Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở trên địa bàn phường thanh xuân bắc, quận thanh xuân, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (312.63 KB, 46 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG

NGUYỄN THỊ THU

XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN PHƯỜNG
THANH XUÂN BẮC, QUẬN THANH XUÂN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

HÀ NỘI - 2015


2

MỤC LỤC PHỤ LỤC

Phụ lục 1: Một số văn bản chỉ đạo xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở.....1
Phục lục 2: Phiếu điếu tra xã hội học công tác xây dựng đời sống văn hoá cơ
sở trên địa bàn phường Thanh Xuân Bắc..............................................2
Phụ lục 3: Một số hình ảnh.......................................................................3

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời đại hiện nay, văn hóa đã trở thành một trong những mối
quan tâm lớn nhất của các quốc gia trên thế giới. Nó được coi là một nhân tố
có tính quyết định tình bền vững của một quốc gia, dân tộc. Ở Việt Nam, với
mục tiêu phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Nghị quyết
Trung ương 5 (khóa VIII) năm 1998 của Đảng đã nêu “Văn hóa vừa là nền
tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, động lực thúc đẩy sự phát triển
kinh tế- xã hội. Chính vì vậy xây dựng đời sống văn hóa cơ sở đang được


xác định là một trong 4 giải pháp lớn mà Nghị quyết TW5 (khóa VIII) đã đề
ra "Phải đưa văn hoá thâm nhập vào cuộc sống hàng ngày của nhân dân. Đặc
biệt chú trọng xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở, bảo đảm mỗi nhà máy,
công trường, mỗi cơ quan, trường học, bệnh viện đều có đời sống văn hóa”
[2, tr.9]. Nghị quyết Hội nghị lần thứ IX, Ban chấp hành Trung ương Đảng
khóa XI tiếp tục xác định “Xây dựng đời sống văn hóa ở địa bàn dân cư, các
cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đoàn kết, dân chủ, văn minh, đạt chuẩn thực
chất về văn hóa…..Nâng cao chất lượng, hiệu quả các cuộc vận động văn
hóa, phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" [4, tr.7]
Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở bao gồm tổng hợp những hoạt động
của các cơ quan làm công tác văn hóa và sự phối hợp của các cấp, các ngành,
các đoàn thể, quần chúng nhằm tuyên truyền, giáo dục, xây dựng đạo đức, lối
sống, chuẩn mực cho con người, tạo điều kiện cho mọi người dân được tham
gia hưởng thụ và sáng tạo văn hóa…qua đó tạo nên môi trường văn hóa lành


3

mạnh để hạn chế những tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường, tạo
động lực quan trọng để đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
Trong những năm qua, công tác xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở đã
được các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể và các tầng lớp nhân dân đặc
biệt quan tâm. Nhiều địa phương đã và đang xây dựng được hệ thống cơ sở
vật chất phục vụ cho hoạt động văn hóa, thúc đẩy công tác xây dựng đời
sống văn hóa ngày càng thêm khởi sắc.
Phường Thanh Xuân Bắc được thành lập từ tháng 10/1982, nằm ở trung
tâm của Quận Thanh Xuân, hệ thống giao thông thuận tiện. Phường có mặt
bằng dân trí tương đối cao, an ninh chính trị tương đối ổn định, kinh tế tăng
trưởng nhanh. Nhu cầu hưởng thụ văn hóa của người dân ngày càng cao. Các

thiết chế văn hóa luôn được quan tâm đầu tư xây dựng, nâng cấp. Công tác
xây dựng đời sống văn hóa cơ sở bước đầu đi vào nề nếp, có ý nghĩa quan
trọng đối với việc phát triển đời sống văn hóa vật chất - tinh thần của người
dân. Tuy nhiên trong triển khai thực hiện vẫn còn nhiều bất cập như: Chưa có
sự thống nhất trong nhận thức của lãnh đạo các cấp ủy Đảng, chính quyền
đoàn thể về vai trò, tầm quan trọng cũng như tiến trình thực hiện của cuộc
vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa từ phường tới Khu
dân cư. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo các các phong trào còn chung chung;
công tác bình xét thi đua và kiểm tra, giám sát còn mang tính chất hình thức,
cơ sở vật chất chưa đủ đáp ứng nhu cầu; những tiêu cực và tệ nạn xã hội còn
diễn biến phức tạp; việc quản lý hoạt động các thiết chế văn hóa còn nhiều
hạn chế; các phong trào, các cuộc vận động chưa thu hút được đại đa số nhân
dân tham gia hưởng ứng; việc tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể
dục, thể thao chưa phong phú, đa dạng…
Trước nhiệm vụ mới mà Đảng và Nhà nước đặt ra, là cán bộ đang công
tác tại phường Thanh Xuân Bắc, tác giả nhận thấy đây là vấn đề có ý nghĩa
lý luận và thực tiễn cao, cần được nghiên cứu một cách sâu sắc, có hệ thống
để tìm ra giải pháp. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài
“Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở trên địa bàn phường Thanh Xuân Bắc,
Quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội ” làm Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ
chuyên ngành Quản lý văn hóa.


4

2. Lịch sử vấn đề
Trong giai đoạn hiện nay, xây dựng đời sống văn hóa cơ sở được xác
định là một nhiệm vụ quan trọng. Vì vậy vấn đề này đã thu hút nhiều nhà
khoa học, nhà quản lý quan tâm và đi sâu nghiên cứu.
2.1. Các công trình nghiên cứu về sự phát triển của văn hóa

- Trần Văn Bính (chủ biên) (2000), Lý luận và đường lối văn hóa văn
nghệ của Đảng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách khẳng định văn
hóa là lĩnh vực thuộc đời sống tinh thần của xã hội nhưng vẫn chịu sự quy
định của những quy định chung và đều hướng tới những chuẩn mực cụ thể;
đi sâu nghiên cứu đường lối chính sách văn hóa của Đảng, Nhà nước và
những biện pháp nhằm xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc như Nghị quyết Hội nghị lần thứ Năm Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (khóa VIII) đề ra.
PGS.TS Nguyễn Duy Bắc (chủ biên) (2008), Xây dựng và phát
triển con người Việt Nam trong điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với phát triển kinh tế”, Đề tài cấp Bộ, Viện Văn hóa và Phát triển, Hà
Nội. Đề tài đã đi sâu phân tích các nội dung và mục tiêu chủ yếu của quá
trình đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế trí thức và yêu cầu
phát triển con người Việt Nam hiện nay. Phân tích, đánh giá thực trạng phát
triển con người Việt Nam thời kỳ từ 1991 đến nay về các mặt chủ yếu: Phát
triển con người, đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân
tài, đào tạo đội ngũ trí thức; xây dựng giai cấp công nhân, giai cấp nông
dân, đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý, đội ngũ doanh nhân; thực hiện các
chính sách xã hội; đảm bảo các quyền con người. Từ đó đề ra phương
hướng và các giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng, phát triển con người Việt
Nam trong điều kiện CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức trong
những thập niên đầu thế kỷ XXI.
- Phan Trọng Thưởng (chủ biên) (2010), Xây dựng con người và phát
triển văn hóa Việt Nam trong 20 năm đổi mới và hội nhập quốc tế - Quan
điểm, giải pháp đến năm 2020, Đề tài cấp Nhà nước, Viện Nghiên cứu Văn
hóa, Hà Nội. Đề tài đã tiến hành nghiên cứu, đánh giá các nhân tố tác động
tích cực và tiêu cực đến việc xây dựng con người và phát triển văn hóa Việt
Nam trong bối cảnh đất nước tiến hành công cuộc đổi mới và hội nhập quốc
tế, chỉ ra mức độ, phạm vi, tính chất của từng yếu tố. Trên cơ sở đó, đề tài đã
đánh giá thực trạng bao gồm cả thành tựu lẫn hạn chế, phân tích rõ nguyên



5

nhân, rút ra những bài học kinh nghiệm cần thiết để tiếp tục xây dựng con
người và phát triển văn hóa Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Đề tài đã bước đầu đưa ra các dự báo về chiều hướng vận động và
biến đổi của thực tiễn xây dựng con người và phát triển văn hóa Việt Nam
đến năm 2020. Đề xuất hệ quan điểm, giải pháp và các kiến nghị nhằm đẩy
mạnh sự nghiệp xây dựng con người và phát triển văn hóa Việt Nam trong
thời kỳ tiếp theo.
Đinh Xuân Dũng (2015), Mấy vấn đề Việt Nam hiện nay - thực tiễn và lý
luận, Nxb Lao động, Hà Nội. Ðây là một tập hợp các tiểu luận, chuyên đề,
bài viết của tác giả được tuyển chọn từ năm 2012 đến nay, đề cập những vấn
đề căn cốt và nêu bật một số nét về thực trạng và công tác nghiên cứu lý luận
văn hóa Việt Nam hiện nay. Cuốn sách cũng nêu lên mối quan hệ biện chứng
giữa văn hóa và đời sống văn hóa tinh thần, với sự phát triển bền vững trong
xã hội hiện đại; một số giải pháp trong công tác vận động, thuyết phục của
công tác tư tưởng đối với văn nghệ sĩ, trí thức; giải đáp các khái niệm "Tự
diễn biến", "Tự chuyển hóa" về tư tưởng trong đấu tranh tư tưởng; xác định
những giá trị đặc trưng của con người Việt Nam đương đại. Ðặc biệt, tác giả
đã bước đầu phác thảo được những định hướng và nội dung cơ bản trong quá
trình triển khai xây dựng hệ thống lý luận văn hóa - nghệ thuật ở Việt Nam;
đề xuất các giải pháp ở tầm chính sách để phát triển văn hóa thật sự là sức
mạnh nội sinh của dân tộc.
Bên cạnh đó còn một số cuốn sách như: Phạm Minh Hạc, Nguyễn
Khoa Điềm (2001), Về phát triển văn hóa và xây dựng con người thời kỳ
công nghiệp hóa hiện đại hóa, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Hữu
Thức, (2005), Về Văn hóa và xây dựng đời sống văn hóa, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Hữu Thức (2009), Về cuộc vận động toàn dân

đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, Nxb Từ Điển Bách khoa và Viện văn
hóa, Hà Nội. Nguyễn Hữu Thức (2008), Những giải pháp thúc đẩy phong
trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, đưa Kết luận Hội nghị
Trung ương 10 (khóa IX) về văn hóa đi nhanh vào cuộc sống, Ban Tuyên
giáo Trung ương.
2.2. Các công trình nghiên cứu công tác xây dựng đời sống văn hóa cơ
sở
Nguyễn Tấn Đức (2008), Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở tại Quận
Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn khoa Văn hóa học, trường Đại


6

học khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội. Luận văn đã trình bày một cách
khái quát những vấn đề cơ bản về văn hóa và xây dựng đời sống văn hóa,
thiết chế văn hóa ở cơ sở. Nêu một cách có hệ thống về nhận thức, đường
hướng các hoạt động xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở; đồng thời cũng
trình bày cụ thể các hoạt động đặc trưng của quá trình xây dựng đời sống văn
hóa ở cơ sở tại quận Tân Phú cũng như những kết quả đạt được của các hoạt
động ấy. Trên cơ sở đó tác giả đã tiến hành nhận xét và đề xuất các nhóm giải
pháp xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở trên Quận Tân Phú, Thành phố Hồ
Chí Minh.
Lương Thị Nga (2009), Quản lý hoạt động xây dựng đời sống văn hóa ở
sở ở huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình trong giai đoạn hiện nay, Luận văn Th.s
Quản lý văn hóa, Trường Đại học Văn hóa, Hà Nội. Luận văn đã làm rõ cơ
sở lý luận của vấn đề quản lý hoạt động xây dựng đời sống văn ở ở sở. Khảo
sát, đánh giá những ưu điểm, hạn chế trong công tác quản lý hoạt động xây
dựng đời sống văn hóa cơ sở ở huyện Tiền Hải, Thái Bình trong những năm
qua, tìm nguyên nhân của những ưu điểm, hạn chế. Luận văn đã bước đầu đề
xuất phương hướng và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý

hoạt động xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở tại huyện Tiền Hải tỉnh Thái
Bình trong giai đoạn hiện nay.
Hoàng Văn Tầm (2011), Xây dựng đời sống văn hoá cơ sở ở Huyện Chi
Lăng, tỉnh Lạng Sơn, Luận văn thạc sĩ Quản lý Văn hoá, trường Đại học Văn
Hoá. Luận văn đã đi phân tích làm rõ khái niệm của việc xây dựng đời sống
văn hóa cơ sở và tác động của nó đối với việc phát triển đời sống văn hóa cơ
sở huyện Chi Lăng. Bước đầu có những tổng kết về thực trạng xây dựng đời
sống văn hóa ở huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn, từ đó đề ra những giải pháp
thiết thực nhằm xây dựng và phát triển đời sống văn hóa của ngư dân tại đây,
góp phần vào việc nâng cao chất lượng của công tác xây dựng đời sống văn
hóa cơ sở ở huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn.
Đặng Xuân Minh (2011), Quản lý nhà nước về văn hoá trên địa bàn
phường Xuân La, Quận Tây Hồ, Thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Quản
lý Văn hoá, trường Đại học Văn hoá. Luận văn đã góp phần hệ thống hóa
những vấn đề lý luận chung về quản lý nhà nước trên lĩnh vực văn hóa và
quản lý văn hóa đối với hoạt động cấp xã/phường/thị trấn. Luận văn đã đánh
giá được những hạn chế trong công tác quản lý nhà nước về văn hóa ở
phường Xuân La trong những năm qua, tìm nguyên nhân của những hạn chế


7

đó. Từ đó đề xuất các phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
quản lý nhà nước về văn hóa trên địa bàn phường Xuân la trong những năm
tới.
Hồ Thị Thái (2013), Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở ở Huyện Nam
Đàn, tỉnh Nghệ An. Luận văn Th.s Quản lý văn hóa, trường Đại học Văn hóa,
Hà Nội. Luận văn đã đánh giá được tổng quan về lịch sử phát triển và tình
hình kinh tế- văn hóa- chính trị của huyện Nam Đàn. Luận văn đã khảo sát,
phân tích và đánh giá khá sâu về thực trạng công tác xây dựng đời sống văn

hóa cơ sở nói chung và công tác xây dựng nếp sống văn hóa, gia đình, làng,
bản, khối phố, cơ quan, đơn vị có nếp sống văn hóa ở huyện Nam Đàn từ
năm 2006 đến 2013. Từ đó đề xuất được các giải pháp nhằm nâng cao công
tác xây đựng đời sống văn hóa cơ sở ở huyện Nam Đàn trong giai đoạn hiện
nay.
Nguyễn Phương Thủy (2014), Đảng bộ huyện Thanh Oai (Hà Nội), lãnh
đạo xây dựng đời sống văn hóa cơ sở từ năm 2001 đến năm 2010, Luận văn
Th.s chuyên ngành Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, trường Đại học khoa
học xã hội và nhân văn, Hà Nội. Tác giả đã đi sâu phân tích thực trạng đời
sống văn hóa ở huyện Thanh Oai trước năm 2001. Làm rõ chủ trương của
Đảng bộ huyện Thanh Oai trong lãnh đạo xây dựng Đời sống văn hóa
(ĐSVH). Trên cơ sở đánh giá những thành tựu và những tồn tại, hạn chế
trong việc xây dựng đời sống văn hóa cơ sở của huyện Thanh Oai, luận văn
rút ra một số ý nghĩa, bài học kinh nghiệm và giải pháp đối với việc xây
dựng đời sống văn hóa cơ sở của huyện Thanh Oai.
Bên cạnh đó, một số cuốn sách và công trình khoa học cũng đề cập đến
vấn đề văn hóa và xây dựng đời sống văn hóa cơ sở như: Cuốn “Xây dựng
đờ isống văn hóa ở cơ sở” của Viện Văn hóa- Bộ Văn hóa, Nxb Văn hóa Hà
Nội(1984); Cuốn “Hỏi và đáp về phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa” của Ban chỉ đạo phong trào “TDĐKXDĐSVH” Trung
ương(2000); Cuốn “Xây dựng tư tưởng, đạo đức lối sống và đời sống văn
hóaở Thủ đô Hà Nội” của TS.Nguyễn Viết Chức và các tác giả, Viện văn hóa
và Nxb Văn hóa thông tin(2001)…
Ngoài ra còn có các bài viết, bài báo, luận văn, luận án đề cập đến vấn đề
công tác xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở. Những kết quả đó có giá trị tham
khảo tốt để tác giả thực hiện đề tài luận văn của mình.


8


Tuy nhiên, mỗi địa phương lại có những đặc điểm khác nhau về tình hình
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đặc biệt là khác nhau trong việc triển khai
thực hiện sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước trong quản lý đời sống văn hóa ở
cơ sở. Đến nay, vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu về xây dựng đời sống
văn hóa cơ sở trên địa bàn phường Thanh Xuân Bắc. Hơn nữa, sự vận động
của đời sống văn hóa bao giờ cũng gắn liền với thực tiễn xã hội. Đặc biệt
trong giai đoạn đất nước ta đang đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, xu thế
toàn cầu hóa đang diễn ra trên mọi lĩnh vực đã tác động trực tiếp đến đời
sống văn hóa của nhân dân. Vì thế nghiên cứu công tác xây dựng đời sống
văn hóa cơ sở không chỉ dừng lại ở phương diện lý luận, mà phải nghiên cứu
xem xét gắn với tình hình, nhiệm vụ cụ thể của địa phương, đất nước trong
thời kỳ mới. Vì vậy, kế thừa những kết quả nghiên cứu khoa học trước, luận
văn này đã tập trung đi nghiên cứu thực trạng xây dựng đời sống văn hóa cơ
sở trên địa bàn phường Thanh Xuân Bắc, qua đó đề xuất một số giải pháp để
thực hiện đạt hiệu quả nhất.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Công tác xây dựng đời sống văn hóa cơ sở trên địa bàn phường Thanh
Xuân Bắc.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Nội dung nghiên cứu: Đời sống văn hóa bao gồm rất nhiều yếu tố
khác nhau, tuy nhiên, trong luận văn này, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu
hoạt động xây dựng đời sống văn hóa bao gồm 3 nội dung: 1. Triển khai thực
hiện các phong trào như: “gia đình văn hóa, tổ dân phố văn hóa”, “người tốt,
việc tốt”, “công nhận cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa”,
“toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại”, “học tập, lao động
sáng tạo”. 2. Xây dựng nếp sống, môi trường văn hóa, và 3. Xây dựng thiết
chế văn hóa.
- Không gian nghiên cứu: Luận văn này chỉ nhằm tập trung nghiên cứu
công tác xây dựng đời sống văn hoá cơ sở trên địa bàn phường Thanh Xuân

Bắc
- Thời gian nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu công tác xây dựng đời
sống văn hóa cơ sở trên địa bàn phường Thanh Xuân Bắc trong phạm vi từ
năm 2010 cho đến nay


9

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nhằm mục đích nghiên cứu thực trạng và đề xuất những giải pháp
để quản lý hiệu quả công tác xây dựng đời sống văn hóa cơ sở trên địa bàn
phường Thanh Xuân Bắc, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội. Qua đó góp
phần thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ chính trị của phường nói riêng và
sự nghiệp đổi mới đất nước nói chung, hướng tới thực hiện mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của công tác xây dựng đời sống văn hóa ở cơ
sở.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng xây dựng đời sống văn hóa cơ sở trên địa
bàn phường Thanh Xuân Bắc, Quận Thanh Xuân, thành phố Hà
- Đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng đời sống văn hóa cơ sở trên
địa bàn phường Thanh Xuân Bắc, Quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
- Phương pháp phân tích- tổng hợp
- Phương pháp phỏng vấn
- Phương pháp điều tra xã hội học
- Phương pháp thống kê
6. Đóng góp của luận văn

Luận văn góp phần làm rõ những vấn đề lý luận về xây dựng đời sống
văn hóa cơ sở; phân tích, đánh giá thực trạng công tác xây dựng đời sống văn
hóa cơ sở trên địa bàn phường Thanh Xuân Bắc; đề xuất những giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý hoạt động này trong thời gian tới.
Kết quả của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho công tác quản
lý của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thành phố Hà Nội, Phòng Văn hóa Thông tin Quận Thanh Xuân và UBND phường Thanh Xuân Bắc.
Luận văn có thể làm cơ sở khoa học cho các công trình nghiên cứu
khoa học cùng hướng tham khảo.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Luận văn
gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và tổng quan về vấn đề nghiên cứu


10

Chương 2: Thực trạng xây dựng đời sống văn hóa cơ sở trên địa bàn
phường Thanh Xuân Bắc.
Chương 3. Một số giải pháp xây dựng đời sống văn hóa cơ sở trên địa
bàn phường Thanh Xuân Bắc.


11

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ CƠ SỞ
VÀ TỔNG QUAN VỀ PHƯỜNG THANH XUÂN BẮC

1.1. Cơ sở lý luận về hoạt động xây dựng đời sống văn hóa cơ sở
1.1.1.

Khái niệm về văn hoá
Văn hoá là một danh từ được sử dụng khá phổ biến, rộng rãi trên các
phương tiện thông tin đại chúng, song là một từ ngữ có hiểu cách hiểu khác
nhau khi chúng được đồng nhất với trình độ học vấn, cách thức ứng xử, lối
sống, sinh hoạt tập thể...Cùng với sự phát triển của khoa học mà khái niệm
“văn hoá” cũng dần dần hoàn thiện và trở thành một thuật ngữ khoa học.
Năm 1952, A.L. Kroeber và Kluckhohn xuất bản quyển sách Culture, a
critical review of concept and definitions [Văn hóa, điểm lại bằng cái nhìn
phê phán các khái niệm và định nghĩa], trong đó tác giả đã trích lục khoảng
160 định nghĩa về văn hóa do các nhà khoa học đưa ra ở nhiều nước khác
nhau. Điều này cho thấy, khái niệm “Văn hóa” rất phức tạp.
Năm 1871, E.B. Tylor đưa ra định nghĩa “Văn hóa hay văn minh, theo
nghĩa rộng về tộc người học, nói chung gồm có tri thức, tín ngưỡng, nghệ
thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán và một số năng lực và thói quen khác
được con người chiếm lĩnh với tư cách một thành viên của xã hội” [25,
tr.13]. Theo định nghĩa này thì văn hóa và văn minh là một; nó bao gồm tất
cả những lĩnh vực liên quan đến đời sống con người, từ tri thức, tín ngưỡng
đến nghệ thuật, đạo đức, pháp luật…Có người ví định nghĩa này mang tính
“Bách khoa toàn thư” vì đã liệt kê hết mọi lĩnh vực sáng tạo của con người
[88, tr. 39].
F. Boas định nghĩa:
“Văn hóa là tổng thể các phản ứng tinh thần, thể chất và những
hoạt động định hình nên hành vi của cá nhân cấu thành nên một
nhóm người vừa có tính tập thể vừa có tính cá nhân trong mối
quan hệ với môi trường tự nhiên của họ, với những nhóm người
khác, với những thành viên trong nhóm và của chính các thành
viên này với nhau” [26, tr.149].
Một định nghĩa khác về văn hóa mà A.L. Kroeber và Kluckhohn đưa ra
là “Văn hóa là những mô hình hành động minh thị và ám thị được truyền đạt
dựa trên những biểu trưng, là những yếu tố đặc trưng của từng nhóm



12

người… Hệ thống văn hóa vừa là kết quả hành vi vừa trở thành nguyên nhân
tạo điều kiện cho hành vi tiếp theo” [1, tr.357]
Ở Việt Nam, văn hóa cũng được định nghĩa rất khác nhau.
Hồ Chí Minh cho rằng:
“Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới
sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật,
khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh
hoạt hằng ngày về mặt ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ
những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa” [29, tr.431].
Với cách hiểu trên, văn hóa sẽ bao gồm toàn bộ những gì do con người
sáng tạo và phát minh ra. Cũng giống như định nghĩa của Tylor, văn hóa theo
cách nói của Hồ Chí Minh sẽ là một “bách khoa toàn thư” về những lĩnh vực
liên quan đến đời sống con người.
Thủ tướng Phạm Văn Đồng cho rằng:
“Nói tới văn hóa là nói tới một lĩnh vực vô cùng phong phú và
rộng lớn, bao gồm tất cả những gì không phải là thiên nhiên mà có
liên quan đến con người trong suốt quá trình tồn tại, phát triển, quá
trình con người làm nên lịch sử… (văn hóa) bao gồm cả hệ thống
giá trị: tư tưởng và tình cảm, đạo đức với phẩm chất, trí tuệ và tài
năng, sự nhạy cảm và sự tiếp thu cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo
vệ tài sản và bản lĩnh của cộng đồng dân tộc, sức đề kháng và sức
chiến đấu bảo vệ mình và không ngừng lớn mạnh” [74, tr.22].
Theo định nghĩa trên thì văn hóa là những cái gì đối lập với thiên nhiên
và do con người sáng tạo nên từ tư tưởng tình cảm đến ý thức tình cảm và
sức đề kháng của mỗi người, mỗi dân tộc.
Theo Giáo sư Trần Ngọc Thêm trong cuốn Cơ sở văn hoá Việt Nam,

ông cho rằng:“Văn hoá là các giá trị vật chất và tinh thần do con người
sáng tạo và tích luỹ quá quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác
giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội” [73, tr.10]
Trong những năm gần đây, một số nhà nghiên cứu ở Việt Nam và kể cả
ở nước ngoài khi đề cập đến văn hóa, họ thường vận dụng định nghĩa văn
hóa do UNESCO đưa ra vào năm 1994. Theo UNESCO, văn hóa được hiểu
như sau:


13

“Văn hóa là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri
thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó
chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức
chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin”.
Nhìn chung, các định nghĩa về văn hóa hiện nay rất đa dạng. Tổng
hợp các quan điểm, khái niệm, có thể hiểu:
Văn hóa là sản phẩm của con người được tạo ra trong qua trình lao
động (từ lao động trí óc đến lao động chân tay), được chi phối bởi
môi trường (môi tự nhiên và xã hội) xung quanh và tính cách của
từng tộc người. Nhờ có văn hóa mà con người trở nên khác biệt so
với các loài động vật khác; và do được chi phối bởi môi trường
xung quanh và tính cách tộc người nên văn hóa ở mỗi tộc người sẽ
có những đặc trưng riêng.
Với cách hiểu này cùng với những định nghĩa đã nêu thì văn hóa chính
là nấc thang đưa con người vượt lên trên những loài động vật khác; và văn
hóa là sản phẩm do con người tạo ra trong quá trình lao động nhằm mục đích
sinh tồn.
1.1.2. Khái niệm về đời sống văn hoá cơ sở
Khái niệm đời sống văn hóa

“Đời sống văn hoá” với tư cách là một thuật ngữ khoa học được ra đời
vào thế kỷ XX và hiện nay được sử dụng khá phổ biến trên sách, báo, văn
kiện của Đảng, các phương tiện truyền thông của nước ta. Tuy nhiên, cho
đến nay trong từ điển Việt Nam và nước ngoài vẫn chưa có một định nghĩa
nào thật hoàn chỉnh về thuật ngữ này.
Trước hết về khái niệm “đời sống” được đưa ra trong Từ điển tiếng
Việt (1992), đó là “hoạt động của con người về một lĩnh vực nào đó nói
chung” [83, tr.670]. Còn theo Từ điển bách khoa mở, thì ngoài nghĩa nói
trên, “đời sống” còn được hiểu là phương tiện để sống, lối sống của cá nhân
hay tập thể (đời sống xa hoa, đời sống cần kiệm…)
Đời sống của con người bao gồm rất nhiều lĩnh vực khác nhau, nhưng
có liên quan mật thiết với nhau, chẳng hạn như: đời sống kinh tế, đời sống
chính trị, đời sống xã hội, đời sống văn hóa… Như vậy, đời sống văn hóa là
lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội.
Tác giả Hoàng Vinh trong công trình nghiên cứu “Mấy vấn đề lý luận
và thực tiễn xây dựng văn hoá ở nước ta” cho rằng:


14

Đời sống văn hóa là bộ phận của đời sống xã hội, bao gồm các yếu
tố văn hóa tĩnh tại (các sản phẩm văn hóa vật thể, các thiết chế văn
hóa) cũng như các yếu tố văn hóa động thái (con người và các
dạng hoạt động văn hóa của nó). Xét về một phương diện khác, đời
sống văn hóa bao gồm các hình thức văn hóa hiện thực và cả các
hình thức sinh hoạt văn hóa tâm linh [39, tr.268].
Có thể thấy định nghĩa này về cơ bản đã phản ánh được cấu trúc của
đời sống văn hóa, song trong đó vẫn chưa đề cập đến những giá trị văn hóa.
Đồng thời, cách diễn đạt như thế chưa làm rõ được bản chất của đời sống văn
hóa vì chỉ nêu các yếu tố cấu thành ở thể biệt lập.

Trong chương trình hệ cử nhân chính trị, các nhà khoa học khoa Văn
hóa xã hội chủ nghĩa - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh đưa ra
quan niệm:
Đời sống văn hóa là một bộ phận của đời sống xã hội, mà đời sống
xã hội là một phức thể các hoạt động sống của con người, nhằm
đáp ứng các nhu cầu vật chất và tinh thần của nó. Nhu cầu vật chất
được đáp ứng làm cho con người tồn tại như một sinh thể, còn nhu
cầu tinh thần thì giúp cho con người tồn tại như một sinh thể xã
hội, tức là một nhân cách văn hóa [62, tr.434].
Như vậy, có rất nhiều quan niệm khác nhau về đời sống văn hóa. Để đi
đến một quan niệm hoàn chỉnh hơn về đời sống văn hoá, chúng ta phải tiếp
cận thêm đời sống văn hoá trong toàn bộ đời sống xã hội và phải khu biệt,
giới hạn lĩnh vực sáng tạo văn hoá trên cơ sở xuất phát từ quan niệm văn hoá
theo nghĩa rộng hoặc nghĩa hẹp.
Từ những cách hiểu trên đây về đời sống văn hóa và các lĩnh vực văn
hóa, trong phạm vi, yêu cầu của đề tài nghiên cứu, có thể hiểu khái niệm đời
sống văn hóa như sau:
Đời sống văn hóa là bộ phận của đời sống xã hội, là phương thức
những hoạt động sống của con người trong sáng tạo, hưởng thụ và
lưu truyền những giá trị văn hóa do con người tạo ra. Đời sống văn
hóa bao gồm các yếu tố văn hóa tĩnh tại (các sản phẩm văn hóa vật
thể, các thiết chế văn hóa) cũng như các yếu tố văn hóa động (con
người và các dạng hoạt động văn hóa của nó).


15

Khái niệm cơ sở
Đơn vị cơ sở là hình thức tổ chức cơ bản của văn hóa. Đó là những
cộng đồng dân cư liên kết với nhau trong các sinh hoạt vật chất và tinh thần

diễn ra trong đời sống hàng ngày của nhân dân. [39, tr.269]
Khái niệm đời sống văn hóa cơ sở
Từ những luận điểm, khái niệm trên có thể hiểu đời sống văn hoá ở cơ
sở là đời sống văn hoá diễn ra ở cộng đồng gia đình, làng, bản, xóm, ấp,
doanh nghiệp, cơ quan, bệnh viện…Đặc điểm cơ bản của đời sống văn hoá ở
cơ sở là các hoạt động văn hoá diễn ra gắn liền với sinh hoạt vật chất và tinh
thần của cá nhân và cộng đồng trong các mối liên kết thường xuyên và trực
tiếp với không gian địa lý nhất định cùng với hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật
và các thiết chế văn hoá nhất định. Mỗi cộng đồng dân cư sống cố định và
hình thành một tổ chức hành chính (xã, phường, trường học, bệnh viện) hay
một cộng đồng nhỏ hơn (gia đình, tổ dân phố, khu dân cư…) đều có thể được
xem là đơn vị văn hoá cơ sở. Xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở là xây dựng
văn hoá ngay từ trong gia đình và trong cộng đồng dân cư, cộng đồng nghề
nghiệp diễn ra sinh hoạt văn hoá thường nhật của quần chúng nhân dân.
1.1.3. Cấu trúc đời sống văn hóa cơ sở
Đời sống văn hóa có cấu trúc hết sức phức tạp theo cả bề rộng và
chiều sâu. Ta có thể tiếp cận cấu trúc văn hóa ở nhiều phương diện khác
nhau, tùy theo quan niệm về đời sống văn hóa, tùy theo không gian khảo sát.
Giáo sư Hoàng Vinh cho rằng đời sống văn hóa cơ sở là tổng hợp của
hoạt động văn hóa, sản phẩm và con người văn hóa: “Muốn cho các sản phẩm
văn hóa nảy sinh và được vận hành trong đời sống xã hội, thì phải có ba yếu tố:
sản phẩm văn hóa, thể chế văn hóa, các dạng hoạt động văn hóa và những con
người văn hóa. Ba yếu tố đó tạo thành cấu trúc của đời sống văn hóa” [39,
tr.266].
Các nhà khoa học văn hóa xã hội chủ nghĩa - Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh, trong cuốn “Giáo trình lý luận văn hóa và đường lối văn
hóa của Đảng”, cho rằng, cấu trúc của đời sống văn hóa cơ sở bao gồm ba
yếu tố: Sản phẩm văn hóa của cộng đồng (bao gồm hai loại: Hữu hình và vô
hình; bộ phận vô hình: huyền thoại, truyền thuyết, lễ hội, tín ngưỡng dân
gian...; bộ phận hữu hình gồm có các dạng sản phẩm văn hóa đang lưu hành

như: tranh, sách, báo, tượng, phim ảnh..., các thiết chế văn hóa - xã hội như
nhà văn hóa, mẫu giáo, sân vận động, trung tâm văn hóa, thư viện- phòng


16

đọc sách, rạp hát..., cảnh quan văn hóa như: phong cảnh thiên nhiên đã
được tu bổ, công trình kiến trúc, tượng đài, quảng trường, đường sá...), các
dạng hoạt động văn hóa và những con người văn hóa.
Các tác giả khoa Văn hóa và phát triển Học viện Chính trị khu vực I,
thì quan niệm đời sống văn hóa bao gồm 4 yếu tố cấu thành: Một là, những
yếu tố văn hóa vật thể và phi vật thể tồn tại ở mỗi cộng đồng như: các thiết
chế văn hóa, các tác phẩm, sản phẩm văn hóa, các phương tiện thông tin đại
chúng và truyền bá văn hóa, lễ hội, văn hóa - văn nghệ dân gian, các trường
học, các nhóm văn hóa…; hai là, những yếu tố cảnh quan văn hóa (tự nhiên
hoặc do con người tạo ra) hiện diện ở mỗi cộng đồng như: di tích lịch sử văn
hóa, danh lam thắng cảnh, công viên, tượng đài…; ba là, những yếu tố văn
hóa cá nhân ở mỗi cộng đồng như: trình độ học vấn, nhu cầu sở thích và thị
hiếu văn hóa, định hướng giá trị, phong cách sinh hoạt, cách sử dụng thời
gian rỗi, văn hóa ứng xử, giao tiếp, nếp sống văn hóa…; bốn là, những yếu
tố văn hóa của các “tế bào” trong mỗi cộng đồng như: gia đình, nhà trường,
cơ quan, công sở, tổ nhóm lao động, học tập…
Dựa trên cơ sở khái niệm về đời sống văn hóa đã trình bày ở trên, cấu trúc
của đời sống văn hóa cơ sở được giới hạn trong luận văn này, bao gồm các thành
tố cơ bản sau:
- Chủ thể hoạt động văn hóa ở cơ sở;
- Hệ thống các giá trị văn hóa, biểu hiện ở các sản phẩm văn hóa vật
thể và phi vật thể ở cơ sở;
- Các thiết chế và cảnh quan, môi trường văn hóa ở cơ sở;
- Các hoạt động văn hóa ở cơ sở.

* Chủ thể hoạt động văn hóa ở cơ sở
Nghiên cứu đời sống văn hóa của một cộng đồng, gắn với một không
gian cụ thể, trước hết phải quan tâm đến chủ thể văn hóa.
Chủ thể hoạt động văn hóa (hay còn gọi là con người văn hóa) là yếu
tố quan trọng và quyết định nhất trong các yếu tố cấu thành đời sống văn
hóa, bởi vì văn hóa mang tính đặc hữu của con người, chỉ có con người mới
có hoạt động văn hóa, chỉ có con người mới kiến tạo và kiến trúc nên đời
sống văn hóa. Con người sáng tạo ra văn hóa, tái tạo và sử dụng chúng như
một phương tiện để thỏa mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần của mình,
làm cho đời sống của con người không phải là những hoạt động bản năng
sinh tồn. Mặt khác, con người cũng là sản phẩm của đời sống văn hóa. Con


17

người tham gia vào đời sống văn hóa với vai trò là chủ thể, đồng thời con
người cũng là đối tượng của văn hóa. Chính từ trong đời sống thực tiễn,
những năng lực văn hóa của nó được nuôi dưỡng và bộc lộ. Có đời sống văn
hóa của cá nhân, văn hóa của nhóm người và của xã hội, tất cả tương tác
nhau trong sự vận hành của hệ giá trị văn hóa.
Nghiên cứu chủ thể hoạt động văn hóa, liên quan đến các đặc điểm của
cộng đồng đó là trình độ văn hóa, bao gồm các khía cạnh như: học vấn, tuổi
thọ, sức khỏe, nghề nghiệp, tín ngưỡng, quan niệm sống, hành vi ứng xử
trước nghĩa vụ xã hội đối với lao động và nơi công cộng, nhu cầu về vật chất
và tinh thần...
* Hệ thống các giá trị văn hóa
Văn hóa là tổng thể những giá trị do con người sáng tạo ra trong quá
trình lịch sử bằng lao động của mình trên cả hai lĩnh vực sản xuất vật chất và
sản xuất tinh thần. Có đời sống văn hóa của cá nhân, của những nhóm người,
của cộng đồng và của cả xã hội. Tất cả tương tác nhau trong sự vận hành của

hệ giá trị văn hóa.
Giá trị văn hóa được xem là sự kết tinh những thành tựu của con người
trong quá trình hoạt động thực tiễn, cải tạo thế giới và cải tạo chính bản thân.
Đó là những phẩm chất cao quý, có ý nghĩa mà cả xã hội cùng ao ước và chia
sẻ. Ví dụ: lòng yêu nước, lòng nhân ái, đức tính bao dung, tinh thần đoàn
kết...
Trong “Từ điển tiếng Việt” đã định nghĩa: “Giá trị - cái được xác định
có ích, có hiệu quả trong cuộc sống vật chất và tinh thần” [83, tr.725]. Theo
định nghĩa này, khi nói đến các giá trị văn hóa là nói đến những giá trị kết
tinh trong các sản phẩm văn hóa vật thể và phi vật thể do con người sáng tạo
ra trong quá trình hoạt động thực tiễn. Giá trị văn hóa chính là hạt nhân của
đời sống văn hóa. Đời sống văn hóa giống như một biểu đồ phản ánh sự sáng
tạo, truyền bá và tác động của các giá trị thông qua hoạt động sống của con
người.
Tuy nhiên, giá trị không tồn tại riêng lẻ mà bao giờ cũng hợp thành một
hệ thống, phản ánh quan niệm thống nhất của một cộng đồng về ý nghĩa của
các sự vật, hiện tượng trong đời sống. Do đó, nó là hạt nhân tinh thần, là chất
keo gắn kết cộng đồng, đồng thời là tấm biển chỉ dẫn nhận thức hành vi của
cộng đồng hướng đến mục tiêu.


18

Hiện nay có nhiều quan niệm về hệ thống các giá trị. Nếu xem xét hoạt
động sống của con người từ ba góc độ nhận thức, hành động và cảm xúc,
chúng ta thấy hệ giá trị văn hóa gồm ba phạm trù cơ bản là: chân, thiện, mỹ.
Trong đó, chân là đối tượng của nhận thức và sáng tạo khoa học; thiện là đối
tượng của nhận thức và hành vi đạo đức; mỹ là đối tượng của nhận thức và
hoạt động thẩm mỹ - nghệ thuật. Chân, thiện và mỹ thống nhất với nhau,
phản ánh quan niệm của con người về những mối quan hệ ứng xử với tự

nhiên và xã hội cũng như khả năng sáng tạo của con người theo qui luật của
cái đẹp. Phạm trù chân - thiện - mỹ đã hàm nghĩa phân biệt với các hiện
tượng phản giá trị đối lập, đó là: giả - ác - xấu. Điều này khẳng định rằng đời
sống văn hóa là quá trình vận động của chủ thể người và xã hội theo hướng
ngày càng tiếp cận và khẳng định các giá trị chân - thiện - mỹ, đấu tranh với
cái phản giá trị giả - ác - xấu trong con người và xã hội.
* Hệ thống các thiết chế và môi trường văn hóa
Trong các yếu tố cấu thành của đời sống văn hóa, hệ thống các thiết
chế văn hóa đóng vai trò là nơi sáng tạo, lưu giữ và chuyển tải các giá trị văn
hóa của cộng đồng đến từng cá nhân. Đó là môi trường vật chất đảm bảo cho
các hoạt động văn hóa diễn ra trong đời sống xã hội.
Thiết chế trước hết là một tụ điểm, là một trung tâm, hay một cơ quan,
tổ chức các hoạt động có mục đích nhằm tuyên truyền, giáo dục về một tư
tưởng, một quan điểm hay là một lĩnh vực nào đó, phục vụ cho công tác
chính trị, tư tưởng, nghiên cứu khoa học, thực hành kỹ thuật công nghệ, sinh
hoạt văn hóa - nghệ thuật, nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí... được tổ chức theo
những nội quy, quy chế nhất định, được thể chế hóa bằng pháp luật Nhà nước
ban hành, được xã hội công nhận và tuân thủ có mục đích, có yêu cầu và có
những chức năng riêng được xã hội công nhận và quy định.
Thuật ngữ “Thiết chế văn hóa” được sử dụng rộng rãi trong ngành văn
hóa Việt Nam từ những năm 70 thế kỷ XX. Cuốn “Từ điển Bách khoa Việt
Nam” đưa ra khái niệm:
Thiết chế văn hóa là chỉnh thể văn hóa hội tụ đầy đủ các yếu tố cơ
sở vật chất, bộ máy tổ chức, hệ thống biện pháp hoạt động và kinh
phí hoạt động cho thiết chế đó. Ví dụ, thiết chế nhà văn hóa bao
gồm ngôi nhà, bộ máy tổ chức, nhân sự, quy chế hoạt động, nguồn
kinh phí; chỉ riêng ngôi nhà hoặc công trình văn hóa chưa đủ để
gọi là thiết chế văn hóa [82, tr.230].



19

Như vậy, về mặt nguyên tắc, một thiết chế văn hóa được coi là hoàn
chỉnh phải đảm bảo đủ 3 yếu tố: có một bộ máy nhân sự được tổ chức thành
hệ thống; có hệ thống các thể chế (luật, lệ) để vận hành; có trụ sở và các thiết
bị chuyên dụng, gọi chung là cơ sở vật chất để tồn tại và hoạt động lâu dài.
Tuy nhiên, trên thực tế, thiết chế văn hóa hình thành như một quá trình, nó
được hoàn thiện dần trong tiến trình hoạt động thực tiễn.
Mạng lưới các thiết chế phải đảm đương được một số nhiệm vụ quan
trọng như: tổ chức các hoạt động sản xuất (sáng tạo) trong lĩnh vực văn hóa,
tạo ra những sản phẩm văn hóa, những công trình nghệ thuật; tổ chức sưu
tầm và bảo quản vốn di sản văn hóa của dân tộc, của cộng đồng; kịp thời
truyền đạt những giá trị văn hóa đến với mọi người; tổ chức tốt đời sống văn
hóa trong các cộng đồng dân cư, bảo đảm định hướng tư tưởng đúng đắn của
Đảng trong mọi sinh hoạt tinh thần của xã hội.
Hiện nay, ở Việt Nam tồn tại các thiết chế văn hóa tiêu biểu, bao gồm:
Sân vận động, nhà văn hóa, CLB, thư viện, bảo tàng, nhà truyền thống, rạp
hát, rạp chiếu phim, công viên văn hóa, các cơ quan thông tin đại chúng…
Đây là nơi các hoạt động văn hóa diễn ra một cách tập trung, phản ánh
những giá trị kết tinh của đời sống văn hóa cộng đồng. Các thiết chế văn hóa
này chính là chiếc cầu nối giữa sáng tạo, hưởng thụ những giá trị văn hóa,
đồng thời là nơi diễn ra quá trình chuyển tải những giá trị văn hóa tới cộng
đồng.
Thiết chế văn hóa giữ vai trò là nơi lưu giữ và chuyển tải các giá trị
văn hóa của cộng đồng đến từng cá nhân. Đó là môi trường vật chất, là
“đường dẫn” đảm bảo cho các hoạt động văn hóa, bao gồm sáng tạo, bảo
quản, truyền bá và hưởng thụ các giá trị văn hóa diễn ra trong đời sống xã
hội. Hệ thống này được xem xét là “trung khu thần kinh” của nền văn hóa,
bao gồm các thiết chế cơ sở vật chất - văn hóa và các thiết chế xã hội - văn
hóa.

Các thiết chế cơ sở vật chất - văn hóa như: thư viện, bảo tàng, nhà
truyền thống, câu lạc bộ, nhà hát, trung tâm văn hóa... là nơi các hoạt động
văn hóa diễn ra một cách tập trung, phản ánh những giá trị kết tinh của đời
sống văn hóa cộng đồng. Nó chính là cầu nối giữa sáng tạo và thưởng thức,
giữa văn hóa quá khứ và văn hóa đương thời. Những thiết chế này giúp đáp
ứng nhu cầu văn hóa của quần chúng nhân dân, qua đó tuyên truyền tư
tưởng, giáo dục và nâng cao trình độ văn hóa, thẩm mĩ cho công chúng. Mỗi


20

nền văn hóa thường có một kiểu thiết chế văn hóa đặc trưng. Sự đa dạng và
hoàn thiện của các thiết chế này cho thấy nhịp độ và trình độ của đời sống
văn hóa nói chung. Trong điều kiện bùng nổ thông tin, sự phát triển như vũ
bão của khoa học - công nghệ, thiết chế văn hóa có thể được xem là những
“đồn lũy” văn hóa. Đây là một trong những nơi mà đấu tranh trên lĩnh vực
văn hóa diễn ra một cách cụ thể mà Đảng và Nhà nước không thể buông lỏng
sự lãnh đạo và quản lý trên lĩnh vực này.
Các thiết chế văn hóa đang góp phần phát triển xã hội một cách bền
vững. Cơ sở vật chất của hệ thống thiết chế văn hóa là nơi tổ chức các hoạt
động văn hóa phù hợp với tư tưởng, chuẩn mực đạo đức, lối sống và nhất là
phong tục, tập quán của từng vùng, miền, dân tộc... Một xã hội muốn phát
triển bền vững đòi hỏi không chỉ có kinh tế vững mạnh mà còn phải đặc biệt
quan tâm đến văn hóa. Con người không chỉ có nhu cầu ăn, mặc, đi lại... mà
đang ngày càng hướng tới lối sống lành mạnh, chất lượng cuộc sống tốt hơn.
Các thiết chế văn hóa hiện có đang phát huy tác dụng này.
Bên cạnh các thiết chế văn hóa, cảnh quan văn hóa là những sản phẩm
tồn tại trong quan hệ tương tác giữa con người và môi trường tự nhiên, môi
trường xã hội, bao gồm các thắng cảnh tự nhiên, các kiến trúc, công trình xây
dựng, đường phố, tượng đài… cảnh quan văn hóa là môi trường vật chất - văn

hóa mà trong đó con người sinh sống. Nó biểu hiện bề mặt trực tiếp của đời
sống văn hóa. Qua kiến trúc, cảnh quan môi trường… ít nhiều có thể khái quát
đời sống văn hóa của cộng đồng. Tuy là không gian vật chất do con người tạo,
nhưng cảnh quan văn hóa có tác động nâng đỡ, điều chỉnh, giám sát hành vi
con người. Bên trong những cảnh quan chứa đựng những chuẩn mực của cộng
đồng, cũng như thấm đượm sự lan tỏa các giá trị văn hóa.
* Các hoạt động văn hóa
Các hoạt động văn hoá là những hoạt động sáng tạo, lưu giữ, quảng bá
và tiêu dùng các giá trị văn hóa, thể hiện một cách tập trung nhất năng lực
văn hóa, khả năng sáng tạo theo các quy luật của cái đẹp của cá nhân và cộng
đồng. Thông qua hoạt động này, giá trị sẽ được sản sinh, vận động và lan tỏa
trong đời sống. Những hoạt động này có thể là hoạt động của các cá nhân,
nhưng luôn diễn ra trong mối liên hệ với cộng đồng, có nghĩa là, những hoạt
động văn hóa luôn mang tính xã hội.
Hoạt động văn hóa là hoạt động đáp ứng trực tiếp nhu cầu văn hóa của
nhân dân. Mà nhu cầu văn hóa của nhân dân rất đa dạng, vì thế các hoạt động


21

để đáp ứng những nhu cầu ấy cũng hết sức phong phú. Tuy nhiên, đời sống
văn hóa lành mạnh, phong phú phải được biểu hiện qua sự lành mạnh và đa
dạng của các dạng hoạt động văn hóa, mức độ tham gia của người dân. Có
thể khái quát một số dạng hoạt động văn hóa phổ biến như sau:
- Hoạt động thông tin tuyên truyền, cổ động: Thông qua các thiết chế
văn hóa như các cơ quan: phát thanh, truyền hình, báo chí, thông tin, cổ
động, triển lãm… Thực hiện nhiệm vụ chủ yếu là phổ biến rộng rãi trong
công chúng các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cũng như các
nhiệm vụ chính trị, các qui định của địa phương; đồng thời nêu gương người
tốt, việc tốt, phê phán các thói hư, tật xấu, góp phần tạo dựng nếp sống văn

hóa ở cơ sở.
Các cơ quan phát thanh, truyền hình và báo chí của địa phương vừa
là cơ quan ngôn luận của Đảng và Nhà nước, đồng thời phản ánh nguyện
vọng của nhân dân.
Ngày nay, dưới ảnh hưởng của Cách mạng khoa học và công nghệ, đã
xuất hiện các phương tiện thông tin đại chúng được truyền qua hệ thống vệ
tinh viễn thông. Một sự kiện xảy ra tại địa điểm nào đó của hành tinh đều có
thể nhanh chóng truyền bá ra khắp toàn cầu. Con người không chỉ sống bó
hẹp trong lũy tre làng, mà không gian hoạt động được mở ra đến vô cùng, vô
tận. Người ta suy nghĩ và hành động không chỉ dựa vào thói quen truyền
thống, hoặc dựa theo phong tục tập quán của môi trường cơ sở mà còn tiếp
cận ảnh hưởng đời sống thực tiễn của cả thế giới năng động. Hàng ngày, báo
đài tác động tới mỗi người nhiều luồng thông tin khác nhau. Con người dễ
lúng túng trước sự bùng nổ thông tin. Trước tình hình đó, công tác thông tin
cổ động ở địa phương có nhiệm vụ sàng lọc và định hướng, giúp cho mọi
người lựa chọn và tiếp nhận thông tin thuận lợi, nhờ đó mà xây dựng môi
trường văn hóa lành mạnh trong phạm vi cơ sở.
- Hoạt động câu lạc bộ: Là tổ chức xã hội tập hợp theo nguyên tắc tự
nguyện của những người có chung sở thích, nhằm tiến hành các hoạt động
thuộc các lĩnh vực chính trị - xã hội, kinh tế, khoa học, kỹ thuật, văn học nghệ thuật, thể thao và các hoạt động nghỉ ngơi, giải trí khác. Câu lạc bộ
thường tổ chức tại các cơ quan văn hóa, giáo dục như: nhà văn hóa, cung văn
hóa, trung tâm văn hóa thuộc hệ thống Nhà nước (Bộ Văn hóa- Thể thao và
Du lịch) hoặc các ngành, giới như Quân đội, Công an, Công đoàn, Thanh
niên, Hội phụ nữ..


22

Hiện nay, phổ biến một số loại hình câu lạc bộ như: Loại chính trị - xã
hội, loại kinh tế - xã hội, loại khoa học - kỹ thuật, loại văn hóa - nghệ thuật,

loại thể dục - thể thao... tùy theo điều kiện mỗi nơi, có thể thành lập những
câu lạc bộ sở thích phù hợp với đặc điểm mỗi vùng dân cư.
- Hoạt động thể dục, thể thao, vui chơi giải trí
Hoạt động thể dục, thể thao không chỉ nhằm mục đích tăng cường thể
chất mà còn rèn luyện nên những phẩm chất tinh thần như ý chí bền bỉ, lòng
dũng cảm, hoạt bát, thông minh và tinh thần tập thể đồng đội. Ngoài ra, cũng
như các hoạt động vui chơi khác, hoạt động thể dục thể thao có tác dụng giải
trí lớn, làm tan biến đi những căng thẳng đầu óc, sau một thời gian làm việc
liên tục. Vì vậy, các hoạt động trên đây có sức hấp dẫn đối với mọi lứa tuổi.
- Hoạt động giáo dục truyền thống
Để tiến hành công tác giáo dục truyền thống - văn hóa, lịch sử và cách
mạng, ngành văn hóa chủ trương xây dựng các bảo tàng, nhà truyền thống.
Các hoạt động có tính rộng rãi như “uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp
nghĩa, tổ chức các ngày hội... cũng có ý nghĩa giáo dục tốt. Việc công nhận
và xây dựng, tu sửa các di tích lịch sử văn hóa cũng nhằm giáo dục truyền
thống có hiệu quả.
- Hoạt động xây dựng nếp sống văn hóa
Nếp sống là toàn bộ những mô thức ứng xử của con người, biểu hiện
trong mối quan hệ với thiên nhiên, với xã hội và với chính bản thân, được lặp
đi lặp lại nhiều lần trong cuộc sống, được cộng đồng chấp nhận và tự nguyện
thực hiện, lâu dần trở thành thói quen, phong tục; đó là nếp sống văn hóa.
Phong tục tập quán có những giá trị tốt đẹp cần bảo lưu, giữ gìn và phát
triển, có những hạn chế cần khắc phục, sửa chữa, loại bỏ.
Xây dựng nếp sống văn hóa bao gồm xây dựng nếp sống cá nhân, nếp
sống gia đình và nếp sống xã hội. Chính các thiết chế văn hóa ở cơ sở và các
hoạt động của nó có tác dụng hình thành những nếp sống văn hóa mới, khắc
phục những tiêu cực của nếp sống cũ. Hiện nay, gia đình là một dạng đơn vị
cơ sở đặc biệt để xây dựng nếp sống văn hóa, được Đảng và Nhà nước ta đặc
biệt coi trọng. Bộ Chính trị có Chỉ thị 27/CT-TW về thực hiện nếp sống văn
minh trong việc cưới, tang và tổ chức lễ hội cũng là nhằm xây dựng môi

trường văn hóa lành mạnh, đấu tranh bài trừ các hủ tục lạc hậu, tệ nạn xã hội
và mê tín dị đoan.


23

Hoạt động tín ngưỡng là hoạt động thể hiện sự tôn thờ tổ tiên; tưởng
niệm và tôn vinh những người có công với nước, với cộng đồng; thờ cúng
thần, thánh, biểu tượng có tính truyền thống và các hoạt động tín ngưỡng dân
gian khác tiêu biểu cho những giá trị tốt đẹp về lịch sử, văn hóa, đạo đức xã
hội.
Hoạt động tôn giáo là việc truyền bá, thực hành giáo lý, giáo luật, lễ
nghi, quản lý tổ chức của tôn giáo.
Lễ hội là một loại hình sinh hoạt cộng đồng được tổ chức theo phương
pháp cảnh diễn hóa (sân khấu hóa) với nhiều nội dung, hình thức phong phú
nhằm vừa tôn vinh những giá trị thiêng liêng, vừa thỏa mãn các nhu cầu văn
hóa tinh thần của con người và góp phần thắt chặt các quan hệ xã hội. Là một
hình thức sinh hoạt văn hóa tổng hợp, lễ hội được cấu thành bởi hai yếu tố lễ
và hội, tương ứng với các mặt: tinh thần, tôn giáo - tín ngưỡng, linh thiêng là
yếu tố lễ; vật chất, văn hóa - nghệ thuật, đời thường là yếu tố hội, cả hai yếu
tố gắn bó, hòa quyện với nhau không thể bỏ đi một yếu tố nào mà không làm
mất đi bản thân nó. Lễ và hội hướng con người tới “cái thiêng” và gắn bó
con người lại với nhau, có sức hấp dẫn lôi cuốn các tầng lớp xã hội, trở thành
một nhu cầu, một khát vọng của nhân dân trong nhiều thế kỷ.
Trên đây là các yếu tố cơ bản hình thành cấu trúc của đời sống văn hóa
nói chung, cũng là những mặt cơ bản hình thành nên diện mạo của đời sống
văn hóa của một cộng đồng, gắn với một không gian cụ thể.
Chính vì vậy, khi xem xét đời sống văn hóa cộng đồng nói chung, đời
sống văn hóa của huyện Cẩm Giàng nói riêng, chúng ta cần xem xét đầy đủ
tất cả những yếu tố cấu thành của nó trong mối quan hệ biện chứng với nhau,

trong đó chủ thể đóng vai trò xây dựng và đối tượng xây dựng quyết định đời
sống văn hóa của cộng đồng dân cư.
Cách tiếp cận về đời sống văn hóa trên đây là cơ sở lý luận để luận văn
giải quyết yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra của đề tài khi nghiên cứu xây dựng đời
sống văn hóa cơ sở trên địa bàn phường Thanh Xuân Bắc, quận Thanh Xuân.
1.1.2. Nội dung xây dự ng đờ i số ng văn hó a cơ sở
Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở là công tác vô cùng quan trọng trong
sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa nước nhà hiện nay, nó trực tiếp tác
động đến tư tưởng, đạo đức, lối sống, nếp sống của cộng đồng dân cư. Đảng và
Nhà nước ta coi nhiệm vụ xây dựng đời sống văn hóa là nhiệm vụ then chốt để


24

nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân, giữ vững ổn định xã hội, xây dựng
nhân cách con người Việt Nam, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Báo cáo tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết TW 5 (khóa VIII) đã
khẳng định: Quá trình hoạt động thực tiễn của Đảng và Nhà nước ta đã đạt
những thành tựu to lớn, khẳng định tư duy văn hóa của Đảng và Nhà nước ta
có những bước tiến quan trọng trong việc ban hành Nghị quyết. Điều đó cho
thấy Đảng ta đã có cái nhìn thấu suốt về giá trị văn hóa dân tộc và tiến bộ
thời đại, giữa lý tưởng và yêu cầu xử lý các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, văn
hóa là nền tảng tinh thần, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội. Bên cạnh những tiến bộ và thành tựu đã đạt được, công
tác quản lý Nhà nước về văn hóa còn bộc lộ những hạn chế, yếu kém hiện
nay cần khắc phục.
Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” kế tục thành
qủa của nhiều cuộc vận động các phong trào thi đua yêu nước trước đây, nổi bật
là cuộc vận động “Đời sống mới” được phát động ngay sau cách mạng tháng
Tám thành công. Trong những năm đầu thành lập nước, chủ tịch Hồ Chí Minh

đã ra lời kêu gọi toàn dân hăng hái tham gia phong trào xây dựng đời sống
mới.
Trong tác phẩm “Đời sống mới” ấn hành năm 1947, với bút danh Tân
Sinh, chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ mục đích của việc xây dựng đời sống mới
là “làm thế nào để cho đời sống của dân ta vật chất được đầy đủ hơn, tinh thần
được vui mạnh hơn” nhằm làm cho “dân tộc phú cường”. Theo Người, xây
dựng đời sống văn hóa mới vừa là việc “riêng từng người”, vừa là việc “chung
từng nhóm người, của toàn xã hội”. Đời sống mới thể hiện trong cả lĩnh vực
tinh thần như quan hệ đạo đức trong gia đình, xóm giềng, xây dựng đời sống
“cần, kiệm, liêm, chính”.
Những tư tưởng quý báu của Hồ Chủ tịch về xây dựng đời sống mới
mang tính thời đại sâu sắc và được Đảng ta tiếp thu, nâng cao trong lãnh đạo,
chỉ đạo và phát triển sự nghiệp văn hóa đất nước.
Văn hóa là yếu tố quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển của
mỗi quốc gia. Nghị quyết của Đảng đã xác định “Văn hóa là nền tảng tinh thần
của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã
hội”.
Trong lễ phát động “Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa” (1987-1997),
Tổng giám đốc UNESCO đã nêu rõ “Khi các mục tiêu tăng trưởng kinh tế được


25

đặt ra mà không tính đến môi trường văn hóa thì kết quả thu được sẽ rất khập
khiễng, mất cân đối cả về mặt kinh tế và văn hóa, đồng thời tiềm năng sáng tạo
của mỗi dân tộc sẽ bị suy yếu đi rất nhiều”.
Nhận thức về mục tiêu phát triển là nâng cao chất lượng cuộc sống con
người, tạo cho con người có sự phát triển hài hòa giữa đời sống vật chất và đời
sống tinh thần, đó cũng chính là góp phần tạo ra sự phát triển bền vững cho đất
nước. Phong trào làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động

xã hội, vào từng người, từng tập thể cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi
lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người, tạo ra trên đất nước ta đời sống tinh
thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển, phục vụ đắc lực sự
nghiệp CNH - HĐH đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh.
Các hoạt động xây dựng đời sống văn hóa còn nhằm vào việc xây dựng
và phát huy nguồn lực con người, nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của sự
phát triển. Khi các giá trị văn hóa thấm sâu vào tâm hồn, tình cảm con người,
xây dựng trong họ nhận thức đúng đắn về tư tưởng, đạo đức, lối sống, từ đó sẽ
biến thành sức mạnh, thành lực lượng vật chất vô cùng to lớn, thúc đẩy con
người hăng hái trong lao động, sáng tạo. Có nền tảng tinh thần vững chắc, con
người mới có bản lĩnh vững vàng trước những tác động tiêu cực của mặt trái
kinh tế thị trường và những âm mưu chống phá của các thế lực xấu.
Từ khi đất nước vào thời kỳ đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà
nước, các lĩnh vực đời sống xã hội có nhiều chuyển biến sâu sắc, tích cực. Đời
sống kinh tế của nhân dân được nâng lên một bước đáng kể. Đời sống văn hóa
tinh thần cũng có điều kiện mở rộng và được đáp ứng ngày một tốt hơn. Đặc
biệt, sự xuất hiện các phương tiện thông tin thì văn hóa ngày càng đa dạng,
phong phú, làm cho người dân được tiếp xúc với nhiều loại hình, nhiều sản
phẩm văn hóa; tuy nhiên, bên cạnh các thông tin tích cực cũng có sự đan xen
các thông tin xấu, các ấn phẩm văn hóa ngoài luồng, tuyên truyền lối sống thực
dụng, đồi trụy, không phù hợp với truyền thống văn hóa, thuần phong mĩ tục,
quan điểm thẩm mĩ, đạo đức của dân tộc. Do đó, xây dựng môi trường văn hóa
lành mạnh, trong sạch, đấu tranh với các tệ nạn xã hội, giữ gìn lối sống văn hóa
truyền thống tốt đẹp trong gia đình, cộng đồng là một trong những chủ trương
lớn của phong trào xây dựng đời sống văn hóa, góp phần tích cực “Xây dựng
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”.



×