nam phát triển theo
hƣớng trái với nhu cầu phát triển, nay cần thay đổi theo hƣớng đáp ứng nhu cầu
thực tế: xây dựng một hệ thống giáo dục thực sự phục vụ sự phát triển, coi trọng
“đào tạo kỹ năng nghề nghiệp 10, thì thành tích chỉ nên 1”.
Một nhiệm vụ cấp bách nhƣng có ý nghĩa lâu dài, là phải xây dựng một đội
ngũ doanh nhân giỏi, đặc biệt là các nhà tài chính, thƣơng nhân, các nhà công
nghiệp và dịch vụ có tầm cỡ quốc gia và quốc tế. Việc chúng ta tiếp cận tới hơn
90% đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài chứng tỏ đội ngũ các nhà doanh nghiệp của Việt
Nam còn rất non kém, chƣa đủ sức phát triển các nghành công nghiệp của đất nƣớc,
phụ thuộc quá nhiều vào các nhà đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài. Chừng nào chúng ta
làm đƣợc nhƣ Hàn Quốc thời kỳ đầu công nghiệp hóa, hay Ấn Độ khi bắt đầu công
cuộc cải cách, tự do hóa, thu hút trên 905 đầu tƣ nƣớc ngoài là đầu tƣ gián tiếp để

xây dựng và phát triển các ngành công nghiệp của các nhà kinh doanh trong nƣớc,
thì lúc đó mới có thể yên tâm đội ngũ doanh nhân Việt Nam có đủ khả năng phát
triển nền công nghiệp đất nƣớc. Xây dựng một đội ngũ doanh nhân đông đảo và
kinh doanh là một thách thức lớn của đất nƣớc, nhƣng không thể không làm, nhất là
trong bối cảnh nƣớc ta đã chính thức là thành viên của Tổ chức Thƣơng mại thế
giới (WTO), các nhà kinh doanh phải cạnh tranh công bằng không chỉ tại thị trƣờng
trong nƣớc, mà cả trên thị trƣờng quốc tế.

21


Một vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu đối với việc sử dụng và phát
triển nguồn nhân lực chất lƣợng cao, đó là việc giải phóng tƣ duy và năng lực sáng
tạo, trọng dụng ngƣời tài, loại bỏ những rào cản gây trở ngại đối với sự sáng tạo và
đóng góp của họ. Những xã hội văn minh sở dĩ họ trở nên văn minh là vì họ đã xây
dựng đƣợc những cơ chế bảo đảm cho sự sáng tạo và khuyến khích ngƣời tài sáng
tạo. Các xã hội văn minh đã làm thế, nƣớc ta muốn đi lên văn minh, hiện đại,
không thể không làm nhƣ vậy.
* Tác động của quy luật Kinh tế thị trƣờng đến phát triển nguồn nhân lực ở
nƣớc ta:
Thời gian gần đây, các nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách đang rất
quan tâm đến chất lƣợng nguồn nhân lực cũng nhƣ việc thu hút, sử dụng nhƣ thế
nào cho hiệu quả. Bởi lẽ nguồn nhân lực đƣợc coi là chìa khóa để tăng trƣởng, phát
triển bền vững và cạnh tranh hiệu quả trong kỉ nguyên kinh tế tri thức và toàn cầu
hóa kinh tế. Việc phân tích những tác động của quy luật kinh tế thị trƣờng sẽ là căn
cứ quan trọng thấy đƣợc yêu cầu đối với vấn đề đào tạo nguồn nhân lực ở nƣớc ta
hiện nay.
Xem xét sự tác động của quy luật kinh tế thị trƣờng đến phát triển nguồn
nhân lực ở nƣớc ta hiện nay. Trong nền kinh tế thị trƣờng có sự vận động của nhiều
quy luật kinh tế, mỗi quy luật có vị trí, vai trò và tác động không giống nhau, đồng

thời đan xen tác động lẫn nhau. Tuy nhiên, trong phạm vi bài viết của mình tôi chỉ
đề cập đến sự tác động của ba quy luật kinh tế cơ bản đến vấn đề đào tạo nguồn
nhân lực ở nƣớc ta:
- Tác động của quy luật giá trị:
Quy luật giá trị là quy luật cơ bản của nền sản xuất hàng hóa, nó quy định mặt chất
và sự vận động về mặt lƣợng của giá trị hàng hóa. Theo đó, việc sản xuất và trao
đổi hàng hóa phải căn cứ vào hao phí lao động xã hội cần thiết, trao đổi theo
nguyên tắc ngang giá.
22


Căn cứ vào yêu cầu của quy luật giá trị, trên thị trƣờng sức lao động, nếu ai cung
cấp đƣợc chất lƣợng lao động tốt hơn, phù hợp với yêu cầu của các nhà tuyển dụng
sẽ có thu nhập cao. Trong nền kinh tế thị trƣờng hiện nay, nếu xét một cách tổng
thể sự ổn định việc làm chỉ mang tính tƣơng đối. Mặc dù ngƣời lao động có nhiều
cơ hội lựa chọn việc làm theo khả năng của mình xong họ cũng phải đối mặt với
nhiều thách thức, thậm chí thất nghiệp. Để sức lao động của mình đƣợc trả giá cao,
trở thành nhân sự khó có thể thay thế, ngƣời lao động cần đƣợc đào tạo có chuyên
môn tay nghề giỏi, sức khỏe, ngoại ngữ, tác phong làm việc công nghiệp. Quá trình
đào tạo đó phải tính đến hiệu quả kinh tế, đào tạo để rèn luyện kỹ năng chứ không
phải về bằng cấp. Đối với các cơ sở đào tạo, nếu chất lƣợng đào tạo tốt, giá cả thấp
hơn sẽ thu hút đƣợc số lƣợng khách hàng (ngƣời học và ngƣời sử dụng sản phẩm)
nhiều hơn. Vì vậy, quy luật giá trị đặt ra yêu cầu tiên quyết là chất lƣợng lao động.
Trong điều kiện khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ, kinh tế tri thức đƣợc coi
là chìa khóa cho sự phát triển thì ai có khả năng cung cấp chất lƣợng lao động tốt
dựa trên hao phí đào tạo thấp sẽ dành đƣợc lợi thế phát triển và ngƣợc lại. Điều đó
đƣợc thể hiện ở năng suất, sản phẩm cận biên của lao động cũng nhƣ sự thích ứng
của con ngƣời sau khi đƣợc đào tạo trƣớc đòi hỏi của kinh tế thị trƣờng. Song trên
thực tế,yêu cầu này vẫn đang là vấn đề nan giải khi đến nay ở nƣớc ta lao động qua
đào tạo theo các loại hình và trình độ khác nhau mới đạt trên 31,5%. Năng suất lao

động của nƣớc ta đạt thấp khi chỉ đứng thứ 77/125 nƣớc và vùng lãnh thổ sau cả
Inđônêsia, Philippin và Thái Lan . Hệ thống các trƣờng Đại học, Cao đẳng tham gia
đào tạo nguồn nhân lực chƣa đáp ứng đƣợc đòi hỏi của thị trƣờng lao động trong và
ngoài nƣớc. Theo Viện Quản lý Nhà nƣớc dân chủ và đổi mới (ASH) của Trƣờng
công Kennedy thuộc Đại học Havard thì Việt Nam không có trƣờng đại học nào
đƣợc ghi nhận trên bất kỳ bảng xếp hạng quen thuộc các Đại học hàng đầu Châu Á.
Vì vậy, quy luật giá trị đòi hỏi cần phải cải cách để nâng cao chất lƣợng giáo dục
đào tạo, thực hiện chủ trƣơng nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dƣỡng nhân
23


tài. Đào tạo phải đạt hiệu quả kinh tế, đáp ứng nhu cầu của xã hội, của thị trƣờng và
doanh nghiệp.
- Xem xét tác động của quy luật cạnh tranh:
Hiện nay, ở nƣớc ta sức lao động đƣợc thừa nhận là một loại hàng hóa và tất nhiên
nó cũng bị chi phối theo quy luật thị trƣờng. Ngƣời làm giỏi đƣợc lƣơng cao, ngƣời
làm giở chịu lƣơng thấp và có nguy cơ bị sa thải. Sự cạnh tranh trong việc trào bán
sức lao động là yếu tố thúc đẩy từng cá nhân và toàn xã hội nỗ lực làm việc, tự đào
tạo nâng cao chất lƣợng lao động của mình. Nhiều chuyên gia trên các lĩnh vực đều
thống nhất quan điểm: nếu muốn tồn tại và phát triển trong một thế “giới phẳng”
nhƣng cạnh tranh khốc liệt hiện nay thì vƣợt lên trên lợi thế về tài nguyên, vị chí
địa lý thì chính là yếu tố chất lƣợng nguồn nhân lực và việc sử dụng nó hiệu quả
nhất. Thực tế cho thấy, khi kinh tế tăng trƣởng thì cạnh tranh trên thị trƣờng sức lao
động biểu hiện rõ nhất ở vị trí, địa bàn làm việc và thu nhập của các chủ thể tham
gia. Nhƣng khi kinh tế suy thoái, khủng hoảng thì vấn đề cạnh tranh không bị sa
thải là điều ngƣời lao động quan tâm nhất. Hiện nay năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp và nền kinh tế nƣớc ta còn thấp, chủ yếu là do sức cạnh tranh của lực lƣợng
lao động chƣa cao. Lao động giá rẻ chỉ là một lợi thế nhất định trong một thời gian
cụ thể, chúng ta phải hƣớng tới lao động chất lƣợng cao nhƣng giá rẻ hơn lao động
cùng loại ở các nƣớc khác. Trong bối cảnh hội nhập, lực lƣợng lao động trình độ

cao ở nƣớc ta không chỉ cạnh tranh khi tiến hành xuất khẩu lao động mà còn có sự
cạnh tranh gay gắt với lao động nƣớc ngoài trên thị trƣờng lao động trong nƣớc.
Theo Bộ Lao động – thƣơng binh và xã hội, hiện nay cả nƣớc có hơn 75000
lao động nƣớc ngoài đang làm việc ở nhiều trình độ khác nhau. Không ít doanh
nghiệp cho biết họ phải sử dụng lao động nƣớc ngoài do nhiều vị trí không thể tìm
đƣợc lao động Việt Nam thích hợp. Theo đánh giá mới của Ngân hàng thế giới
(WB), chất lƣợng nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay mới chỉ đạt 3,19 điểm
(thang điểm 10), xếp thứ 11 trong số 12 nƣớc Châu Á tham gia xếp hạng. Một
24


nghiên cứu khác cho thấy lao động Việt Nam chỉ đạt 32/100 điểm. Trong khi đó
những nền kinh tế có chất lƣợng lao động dƣới 35 điểm đều có nguy cơ mất sức
cạnh tranh trên thị trƣờng toàn cầu. Ở một số lĩnh vực nhƣ : ngân hàng, y tế,…có
tới 40% tổng số lao động có thu nhập từ 14000 USD/ năm trở lên thuộc ngƣời nƣớc
ngoài. Năm 2009, tập đoàn Intel tại Hồ Chí Minh tiến hành một cuộc thi tuyển với
2000 sinh viên công nghệ thông tin thì chỉ 90 ứng cử viên (5%) đạt tiêu chuẩn.
Tác động của quy luật cạnh tranh trên thị trƣờng sức lao động là “mệnh lệnh” để
mỗi ngƣời, mỗi cơ sở đào tạo không ngừng đổi mới và phát triển theo yêu cầu thực
tiễn.
- Tác động của quy luật cung - cầu:
Quan hệ cung – cầu trên thị trƣờng sức lao động là một cân bằng động, vì vậy trong
ngắn hạn và dài hạn, nó có thể đạt các trạng thái khác nhau nhƣng đối với lao động
trình độ cao vẫn luôn trong trạng thái cung không đủ cầu. Ở nƣớc ta vẫn đang xảy
ra tình trạng các doanh nghiệp rất cần tuyển dụng lao động trình độ cao. Căn
nguyên của tình trạng này chính là do sự phát triển của nền kinh tế tri thức, một nền
kinh tế đòi hỏi rất cao tỷ trọng của hàm lƣợng chất xám kết tinh trrong hàng hóa.
Hiện nay, Việt Nam mới chỉ có thể đáp ứng đƣợc 35 đến 40% nhu cầu nhân sự bậc
cao của các doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp đã và đang có phƣơng án nhập khẩu
lao động chất lƣợng cao từ nƣớc ngoài vào Việt Nam. Dự báo khi kinh tế thế giới

hồi phục và tăng trƣởng trở lại thì cầu về lao động sẽ tăng mạnh, do vậy ngƣời lao
động nên tranh thủ thời điểm này để đào tạo và đào tạo lại. Bởi lẽ, sau suy thoái,
việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế sẽ diễn ra rất mạnh mẽ, xuất hiện những công nghệ
và nghành nghề mới và đi cùng với nó là nhu cầu rất lớn về lao động trình độ cao.
Vì vậy, cần chủ động có kế hoạch, phƣơng án chuẩn bị lực lƣợng lao động tốt nhất
để tham gia có hiệu quả vào thị trƣờng sức lao động trong và ngoài nƣớc. Đây là
đặc điểm nổi bật và cơ hội cần tận dụng để tập trung nâng cao chất lƣợng nguồn

25


×