Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

Ứng dụng kết quả nghiên cứu trong đánh giá năng lực cạnhtranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 100 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, nhiều chuyên gia cho rằng một trong những ngành có sức cạnh
tranh tốt ở Việt Nam là khu vực ngân hàng. Do vậy, các doanh nghiệp trong khu
vực này cần phải xác định được nguồn gốc lợi thế cạnh tranh của mình và từ đó
cải thiện vị thế cạnh tranh bằng cách gia tăng những nguồn lực này. Trong thời
gian gần đây, hội nhập kinh tế quốc tế cùng với việc sử dụng công nghệ mới để
cung cấp dịch vụ đã mang lại những thay đổi và phát triển trong khu vực ngân
hàng ở Việt Nam. Tăng trưởng là mục tiêu chính của các ngân hàng sẽ mang lại
sức mạnh cạnh tranh của hệ thống này (Divandari et al , 2008).
Việc Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế đã càng làm tăng tầm quan trọng của
việc đạt được những tiêu chuẩn cao trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ ngân hàng vì
các NHTMVN không những phải hoạt động trong môi trường cạnh tranh với các
ngân hàng nội địa mà còn phải cạnh tranh với các tổ chức tài chính nước ngoài vừa
có tiềm lực kinh tế dồi dào vừa có nhiều kinh nghiệm hoạt động cạnh tranh.
Mặc dù còn có những hạn chế, nhưng những thay đổi trong chính sách của
Ngân hàng Nhà nước và Chính phủ - bao gồm việc cho phép thành lập các ngân
hàng tư nhân và nước ngoài và việc chuyển đổi một lượng lớn các ngân hàng nhà
nước thành các ngân hàng cổ phần trong giai đoạn vừa qua đã cho thấy sự thay
đổi trong hệ thống ngân hàng.Từ những đặc điểm này, chúng ta có thể nói rằng
mức độ cạnh tranh gia tăng trong hệ thống ngân hàng ở Việt Nam đã buộc các
ngân hàng phải tăng cường hoặc ít nhất là duy trì thị phần của mình. Trong bối
cảnh đó, các ngân hàng có thể đảm bảo sự thành công thông qua việc chú trọng
vào lợi thế cạnh tranh của mình và củng cố chúng hơn nữa. Vì vậy, việc xác định
được nhân tố ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của các ngân hàng thương mại
và xây dựng một mô hình điểm số để đánh giá xếp hạng năng lực cạnh tranh
tổng hợp từ đó giúp cho các ngân hàng thương mại nói riêng và cơ quan quản lý
thanh tra, giám sát ngân hàng của nhà nước nói chung đánh giá được sức khỏe

NCS K5- Nguyễn Thị Hoài Thu

1




cạnh tranh của ngân hàng trong sự kết hợp đánh giá của cả yếu tố định tính và
định lượng một cách nhanh chóng và chính xác là vô cùng cần thiết để giúp cho
họ có những quyết sách phù hợp cho sự phát triển và bảo vệ an toàn của hệ thống
tài chính trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
2. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu: Phương pháp luận về mô hình đánh giá năng lực
cạnh tranh của các NHTM.
2.2. Phạm vi nghiên cứu: 40 ngân hàng thương mại Việt Nam (Không
nghiên cứu về NHNNg và NHLD)
3. CÁCH TIẾP CẬN, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Cách tiếp cận
- Tác giả sử dụng phương pháp phân tích nhân tố để đánh giá và phân tích
sự cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam từ đó xác định tầm quan
trọng của mỗi nhân tố ảnh hưởng tới sức cạnh tranh của các NHTM..
3.2. Phương pháp nghiên cứu
- Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, kết hợp với phương pháp thống
kê, so sánh, phân tích, tổng hợp…nhằm làm rõ các vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp thu thập số liệu: Trong nghiên cứu này sử dụng phương
pháp nghiên cứu thư viện, sử dụng số liệu thứ cấp như báo cáo thường niên, bản
công bố thông tin từ cơ quan thống kê, tạp chí, báo cáo của Ngân hàng nhà
nước…và phương pháp chuyên gia để thu thập ý kiến đóng góp cho vấn đề
nghiên cứu của đề tài.
- Phương pháp định lượng: sử dụng phần mềm SPSS và AMOS để thực
hiện các phân tích thống kê cao cấp như phân tích nhân tố, hồi quy, ANOVA,
kiểm định mô hình năng lực cạnh tranh dựa trên bộ dữ liệu thu nhập từ các
NHTMVN.

NCS K5- Nguyễn Thị Hoài Thu


2


4. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU:
Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh
của ngân hàng thương mại
Xây dựng một mô hình để phân tích và đánh giá năng lực cạnh tranh của
các NHTM dựa trên những nhân tố tác động
Xem xét sự khác biệt về mức độ cạnh tranh của các ngân hàng thương mại
theo từng đặc điểm của ngân hàng
Nhận diện và đo lường những yếu tố tác động đến năng lực cạnh tranh của
các ngân hàng thương mại
Đề ra các giải pháp cụ thể để nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM
5. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Phần mở đầu
Chương 1. Tổng quan về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của ngân
hàng thương mại
Chương 2. Phương pháp luận xây dựng mô hình đánh giá năng lực
cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam
Chương 3. Ứng dụng kết quả nghiên cứu trong đánh giá năng lực cạnh
tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam
Kết luận

NCS K5- Nguyễn Thị Hoài Thu

3


CHƯƠNG I


TỔNG QUAN VỀ CẠNH TRANH VÀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Cơ sở lý luận về cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh của NHTM
1.1.1. Khái niệm và đặc trưng về cạnh tranh của NHTM.
Cạnh tranh của NHTM là khả năng tạo ra và sử dụng có hiệu quả các lợi thế
so sánh, để giành thắng lợi trong quá trình cạnh tranh với các NHTM khác, là nỗ
lực hoạt động đồng bộ của ngân hàng trong một lĩnh vực khi cung ứng cho
khách hàng những sản phẩm dịch vụ có chất lượng cao, chi phí rẻ nhằm khẳng
định vị trí của ngân hàng vượt lên khỏi các ngân hàng khác trong cùng lĩnh vực
hoạt động ấy.
Môi trường hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại (NHTM)
có sự cạnh tranh ngày càng gay gắt. Do xuất phát từ những đặc thù của hoạt
động kinh doanh ngân hàng và những ảnh hưởng của hoạt động ngân hàng đối
với nền kinh tế, cạnh tranh của NHTM có những đặc trưng riêng.
- Đặc thù của môi trường cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng là các đối thủ
cạnh tranh có số lượng giới hạn và sự gia tăng hay giảm bớt số lượng này là rất
khó khăn và hạn chế, do việc cho phép một tổ chức được tham gia hoặc rút lui
khỏi thị trường dịch vụ ngân hàng đòi hỏi phải tuân thủ một quy trình kiểm soát
chặt chẽ với những điều kiện ngặt nghèo từ phía nhà nước, nhằm tránh cho nền
kinh tế và công chúng khỏi những tổn thất lớn do hoạt động yếu kém, không rõ
ràng, minh bạch của các tổ chức này mang lại và làm cho thị trường trở nên an
toàn, lành mạnh hơn.
- Trong cạnh tranh các NHTM phải tuân theo các nguyên tắc, luật lệ thế
giới: Quá trình hội nhập đưa các hoạt động kinh tế thế giới theo một quỹ đạo
chung trên cơ sở các cam kết, hiệp định thương mại. Lĩnh vực ngân hàng rất
nhạy cảm đối với nền kinh tế của một quốc gia, phạm vi hoạt động và ảnh hưởng

NCS K5- Nguyễn Thị Hoài Thu


4


rộng trong khu vực và thế giới, nên các NHTM muốn hoạt động lành mạnh và
phát triển bền vững phải ký kết và tuân thủ những nguyên tắc này.
- Công nghệ là nhân tố trung tâm của cuộc cạnh tranh giữa các NHTM: Sự
cạnh tranh trước hết phải dựa trên nền tảng kỹ thuật công nghệ đáp ứng được yêu
cầu của hoạt động kinh doanh tối thiểu; bởi vì, một NHTM mở ra một loại hình
dịch vụ cung ứng cho khách hàng là đã phải chấp nhận cạnh tranh với các
NHTM khác đang hoạt động trong cùng lĩnh vực, tuy nhiên, muốn lĩnh vực dịch
vụ này được thực hiện thì đòi hỏi phải đáp ứng tối thiểu về điều kiện hạ tầng cơ
sở tài chính mà thiếu nó thì không thể hoạt động được. Như vậy, cạnh tranh giữa
các NHTM đòi hỏi và chịu sự chi phối mạnh mẽ của điều kiện hạ tầng cơ sở tài
chính, trong đó công nghệ thông tin đóng vai trò quan trọng, có tính quyết định
đối với hoạt động kinh doanh của các ngân hàng. Công nghệ đang làm thay đổi
hàng ngày phương thức hoạt động, mang lại nhiều cơ hội phát triển cho các
NHTM. Các NHTM phải thấy được hai khả năng công nghệ có thể là nhân tố
giúp ngân hàng sử dụng tạo lợi thế cạnh tranh riêng, mặt khác có thể giúp các
đối thủ vuợt trước, dẫn đến nguy cơ tụt hậu cho ngân hàng mình, để có chiến
lược phát triển cho mình. Rõ ràng là, sự cạnh tranh của các NHTM loại hình
cạnh tranh bậc cao, đòi hỏi những chuẩn mực khắt khe hơn bất cứ loại hình kinh
doanh nào khác.
- Các NHTM cạnh tranh nhau gay gắt nhưng có sự hợp tác với nhau: Sự dễ
thay đổi của khách hàng trong quan hệ giao dịch và đặc điểm dịch vụ ngân hàng
có tính tương đồng, tính xã hội hóa và tính nhạy cảm cao là nguyên nhân làm
cho cạnh tranh giữa các NHTM trở lên quyết liệt. Mặt khác thị trường dịch vụ
ngân hàng rất đặc biệt, không ngân hàng nào có thể hoạt động bình thường nếu
không có sự liên kết bình đẳng và minh bạch với các đối thủ. Các điều kiện về
vốn, mạng lưới, công nghệ của các ngân hàng đều có hạn trong khi nhu cầu về
dịch vụ ngân hàng ngày càng cao đòi hỏi các NHTM phải liên kết với nhau trong

quá trình tác nghiệp. Đây là sự liên kết tự nhiên, có tính quy luật và có thể dự

NCS K5- Nguyễn Thị Hoài Thu

5


báo trước. Trong điều kiện hội nhập sự hợp tác giữa các NHTM sẽ càng được
mở rộng cả về quy mô và chất lượng.
- Cạnh tranh giữa các NHTM phải hướng tới thị trường lành mạnh, tránh rủi
ro hệ thống: Hoạt động kinh doanh của các NHTM có liên quan đến tất cả các tổ
chức kinh tế, chính trị – xã hội, đến từng cá nhân thông qua các hoạt động huy
động tiền gửi tiết kiệm, cho vay cũng như các loại hình dịch vụ tài chính khác;
đồng thời, trong hoạt động kinh doanh của mình, các NHTM cũng đều mở tài
khoản cho nhau để cùng phục vụ các đối tượng khách hàng chung. Như vậy,
hành vi cạnh tranh của các NHTM có tính nguy hiểm cao vì uy tín và lợi ích,
hoạt động của mỗi ngân hàng có ảnh hưởng mang tính dây truyền đến hệ thống
các quyền lợi khác nhau trong xã hội: người gửi tiền, người vay tiền, các ngân
hàng, tổ chức tín dụng khác. Chính vì vậy, nếu như một NHTM bị khó khăn
trong kinh doanh, có nguy cơ đổ vỡ, thì tất yếu sẽ tác động dây chuyền đến gần
như tất cả các NHTM khác, không những thế, các tổ chức tài chính phi ngân
hàng cũng sẽ bị “vạ lây”. Chính vì vậy, các NHTM trong kinh doanh luôn vừa
phải cạnh tranh lẫn nhau để dành giật thị phần, nhưng luôn phải hợp tác với
nhau, nhằm hướng tới một môi trường lành mạnh vì mục tiêu tạo an toàn hoạt
động cho toàn hệ thống.
- Cạnh tranh giữa các NHTM phụ thuộc nhiều vào môi trường bên ngoài:
Kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ là lĩnh vực kinh doanh rất nhạy cảm, chịu tác
động bởi rất nhiều nhân tố về kinh tế, chính trị, xã hội, tâm lý, truyền thống văn
hoá… mỗi một nhân tố này có sự thay đổi dù là nhỏ nhất cũng đều tác động rất
nhanh chóng và mạnh mẽ đến môi trường kinh doanh chung. Chẳng hạn: Chỉ cần

một tin đồn thổi dù là thất thiệt cũng có thể gây nên cơn chấn động rất lớn, thậm
chí đe dọa sự tồn vong của cả hệ thống các tổ chức tín dụng. Một NHTM hoạt
động yếu kém, khả năng thanh khoản thấp cũng có thể trở thành gánh nặng cho
nhiều tổ chức kinh tế và dân chúng trên địa bàn… Chính vì vậy, trong kinh
doanh, các NHTM vừa phải cạnh tranh để từng bước mở rộng KH, mở rộng thị

NCS K5- Nguyễn Thị Hoài Thu

6


phần, nhưng cũng không thể cạnh tranh bằng mọi giá, sử dụng mọi thủ đoạn, bất
chấp pháp luật để thôn tính đối thủ của mình, bởi vì, nếu đối thủ là các NHTM
khác bị suy yếu dẫn đến sụp đổ, thì những hậu quả đem lại thường là rất to lớn,
thậm chí dẫn đến đổ vỡ luôn chính NHTM này do tác động dây chuyền.
- Các NHTM cạnh tranh trên cơ sở có sự can thiệp của ngân hàng Trung
ương: Do hoạt động của các NHTM có liên quan đến tất cả các chủ thể, đến mọi
mặt hoạt động kinh tế – xã hội, cho nên, để tránh sự hoạt động của các NHTM
mạo hiểm nguy cơ đổ vỡ hệ thống, tất cả Ngân hàng Trung ương (NHTW) các
nước đều có sự giám sát chặt chẽ thị trường này và đưa ra hệ thống cảnh báo
sớm để phòng ngừa rủi ro. Thực tiễn đã chỉ ra những bài học đắt giá, khi mà
NHTW thờ ơ trước những diễn biến bất lợi của thị trường đã dẫn đến hậu quả là
sự đổ vỡ của thị trường tài chính – tiền tệ làm suy sụp toàn bộ nền kinh tế quốc
dân. Trong thị trường dịch vụ ngân hàng, mặc dù Nhà nước khuyến khích sự
cạnh tranh nhưng vì mục tiêu giữ ổn định nền kinh tế và bảo vệ quyền lợi của
công chúng, Nhà nước có thể can thiệp vào quá trình cạnh tranh bằng việc thực
thi những chính sách đặc thù như chính sách tiền tệ hay chính sách kiểm soát đặc
biệt. Sự can thiệp này có thể khiến cho giới hạn cạnh tranh giữa các đối thủ trên
thị trường dịch vụ ngân hàng có phần bị thu hẹp, ảnh hưởng đến sự vận hành
bình thường của quy luật cạnh tranh.

- Cạnh tranh giữa các NHTM chịu sự tác động của thị trường tài chính quốc
tế: Hoạt động của các NHTM liên quan đến lưu chuyển tiền tệ, không chỉ trong
phạm vi một nước, mà có liên quan đến nhiều nước để hỗ trợ cho các hoạt động
kinh tế đối ngoại; do vậy, kinh doanh trong hệ thống NHTM chịu sự chi phối của
nhiều yếu tố trong nước và quốc tế, như: Môi trường pháp luật, tập quán kinh
doanh của các nước, các thông lệ quốc tế… Điều đó cũng có nghĩa là, sự cạnh
tranh trong hệ thống các NHTM trước hết phải chịu sự điều chỉnh bởi rất nhiều
thông lệ, tập quán kinh doanh tiền tệ của các nước... Như vậy, sự mở rộng quan
hệ hợp tác và phạm vi hoạt động của các chủ thể kinh tế nói chung và các

NCS K5- Nguyễn Thị Hoài Thu

7


NHTM nói riêng ra thị trường quốc tế làm cho hoạt động kinh doanh của các
NHTM chịu sự ảnh hưởng từ phía đối tác, đồng thời gắn chặt với các diễn biến
về tỷ giá, lãi suất...của thị trường tài chính quốc tế. Các NHTM phải có các chính
kinh doanh và cạnh tranh thích ứng với những diễn biến của thị trường tài chính
quốc tế.
1.1.2. Các nhân tố tác động đến mức độ cạnh tranh của các NHTM.
1.1.2.1.Các nhân tố thuộc môi trường ngành
Các NHTM mới tham gia thị trường: Các NHTM mới tham gia thị trường
với những lợi thế quan trọng như: i/ Mở ra những tiềm năng mới, ii/ Có động
cơ và ước vọng giành được thị phần, iii/ Đã tham khảo kinh nghiệm từ những
NHTM đang hoạt động; iv/ Có được những thống kê đầy đủ và dự báo về thị
trường…Như vậy, bất kể thực lực của NHTM mới là thế nào, thì các NHTM
hiện tại đã thấy một mối đe dọa về khả năng thị phần bị chia sẻ; ngoài ra,
các NHTM mới có những kế sách và sức mạnh mà các NHTM hiện tại chưa thể
có thông tin và chiến lược ứng phó.

Các NHTM hiện tại: Đây là những mối lo thường trực của các NHTM
trong kinh doanh. Đối thủ cạnh tranh ảnh hưởng đến chiến lược hoạt động
kinh doanh của NHTM trong tương lai. Ngoài ra, sự có mặt của các đối thủ
cạnh tranh thúc đẩy ngân hàng phải thường xuyên quan tâm đổi mới công nghệ,
nâng cao chất lượng các dịch vụ cung ứng để chiến thắng trong cạnh tranh.
Sức ép từ phía khách hàng: trong những đặc điểm quan trọng của ngành
ngân hàng là tất cả các cá nhân, tổ chức kinh doanh sản xuất hay tiêu dùng, thậm
chí là các ngân hàng khác cũng đều có thể vừa là người mua các sản phẩm dịch
vụ ngân hàng, vừa là người bán sản phẩm dịch vụ cho ngân hàng. Những người
bán sản phẩm thông qua các hình thức gửi tiền, lập tài khoản giao dịch hay cho
vay đều có mong muốn là nhận được một lãi suất cao hơn; trong khi đó những
người mua sản phẩm (vay vốn) lại muốn mình chỉ phải trả một chi phí vay vốn
nhỏ hơn thực tế. Như vậy, ngân hàng sẽ phải đối mặt với sự mâu thuẫn giữa hoạt

NCS K5- Nguyễn Thị Hoài Thu

8


động tạo lợi nhuận có hiệu quả và giữ chân được khách hàng cũng như có
được nguồn vốn thu hút rẻ nhất có thể.
Sự xuất hiện các dịch vụ mới: Sự ra đời ồ ạt của các tổ chức tài chính trung
gian đe dọa lợi thế của các NHTM khi cung cấp các dịch vụ tài chính mới
cũng như các dịch vụ truyền thống vốn vẫn do các NHTM đảm nhiệm. Các
trung gian này cung cấp cho khách hàng những sản phẩm mang tính khác biệt và
tạo cho người mua sản phẩm có cơ hội chọn lựa đa dạng hơn, thị trường ngân
hàng mở rộng hơn. Điều này tất yếu sẽ tác động làm giảm đi tốc độ phát triển
của các NHTM, suy giảm thị phần. Ngày nay, người ta cho rằng, khi các
NHTM mạnh lên nhờ sự rèn luyện trong cạnh tranh, thì hệ thống NHTM sẽ
mạnh hơn và có sức đàn hồi tốt hơn sau các cú sốc của nền kinh tế.

1.1.2.2.Các nhân tố thuộc môi trường bên trong ngân hàng
Bên cạnh các nhân tố khách quan tác động đến năng lực cạnh tranh của
các NHTM, trên thực tế, nhóm các nhân tố thuộc về nội tại của hệ thống
NHTM cũng ảnh hưởng rất lớn đến năng lực cạnh tranh của các ngân hàng này,
chúng bao gồm:
- Năng lực điều hành của ban lãnh đạo ngân hàng
- Quy mô vốn và tình hình tài chính của NHTM
- Công nghệ cung ứng dịch vụ ngân hàng
- Chất lượng nguồn nhân lực
- Cấu trúc tổ chức
- Danh tiếng và uy tín của NHTM
- Bên cạnh đó, đặc điểm sản phẩm và đặc điểm khách hàng của NHTM
cũng là nhân tố chi phối đến khả năng cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh
của NHTM. Cụ thể:
+ Đặc điểm sản phẩm: Cạnh tranh trong kinh doanh của NHTM bị chi
phối bởi các đặc điểm hoạt động kinh doanh của nó. Sản phẩm chính sử dụng
trong hoạt động kinh doanh của NHTM là tiền, đó là loại sản phẩm có tính xã
hội và có tính nhạy cảm cao, chỉ một biến động nhỏ (thay đổi lãi suất) cũng có

NCS K5- Nguyễn Thị Hoài Thu

9


ảnh hưởng to lớn đến hoạt động kinh doanh của các NHTM nói riêng và hoạt
động của toàn xã hội nói chung. Từ đặc điểm này dẫn đến cạnh tranh giữa các
NHTM ngày càng trở nên quyết liệt. Có nghĩa là, chính vì sản phẩm kinh doanh
có tính nhạy cảm cao đã làm tăng tính cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh
của NHTM.
+ Đặc điểm khách hàng: Khách hàng của NHTM không phải là khách

hàng luôn “trung thành” mà rất dễ bị lôi kéo và thay đổi quan hệ giao dịch.
Mức độ trung thành của khách hàng phụ thuộc vào sự đối xử của NHTM với họ,
mà cao nhất là lợi ích trực tiếp thu được từ quan hệ giao dịch với ngân hàng.
Khách hàng có thể ngay lập tức thay đổi quan hệ với ngân hàng để tìm mối lợi
lớn hơn nếu họ biết rằng mức lãi mà họ nhận được cao (nếu là sản phẩm bán) và
mức lãi suất thấp (nếu là sản phẩm mua) so với ngân hàng họ quan hệ. Vì khách
hàng thường có thể vừa là người mua vừa là người bán của nhiều sản phẩm dịch
vụ cùng một lúc nên khi họ thay đổi quan hệ với ngân hàng có thể dẫn đến sự
mất mát lớn hơn rất nhiều so với khách hàng của một doanh nghiệp thông
thường. Các đặc điểm nêu trên được coi là các nhân tố về phía NHTM tạo nên
tính cạnh tranh cao của kinh doanh ngân hàng.
1.1.3. Các công cụ cạnh tranh trong kinh doanh của các NHTM.
Cạnh tranh bằng giá. Giá cả phản ánh giá trị của sản phẩm, giá cả có vai
trò quan trọng đối với quyết định của khách hàng. Đối với các NHTM, giá cả
chính là lãi suất và mức phí áp dụng cho các dịch vụ cung ứng cho các khách
hàng của mình. Trong việc xác định mức lãi suất và phí, các NHTM luôn phải
đối mặt với những mâu thuẫn: Nếu như NHTM quan tâm tới khả năng cạnh
tranh để mở rộng thị phần, thì cần phải đưa ra các mức lãi suất và phí ưu đãi cho
các khách hàng của mình, tuy nhiên, điều này sẽ làm giảm thu nhập của NHTM,
thậm chí có thể khiến NH bị lỗ. Nhưng nếu NHTM chỉ chú trọng đến thu nhập
thì phải đưa ra mức lãi suất và phí sao cho đáp ứng được mục tiêu tăng thu nhập,
tuy nhiên, điều này có thể dẫn đến NH sẽ bị mất dẫn KH, giảm thị phần trong
kinh doanh, bởi suy cho cùng thì NH luôn quan tâm tới mục tiêu tối thượng là tối

NCS K5- Nguyễn Thị Hoài Thu

10


đa hoá lợi nhuận, mà để đạt được điều đó thì cần phải tiết giảm các chi phí đầu

vào. Điều này có nghĩa là cạnh tranh bằng giá cả đang trở thành một biện pháp
nghèo nàn nhất, vì nó làm giảm bớt lợi nhuận của các NHTM.
Xuất phát từ mâu thuẫn trên, việc định giá theo đúng ngang giá trị thị
trường sẽ cho phép các NHTM giữ được khách hàng, duy trì và phát triển thị
trường. Trên thực tế, việc vận dụng nhân tố giá để cạnh tranh chỉ phù hợp khi
xâm nhập thị trường mới và để vận dụng tốt công cụ này, các NHTM thường
đưa ra mức lãi suất thấp hơn mức lãi suất của các đối thủ nhằm lôi kéo khách
hàng và chiếm lĩnh thị trường. Lãi suất và phí là tín hiệu phản ánh tình hình biến
động của thị trường, là thông số qua đó các NHTM có thể nắm bắt được khả
năng thanh toán của KH cũng như khả năng cạnh tranh của các đối thủ trên
thương trường.
Do vậy, việc xác định lãi suất trên thị trường là quan trọng, song theo dõi
thông tin phản hồi từ khách hàng là rất cần thiết để NHTM đưa ra mức lãi suất
và phí có tính cạnh tranh. Đôi khi lãi suất và phí mà các NHTM xác định chỉ thu
được lợi nhuận nhỏ, hoà vốn thậm chí chịu thua lỗ tạm thời để đạt được mục
đích chiếm lĩnh thị trường.
Cạnh tranh bằng chất lượng dịch vụ. Trong nền kinh tế hiện đại ngày
nay, khi mà khoa học công nghệ phát triển như vũ bão, sản phẩm ra đời ngày
càng phong phú đa dạng, tạo thuận lợi cho sự lựa chọn của người tiêu dùng và
đặt nhà kinh doanh trước các áp lực cạnh tranh ngày càng gay gắt.Vì thế, việc
nâng cao chất lượng sản phẩm hàm ý phải thỏa mãn cao nhất những yêu cầu đòi
hỏi từ phía khách hàng.
Theo quan niệm của khách hàng, một sản phẩm ngân hàng có chất lượng
phải đáp ứng được tốt nhất, nhiều nhất nhu cầu mong muốn của khách hàng,
đem lại cho khách hàng một tập hợp tiện ích và lợi ích. Do vậy, khi đánh giá một
sản phẩm ngân hàng có chất lượng, khách hàng thường dựa vào các tiêu chí sau:
- Mức độ tham gia của khách hàng vào quá trình cung ứng sản phẩm dịch
vụ ít và đơn giản;

NCS K5- Nguyễn Thị Hoài Thu


11


- Tốc độ xử lý nhanh;
- Mức độ chính xác cao;
- Hiệu quả đem lại cho khách hàng lớn;
- Thái độ phục vụ tốt
- Trình độ cộng nghệ hiện đại.
Thực tế, trên thị trường ngày càng có nhiều ngân hàng cung ứng sản phẩm
dịch vụ cho khách hàng. Vì vậy khách hàng có sự so sánh, đánh giá và quyết
định lựa chọn ngân hàng có sản phẩm chất lượng cao. Thậm chí khách hàng thay
đổi quan hệ từ ngân hàng có sản phẩm chất lượng kém sang ngân hàng có sản
phẩm chất lượng tốt.
1.2. Năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại
1.2.1. Quan niệm về năng lực cạnh tranh
Điểm lại lý thuyết cạnh tranh và năng lực cạnh tranh trong lịch sử có thể
thấy hai trường phái tiêu biểu: Trường phái cổ điển và trường phái hiện đại.
Trường phái cổ điển với các đại biểu tiêu biểu như A.Smith, John Stuart Mill,
Darwin và K.Mác đã có những đóng góp nhất định trong lý thuyết cạnh tranh sau
này. Trường phái hiện đại với hệ thống lý thuyết đồ sộ với 3 quan điểm tiếp cận:
Tiếp cận theo tổ chức ngành với đại diện là trường phái Chicago và Harvard;
Tiếp cận tâm lý với đại diện là Meuger, Mises, Chumpeter, Hayek thuộc trường
phái Viên; Tiếp cận “cạnh tranh hoàn hảo” phát triển lý thuyết của Tân cổ điển.
Hiện nay, còn nhiều quan điểm khác nhau về năng lực cạnh tranh trên các
cấp độ: quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm. Và hiện chưa có một lý thuyết nào
hoàn toàn có tính thuyết phục về vấn đề này, do đó không có lý thuyết “chuẩn”
về năng lực cạnh tranh. Tuy nhiên hai hệ thống lý thuyết với hai phương pháp
đánh giá được các quốc gia và các thiết chế kinh tế quốc tế sử dụng nhiều nhất:
Phương pháp thứ nhất do Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) thiết lập trong bản

Báo cáo cạnh tranh toàn cầu; Phương pháp thứ hai do Viện Quốc tế về quản lý
và phát triển (IMD) đề xuất trong cuốn Niên giám cạnh tranh thế giới. Cả hai
phương pháp trên đều do một số Giáo sư đại học Harvard như Michael Porter,

NCS K5- Nguyễn Thị Hoài Thu

12


Jeffrey Shach và một số chuyên gia của WEF như Cornelius, Mache Levison
tham gia xây dựng.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện các cam kết quốc tế
Việt Nam từng bước mở cửa dịch vụ ngân hàng, nhằm hướng đến xây dựng hệ
thống ngân hàng cạnh tranh bình đẳng trên bình diện quốc tế theo khuôn khổ
pháp lý phù hợp và thống nhất. Hơn bao giờ hết sự cạnh tranh trong lĩnh vực
ngân hàng ngày càng trở nên gay gắt, thách thức đối với các NHTMVN càng gia
tăng khi Chính phủ Việt Nam tháo dỡ rào cản đối với các ngân hàng thương mại
nước ngoài (NHTMNNg) và tiến đến xóa bỏ những bảo hộ của Nhà nước đối với
ngân hàng trong nước. Vì vậy đánh giá chính xác năng lực và vị thế cạnh tranh
của NHTMVN trong điều kiện hiện nay là yêu cầu cần thiết.
Năng lực cạnh tranh của NHTM là khả năng ngân hàng đó tạo ra, duy trì và
phát triển những lợi thế nhằm duy trì và mở rộng thị phần; đạt được mức lợi
nhuận cao hơn mức trung bình của ngành và liên tục tăng, đồng thời đảm bảo
hoạt động an toàn và lành mạnh, có khả năng chống đỡ và vượt qua những biến
động bất lợi của môi trường kinh doanh.
Trong cạnh tranh những lợi thế NHTM đang có có thể thay đổi khi các đối
thủ không ngừng nỗ lực đổi mới, cải tiến để giành lợi thế cạnh tranh về phía
mình. Do vậy năng lực cạnh tranh của NHTM là một khái niệm động, bao gồm
cả việc ngân hàng phải liên tục duy trì và phát triển năng lực cạnh tranh.
Nâng cao năng lực cạnh tranh của NHTM là nâng cao sức mạnh và lợi thế

của ngân hàng so với đối thủ cạnh tranh trong việc thoả mãn tốt nhất các đòi hỏi
của khách hàng để thu lợi ngày càng cao.
Nâng cao năng lực cạnh tranh của NHTM nhằm mục đích tạo ra các dịch
vụ ngân hàng đa năng với giá cả cạnh tranh để thu hút khách hàng, chiếm lĩnh thị
trường nhưng vẫn đảm bảo an toàn kinh doanh và đạt tỷ suất lợi nhuận cao. Đây
là việc làm thường xuyên của các NHTM để giành thế chủ động trong cạnh
tranh, được coi là điều kiện sống còn của các ngân hàng trong bối cảnh cạnh
tranh ngày càng gay gắt của ngành ngân hàng hiện nay.

NCS K5- Nguyễn Thị Hoài Thu

13


1.2.2. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM
Hội nhập quốc tế là động lực thúc đẩy cải cách, buộc các ngân hàng trong
nước phải hoạt động theo nguyên tắc thị trường, khắc phục những nhược điểm
còn tồn tại, phát huy những điểm mạnh vốn có trên cơ sở tập trung đầu tư vào tri
thức và công nghệ. Trong quá trình hội nhập và mở cửa thị trường tài chính
trong nước, khuôn khổ pháp lý sẽ hoàn thiện và phù hợp dần với thông lệ quốc
tế, dẫn đến sự hình thành môi trường kinh doanh bình đẳng và từng bước phân
chia lại thị phần giữa các nhóm ngân hàng. Vì vậy, muốn tồn tại và đững vững
trong cạnh tranh thì các NHTM cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh của mình.
Hơn nữa, trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, khi mà các cam kết quốc tế
bắt buộc phải được thực hiện, chúng ta phải chấp nhận mở cửa hơn nữa thị
trường tài chính, dịch vụ ngân hàng và Nhà nước có trách nhiệm tạo một sân
chơi bình đẳng không bảo hộ.Một điều tất yếu, lúc đó các ngân hàng nước ngoài,
các tổ chức tín dụng dưới nhiều hình thức khác nhau sẽ có cơ hội xâm nhập thị
trường trong nước. Và như vậy buộc các NHTM nội địa phải nâng cao năng lực
cạnh tranh để tồn tại và phát triển.

Nền kinh tế của chúng ta với xuất phát điểm thấp lại trong thời gian dài
được quản lý theo cơ chế quản lý hành chính bao cấp, điều này làm giảm khả
năng cạnh tranh, tính năng động của nền kinh tế. Khi đất nước bước vào thời kỳ
hội nhập chúng ta phải đối mặt với những đối thủ cạnh tranh mạnh hơn chúng ta
về tiềm lực tài chính, về kinh nghiệm kinh doanh và rất nhiều những lợi điểm
khác. Để không bị thua ngay trên “sân nhà” buộc chúng ta phải tìm mọi biện
pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình.
Ngoài ra, khủng hoảng kinh tế đã và đang tác động tới mọi lĩnh vực ngành
nghề buộc các định chế tài chính nói chung và các Ngân hàng thương mại nói
riêng phải thay đổi tư duy để vận hành và cung cấp sản phẩm, dịch vụ một cách
hiệu quả hơn. Trong bối cảnh đó, các ngân hàng trong nước đã phải tìm đến sự
trợ giúp của công nghệ thông tin để đổi mới chính mình, tạo điều kiện cho các

NCS K5- Nguyễn Thị Hoài Thu

14


ngân hàng phát triển bền vững hơn nhờ việc đa dạng hóa các dịch vụ, tối đa hóa
lợi ích, xây dựng lợi thế cạnh tranh riêng biệt.
Trong nền kinh tế hàng hoá hiện nay, việc có nhiều nhà cung cấp cùng
cung ứng một loại sản phẩm trên thị trường là điều dễ thấy. Bên cạnh đó nhu cầu
của khách hàng là luôn thay đổi. Do đó đòi hỏi có nhiều sản phẩm được sản xuất
ra để đáp ứng cùng một nhu cầu. Làm thế nào để đánh bại được các đối thủ, thu
hút và giữ chân khách hàng nhằm bán được hàng và kiếm được lợi nhuận. Vì
vậy, nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo một ưu thế nổi trội sovới các đối thủ là
một nhiệm vụ sống còn của các nhà cung cấp.
Sự cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ tài chính đang ngày càng trở lên
quyết liệt khi ngân hàng và các đối thủ cạnh tranh mở rộng danh mục dịch
vụ.Lúc này, ngân hàng không chỉ cạnh tranh với các đối thủ trực tiếp là các

NHTM khác mà còn là các định chế tài chính đang không ngừng phát triển khác
như: hiệp hội tín dụng, các công ty chứng khoán, các công ty tài chính, công ty
bảo hiểm…Áp lực cạnh tranh đóng vai trò như một lực đẩy tạo ra sự phát triển
của ngân hàng.
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và ứng dụng công nghệ trong việc
cung cấp dịch vụ ngân hàng làm cho cạnh tranh của các NHTMVN trở nên
không có giới hạn về không gian và thời gian đã buộc các NHTM phải chú trọng
và củng cố những lợi thế cạnh tranh của mình để duy trì được thị phần
1.2.3. Các tiêu thức đánh giá năng lực cạnh tranh của NHTM
1.2.3.1. Các chỉ tiêu định tính.
 Uy tín và thương hiệu của NHTM. Uy tín và thương hiệu của ngân
hàng là những dấu hiệu (hữu hình và vô hình) đặc biệt để nhận biết một sản
phẩm dịch vụ nào đó được cung cấp bởi một NHTM. Thương hiệu là một loại tài
sản của NHTM, thường được cấu thành từ một cái tên, hay các chữ, các cụm từ,
một logo, một biểu tượng, một hình ảnh hay sự kết hợp của các yếu tố trên. Uy
tín và thương hiệu được thể hiện số năm hoạt động và chất lượng dịch vụ mà
một NHTM cung cấp cho khách hàng. Một ngân hàng thương mại được gọi là có

NCS K5- Nguyễn Thị Hoài Thu

15


thương hiệu khi được nhiều khách hàng thừa nhận và đánh giá cao về chất lượng
dịch vụ.
 Năng lực công nghệ. Trong lĩnh vực ngân hàng, công nghệ đang ngày
càng đóng vai trò như là một trong những nguồn lực tạo ra lợi thế cạnh tranh
quan trọng nhất của mỗi ngân hàng.Công nghệ ngân hàng không chỉ bao gồm
những công nghệ mang tính tác nghiệp như hệ thống thanh toán điện tử, hệ
thống ngân hàng bán lẻ, máy rút tiền tự động ATM…Công nghệ trong lĩnh vực

ngân hàng còn bao gồm hệ thống thông tin quản lý MIS, hệ thống cảnh báo rủi
ro… trong nội bộ ngân hàng. Khả năng nâng cấp và đổi mới công nghệ của các
ngân hàng thương mại cũng là chỉ tiêu phản ánh năng lực công nghệ của một
ngân hàng. Vì với tốc độ phát triển rất nhanh của ngành công nghệ thông tin nói
chung và công nghệ lĩnh vực ngân hàng nói riêng,nếu chỉ tập trung phân tích vào
khả năng công nghệ hiện tại mà không chú ý tới khả năng nâng cấp và thay đổi
trong tương lai thì sẽ rất dễ có những nhận thức sai lầm về năng lực công nghệ
của các ngân hàng. Vì thế, năng lực công nghệ không chỉ thể hiện ở số lượng,
chất lượng công nghệ hiện tại mà còn bao gồm cả khả năng mở (nghĩa là khả
năng đổi mới) của các công nghệ hiện tại về mặt kỹ thuật cũng như kinh tế.
 Nguồn nhân lực.Nguồn nhân lực là nguồn lực không thể thiếu của bất
kỳ doanh nghiệp cũng như ngân hàng nào.Năng lực cạnh tranh của nguồn nhân
lực của một doanh nghiệp nói chung thể hiện ở những yếu tố nhứ: trình độ
chuyên môn đào tạo, trình độ thành thạo nghiệp vụ và kỹ năng tác nghiệp, động
cơ phấn đấu, mức độ cam kết gắn bó với doanh nghiệp.Nhân sự của một ngân
hàng là yếu tố mang tính kết nối các nguồn lực của ngân hàng,đồng thời cũng là
cái gốc của mọi cải tiến hay đổi mới.Trình độ hay kỹ năng của người lao động là
những chỉ tiêu quan trọng thể hiện chất lượng của nguồn nhân lực.Động cơ phấn
đấu và mức độ cam kết gắn bó cũng là những chỉ tiêu quan trọng phản ánh một
ngân hàng có lợi thế cạnh tranh từ nguồn nhân lực của mình hay không.Ngân
hàng là một ngành đòi hỏi người lao động phải có kinh nghiệm và trình độ cao
được tích luỹ theo thời gian. Rõ ràng, nếu một ngân hàng có tốc độ luân chuyển

NCS K5- Nguyễn Thị Hoài Thu

16


nhân viên cao sẽ không phải là một ngân hàng có lợi thế về nguồn nhân lực. Quá
trình tuyển dụng và đào tạo một chuyên viên ngân hàng thường rất tốn kém cả về

thời gian và công sức. Hiệu quả của các chính sách nhân sự, đặc biệt là chính
sách tuyển dụng, cơ chế thù lao là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá khả năng
duy trì một đội ngũ nhân sự chất lượng cao của một ngân hàng.
 Năng lực quản lý và cơ cấu tổ chức.Năng lực quản lý phản ánh năng
lực điều hành của Hội đồng quản trị cũng như Ban giám đốc của một ngân hàng.
Năng lực quản lý được đánh giá dựa trên trình độ học vấn, năng lực điều
hành và lãnh đạo, các chính sách và quy trình quản lý rủi ro, khả năng tuân
thủ pháp luật và các quy định, khả năng lên kế hoạch và đối phó với những
biến động của môi trường và những kết quả từ sự thành công trong quản lý.
Việc đánh giá năng lực quản lý cũng cần xem xét đến những chất lượng của
những hoạt động kinh doanh và tất cả các chính sách cho vay, đầu tư và kinh
doanh, cũng như sự tham gia của Ban giám đốc và các cổ đông. Căn cứ vào
đặc trưng và phạm vi hoạt động của ngân hàng, hoạt động quản lý có thể
xem xét đến một số hoặc tất cả những rủi ro sau: rủi ro tín dụng, rủi ro thị
trường, rủi ro hoạt động, hoặc các giao dịch, danh tiếng, chiến lược, khả năng
tuân thủ, tính pháp lý và thanh khoản của ngân hàng. Ngoài ra, năng lực quản
lý còn thể hiện ở mức độ chi phối và khả năng giám sát của Hội đồng quản trị
đối với Ban giám đốc cũng như việc duy trì và nâng cao năng lực cạnh tranh của
ngân hàng; chính sách tiền lương và thu nhập đối với ban giám đốc, số lượng,
chất lượng và hiệu lực thực hiện của các chiến lược, chính sách và quy trình kinh
doanh cũng như quy trình quản lý rủi ro, kiểm soát nội bộ. Năng lực quản lý
quyết định hiệu quả sử dụng các nguồn lực của ngân hàng. Một Hội đồng quản
trị hay một Ban giám đốc yếu kém, không có khả năng đưa ra những chínhsách,
chiến lược hợp lý, thích ứng với những thay đổi của thị trường… sẽ làm lãng phí
các nguồn lực và làm yếu đi năng lực cạnh tranh của ngân hàng đó. Năng lực
quản lý của Hội đồng quản trị cũng như Ban giám đốc bị chi phối bởi cơ cấu tổ
chức của ngân hàng thương mại.

NCS K5- Nguyễn Thị Hoài Thu


17


Cơ cấu tổ chức là một chỉ tiêu quan trọng phản ánh cơ chế phân bổ các
nguồn lực của một ngân hàng có phù hợp với qui mô trình độ quản lý của ngân
hàng; phủ hợp với đặc trưng cạnh tranh của ngành và yêu cầu của thị trường hay
không.Cơ cấu tổ chức của một ngân hàng thể hiện ở sự phân chia các phòng ban
chức năng,các bộ phận tác nghiệp, các đơn vị trực thuộc… Hiệu quả của cơ chế
quản lý không chỉ phản ánh ở số lượng các phòng ban, sự phân công, phân cấp
giữa các phòng ban mà còn phụ thuộc vào mức độ phối hợp giữa các phòng ban,
các đơn vị trong việc triển khai chiến lược kinh doanh, các hoạt động nghiệp vụ
hàng ngày, khả năng thích nghi và thay đổi của cơ cấu trước những biến động
của ngành hay những biến động trong môi trường vĩ mô…
 Hệ thống kênh phân phối và mức độ đa dạng hóa các dịch vụ cung
cấp. Hệ thống kênh phân phối luôn là một yếu tố quan trọng trong hoạt động của
các ngân hàng thương mại. Hệ thống kênh phân phối của ngân hàng thương mại
được thể hiện ở số lượng các chi nhánh và các đơn vị trực thuộc khác (như sở
giao dịch) và sự phân bổ các chi nhánh theo địa lý lãnh thổ. Việc triển khai các
công nghệ ngân hàng hiện đại đang làm rút ngắn khoảng cách về không gian và
làm giảm tác động của một mạng lưới chi nhánh rộng khắp đối với năng lực
cạnh tranh của một ngân hàng. Tuy nhiên, vai trò của một mạng lưới chi nhánh
rộng lớn vẫn rất có ý nghĩa, đặc biệt là trong điều kiện các dịch vụ truyền thống
của ngân hàng vẫn còn phát triển. Hiệu quả của mạng lưới chi nhánh rộng cũng
là một chỉ tiêu quan trọng, thể hiện thông qua tính hợp lý trong phân bố chi
nhánh ở các vùng, miền cũng như vấn đề quản lý, giám sát hoạt động của các chi
nhánh.Mức độ đa dạng hoá các dịch vụ cung cấp cũng là một chỉ tiêu phản ánh
năng lực cạnh tranh của một ngân hàng. Một ngân hàng có nhiều loại hình
dịchvụ cung cấp phù hợp với nhu cầu thị trường và năng lực quản lý của ngân
hàng sẽ là một ngân hàng có lợi thế cạnh tranh. Sự đa dạng hoá các dịch vụ một
mặt tạo cho ngân hàng phát triển ổn định hơn, mặt khác cho phép ngân hàng phát

huy lợi thế nhờ quy mô.Tất nhiên, sự đa dạng hoá các dịch vụ cần phải được
thực hiện trong tương quan so với các nguồn lực hiện có của ngân hàng. Nếu

NCS K5- Nguyễn Thị Hoài Thu

18


không,việctriển khai quá nhiều dịch vụ có thể khiến ngân hàng kinh doanh
không hiệu quả do dàn trải quá mức các nguồn lực.
1.2.2.2. Các chỉ tiêu định lượng
 Năng lực tài chính: Năng lực tài chính của một NHTM là khả năng tạo
lập nguồn vốn và sử dụng vốn phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh
của ngân hàng. Đây là thước đo sức mạnh của NHTM tại một thời điểm nhất
định, đồng thời phản ánh tiềm năng, triển vọng phát triển trong tương lai của
ngân hàng, gồm các chỉ tiêu sau:
* Quy mô vốn chủ sở hữu: Vốn chủ sở hữu của NHTM bao gồm vốn điều
lệ, các quỹ dự trữ bổ sung và các tài sản khác. Quy mô vốn chủ sở hữu có thể
thay đổi trong quá trình hoạt động của NHTM.
Hoạt động ngân hàng gặp rất nhiều rủi ro do chịu tác động lớn từ môi
trường kinh tế và đối tượng khách hàng đa dạng, vốn chủ sở hữu là nguồn tài
chính quan trọng hàng đầu để chống đỡ các rủi ro. Đây là nguồn vốn quan trọng
dùng để đánh giá năng lực tài chính của ngân hàng vì nó cung cấp tài chính cho
các hoạt động kinh doanh của NHTM, quyết định sức mạnh và khả năng cạnh
tranh của ngân hàng trong tất cả các hoạt động.
- Đối với hoạt động huy động vốn: vốn tự có lớn tạo niềm tin cho khách
hàng do có chức năng bảo vệ người gửi tiền nên được khách hàng lấy làm căn cứ
khi lựa chọn ngân hàng để gửi tiền, chỉ tiêu này càng lớn càng thu hút khách
hàng gửi tiền.
- Đối với hoạt động cho vay và đầu tư: Quy mô vốn cho vay và đầu tư bị giới

hạn bởi các tỷ lệ về giới hạn tín dụng trong mối tương quan với vốn tự có, do đó
vốn tự có càng lớn, càng tăng khả năng cho vay của ngân hàng đối với nhiều đối
tuợng khách hàng và nhiều khách hàng lớn, đồng thời nó là cơ sở để khách hàng tin
tưởng vào năng lực cho vay và giải ngân của ngân hàng. Ngân hàng còn có thể đạt
mức lãi suất cho vay hợp lý, cạnh tranh nhờ vào lợi thế quy mô.
- Đối với hoạt động cung cấp dịch vụ thanh toán và các dịch vụ ngân hàng
khác: vốn chủ sở hữu là nguồn đầu tư công nghệ, trang thiết bị máy móc để phát

NCS K5- Nguyễn Thị Hoài Thu

19


triển dịch vụ mới và tăng năng suất, tính nhanh chóng, hiệu quả, an toàn tiện cho
các dịch vụ ngân hang hiện tại tăng cường tính cạnh tranh của ngân hàng.
Mặt khác, vốn chủ sở hữu quyết định việc mở rộng quy mô, phạm vi hoạt
động của ngân hàng. Vốn tự có còn được dùng xác định quy mô huy động vốn,
các tỷ lệ giới hạn tín dụng đối với khách hàng, các tỷ lệ về an toàn hoạt động để
làm căn cứ quản lý và kiểm soát hoạt động của các NHTM. Ở Việt Nam, các tỷ
lệ này được quy định trong luật ngân hàng sẽ được đề cập trong những phần sau.
Trong xu thế hội nhập, nâng cao tính cạnh tranh của vốn tự có là yêu cầu khách
quan đối với mỗi NHTM để đáp ứng các chuẩn mực quốc tế trong hoạt động
ngân hàng và mở rộng hoạt động ra thị trường tài chính quốc tế.
* Mức độ an toàn vốn. Theo quy định của Basel 1, một tổ chức tài chính
được gọi là đủ vốn khi hệ số đủ vốn (Capital Adequacy Ratio – CAR) đạt tối
thiểu 8% giữa vốn tự có so với tổng tài sản “Có” rủi ro chuyển đổi (RWA)

Theo đó, ngân hàng có mức vốn tốt là ngân hàng có CAR > 10%, có mức
vốn thích hợp khi CAR > 8%, thiếu vốn khi CAR < 8%, thiếu vốn rõ rệt khi
CAR < 6% và thiếu vốn trầm trọng khi CAR < 2%.

Vốn cấp 1, cấp 2 và cấp 3: Thành tựu cơ bản của Basel I là đã đưa ra được
định nghĩa mang tính quốc tế chung nhất về vốn của ngân hàng và một cái gọi là
tỷ lệ vốn an toàn của ngân hàng. Tiêu chuẩn này quy định:
Vốn cấp 1 ≥ Vốn cấp 2 + Vốn cấp 3
Vốn cấp 1 là lượng vốn dự trữ sẵn có và các nguồn dự phòng được công bố,
như là khoản dự phòng cho các khoản vay, bao gồm: Vốn chủ sở hữu; Dự trữ
công bố (Lợi nhuận giữ lại); Lợi ích thiểu số (minority interest) tại các công ty
con, có hợp nhất báo cáo tài chính; Lợi thế kinh doanh (goodwill).

NCS K5- Nguyễn Thị Hoài Thu

20


Vốn cấp 2 (Vốn bổ sung) gồm: Lợi nhuận giữ lại không công bố; Dự
phòng đánh giá lại tài sản; Dự phòng chung/dự phòng thất thu nợ chung; Công
cụ vốn hỗn hợp; Vay với thời hạn ưu đãi; Đầu tư vào các công ty con tài chính
và các tổ chức tài chính khác.
Vốn Cấp 3 (Dành cho rủi ro thị trường) = Vay ngắn hạn
Tài sản đã điều chỉnh rủi ro (RWA) = ∑ (Tài có nội bảng x Hệ số rủi ro) +
∑ (Tài sản ngoại bảng x Hệ số chuyển đổi x Hệ số rủi ro)
Basel I đưa ra trọng số rủi ro gồm 3 mức: quốc gia 0%; ngân hàng 20%;
doanh nghiệp 100%... Trọng số rủi ro không phản ánh độ nhạy cảm rủi ro trong
mỗi loại này.
Basel II sử dụng khái niệm“Ba trụ cột”:
(1) Trụ cột thứ I: liên quan tới việc duy trì vốn bắt buộc. Theo đó, tỷ lệ vốn
bắt buộc tối thiểu (CAR) vẫn là 8% của tổng tài sản có rủi ro như Basel I. Tuy
nhiên, rủi ro được tính toán theo ba yếu tố chính mà ngân hàng phải đối mặt: rủi
ro tín dụng, rủi ro vận hành (hay rủi ro hoạt động) và rủi ro thị trường. So với
Basel I, cách tính chi phí vốn đối với rủi ro tín dụng có sự sửa đổi lớn, đối với

rủi ro thị trường có sự thay đổi nhỏ, nhưng hoàn toàn là phiên bản mới đối với
rủi ro vận hành. Trọng số rủi ro của Basel II bao gồm nhiều mức (từ 0% -150%
hoặc hơn) và rất nhạy cảm với xếp hạng.
(2) Trụ cột thứ II: liên quan tới việc hoạch định chính sách ngân hàng,
Basel II cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách những “công cụ” tốt hơn so
với Basel I. Trụ cột này cũng cung cấp một khung giải pháp cho các rủi ro mà
ngân hàng đối mặt, như rủi ro hệ thống, rủi ro chiến lược, rủi ro danh tiếng, rủi
ro thanh khoản và rủi ro pháp lý, mà hiệp ước tổng hợp lại dưới cái tên rủi ro còn
lại (residual risk).
(3) Trụ cột thứ III: Các ngân hàng cần phải công khai thông tin một cách
thích đáng theo nguyên tắc thị trường. Basel II đưa ra một danh sách các yêu cầu

NCS K5- Nguyễn Thị Hoài Thu

21


buộc các ngân hàng phải công khai thông tin, từ những thông tin về cơ cấu vốn,
mức độ đầy đủ vốn đến những thông tin liên quan đến mức độ nhạy cảm của
ngân hàng với rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro vận hành và quy trình đánh
giá của ngân hàng đối với từng loại rủi ro này.
* Chất lượng tài sản có: Tài sản của ngân hàng được thể hiện ở bên trái
của bảng cân đối kế toán, trong đó phần lớn tài sản tập trung ở khoản mục cho
vay và đầu tư. Đây là phần tài sản mang lại nguồn thu nhập chủ yếu cho ngân
hàng, đồng thời là tài sản có tính rủi ro cao nhất. Vì vậy, đánh giá chất lượng tài
sản chủ yếu tập trung vào chất lượng của loại tài sản cơ bản hình thành nên tài
sản có của ngân hàng thương mại đó chính là chất lượng hoạt động tín dụng, thể
hiện qua các chỉ tiêu sau:

“Nợ quá hạn” là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã

quá hạn.
Tỷ lệ nợ quá hạn càng cao chứng tỏ chất lượng tín dụngcủa ngân hàng đó kém.

“Nợ xấu” (NPL) là các khoản nợ thuộc các nhóm 3, 4 và 5 quy định tại Điều 6
hoặc Điều 7 Quyết định 493.

Hai chỉ tiêu nợ quá hạn và nợ xấu phản ánh chất lượng của hoạt động tín
dụng của một ngân hàng thương mại. Điều này cho thấy một ngân hàng có chính
sách tín dụng hợp lý, quy trình cấp tín dụng và kiểm soát tín dụng của ngân hàng
có hiệu quả hay không.
Ngoài ra, chỉ tiêu mức độ tập trung tín dụng cũng cho biết mức độ tập trung
cho vay của ngân hàng đối với một ngành kinh tế. Tỷ trọng dư nợ cho vay từng

NCS K5- Nguyễn Thị Hoài Thu

22


ngành tăng cao đồng nghĩa với việc khi có biến động xã hội lớn đối với ngành
kinh tế này thì sẽ làm giảm chất lượng tài sản của ngân hàng đó.
 Năng lực hoạt động. Thị phần phán ánh quy mô hoạt động của NHTM
trên thị trường và cũng là yếu tố thể hiện năng lực cạnh tranh của một NHTM.
Thị phần của mỗi NHTM trên thị trường được phán ánh qua số lượng khách
hàng, khả năng huy động vốn, qui mô dư nợ,…
* Khả năng huy động vốn: Hoạt động huy động vốn cung cấp nguồn vốn
chủ yếu cho các hoạt động sinh lời của ngân hàng. NHTM có khả năng huy động
vốn tốt có nhiều cơ hội để mở rộng quy mô kinh doanh, tăng lợi nhuận…do đó
phán ánh năng lực hoạt động, uy tín và khả năng cạnh tranh của ngân hàng trên
thị trường. Các chỉ tiêu phán ảnh khả năng huy động vốn của NHTM:
- Quy mô, thị phần và tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động;

- Triển vọng phát triển các nhóm nguồn vốn huy động trong tương lai
Các chỉ tiêu trên càng cao chứng tỏ năng lực cạnh tranh của ngân hàng về
việc huy động vốn tốt và ngân hàng có tiềm năng phát triển mở rộng qui mô hoạt
động huy động vốn.
* Khả năng cho vay và đầu tư: Phán ánh năng lực sử dụng vốn của ngân
hàng, thể hiện qua các chỉ tiêu sau:
- Quy mô dư nợ tín dụng
- Tốc độ tăng trưởng hoạt động tín dụng, đầu tư:
Đây là các chỉ tiêu tuyệt đối và tương đối phán ánh mức độ mở rộng hay
thu hẹp tín dụng. Quy mô và thị phần lớn hơn so với các kỳ trước, tốc độ tăng
trưởng tín dụng, đầu tư cao, đồng nghĩa với việc khả năng cho vay và đầu tư
càng được mở rộng.Việc tìm kiếm, khai thác và lựa chọn được nhiều khách
hàng, lĩnh vực tốt để cho vay và đầu tư sẽ giúp hạn chế rủi ro, hơn nữa mang lại
thu nhập lớn, tăng cường khả năng cạnh tranh cho ngân hàng.
 Khả năng sinh lời

NCS K5- Nguyễn Thị Hoài Thu

23


Khả năng sinh lời là các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh
của ngân hàng, có thể được đánh giá thông qua những chỉ tiêu cụ thể như: giá trị
tuyệt đối của lợi nhuận sau thuế, tốc độ tăng trưởng lợi nhuận, cơ cấu của lợi
nhuận (cho biết lợi nhuận được hình thành từ nguồn nào, từ hoạt động kinh
doanh thông thường hay từ các khoản thu nhập bất thường), tỷ suất lợi nhuận
trên tổng tài sản có (ROA), tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) và tỷ lệ
thu nhập lãi thuần (NIM).
* Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA): Chỉ tiêu này phản
ánh tính hiệu quả của việc sử dụng tài sản của ngân hàng, cho biết bình quân một

đơn vị tài sản được sử dụng vào hoạt động kinh doanh thì tạo ra được bao nhiêu
đơn vị lợi nhuận ròng.

Các ngân hàng thường sử dụng ROA để đo lường mối quan hệ sinh lời của
tài sản và nguồn vốn bởi vì một bộ phận nguồn vốn được sử dụng tạo nên tài sản
không sinh lời và có một bộ phận tài sản sinh lời lại tham gia tạo nên thu nhập
cho ngân hàng. Do vậy, nếu ROA lớn chúng tỏ hiệu quả kinh doanh của ngân
hàng thương mại tốt, cơ cấu tài sản hợp lý.Tuy nhiên, nếu ROA quá lớn sẽ làm
cho các nhà quản trị lo lắng vì rủi ro nhìn chung luôn đi song hành với lợi nhuận.
* Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE): ROE là chỉ tiêu
được các ngân hàng quan tâm đến nhiều nhất, cho thấy khả năng sinh lời từ một
đồng vốn của chủ, số lợi nhuận ròng mà một cổ đông có được.

NCS K5- Nguyễn Thị Hoài Thu

24


Do vậy, các ngân hàng luôn cố gắng tăng chỉ tiêu ROE để tăng tính hấp dẫn
đối với các cổ đông bằng phương pháp như: kiểm soát chi tiêu, đầu tư, quản lý rủi
ro có hiệu quả… Tuy nhiên, việc tăng ROE quá cao so với ROA chứng tỏ nguồn
vốn tự có của ngân hàng chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn và do vậy ảnh
hưởng đến mức độ lành mạnh trong hoạt động của ngân hàng thương mại.
* Tỷ lệ thu nhập lãi thuần (NIM): là chỉ tiêu phản ánh trung bình một đơn
vị tài sản có sinh lời sẽ tạo ra bao nhiêu đơn vị lãi thuần (chênh lệch giữa thu
nhập lãi và chi phí lãi)

Đây là chỉ tiêu đo lường thu nhập lãi ròng trên một đồng tổng tài sản sinh
lời, phản ánh năng lực của hội đồng quản trị, ban lãnh đạo và cán bộ, nhân viên
ngân hàng trong việc duy trì sự tăng trưởng của các nguồn thu từ lãi so với mức

tăng chi phí lãi. Do đó được các NHTM quan tâm theo dõi để dự báo khả năng
lãi thông qua việc kiểm soát chặt chẽ tài sản sinh lời và việc tìm kiếm những
nguồn vốn có chi phí thấp.Nếu ngân hàng không có chiến lược điều chỉnh cơ cấu
thu nhập thì khi mức độ canhh tranh của các ngân hàng càng cao sẽ dẫn đến việc
làm cho tỷ lệ thu nhập lãi thuần có xu hướng giảm.
Các chỉ tiêu về khả năng sinh lời phán ánh năng lực cạnh tranh của NHTM
vì có năng lực cạnh tranh tốt ngân hàng mới giành được thắng lợi, tạo ra mức
sinh lời cao. Mặt khác NHTM có mức sinh lời cao có điều kiện tăng quy mô lợi
nhuận giữ lại, làm gia tăng vốn tự có để mở rộng mạng lưới giao dịch, nâng cấp
công nghệ, phát triển các hoạt động để duy trì và tăng cường khả năng thu hút
khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, tạo ra lợi thế cạnh tranh cho ngân hàng.
 Khả năng đảm bảo an toàn thanh khoản.

NCS K5- Nguyễn Thị Hoài Thu

25


×