Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Phân tích thực trạng sử dụng thuốc tại Bệnh viện Mắt Thanh Hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 80 trang )

BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC DƯỢC HÀ NỘI

TRẦN THỊ HUYỀN

PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG SỬ DỤNG
THUỐC TẠI BỆNH VIỆN MẮT THANH HOÁ
NĂM 2014

LUẬN VĂN DƯỢC SĨ CHUYÊN KHOA CẤP I

HÀ NỘI 2015


BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC DƯỢC HÀ NỘI

TRẦN THỊ HUYỀN

PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG SỬ DỤNG THUỐC
TẠI BỆNH VIỆN MẮT THANH HÓA NĂM 2014

LUẬN VĂN DƯỢC SĨ CHUYÊN KHOA CẤP I
CHUYÊN NGÀNH:TỔ CHỨC QUẢN LÝ DƯỢC
MÃ SỐ: CK 60720412

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Nguyễn Thị Song Hà

Nơi thực hiện:

Trường Đại học Dược Hà Nội


Bệnh viện Mắt Thanh Hóa

Thời gian thực hiện: Từ 19/1/2015 đến 19/5/2015

HÀ NỘI 2015


Lời Cảm Ơn
Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình
của nhiều cá nhân, tập thể, của các thầy cô, gia đình, đồng nghiệp, bạn bè.
Đầu tiên, với lòng biết ơn và kính trọng sâu sắc, tôi xin gửi lời cám
ơn chân thành nhất tới PGS.TS Nguyễn Thị Song Hà, người thầy đã tận
tình hướng dẫn, chỉ bảo tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận
văn.
Tôi xin chân thành cám ơn quý thầy cô Bộ môn Quản lý và kinh tế
dược, Trường đại học Dược Hà Nội đã giúp đỡ và truyền đạt những kiến
thức quí báu cho tôi trong suốt quá trình học tập ở trường.
Tôi xin chân thành cám ơn Ban Giám Đốc và Khoa Dược Bệnh viện
Mắt Thanh Hóa đã nhiệt tình giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi thu thập số
liệu cho luận văn này.
Tôi cũng xin gửi lời cám ơn đến quí thầy cô trong ban giám hiệu,
phòng sau đại học Trường Đại học Dược Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi
cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình, người
thân, đồng nhiệp và bạn bè đã luôn bên cạnh, chia sẻ, động viên và giúp đỡ
trong cuộc sống và quá trình học tập.
Hà Nôi, ngày 20 tháng 5 năm 2015
Học viên
Trần Thị Huyền



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BHYT

Bảo hiểm y tế

BHXH

Bảo hiểm xã hội

BV

Bệnh viện

BYT

Bộ Y tế

DDD

Defined

Liều trung bình duy trì hàng ngày

Dose Daily
DMTBV

Danh mục thuốc bệnh viện

DMTCY


Danh mục thuốc chủ yếu

DMTTY

Danh mục thuốc thiết yếu

ĐV

Đơn vị

ĐVT

Đơn vị tính

GTSD

Giá trị sử dụng

HĐT&ĐT

Hội đồng thuốc và điều trị

KS

Kháng sinh

SL

Số lượng


SX

Sản xuất

TB

Trung bình

TL

Tỷ lệ

TT

Thứ tự

TTY

Thuốc thiết yếu

TW

Trung Ương

VEN

Vital,

Sống còn,


Essential,

Thiết yếu,

Nonessential

Không thiết yếu

VNĐ

Việt Nam đồng

WHO

Tổ chức Y tế thế giới


ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh viện là cơ sở y tế trực tiếp khám chữa bệnh và chăm lo sức
khỏe toàn diện cho người bệnh. Để thực hiện mục tiêu bảo đảm sử dụng
thuốc hợp lý, an toàn và có hiệu quả công tác sử dụng thuốc tại bệnh viện
đóng vai trò rất quan trọng.
Hiện nay, vẫn còn nhiều bất cập trong sử dụng thuốc tại các bệnh
viện như: Các thuốc không thiết yếu (không thực sự cần thiết) được sử
dụng với tỉ lệ cao, Chi phí dành cho kháng sinh chiếm tỉ lệ tương đối cao
trong tổng chi phí cho thuốc và hóa chất[30], tỉ lệ thuốc nhập khẩu, thuốc
theo tên biệt dược trong danh mục thuốc tại bệnh viện chiếm ưu thế, tỉ lệ kê
đơn ghi không đầy đủ, rõ ràng nội dung vẫn còn cao…Sử dụng thuốc
không hợp lý không chỉ ảnh hưởng tới công tác chăm sóc khám chữa bệnh

mà còn là nguyên nhân làm tăng chi phí đáng kể cho người bệnh, tạo ra
gánh nặng cho nền kinh tế xã hội. Một trong các yếu tố quan trọng trong
việc nâng cao chất lượng khám và điều trị cho người bệnh là việc sử dụng
thuốc hợp lý, an toàn, hiệu quả. Do đó phân tích thực trạng sử dụng thuốc
trong các bệnh viện là việc hết sức cần thiết để phản ánh thực trạng và góp
phần nâng cao chất lượng khám chữa bệnh nói chung và nâng cao công tác
sử dụng thuốc nói riêng tại bệnh viện, đồng thời góp phần nâng cao lòng tin
của nhân dân đối với hệ thống y tế.
Bệnh viện Mắt Thanh Hóa là bệnh viện chuyên khoa của tỉnh, với
chức năng khám và chữa bệnh liên quan đến mắt cho nhân dân trong toàn
tỉnh, Bệnh viện gồm có 16 khoa phòng, giường kế hoạch giao là 150 và
lượng bệnh nhân đến khám và điều trị ngày càng cao nhưng tại Bệnh viện
này chưa có đề tài nào nghiên cứu đánh giá về công tác sử dụng thuốc. Vì
vậy, chúng tôi thực hiện đề tài: “Phân tích thực trạng sử dụng thuốc tại
Bệnh viện Mắt Thanh Hóa năm 2014” với mục tiêu:
1


1. Phân tích cơ cấu về số lượng và giá trị của thuốc sử dụng tại
Bệnh viện Mắt Thanh Hóa năm 2014
2. Phân tích hoạt động kê thuốc điều trị ngoại trú được bảo hiểm y
tế chi trả tại Bệnh viện Mắt Thanh Hóa năm 2014

2


Chương I
TỔNG QUAN
1.1.Thực trạng sử dụng thuốc tại các bệnh viện ở Việt Nam
1.1.1. Cơ cấu giá trị tiền thuốc

Theo các nghiên cứu trong những năm gần đây, giá trị tiền thuốc sử
dụng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kinh phí bệnh viện .
Kết quả khảo sát tại bệnh viện E năm 2009 cho thấy, kinh phí mua
thuốc chiếm gần 50% tổng chi tiêu thường xuyên của bệnh viện [38]. Tại
bệnh viện Hữu Nghị từ năm 2004 đến 2010, tổng tiền thuốc sử dụng chiếm
tỷ lệ từ 29,4% (năm 2010) đến 41,2% (năm 2007) trong tổng kinh phí bệnh
viện[20].
Các báo cáo của Bộ Y tế qua các năm cho thấy tiền mua thuốc của
các bệnh viện tăng cả về số lượng và tỷ trọng so với tổng kinh phí các bệnh
viện. Theo báo cáo kết quả công tác khám chữa bệnh năm 2009-2010 của
Cục quản lý khám chữa bệnh – Bộ Y tế, tổng giá trị tiền thuốc sử dụng
trong bệnh viện chiếm tỷ trọng 47.9% (Năm 2009) và 58,7% ( năm 2010)
tổng giá trị tiền viện phí hàng năm trong bệnh viện[2],[16].
Sử dụng kháng sinh luôn là vấn đề được quan tâm trong sử dụng
thuốc an toàn, hợp lý. Theo kết quả nghiên cứu tại các bệnh viện, kinh phí
mua thuốc kháng sinh luôn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng giá trị tiền
thuốc sử dụng. Kết quả khảo sát của Bộ Y tế tại một số bệnh viện cho thấy,
từ năm 2007 đến 2009, kinh phí mua thuốc kháng sinh chiến tỷ lệ không
đổi, từ 32,3% đến 32,4% trong tổng giá trị tiền thuốc sử dụng[23].
Nghiên cứu của Vũ Thị Thu Hương và cộng sự năm 2009 trên 38
bệnh viện đa khoa (7 bệnh viện đa khoa tuyến trung ương, 14 bệnh viện
3


tuyến tỉnh và 17 bệnh viện huyện/quận) đại diện cho 6 vùng trên cả nước
cũng cho kết quả tương tự với tỷ lệ giá trị tiền thuốc kháng sinh ở 3 tuyến
bệnh viện trung bình là 32,5%, trong đó cao nhất là ở các bệnh viện tuyến
huyện(43,1%) và thấp nhất tại các bệnh viện tuyến trung ương(25,7%)[39].
Cũng trong năm 2009, theo một thống kê của Bộ Y tế từ các báo cáo
về tình hình sử dụng của một số bệnh viện, tỷ lệ giá trị tiền thuốc kháng

sinh trung bình tại các bệnh viện chuyên khoa trung ương (21 bệnh viện) là
28%, tại các bệnh viện chuyên khoa tuyến tỉnh (15 bệnh viện) là 34% và tại
các bệnh viện đa khoa tuyến huyện (52 bệnh viện) là cao nhất (43%)[30].
Tại một số bệnh viện chuyên khoa tuyến trung ương có đến hơn 50%
giá trị tiền thuốc sử dụng phân bố cho nhóm kháng sinh. Tại Bệnh viện Da
Liễu Trung Ương, nhóm kháng sinh chiến đến 52,2% tổng giá trị tiền thuốc
sử dụng năm 2009 và đặc biệt tỷ lệ này lên đến 70,3% tại Bệnh viện Phổi
Trung Ương và 89% tại Bệnh viện Nhi thành phố Hồ Chí
Minh[27],[30],[31].
Kết quả phân tích kinh phí sử dụng một số nhóm thuốc tại Bệnh viện
A tỉnh Thái Nguyên năm 2014 cho thấy, nhóm thuốc kháng sinh có kinh
phí sử dụng lớn nhất trong các nhóm thuốc, chiếm tỷ lệ trung bình là 39,5%
tổng giá trị tiền thuốc sử dụng[35], tương tự tại Bệnh viện Trung Ương
Huế năm 2013, kinh phí sử dụng nhóm kháng sinh cũng chiếm tỷ lệ cao
nhất 34,84% trong tổng giá trị tiền thuốc sử dụng[24].
Theo một nghiên cứu về thực trạng thanh toán thuốc BHYT trong cả
nước năm 2010, trong số 30 hoạt chất có giá trị thanh toán nhiều nhất
(chiếm 43,7% tiền thuốc BHYT), có đến 10 hoạt chất thuộc nhóm kháng
sinh, chiếm tỷ lệ cao nhất (21,92% tiền thuốc BHYT)[33].

4


Thuốc kháng sinh chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị tiền thuốc sử
dụng tại bệnh viện, một phần cho thấy mô hình bệnh tật tại Việt Nam có tỷ
lệ các bệnh nhiễm khuẩn cao, mặt khác có thể đánh giá tình trạng lạm dụng
kháng sinh vẫn còn phổ biến[36].
Vitamin là hoạt chất thường được sử dụng và có nguy cơ lạm dụng
cao. Kết quả phân tích tại 38 bệnh viện trong cả nước năm 2009 cho thấy
vitamin là 1 trong 10 nhóm thuốc có giá trị sử dụng lớn nhất tại các tuyến

bệnh viện[39]. Bên cạnh đó, nhóm thuốc này cũng được sử dụng nhiều tại
Bệnh viện A tỉnh Thái Nguyên năm 2013 và Bệnh viện Trung Ương Huế
năm 2012[24],[35].
Bênh cạnh nhóm kháng sinh và vitamin, các thuốc có tác dụng hỗ trợ
điều trị, hiệu quả chưa rõ ràng cũng đang được sử dụng phổ biến ở hầu hết
ở các bệnh viện trong cả nước.
Kết quả khảo sát về thực trạng thanh toán thuốc bảo hiểm trong cả
nước năm 2010 cho thấy, trong tống số 30 hoạt chất có giá trị thanh toán
lớn nhất, có cả các thuốc bổ trợ là L-Ornithin L-Aspartat, Ginkgo Biloba và
Arginin. Trong đó, hoạt chất L-Ornithin L-aspartat nằm trong số 5 hoạt
chất chiếm tỷ lệ lớn nhất về giá trị thanh toán[32]. Đồng thời, hoạt chất này
cũng là một trong những hoạt chất chiếm giá trị nhập khẩu lớn nhất thuộc
nhóm tiêu hóa có xuất xứ từ Ấn Độ và Hàn Quốc năm 2008[17].
Một thực tế nữa cho thấy, hiện nay, các thuốc sản xuất trong nước
vẫn chiếm tỷ lệ thấp trong danh mục thuốc và giá trị tiền thuốc sử dụng.
Các kết quả khảo sát tại một số bệnh viện đa khoa và chuyên khoa ở 3
tuyến bệnh viện đều cho thấy, Các thuốc sản xuất trong nước chỉ chiếm
25,5%-43,5% số khoản mục thuốc và 7%-57,1% tổng giá trị sử dụng, trong
đó thấp nhất là tại các bệnh viện tuyến Trung Ương.[26],[27],[28],[39].

5


Bên cạnh đó, trong các thuốc nhập khẩu, các bệnh viện ưu tiên sử
dụng các thuốc nhập khẩu từ 2 quốc gia Ấn Độ, Hàn Quốc. Năm 2008,
thuốc thành phẩm nhập từ 2 quốc gia Ấn Độ và Hàn Quốc chiếm trên 1/5
tổng kim ngạch nhập khẩu thuốc thành phẩm vào thị trường Việt Nam,
trong đó chủ yếu là các nhóm thuốc kháng khuẩn, chuyển hóa và tiêu hóa
mà nhiều doanh nghiệp trong nước đang tiến hành sản xuất[17].
1.1.2. Thực trạng kê đơn và thực hiện quy chế kê đơn ngoại trú

Năm 2005, Bộ Y tế tổ chức hội nghị đánh giá thực hiện chỉ thị
05/2004/CT-BYT về việc chấn chỉnh công tác cung ứng, sử dụng thuốc
trong bệnh viện đã cho thấy việc kê quá nhiều thuốc cho người bệnh, dẫn
đến tương tác thuốc khi điều trị. Bệnh viện Thống nhất có nhiều đơn kê 14
đến 16 thuốc trong một ngày cho một người bệnh, thậm chí có đơn kê đến
20 loại thuốc cho một ngày cho một bệnh nhân[3].
Bên cạnh đó, kết quả khảo sát của Cục Quản lý khám chữa bệnh- Bộ
Y tế tại một số bệnh viện năm 2009 cho thấy: Mỗi bệnh nhân trong một đợt
điều trị đã được sử dụng từ 0-10 thuốc, trung bình là 3,63±11,45 thuốc.
Nhóm bệnh nhân không có bảo hiểm y tế có số lượng thuốc trung bình
trong một đợt điều trị là 4,00±2,00 thuốc/đợt tăng hơn so với nhóm bệnh
nhân có BHYT 3.63±2,10 thuốc/đợt[5].
Theo nghiên cứu tại Bệnh viện Nhân Dân 115 năm 2009, số thuốc
trung bình cho đơn ngoại trú là 3,62, trong đó số thuốc không thiết yếu là
1,5 thuốc/1 đơn thuốc chiếm 41,46% tổng số thuốc trung bình trong 1
đơn[21].
Theo các nghiên cứu tại Bệnh viện Tim Hà Nội Năm 2010, Bệnh
viện Trung Ương Huế năm 2012 và Bệnh viện đa khoa Vĩnh Phúc năm
2011 số thuốc trung bình trong 1 đơn thuốc từ 2,88 đến 4,4[24],[26],[37].

6


Vitamin cũng là hoạt chất thường được các bác sĩ kê đơn. Theo một
khảo sát tại Bệnh viện Tim Hà Nội Năm 2010, có 35% đơn thuốc có kê
vitamin, chủ yếu là vitamin nhóm B phối với các khoáng chất như Mg,
Fe… và hầu như không có tình trạng bác sĩ kê nhiều loại vitamin cùng một
đơn[26]. Một khảo sát tại Bệnh viện Nhân Dân 115 cũng cho tỷ lệ tương tự
là 38%[21]. Trong khi đó tại bệnh viện Đa khoa tỉnh Vĩnh Phúc năm 2011
có đến 46,3% đơn thuốc ngoại trú và 43,5% hồ sơ bệnh án có kê

vitamin[37].
Về việc thực hiện quy chế kê đơn trong điều trị ngoại trú , theo kết
quả khảo sát tại Bệnh viện Phổi Trung Ương năm 2009, do chưa ứng dụng
phần mềm trong kê đơn trên máy tính nên tỷ lệ thực hiện theo quy chế về
ghi các thông tin bệnh nhân và thông tin về thuốc là chưa cao. Có 35% đơn
khảo sát ghi rõ ràng, đầy đủ địa chỉ bệnh nhân chính xác đến số nhà, đường
phố hoặc thôn xã; 100% ghi đầy đủ họ tên bệnh nhân; chẩn đoán bệnh có
ghi nhưng còn viết tắt nhiều, 62% số đơn ghi tên thuốc theo hoạt chất, 83%
số đơn ghi đầy đủ hàm lượng, nồng độ, số lượng thuốc; 99% số đơn ghi
đầy đủ hướng dẫn sử dụng trong đơn, 100% số đơn ghi đầy đủ liều dùng;
95% số đơn có ghi thời điểm dùng[27].
Hiện nay, nhiều bệnh viện đã ứng dụng phần mềm trong kê đơn nên
đã thực hiện tốt hơn quy chế kê đơn ngoại trú. Một số nghiên cứu can thiệp
tại Bệnh viện Nhân Dân 115 cho thấy việc áp dụng kê đơn điện tử đã cải
thiện rõ rệt chất lượng kê đơn thuốc tại khoa khám bệnh. Số đơn ghi thiếu
thông tin về bệnh nhân đã giảm từ 98% xuống còn 33,6%, trong đó số đơn
ghi thiếu địa chỉ bệnh nhân giảm từ 97,8% xuống còn 33,6%, các thông tin
về họ tên, tuổi giới giảm từ 92.6% đến không còn(0%). Các sai sót về ghi
chỉ định, tên hoạt chất đã được hạn chế tối đa khi áp dụng kê đơn điện tử.

7


Tỉ lệ đơn ghi thiếu thông tin về thời điểm dùng thuốc giảm từ 54% xuống
còn 33,5%[22].
1.2. Một số văn bản pháp quy quản lý sử dụng thuốc tại bệnh viện
Với mục tiêu đảm bảo sử dụng thuốc an toàn, hợp lý, Tổ chức Y tế
thế giới đã khuyến cáo các nước đang phát triển cần có chính sách quốc gia
về thuốc. Trên cơ sở đó, ngày 20/6/1996, Chính phủ Việt Nam đã ban hành
chính sách quốc gia về thuốc nhằm hai mục tiêu cơ bản: (1) bảo đảm cung

ứng thường xuyên và đủ thuốc có chất lượng đến người dân; (2) bảo đảm
sử dụng thuốc hợp lý, an toàn và có hiệu quả. Hai mục tiêu này đã được cụ
thể hoá thành 9 mục tiêu và 8 nhóm chính sách, về cơ bản phù hợp với
hướng dẫn của Tổ chức Y tế thế giới [18].
Chính sách thuốc thiết yếu, sử dụng thuốc hợp lý, an toàn là một trong
những nội dung cơ bản của chính sách quốc gia về thuốc của Việt Nam.
Trong đó chỉ rõ sự cần thiết phải có chính sách về thuốc thiết yếu và ngành
Y tế có trách nhiệm xây dựng và ban hành danh mục thuốc thiết yếu, định
kỳ (3 đến 5 năm) xem xét, bổ sung cho phù hợp với mô hình bệnh tật, điều
kiện kinh tế, xã hội của Việt Nam, với tiến độ về khoa học và kỹ thuật
trong điều trị. Bên cạnh đó, cần ban hành danh mục thuốc quốc gia, dựa
trên các tiêu chí phù hợp với mô hình bệnh tật và phương pháp điều trị
trong nước, có hiệu quả cao, đảm bảo an toàn, dễ sử dụng, phù hợp với yêu
cầu điều trị ở mỗi tuyến. Đồng thời, cần thành lập Hội đồng thuốc và điều
trị, cùng với việc ban hành các phác đồ điều trị khung, ban hành Dược thư
quốc gia làm tài liệu pháp lí trong việc dùng thuốc, thực hiện quy chế kê
đơn thuốc và bán thuốc theo đơn, tên thuốc ghi trong đơn, in trên nhãn
thuốc [4].

8


Chính sách quốc gia về thuốc kháng sinh cũng đã nhấn mạnh: thuốc
kháng sinh có vai trò rất quan trọng trong điều trị, đặc biệt đối với tình hình
bệnh tật của một nước khí hậu nhiệt đới như Việt Nam, do đó, cần chấn
chỉnh việc kê đơn và sử dụng kháng sinh, xác định tính kháng kháng sinh
của một số vi khuẩn gây bệnh, tạo điều kiện để các cơ sở điều trị có khả
năng làm kháng sinh đồ [18].
Thực hiện theo Chính sách quốc gia về thuốc, trên cơ sở danh mục
thuốc thiết yếu của Thế giới, Bộ Y tế đã ban hành Danh mục thuốc thiết

yếu Việt Nam lần đầu tiên vào năm 1987. Cho đến nay, danh mục này đã
qua 4 lần được sửa đổi, bổ sung và cập nhật vào các năm 1992, 1995, 1999
và 2005. Danh mục TTY Việt Nam lần thứ V ban hành kèm theo quyết
định số 17/2005/QĐ-BYT ngày 01/07/2005 của Bộ Y tế bao gồm 355
thuốc của 314 hoạt chất tân dược; danh mục thuốc chế phẩm y học cổ
truyền; danh mục cây thuốc nam và danh mục vị thuốc [6].
Bệnh viện là cơ sở khám bệnh, chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ toàn
diện cho nhân dân. Để thực hiện mục tiêu của chính sách thuốc quốc gia về
sử dụng thuốc hợp lý, an toàn công tác sử dụng thuốc tại bệnh viện đóng
vai trò rất quan trọng. Trong nhiều năm qua, Bộ Y tế rất quan tâm đến công
tác này và đã, đang có nhiều giải pháp, chính sách chỉ đạo các đơn vị thực
hiện.
Căn cứ theo DMTTY, Bộ Y tế ban hành DMTCY để các cơ sở khám
bệnh, chữa bệnh lựa chọn thuốc sử dụng phù hợp với mô hình bệnh tật, khả
năng chuyên môn của đơn vị, làm cơ sở cho BHYT thanh toán chi phí điều
trị cho bệnh nhân. Từ DMTCY ban hành theo quyết định 03/2005/QĐBYT, được bổ sung, sửa đổi theo quyết định 05/2008/QĐ-BYT, cho đến
nay, danh mục thuốc chữa bệnh chủ yếu đang được áp dụng là DMTCY sử
dụng tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được quỹ BHYT thanh toán (ban
9


hành theo thông tư 40/2014/TT-BYT ngày 17/11/2014 của Bộ Y tế), bao
gồm 845 thuốc (hay hoạt chất) tân dược, và 57 danh mục thuốc phóng xạ
và hợp chất đánh dấu[10]. Đây là cơ sở quan trọng để các bệnh viện xây
dựng danh mục thuốc sử dụng phù hợp với mô hình bệnh tật bệnh viện,
trình độ kỹ thuật cũng như khả năng tài chính của bệnh viện.
Ngày 4/7/1997, Bộ Y tế đã ban hành thông tư số 08/BYT-TT
hướng dẫn về việc tổ chức, chức năng và nhiệm vụ của Hội đồng thuốc và
điều trị ở bệnh viện. Trong đó, chỉ rõ: HĐT&ĐT của bệnh viện có chức
năng tư vấn cho giám đốc bệnh viện về các vấn đề liên quan đến thuốc và

điều trị bằng thuốc của bệnh viện, thực hiện tốt Chính sách quốc gia về
thuốc trong bệnh viện [9].
Để chấn chỉnh việc cung ứng thuốc nhằm đảm bảo chất lượng khám
chữa bệnh và sử dụng thuốc an toàn hợp lý, ngày 16/4/2004, Bộ Y tế đã
đưa ra chỉ thị số 05/2004/CT-BYT về việc chấn chỉnh công tác cung ứng,
sử dụng thuốc trong bệnh viện. Trong đó, chỉ thị yêu cầu ban giám đốc
bệnh viện chỉ đạo hoạt động của hội đồng thuốc trong việc lựa chọn và sử
dụng thuốc hợp lý, an toàn, tăng cường kiểm tra việc thực hiện quy chế kê
đơn và bán thuốc theo đơn trong bệnh viện.
Để thực hiện chỉ thị số 05, ngày 16/4/2004, vụ điều trị (nay là Cục Quản Lý
khám chữa bệnh) đã ra công Văn số 3483/YT – ĐTr hướng dẫn các bệnh
viện tổ chức kiểm tra, đánh giá tình hình thực hiện các quy định sử dụng
thuốc trong bệnh viện về việc thực hiện quy chế kê đơn và bán thuốc theo
đơn, kiểm tra các chỉ số về kê đơn ngoại trú và phân tích sử dụng thuốc
trong các ca lâm sàng. Cụ thể như sau:
* Về thực hiện quy chế kê đơn và bán thuốc theo đơn:

10


+ Bệnh viện cần có danh mục thuốc sử dụng trong bệnh viện (tên
gốc, tên biệt dược) cho bác sĩ kê đơn dễ tra cứu.
+ Tiêu chuẩn của một đơn thuốc hợp lý bao gồm: đúng mẫu đơn quy
định, thuốc ghi theo tên gốc với thuốc đơn chất, ghi chính xác liều dùng
mỗi lần, số lần dùng thuốc và thời gian dùng thuốc trong ngày, thời gian
cho cả đợt điều trị.
+ Thực hiện kê đơn thuốc trên nguyên tắc sau:
 Khi thật cần thiết phải dùng đến thuốc, kê những thuốc tối thiểu cần
thiết và phải có đủ thông tin về thuốc đó.
 Chọn thuốc hợp lý cho người bệnh cụ thể, hợp lý về giá và hiệu quả,

chú ý thận trọng với từng cơ địa, trạng thái bệnh lý của người bệnh.
 Liều hợp lý, chỉ định dùng thuốc đúng: thời gian, khoảng cách giữa
các lần dùng thuốc.
 Hạn chế, thận trọng trong các phối hợp nhiều thuốc hoặc dùng thuốc
hỗn hợp nhiều thành phần, thận trọng với các phản ứng phụ, phản
ứng có hại của thuốc.
 Kiểm tra các chỉ số về kê đơn ngoại trú:
+ Mỗi chuyên khoa kiểm tra ít nhất 30 đơn thuốc về các chỉ số sau:
 Số thuốc trung bình cho 01 đơn thuốc
 Tỉ lệ % thuốc kê tên gốc
 Tỉ lệ % đơn có kháng sinh
 Tỉ lệ % đơn có vitamin
 Tỉ lệ % đơn có thuốc tiêm
11


 Tỉ lệ % các thuốc có trong danh mục thuốc chủ yếu.
Phân tích sử dụng thuốc trong các ca lâm sàng: Giám đốc BV giao
cho HĐT&ĐT tổ chức phân tích sử dụng thuốc trong các ca lậm sàng (bình
bệnh án) ít nhất mỗi tháng một lần: Bình bệnh án khách quan với mục tiêu
tăng cường sử dụng thuốc hợp lý.
Từ các chỉ số kê đơn ngoại trú và số liệu về thuốc trong các tóm tắt
bệnh án, tính các tỉ lệ các chỉ số sử dụng thuốc cho mỗi khoa sau đó là cho
cả bệnh viện. Lập danh mục 10 thuốc sử dụng nhiều nhất và 10 bệnh mắc
cao nhất từ các tóm tắt bệnh án để phân tích thực trạng sử dụng thuốc tại
bệnh viện. Xác định cụ thể những vấn đề sử dụng thuốc chưa hợp lý, chú ý
kiểm tra những thuốc sử dụng nhiều, hay lạm dụng. Sau đó, tổ chức thảo
luận, phân tích tìm nguyên nhân của sử dụng thuốc chưa hợp lý, xây dựng
kế hoạch và biện pháp khắc phục những tồn tại [14].
Ngày 07/05/2010, Bộ Y tế ban hành Công văn số 2094/BYT - QLD

của Bộ Y tế về việc tăng cường công tác quản lý hoạt động cung ứng thuốc
và giá thuốc trong các cơ sở khám chữa bệnh công lập, một lần nữa yêu cầu
Giám đốc các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có trách nhiệm chỉ đạo hoạt
động của HĐT&ĐT trong việc lựa chọn thuốc, công tác bình bệnh án, tăng
cường kiểm tra giám sát để đảm bảo sử dụng thuốc hợp lý, an toàn, hiệu
quả [12].
Bên cạnh đó, các nội dung về tiền thuốc ngoại nhập, tiền thuốc sản
xuất trong nước, tiền thuốc kháng sinh, tiền thuốc vitamin, tiền dịch truyền,
thuốc corticoid là các nội dung các BV cần phải báo cáo trong bảng kiểm
tra BV hàng năm do Bộ Y tế ban hành [8].

12


Ngày 01/02/2008, Bộ Y tế đã ban hành Quy chế kê đơn thuốc trong
điều trị ngoại trú kèm theo Quyết định số 04/2008/QĐ – BYT, quy định rõ
về trách nhiệm người kê đơn và cách ghi đơn thuốc như sau:
Người kê đơn phải chịu trách nhiệm về đơn thuốc do mình kê cho
người bệnh và thực hiện các quy định sau:
+ Chỉ được kê thuốc điều trị các bệnh được phân công khám, chữa
bệnh hoặc các bệnh trong phạm vi hành nghề ghi trong giấy chứng nhận đủ
điều kiện hành nghề do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cấp.
+ Chỉ được kê đơn thuốc sau khi trực tiếp khám bệnh.
+ Không kê đơn thuốc các trường hợp sau:
 Không nhằm mục đích phòng bệnh, chữa bệnh.
 Theo yêu cầu không hợp lý của người bệnh
 Thực phẩm chức năng.
Đơn thuốc cần được ghi đủ các mục in trong đơn theo mẫu đơn, mẫu
sổ đúng quy định, chữ viết rõ ràng, dễ đọc và chính xác.
+ Ghi địa chỉ người bệnh chính xác đến số nhà, đường phố hoặc

thôn, xã, trường hợp bệnh nhân là trẻ dưới 72 tháng tuổi thì ghi số tháng
tuổi và ghi tên bố hoặc mẹ.
+ Viết tên thuốc theo tên chung quốc tế (INN, generic name) hoặc
nếu ghi tên biệt dược phải ghi tên chung quốc tế trong ngoặc đơn (trừ
trường hợp thuốc có nhiều hoạt chất), đồng thời ghi đầy đủ tên thuốc, hàm
lượng, số lượng, liều dùng, cách dùng của mỗi thuốc. Nếu có sửa chữa đơn
phải ký, ghi rõ họ tên, ngày bên cạnh. Gạch chéo phần đơn còn giấy trắng
và phải ký, ghi (hoặc đóng dấu) họ tên người kê đơn [11].

13


Ngoài ra, cần tuân thủ những quy định về kê đơn thuốc điều trị bệnh
mãn tính và kê đơn đối với những loại thuốc cần có sự kiểm soát đặc biệt
như thuốc điều trị lao, thuốc hướng tâm thần và tiền chất dùng làm thuốc,
thuốc gây nghiện và thuốc opioids giảm đau cho người bệnh ung thư và
người bệnh AIDS [11].
Trong công văn số 2094/BYT – QLD ngày 07/05/2010 về việc tăng
cường công tác quản lý hoạt động cung ứng thuốc và giá thuốc trong các cơ
sở khám chữa bệnh công lập, Bộ Y tế cũng đã yêu cầu Giám đốc BV chỉ
đạo thực hiện nghiêm túc quy chế kê đơn thuốc trong điều trị ngoại trú ban
hành theo Quyết định số 04/2008/QĐ – BYT ngày 01/02/2008. Cụ thể:
triển khai quy định việc kê đơn thuốc theo tên generic (hoặc tên chung
quốc tế), hạn chế tối đa các trường hợp kê đơn theo tên thương mại hoặc
tên biệt dược. Giám đốc BV chịu trách nhiệm chỉ đạo của HĐT&ĐT bệnh
viện giám sát chặt chẽ việc kê đơn thuốc theo tên biệt dược, tên thương mại
và có biện pháp xử lý nghiêm các trường hợp kê đơn không hợp lý [12].
Ngày 10/06/2011, Bộ Y tế đã ban hành thông tư 23/2011/TT-BYT
về hướng dẫn sử dụng thuốc trong các cơ sở y tế có giường bệnh. Trong đó
quy định rõ:

- Chỉ định dùng thuốc phải ghi đầy đủ, rõ ràng vào đơn thuốc, hồ sơ
bệnh án, không viết tắt tên thuốc, không ghi kí hiệu. Trường hợp sửa chữa
bất kì nội dung nào phải kí xác nhận bên cạnh.
- Nội dung chỉ định thuốc bao gồm: tên thuốc, nồng độ (hàm lượng),
liều dùng 1 lần, số lần dùng thuốc trong 24h, khoảng cách giữa các lần
dùng thuốc , thời điểm dùng thuốc, đường dùng thuốc và những chú ý đặt
biệt khi dùng thuốc.

14


- Ghi chỉ định thuốc theo trình tự : đường tiêm, uống, đặt, dùng
ngoài và các đường dùng khác. Một số nhóm thuốc cần thận trọng khi sử
dụng dụng thì phải đánh số thứ tự ngày dùng thuốc, bao gồm: thuốc phóng
xạ; thuốc gây nghiện; thuốc hướng tâm thần; thuốc kháng sinh; thuốc điều
trị lao và thuốc corticoid.
Thầy thuốc cần căn cứ vào tình trạng người bệnh, mức độ bệnh lí,
đường dùng của thuốc để ra y lệnh đường dùng thuốc thích hợp, chỉ dùng
đường tiêm khi người bệnh không uống được thuốc hoặc khi sử dụng thuốc
theo đường uống không đáp ứng được yêu cầu điều trị hoặc với thuốc chỉ
dùng đường tiêm.
Thầy thuốc phải thông báo tác dụng không mong muốn của thuốc
cho điều dưỡng chăm sóc theo dõi và người bệnh (hoặc cho gia đình người
bệnh) đồng thời theo dõi đáp ứng của người bệnh khi dùng thuốc, xử lý
kịp thời các tai biến do dùng thuốc và báo cáo phản ứng có hại của thuốc
cho khoa dược ngay khi xảy ra [15].
Để khắc phục tình trạng chỉ định rộng rãi 5 loại thuốc: glutathione,
tiêm, ginkgo biloba uống; glucosamine uống; arginin uống và L-Ornithin –
L- Aspatat tiêm, uống với tỷ lệ chi phí lớn tại nhiều cơ sở khám chữa bệnh
trong thanh toán BHYT, ngày 27/2/2012 BHXH Việt Nam đã có công văn

số 2503/BHXH-DVT yêu cầu không thanh toán theo chế độ BHYT khi sử
dụng các thuốc nêu trên như thuốc bổ thông thường, chỉ thanh toán khi
thuốc được sử dụng phù hợp với công văn hướng dẫn có liên quan của cục
Quản lý Dược các chỉ định của thuốc đã dược phê duyệt và tình trạng bệnh
nhân. Đối với các trường hợp bệnh có nhiều lựa chọn thuốc, cơ sở khám
chữa bệnh chọn thuốc hợp lý, tránh sử dụng các thuốc có giá thành cao, chi
phí điều trị lớn không cần thiết để đảm bảo hiệu quả sử dụng thuốc, phù
hợp với khả năng chi trả của quỹ BHYT[1].
15


Gần đây nhất, ngày 08/08/2013, Bộ Y tế đã ban hành công tư
21/2013/TT/BYT quy định về tổ chức và hoạt động của Hội đồng thuốc và
điều trị trong bệnh viện (thay thế cho công tư 08 cũ kể từ ngày
22/09/2013). Thông tư đã quy định rõ một trong các nhiệm vụ của
HĐT&ĐT là xác định và phân tích các vấn đề liên quan đến sử dụng thuốc.
Trong đó, cần xác định các vấn đề liên quan đến thuốc trong suốt quá trình
từ khi tồn kho, bảo quản đến kê đơn, cấp phát và sử dụng. Đồng thời, cần
áo dụng một trong các phương pháp phân tích ABC, phân tích nhóm điều
trị, phân tích VEN, phân tích theo liều xác định trong ngày-DDD, giám sát
các chỉ số sử dụng thuốc theo hướng dẫn của Bộ Y tế để phân tích việc sử
dụng thuốc tại đơn vị. Từ đó, HĐT&ĐT cần xác định vấn đề, nguyên nhân
liên quan đến sử dụng thuốc và lựa chọn các giải pháp can thiệp phù
hợp[13].
1.3. Một số phương pháp phân tích dữ liệu về sử dụng thuốc
1.3.1. Phương pháp phân tích ABC
Phân tích ABC là phương pháp phân tích tương quan giữa lượng
thuốc tiêu thụ hàng năm và chi phí nhằm phân định ra những thuốc nào
chiếm tỷ lệ lớn trong ngân sách. Phân tích ABC có thể:
- Cho thấy những thuốc được sử dụng thay thế với lượng lớn mà có chi phí

thấp trong danh mục hoặc có sẵn trên thị trường để nhằm: lựa chọn những
thuốc có chi phí thấp hơn, tìm ra những liệu pháp điều trị thay thế, thương
lượng với nhà cung cấp để mua được những thuốc với giá thấp hơn.
- Lượng giá mức độ tiêu thụ thuốc, phản ánh nhu cầu chăm sóc sức khỏe
của cộng đồng và từ đó phát hiện ra những bất hợp lý trong sử dụng thuốc,
bằng cách so sánh lượng thuốc tiêu thụ với mô hình bệnh tật.

16


- Xác định phương thức mua các thuốc không có danh mục thuốc thiết yếu
của bệnh viện.
Phân tích ABC có thể ứng dụng các số liệu tiêu thụ thuốc cho chu kỳ
trên 1 năm hoặc ngắn hơn. Sau khi hoàn thành phân tích ABC, Các thuốc
đặc biệt là trong nhóm A cần phải được đánh giá lại và xem xét việc sử
dụng những thuốc không có trong danh mục và thuốc đắt tiền, trên cơ sở đó
lựa chọn những phác đồ điều trị có hiệu lực tương đương nhưng có giá
thành rẻ hơn. Như vậy ưu điểm chính của phân trích ABC giúp xác định
xem phần lớn ngân sách được chi trả cho những nhóm thuốc nào[34].
1.3.2. Phương pháp phân tích nhóm điều trị
Dựa trên phân tích ABC, phân tích nhóm điều trị giúp:
- Xác định những nhóm điều trị có mức tiêu thụ cao nhất và chi phí nhiều
nhất.
- Trên cơ sở thông tin về tình hình bệnh tật, xác định những vấn đề sử dụng
thuốc bất hợp lý.
- Xác định những thuốc đã bị lạm dụng hoặc những thuốc mà mức tiêu thụ
không mang tính đại diện cho những ca bệnh cụ thể.
- Hội đồng thuốc lựa chọn những thuốc có chi phí hiệu quả cao nhất trong
các nhóm điều trị và lựa chọn trong liệu pháp điều trị thay thế.
Từ đó tiến hành phân tích cụ thể hơn cho mỗi nhóm điều trị chi phí cao để

xác định những thuốc đắt tiền và liệu pháp điều trị thay thế có chi phí hiệu
quả cao[34].

17


1.3.3. Phương pháp phân tích VEN
Phân tích VEN là phương pháp giúp xác định ưu tiên cho hoạt động
mua sắm và tồn trữ thuốc trong bệnh viện khi nguồn kinh phí không đủ để
mua toàn bộ các loại thuốc như mong muốn, Trong phân tích VEN, các
thuốc được chia thành 3 hạng mục cụ thể sau:
- Thuốc V (Vital drugs) – là thuốc dùng trong các trường hợp cấp cứu hoặc
các thuốc quan trọng, nhất thiết phải có để phục vụ công tác khám chữa
bệnh của bệnh viện.
- Thuốc E (Essential drugs) – là thuốc dùng trong các trường hợp ít nghiêm
trọng hơn nhưng vẫn là các bệnh lý quan trọng trong mô hình bệnh tật của
bệnh viện.
- Thuốc N (Non - Essential drugs) – là thuốc dùng trong các trường hợp
bệnh nhẹ, bệnh có thể tự khỏi, có thể bao gồm các thuốc mà hiệu quả điều
trị còn chưa được khẳng định rõ ràng hoặc giá thành cao không tương xứng
với lợi ích lâm sàng của thuốc[13].
Phân tích VEN cho phép so sánh những thuốc có hiệu lực điều trị và
khả năng sử dụng khác nhau[34].
1.3.4. Một số chỉ số sử dụng thuốc WHO/INRUD cho các cơ sở khám
chữa bệnh
Các chỉ số sử dụng thuốc của WHO/INRUD được dùng để đánh giá
khuynh hướng hành vi của các nhà cung cấp dịch vụ y tế tại cơ sở chăm sóc
sức khỏe ban đầu một cách đáng tin cậy. Các chỉ số này cung cấp cho các
nhà quản lý y tế thông tin về sử dụng thuốc, thói quen kê đơn và các khía
cạnh quan trọng khác của việc chăm sóc người bệnh[34].


18


* Các chỉ số kê đơn
- Số thuốc kê trung bình trong một đơn;
- Tỷ lệ phần trăm thuốc được kê tên generic hoặc tên chung quốc tế (INN);
- Tỷ lệ phần trăm đơn kê có thuốc tiêm;
- Tỷ lệ phần trăm đơn kê vitamin…[13],[34].
* Các chỉ số chăm sóc người bệnh
- Thời gian phát thuốc trung bình;
- Tỷ lệ phần trăm thuốc được cấp phát trên thực tế;
- Hiểu biết của người bệnh về liều lượng…[13],[34].
* Các chỉ số sử dụng thuốc toàn diện
- Chi phí thuốc trung bình của mỗi đơn;
- Tỷ lệ phần trăm chi phí thuốc dành cho vitamin;
- Tỷ lệ người bệnh hài lòng với dịch vụ chăm sóc sức khỏe…[13],[34].
1.4. Vài nét về bệnh viện Mắt Thanh Hóa
1.4.1. Chức năng , nhiệm vụ của bệnh viện
Năm 2005 Viện Mắt được thành lập với qui mô 70 giường bệnh, chỉ
có vài bác sỹ, được trang bị thô sơ, khám và điều trị các bệnh mắt thông
thường. Mặc dù cơ sở vật chất, trang thiết bị, thuốc men, vật tư thiếu thốn,
cán bộ nhãn khoa còn nghèo nàn, Bệnh viện Mắt Thanh Hoá đã cùng với
toàn ngành Mắt tiếp tục củng cố và xây dựng hệ thống phòng chống mù loà
trên toàn tỉnh, xây dựng mạng lưới chuyên khoa mắt, đào tạo cán bộ, điều
tra nghiên cứu tình hình các bệnh về mắt, phòng chống dịch bệnh, thực
hiện các phong trào vệ sinh phòng bệnh. Tập trung vào giải quyết các vấn
19



đề bức xúc trong lĩnh vực bệnh mắt, khám chữa bệnh mắt cho nhân dân, tập
trung nghiên cứu khoa học, tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế ... khắc phục
những khó khăn.
Dưới sự quan tâm lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Bộ Y tế, Bệnh viện
Mắt TW, Sở Y tế Thanh Hoá, Bệnh viện Mắt Thanh Hoá đã không ngừng
lớn mạnh, hiện nay, Bệnh viện Mắt Thanh hóa là bệnh viện hạng II trực
thuộc Sở Y tế Thanh Hóa
Với vị trí là một đơn vị đầu ngành Nhãn khoa của tỉnh, Bệnh viện
Mắt Thanh Hóa đảm nhiệm 7 chức năng, nhiệm vụ gồm:
- Điều trị các bệnh về mắt,
- Đào tạo cán bộ cho tỉnh,
- Nghiên cứu khoa học,
- Chỉ đạo ngành mắt tỉnh,
- Hợp tác trong nước và Quốc Tế về lĩnh vực nhãn khoa,
- Thông tin tuyên truyền cho cán bộ và nhân dân,
- Làm công tác kinh tế trong y tế.
Mô hình tổ chức bệnh viện:

20


Hình 1.1. Sơ đồ tổ chức bệnh viện Mắt Thanh Hóa
1.4.2.Vị trí, chức năng, nhiệm vụ của khoa Dược Bệnh viện Mắt Thanh
Hóa
 Vị Trí
Khoa Dược bệnh viện là một khoa trực thuộc Ban Giám đốc bệnh viện.
Khoa dược là tổ chức cao nhất đảm nhận mọi công tác về dược không chỉ
có tính chất thuần túy của một chuyên khoa mà còn thêm tính chất của một
bộ phận quản lý nhằm góp phần nâng cao hiệu quả và đảm bảo an toàn
trong khám chữa bệnh, nhất là trong xây dựng danh mục thuốc và sử dụng

thuốc.
 Chức năng nhiệm vụ khoa dược Bệnh viện Mắt Thanh Hóa
21


×