Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên trường cao đẳng Kinh tế kỹ thuật Cần Thơ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (408.42 KB, 78 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Một ngày thiếu giáo dục đất nước không thể tồn tại và giáo dục không có
người thầy không thể vận động được. Ông cha ta đã nói “Không thầy đố mày
làm nên”, đó là đúc kết của bao đời về vai trò của người thầy trong giáo dục.
Xã hội luôn tôn kính người thầy nên nghề dạy học được xã hội trọng vọng, trở
thành niềm kiêu hãnh của không ít gia đình có người theo nghề.
Nói về tầm quan trọng của người giáo viên, đội ngũ giáo viên trong bối
cảnh giáo dục đi vào thế kỷ XXI, Tác giả Raja Roy Singh, nhà giáo dục nổi
tiếng ở Ấn Độ, chuyên gia giáo dục nhiều năm ở UNESCO khu vực châu Á –
Thái Bình Dương có một lời bình khá ấn tượng: “Giáo viên giữ vai trò quyết
định trong quá trình giáo dục và đặc biệt trong việc định hướng lại giáo dục”.
Hội nghị Hiệu trưởng các trường ĐH&CĐ được tổ chức tại Hà Nội vào
tháng 5/2006, khi đánh giá về chất lượng giáo dục ĐH ở nước ta hiện nay, đa
số đại biểu lãnh đạo Nhà nước và Bộ GD&ĐT đều nhất trí cho rằng cùng với
những thành tựu quan trọng đã đạt được như phát triển về quy mô, cơ cấu cấp
học, ngành học, cơ sở vật chất…, giáo dục ĐH nước ta vẫn còn nhiều mặt yếu
kém, bất cập. Báo cáo của lãnh đạo Bộ GD&ĐT tại Hội nghị này nêu rõ :
“Chất lượng và hiệu quả đào tạo còn thấp, học chưa gắn chặt với hành, qui
mô và cơ cấu còn mất cân đối, mạng lưới và chức năng của các trường chưa
hợp lý, nguồn lực hạn hẹp, chương trình đào tạo thiếu linh hoạt, đặc biệt là về
đội ngũ còn yếu và thiếu… Cũng theo đánh giá của Bộ GD&ĐT, chất lượng
chuyên môn nói chung của giảng viên các trường ĐH hiện nay còn thấp so
với khu vực và quốc tế, thiếu kiến thức về kĩ năng hoạt động thực tiễn, yếu về
hợp tác quốc tế và trao đổi khoa học.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định "Đổi mới
căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hoá, hiện đại
hoá, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế



2
quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục là
khâu then chốt”
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, trước những yêu cầu mới của sự phát triển giáo dục, đội ngũ nhà giáo
và cán bộ quản lý còn những hạn chế. Số lượng và chất lượng đội ngũ giảng
viên chưa đáp ứng được nhu cầu xã hội trong thời kỳ mới. Năng lực của đội
ngũ giảng viên, cán bộ quản lý chưa xứng tầm với yêu cầu phát triển của sự
nghiệp giáo dục. Trước tình hình đó, chỉ thị 40/CT – TW ngày 15-06-2004
của ban Bí thư về việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán
bộ quản lý đã xác định “ Xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo
dục được chuẩn hóa, đảm bảo chất lượng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu,
đặc biệt chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, lối sống lương
tâm, tay nghề của nhà giáo thông qua việc quản lý phát triển đúng hướng và
có hiệu quả cho sự nghiệp giáo dục...”
Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục. Trong thời kỳ đổi mới giáo dục, Đảng và Nhà nước đã liên
tiếp có các chỉ thị về lĩnh vực quan trọng này.
Trường Cao đẳng Kinh tế Kỹ thuật Cần Thơ trực thuộc Uỷ ban Nhân dân
Thành phố Cần Thơ. Xét về đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý của trường
tuy có đào tạo, bồi dưỡng, nhưng vẫn còn một số bất cập so với yêu cầu
nhiệm vụ của công tác đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao cho Thành
phố Cần Thơ nói riêng và Đồng bằng sông Cửu Long nói chung trong bối
cảnh phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế.
Chất lượng đội ngũ giảng viên quyết định cơ bản chất lượng đào tạo. Cho
dù hệ thống giáo dục và phương thức giáo dục đã thay đổi nhiều so với trước
đây thì quy luật thầy giỏi kéo theo trò giỏi vẫn có giá trị đúng trong nhiều
trường hợp. Hiện nay, chất lượng giảng viên còn tạo nên thương hiệu, khả
năng cạnh tranh cho cơ sở đào tạo; chất lượng đội ngũ giảng viên là một tiêu

chí quan trọng trong đánh giá, kiểm định chất lượng trường đại học, cao đẳng.


3
Vì những lý do trên, việc đề xuất "Một số giải pháp nâng cao chất lượng
đội ngũ GV của Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Cần Thơ " là cần thiết
và chắc chắn sẽ đóng góp một phần khiêm tốn vào việc nâng cao chất lượng
đào tạo và sự phát triển chung của nhà trường nói riêng cũng như ngành giáo
dục nói chung trong giai đoạn hội nhập hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và khảo sát thực tiễn, đề xuất một số giải
pháp nâng cao chất lượng đội ngũ GV Trường CĐ KT-KT Cần Thơ.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu: Vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ GV Trường
CĐ KT-KT.
3.2. Đối tượng nghiên cứu: Một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ
GV Trường CĐ KT-KT Cần Thơ.
4. Giả thuyết khoa học
Thực trạng đội ngũ GV của Trường CĐ KT-KT Cần Thơ đang có những
hạn chế, bất cập. Nếu đề xuất được một số giải pháp thích hợp, có tính khả thi
và được áp dụng đồng bộ thì sẽ góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ GV
nhà trường, đáp ứng được yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho Thành phố
Cần Thơ cũng như cho vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về việc nâng cao chất lượng đội ngũ GV
Trường CĐ Kinh tế - Kỹ thuật.
5.2. Khảo sát thực trạng đội ngũ GV Trường CĐ KT-KT Cần Thơ.
5.3. Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ GV Trường CĐ
KT-KT Cần Thơ.
6. Phương pháp nghiên cứu

6.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Nghiên cứu cơ sở lý luận về vị trí và vai trò của nhà trường và các yếu
tố tạo nên chất lượng đội ngũ GV .


4

6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Khảo sát thực trạng đội ngũ GV và công tác nâng cao chất lượng đội
ngũ GV Trường Cao đẳng KT - KT Cần Thơ.
6.3. Các phương pháp hỗ trợ
+ Phương pháp thống kê toán học
+ Phương pháp so sánh
+ Phương pháp chuyên gia...
7. Phạm vi nghiên cứu
- Đội ngũ GV Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Cần Thơ
8. Đóng góp của luận văn
- Góp phần bổ sung cơ sở lý luận về vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ
GV; qua đó, nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường.
- Làm rõ thực trạng về chất lượng đội ngũ GV Trường CĐ KT-KT Cần Thơ.
- Đề xuất được một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ GV Trường
CĐ KT-KT Cần Thơ.
9. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mục lục, Mở đầu, Kết luận và kiến nghị, Tài liệu tham
khảo, luận văn có 03 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của công tác nâng cao chất lượng đội ngũ giảng
viên ở các trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật
Chương 2: Thực trạng việc nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên ở Trường
Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Cần Thơ.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên của

Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Cần Thơ.


5
CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÔNG TÁC NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN Ở CÁC TRƯỜNG CAO ĐẲNG
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Trong nước
Quán triệt các Nghị quyết của Đảng, trong nhiều năm qua, đã có nhiều tác
phẩm và công trình nghiên cứu bàn về phát triển nguồn nhân lực, phục vụ sự
nghiệp CNH, HĐH. Có thể đề cập đến một số công trình tiêu biểu sau:
- Phát triển nguồn nhân lực giáo dục ĐH Việt Nam, của Đỗ Minh Cương Nguyễn Thị Doan, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001.
- Nghiên cứu con người đối tượng và những hướng chủ yếu, do Phạm
Minh Hạc (Chủ biên), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002.
- Vấn đề tạo nguồn nhân lực tiến hành CNH, HĐH, của Vũ Hy Chương,
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002.
- Một số giải pháp quản lý nhằm phát triển đội ngũ giảng viên trường
Đại học Hải Phòng đến năm 2010 (Luận văn thạc sỹ QLGD của Nguyễn Sơn
Thành, Đại học Sư phạm Hà Nội, 2004).
- Dự án hỗ trợ đổi mới quản lý giáo dục (Support to the Renovation of
Education Management - viết tắt là SREM) do Cộng đồng Châu Âu tài trợ.
- Dự án quốc gia nghiên cứu tổng thể về GD & ĐT và phân tích nguồn
nhân lực, mã số VIE /89/ 022 ( gọi tắt là dự án tổng thể về giáo dục).
1.1.2. Ngoài nước
Trong bối cảnh phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ làm nền
tảng cho sự phát triển kinh tế tri thức; toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế vừa là
quá trình hợp tác để phát triển vừa là quá trình đấu tranh của các nước để bảo
vệ quyền lợi quốc gia. Do đó, hệ thống giáo dục luôn được các quốc gia quan

tâm phát triển và hoàn thiện để đáp ứng ngày càng tăng về trình độ dân trí,


6
phát triển nguồn nhân lực và nhu cầu giáo dục của các tầng lớp dân cư, nhất là
giai đoạn toàn cầu hóa và sự ra đời của nền kinh tế tri thức hiện nay. Ở mọi
quốc gia trên thế giới, không phân biệt giàu nghèo, sắc tộc, màu da, từ Âu
sang Á , thì đội ngũ giảng viên có vai trò quyết định đến yêu cầu nâng cao
dân trí, phát triển nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, qua đó nâng cao vị thế và
trình độ phát triển của mỗi quốc gia. Một trong những quốc gia đó phải kể
đến Singapore. Quốc gia này rất chú trọng phát triển nguồn nhân lực có trình
độ cao cho khu vực nghiên cứu và phát triển ở các trường đại học và gửi sinh
viên giỏi đi đào tạo ở nước ngoài. Singapore xác định đổi mới GDĐH là tất
yếu, là nhu cầu tự thân để phát triển kinh tế xã hội. Một trong những giải pháp
khuyến khích đổi mới chính là Nhà nước phải luôn đặt hàng đối với các
trường ĐH những yêu cầu mới về đào tạo nguồn nhân lực, phát triển khoa học
công nghệ và các dịch vụ xã hội. Hàn quốc, được công ty giáo dục Pearson
xếp vị trí thứ hai sau Phần Lan là nước có nền giáo dục tốt nhất thế giới, cũng
có những chính sách và phát triển giáo dục dựa theo yêu cầu phát triển đất
nước ở thế kỷ 21 với một quốc gia hiện đại với các đặc điểm: một xã hội phồn
vinh, bình đẳng, công nghiệp hóa và định hướng thông tin cao; một quốc gia
phúc lợi, công bằng, dân chủ và ổn định; một hệ thống tự do, năng động của
một xã hội mở và định hướng toàn cầu hóa.
Nhìn chung, đã có nhiều công trình đề cập đến vấn đề nâng cao chất
lượng đội ngũ giáo viên ở các trường phổ thông, đội ngũ giảng viên ở các
trường Đại học và Cao đẳng nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới sự nghiệp giáo
dục đào tạo. Tuy nhiên, chưa có đề tài nào nghiên cứu một cách đầy đủ về
giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên của trường Cao đẳng Kinh
tế - Kỹ thuật Cần Thơ.
Do đó, đề tài này sẽ cố gắng đề cập đến những vấn đề mà các đề tài

khác chưa có điều kiện làm rõ. Đó là những vấn đề của đội ngũ giảng viên
Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Cần Thơ với tư cách là một Trường Cao
đẳng đa ngành. Trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp nâng cao chất lượng


7
đội ngũ giảng viên của một Trường Cao đẳng trong quá trình xây dựng và
phát triển.
1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Giảng viên, đội ngũ và đội ngũ giảng viên
1.2.1.1. Khái niệm giảng viên
- GV là người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường, gồm :
Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng, GV bộ môn...
Theo Từ điển Giáo dục học, giảng viên là “chức danh nghề nghiệp của
nhà giáo trong các cơ sở giáo dục Đại học và Sau đại học, dưới giáo sư, phó
giáo sư và giảng viên chính”.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, giảng viên là “tên gọi chung những
người làm công tác giảng dạy ở các trường Đại học, Cao đẳng, ở các lớp tập
huấn cán bộ. Ở các trường Đại học và Cao đẳng, giảng viên là chức danh của
những người làm công tác giảng dạy thấp hơn phó giáo sư ”.
Ở Việt Nam, chúng ta vẫn thường nói giáo viên là Kỹ sư tâm hồn; là
những người trực tiếp tiếp xúc với những tâm hồn, xây dựng, giáo dục phát
triển nhân cách cho thế hệ trẻ.
Năm 1971, khi về thăm Trường Đại học sư phạm Hà Nội, cố Thủ tướng
Phạm Văn Đồng đã khẳng định: “Nghề dạy học là nghề cao quý nhất trong
những nghề cao quý, sáng tạo nhất trong những nghề sáng tạo. Vì nó sáng tạo
ra những con người sáng tạo ra của cải vật chất cho xã hội". Như vậy, theo
đồng chí Phạm Văn Đồng thì giáo viên là những người cao quý, được xã hội
tôn vinh vì họ đào tạo ra những con người làm ra của cải vật chất cho xã hội”.
Như vậy, khái niệm GV trình bày đã rõ, nhưng tập trung và đầy đủ hơn

cả là khái niệm GV được thể hiện ở Điều 70, Luật Giáo dục 2005:
1) Nhà giáo là người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà
trường, cơ sở giáo dục khác.


8
2) Nhà giáo phải có những tiêu chuẩn sau đây:
a) Phẩm chất đạo đức, tư tưởng tốt;
b) Đạt trình độ chuẩn được đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ;
c) Đủ sức khoẻ theo yêu cầu nghề nghiệp;
d) Lý lịch bản thân rõ ràng.
Như vậy, tuỳ thuộc cách tiếp cận mà các khái niệm đã nêu ra theo nghĩa
rộng hay hẹp; nhưng đề cập đến bản chất của người giáo viên thì đó là những
người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục, tạo điều kiện thuận lợi cho việc học
để người học tích cực chủ động nắm được tri thức, hình thành kỹ năng, kỹ
xảo và xây dựng, phát triển nhân cách, bằng chính nỗ lực chủ quan của mình.
1.2.1.2. Khái niệm đội ngũ
- Có nhiều quan niệm khác nhau về đội ngũ như “ Đội ngũ là tập hợp,
gồm số đông người cùng chức năng hoặc nghề nghiệp thành một lực lượng.
Đội ngũ được đề cập để chỉ một nhóm người thực hiện chung một mục đích
đã đề ra.
- “Đội ngũ là tập hợp lực lượng những người có cùng mục đích, làm
việc theo sự chỉ huy thống nhất, có kế hoạch, gắn bó với nhau về quyền lợi
vật chất cũng như tinh thần”.
Tóm lại, đội ngũ là một nhóm người được tập hợp và tổ chức thành một
lực lượng để thực hiện một hay nhiều chức năng, có thể cùng nghề nghiệp
hoặc không cùng nghề nghiệp nhưng có cùng chung một mục đích nhất định.
1.2.1.3. Khái niệm đội ngũ giảng viên
Đội ngũ giảng viên là một tập hợp những người được gắn kết với nhau
bằng một hệ thống mục đích, có nhiệm vụ trực tiếp giảng dạy sinh viên, chịu

sự ràng buộc của những quy tắc hành chính của ngành, của Nhà nước.
Đội ngũ GV là tập hợp những người làm nghề dạy học giáo dục, được tổ
chức thành một lực lượng cùng chung một nhiệm vụ là thực hiện các mục tiêu
giáo dục đã đề ra cho tập hợp đó, tổ chức đó. Họ làm việc có kế hoạch và gắn


9
bó với nhau thông qua lợi ích về vật chất và tinh thần trong khuôn khổ qui
định của pháp luật, thể chế xã hội.
Nói cách khác, theo nghĩa hẹp, đội ngũ GV là những thầy giáo, cô
giáo, những người làm nhiệm vụ giảng dạy và quản lý giáo dục trong các
trường Đại học, Cao đẳng.
1.2.2. Chất lượng, chất lượng đội ngũ giảng viên
Trong công tác xây dựng và nâng cao đội ngũ GV, yếu tố quan trọng
nhất mà nhà quản lý quan tâm đó là chất lượng đội ngũ. Vì thế, trước khi bàn
về chất lượng đội ngũ GV, chúng ta cần làm rõ một số vấn đề cơ bản sau:
1.2.2.1. Một số khái niệm về chất lượng
Chất lượng là một khái niệm rất trừu tượng, đa chiều, đa nghĩa được xem
xét từ nhiều bình diện khác nhau:
- Chất lượng là cái tạo nên phẩm chất, giá trị của người, sự vật hoặc sự
việc (Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Khoa học xã hội ,1998);
- Chất lượng là mức hoàn thiện, là đặc trưng so sánh hay đặc trưng
tuyệt đối, dấu hiệu đặc thù, các dự kiến, các thông số cơ bản (Oxford Pocket
Dictionary);
- Tự điển Bách Khoa Việt Nam cho rằng chất lượng “là phạm trù triết
học biểu thị những thuộc tính bản chất của sự vật, chỉ rõ nó là cái gì, phân biệt
nó với các sự vật khác. Chất lượng là đặc tính khách quan của sự vật và được
biểu hiện ra bên ngoài thông qua các thuộc tính. Sự thay đổi chất lượng kéo
theo sự thay đổi của sự vật về căn bản. Chất lượng của sự vật bao giờ cũng
gắn liền với tính qui định về số lượng của nó và không thể tồn tại ngoài tính

qui định ấy. Mỗi sự vật bao giờ cũng là sự thống nhất của chất lượng và số
lượng”. [25, tr.419]


10
Theo tác giả Lê Đức Phúc thì: “ Chất lượng là cái tạo nên phẩm chất giá
trị của một người, một sự vật, sự việc. Đó là tổng thể các thuộc tính cơ bản
khẳng định sự tồn tại của một sự vật”.
1.2.2.2. Chất lượng đội ngũ giảng viên
Chất lượng là một phạm trù của triết học, biểu thị những thuộc tính bản chất
của sự vật. Chất lượng của các sự vật, hiện tượng được biểu hiện thông qua các
thuộc tính của nó. Mỗi sự vật lại có rất nhiều thuộc tính, mỗi thuộc tính tham gia
vào việc qui định chất của sự vật không giống nhau; có thuộc tính bản chất, có
thuộc tính không bản chất.
Chất của sự vật còn được qui định bởi đặc điểm cấu trúc của sự vật, đó là
các yếu tố, các bộ phận cấu thành một hệ thống của sự vật; tức là cấu trúc bên
trong nếu sắp xếp theo những cách thức khác nhau cũng sẽ tạo thành những
thuộc tính khác nhau của sự vật. Vì vậy, khi xác định chất của sự vật cần phải tính
đến đặc điểm cấu trúc của sự vật.
Xuất phát từ khái niệm của triết học về chất lượng, ở đây, chất lượng đội
ngũ giảng viên được hiểu: là toàn bộ thuộc tính (yếu tố), những đặc điểm cấu
trúc (cơ cấu) của đội ngũ giảng viên. Những thuộc tính, cấu trúc này gắn bó
với nhau trong một tổng thể thống nhất tạo nên giá trị và sự tồn tại của đội
ngũ giảng viên khác với đội ngũ khác.
Chất lượng giáo dục là trình độ và khả năng thực hiện mục tiêu giáo dục
đáp ứng ngày càng cao nhu cầu của người học và sự phát triển toàn diện của
xã hội.
Chất lượng đội ngũ GV là vấn đề khá phức tạp khi xem xét cả trình độ
chuyên môn, nhận thức chính trị, thái độ công dân, năng lực vi tính, năng lực
ngoại ngữ, thể lực...

Chất lượng đội ngũ GV được thông qua các thuộc tính bản chất sau:


11
* Số lượng thành viên trong đội ngũ
* Cơ cấu đội ngũ
* Phẩm chất của đội ngũ
* Trình độ của đội ngũ (chuyên môn, nghiệp vụ...)
* Năng lực của đội ngũ
Ta có thể sắp xếp một cách hệ thống, chất lượng bao gồm:
- Số lượng
- Trình độ
+ Trình độ chuyên môn
+ Trình độ nghiệp vụ sư phạm
+ Đạo đức tư cách người thầy
- Cơ cấu.
Như vậy, chất lượng đội ngũ GV bao gồm các thuộc tính bản chất đó là phẩm
chất, năng lực, trình độ và các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng đội ngũ như
số lượng, cơ cấu đội ngũ GV. Mỗi thuộc tính, yếu tố đó đều có tầm quan
trọng và có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Đội ngũ giảng viên được
đánh giá là đảm bảo chất lượng khi: đủ về số lượng, mạnh về chất lượng,
đồng bộ về cơ cấu và có tính đồng thuận cao.
1.2.3. Giải pháp và giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên
1.2.3.1. Khái niệm giải pháp
Theo từ điển Tiếng Việt, giải pháp là “ phương pháp giải quyết một vấn
đề cụ thể nào đó”. Như vậy nói đến giải pháp là nói đến những cách thức tác
động nhằm thay đổi chuyển biến một hệ thống, một quá trình, một trạng thái
nhất định,… tựu trung lại, nhằm đạt được mục đích hoạt động.
1.2.3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên
Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ GV là những cách thức tác động

hướng vào việc tạo ra những biến đổi về chất lượng trong đội ngũ GV.
Với mục tiêu và nhiệm vụ của nền giáo dục nước ta hiện nay là nâng cao


12
dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, phát triển giáo dục & đào tạo, tạo
ra động lực trực tiếp đến mọi mặt đời sống của xã hội, tạo nên nguồn nhân lực
quan trọng của quá trình CNH, HĐH đất nước. Trong giáo dục - đào tạo, nguồn
nhân lực đó chính là con người, là đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục.
Đội ngũ giảng viên là những người trực tiếp thực thi các mục tiêu chiến lược phát
triển giáo dục, đào tạo và quyết định chất lượng giáo dục, đào tạo.
1.3. Người giảng viên trường Cao đẳng trong bối cảnh hiện nay
1.3.1. Vị trí, vai trò của người giảng viên
Cùng với sự biến đổi nhanh chóng của xã hội trên mọi mặt, địa vị của
người GV có nhiều biến đổi trong xã hội hiện đại. Môi trường giáo dục cũng
thay đổi kéo theo vị trí, vai trò ngày càng trở nên phức tạp với những đòi hỏi
cao hơn. Đội ngũ giảng viên có vai trò quan trọng trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ đào tạo ở bậc ĐH. Chủ tịch Hồ Chí Minh - người thầy vĩ đại đã
từng căn dặn: “Học trò tốt hay xấu là do thầy giáo, cô giáo tốt hay xấu”. Hơn
nữa, sự tác động của người thầy đến người học không chỉ thông qua năng lực
sư phạm mà bằng cả tấm gương về phẩm chất chính trị, đạo đức, phong cách
sống của mình. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng nhấn mạnh: “Không có giáo
viên tốt thì không có nhà trường tốt, không có giáo dục tốt thì không thể có
chất lượng cao”. Theo tác giả Vũ Ngọc Hải: “Giảng viên trong trường ĐH giữ
vai trò là người hướng dẫn giúp người học đến với tri thức, khoa học bằng
đường đi tốt nhất, ngắn nhất, bằng con đường trên đó luôn có sự đổi mới.
Giảng viên luôn tạo cơ hội cho người học có đủ điều kiện để tự suy nghĩ, tự
tìm hiểu và có khả năng tự quyết định”.
Trong vai trò của nhà giáo, người GV phải biết “kích thích” những hiểu
biết của người học, gợi mở cho người học những suy nghĩ và dẫn dắt người

học trong hiểu biết để giúp người học vượt qua những khó khăn, thách thức.
GV phải biết linh hoạt để cải tiến phương pháp dạy học của mình nhằm nâng
cao chất lượng đào tạo. Ngày nay, phương pháp dạy học một chiều không còn


13
phù hợp. GV không còn đóng vai trò chỉ là người truyền đạt kiến thức, mà là
người gợi mở, tổ chức các hoạt động tư duy, tranh luận của người học.
Với vai trò là nhà khoa học, người GV phải hướng vào nghiên cứu và dự
báo các vấn đề của tự nhiên và xã hội mà con người và khoa học chưa giải
thích được, tìm kiếm và chuyển giao các qui trình ứng dụng khoa học và công
nghệ. Giảng viên - nhà khoa học có chức năng thực hiện vai trò đó theo hai xu hướng
phổ biến hiện nay: nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng. Kết quả nghiên cứu
được công bố trên tạp chí chuyên ngành, hoặc đưa vào sử dụng sẽ là thước đo chất
lượng , và đánh giá hiệu quả làm việc của giảng viên [7, tr.32].
Vai trò, vị trí của GV ngày nay còn bao gồm những yêu cầu như một
chuyên gia trong lĩnh vực chuyên môn của mình; người thiết kế chương trình
đào tạo và nội dung môn học, người tư vấn cho SV cũng như kiểm tra đánh
giá hiệu quả giảng dạy. Vì thế, GV không chỉ là người có kiến thức sâu, rộng
trong lĩnh vực chuyên môn mà còn hiểu biết những quy luật nhận thức diễn ra
trong quá trình học tập của SV để từ đó giúp đỡ SV từng bước nắm vững môn
học cũng như giúp SV vượt qua những khó khăn của môn học. Bên cạnh đó,
GV phải dựa vào đặc điểm của SV để đưa ra tài liệu, bài giảng kích thích sự
tìm tòi ham học hỏi của SV, từ đó giúp SV từng bước phát huy khả năng tự
học, tự nghiên cứu.
Tóm lại, trong bối cảnh hiện nay, vị trí và vai trò của người GV có sự
thay đổi mạnh mẽ; và việc đổi mới phương pháp dạy học là một cuộc cách
mạng trong cách dạy. Tuy nhiên, một số GV cũng gặp không ít khó khăn vì
quán tính của phương pháp cũ không dễ gì điều chỉnh. Nhưng nếu mỗi GV
ai cũng thấm nhuần, lấy lời dạy của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng: “Dạy

học là một nghề sáng tạo nhất trong những nghề sáng tạo”, làm phương
châm hành động thì chắc chắn sự nghiệp đổi mới giáo dục của chúng ta sẽ
đạt hiệu quả cao.


14
1.3.2. Những yêu cầu đặt ra đối vớí người giảng viên trường Cao đẳng
trong bối cảnh hiện nay
Trong hai thập kỷ cuối thế kỷ 20, nhiều quốc gia trên thế giới diễn ra
cuộc cải cách giáo dục. Các cuộc cải cách này gặp không ít khó khăn, thậm
chí thất bại , lý do chủ yếu là chưa có sự tham gia của các nhà giáo. Bởi lẽ,
thứ nhất, các cuộc cải cách, đổi mới đều được triển khai theo kiểu từ trên
xuống, từ bên ngoài vào chứ không xuất phát từ thực tiễn hoạt động sư phạm
của nhà trường, của nhà giáo, khiến họ chỉ là người đóng vai trò thụ động
trong việc triển khai một chính sách giáo dục, mà lẽ ra, nhà giáo phải là người
chủ động và tích cực tham gia vào quá trình đổi mới đó.
Chúng ta đang sống trong thời đại kinh tế tri thức - nền kinh tế lấy việc
sản xuất, sử dụng tri thức làm hoạt động chi phối toàn bộ các hoạt động kinh
tế. Trong kỉ nguyên của văn minh trí tuệ - kinh tế tri thức, một quốc gia diện
tích có thể không lớn, dân số không đông, tài nguyên nghèo nàn vẫn có cơ hội
phát triển nhờ vào tiềm năng trí tuệ, nội lực tinh thần và văn hóa. Ngày nay
chất xám chính là tài nguyên quí giá nhất, khi các quốc gia giàu lên bởi tài
nguyên chất xám, chất xám quyết định đến vị thế của một quốc gia ấy trên thị
trường và trên trường quốc tế. Thử nhìn ra thế giới, kinh nghiệm của Nhật
Bản, Hàn Quốc, Singapore… họ đều thấy rõ “chất xám” là tài nguyên vô giá
cho nên đã hết sức quan tâm chăm lo đào tạo và sử dụng có hiệu quả đội ngũ
lao động có trí tuệ để làm ra những sản phẩm có hàm lượng “chất xám” cao,
có sức cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường thế giới. Cũng với tầm nhìn của
thời đại văn minh trí tuệ, Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc vừa qua đã đặc
biệt nhấn mạnh nhiệm vụ phát triển khoa học và công nghệ, thậm chí đã đưa

điều hệ trọng này vào Điều lệ Đảng Cộng sản Trung quốc.
Đối với thực tiễn nước nước ta, trong không gian giáo dục hội nhập, từ
nhu cầu cấp thiết của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, người GV phải đáp ứng
những tiêu chuẩn do XH đặt ra và do nhu cầu đổi mới của GDĐH. Trước hết,


15
người GV phải là người lao động sáng tạo, năng động, có tay nghề, có tâm
hồn cao đẹp, có nhân cách, và là người công dân mẫu mực. Công cụ chủ yếu
của giáo dục là nhân cách của người thầy, cho nên nghề giáo đòi hỏi thầy giáo
về những phẩm chất đạo đức và năng lực chuyên môn rất cao. Nó bao gồm
kiến thức chuyên môn vững chắc và cuộc sống chân chính, nghiêm túc và
phải luôn có ý thức nâng cao kiến thức và kỹ năng sống cho bản thân mình.
1.3.3. Phẩm chất và năng lực của người GV trường Cao đẳng trong bối
cảnh hội nhập
Từ xưa nay, không ai phủ nhận vai trò của nhà giáo trong XH. Tuy
nhiên, cơ chế thị trường tác động mạnh đến các mối quan hệ có tính chất XH
ở nhà trường. Đó là mối quan hệ giữa sinh viên và giảng viên; sinh viên và
sinh viên; giảng viên và giảng viên... Trong đó, mối quan hệ thầy - trò được
coi là quan trọng trong giáo dục, đòi hỏi đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về
phẩm chất và năng lực ở mỗi người thầy.
Nghề dạy học đòi hỏi rất cao về phẩm chất và năng lực của nhà giáo vì
người thầy phải dạy học và giáo dục bằng chính nhân cách của mình. Phẩm
chất và năng lực là yếu tố vô cùng quan trọng giúp thầy giáo hoạt động có
hiệu quả trong giảng dạy và trong giáo dục. Người thầy giáo có phẩm chất và
năng lực luôn được đồng nghiệp tín nhiệm, SV kính trọng. Họ là người có uy
tín và ảnh hưởng mạnh đến người khác. Có thể nói, uy tín là toàn bộ cuộc
sống của nhà giáo.
Nhiều năm nay, cả nước đang học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh thì năng lực và phẩm chất của người thầy trong nhà trường hiện

nay cần đặt lên hàng đầu. Mỗi GV phải biết yêu cầu cao với chính mình trong
quá trình học tập, rèn luyện để nâng cao phẩm chất và năng lực.
Với những vấn đề tiếp cận trên đây, tác giả đưa ra những yêu cầu về
phẩm chất và năng lực của người GV trong bối cảnh hội nhập, nhằm đáp ứng
yêu cầu đổi mới cơ bản và toàn diện GDĐH, như sau:


16
1.3.3.1. Những yêu cầu về phẩm chất
Nói tới phẩm chất là nói đến cái Đức - một cách phát biểu ngắn gọn, súc
tích nhưng rất đầy đủ mà nhân dân ta quen dùng khi cần chỉ ra quan niệm về
phẩm chất của con người Việt Nam. Xét trên phương diện tâm lý - xã hội học,
thống nhất với nhiều ý kiến, chúng tôi cho rằng đức bao gồm những thuộc
tính sau:
- Thiết tha, gắn bó với lý tưởng, có hoài bão, tâm huyết với nghề dạy học
và lòng say mê khoa học.
- Có đạo đức cách mạng, đạo đức nhà giáo, xứng đáng là tấm gương
sáng cho người học noi theo.
- Có ý thức kỷ luật và tinh thần phấn đấu.
- Biết giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
- Có kiến thức tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, phát huy tiềm năng
dân tộc và con người Việt Nam.
- Có ý thức phục vụ, hòa hợp và chia sẽ với cộng đồng.
1.3.3.2. Những yêu cầu về năng lực
Nói đến năng lực tức là nói đến cái Tài. Tài ở đây thể hiện tài năng về trí
tuệ và tài năng nghiệp vụ sư phạm. Tài năng sẽ giúp cho người dạy nắm vững
và nhuần nhuyễn nội dung hệ thống các kiến thức cơ bản của môn
học, khả năng phát hiện vấn đề bổ sung vào nội dung bài giảng; tài
năng nghiệp vụ sư phạm thể hiện ở việc áp dụng các phương pháp
giảng dạy, khả năng trình bày và khả năng xử lý các tình huống sư

phạm trong quá trình giảng dạy. Kết hợp được giữa nội dung và
phương pháp sẽ làm cho bài giảng thêm phong phú, sinh động, hấp
dẫn và có hiệu quả cao, làm cho người học hứng thú, say mê, tránh nhàm
chán, từ đó chủ động, tích cực nghiên cứu, tìm hiểu trong học tập. Để thỏa
mãn các điều đó, người thầy phải hội tụ đủ các năng lực chủ yếu sau đây:


17
- Có năng lực về tri thức và tầm hiểu biết
Đây là năng lực trụ cột của năng lực sư phạm, là điều kiện để giảng dạy,
“biết mười dạy một”. Ngày nay, người học không nhất nhất cái gì cũng tuân
thủ, phục tùng thầy vô điều kiện. Họ được tiếp cận rất nhiều thông tin, hiểu
biết rất nhiều, là thầy, phải chinh phục trò bằng kiến thức sâu rộng của mình,
điều đó còn có tác dụng tạo uy tín cho người thầy.
- Có năng lực chế biến tài liệu học tập từ chương trình khung
Thầy giáo phải gia công về mặt sư phạm đối với tài liệu học tập cho phù
hợp với đặc điểm từng lớp học, đối tượng, chuyên ngành đào tạo. Thực trạng
cho thấy, vẫn còn nhiều giáo án trong tình trạng “chết”, không được bổ sung
cập nhật, giáo án sử dụng chung cho tất cả các hệ học. Cho nên, người thầy
giỏi là người thầy hiểu học sinh, đặt mình vào vị trí người học để chế biến,
trình bày tài liệu đúng với đối tượng. Người thầy có khả năng phân tích, tổng
hợp, hệ thống hóa được kiến thức, thấy được cái gì là cơ bản nhất và mối
quan hệ với cái thứ yếu. Ngoài ra, người thầy phải có sự sáng tạo trong cung
cấp kiến thức cho người học, bên cạnh kiến thức tinh tế và chính xác, đòi hỏi
phải liên hệ được nhiều mặt giữa kiến thức cũ và mới, kiến thức bộ môn này
với bộ môn khác, liên hệ thực tiễn gắn với từng chuyên ngành đào tạo.
- Có năng lực dạy học tốt

Người thầy tốt không chỉ truyền đạt kiến thức cho người học mà có nhiệm
vụ tổ chức và điều khiển hoạt động của họ, hướng họ đi tìm kiếm và lĩnh hội

tri thức. Disterwey - một nhà sư phạm người Đức đã nhấn mạnh: “Người thầy
giáo tồi là người mang chân lý đến sẵn, còn người thầy giáo giỏi là người biết
dạy học sinh đi tìm chân lý”. Chính vì vậy người thầy phải: Nắm vững và sử
dụng hợp lý các phương pháp dạy học tiên tiến; rèn luyện năng lực ngôn ngữ
truyền đạt kiến thức rõ ràng, dễ hiểu, vừa sức.


18

1.4. Vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên trường Cao đẳng
Chất lượng đội ngũ GV tác động trực tiếp đến chất lượng GD&ĐT. Sinh
thời, Bác hồ kính yêu – người Thầy vĩ đại của chúng ta có nói: "Muốn trò
giỏi phải có thầy giỏi, thầy tốt thì ảnh hưởng tốt, thầy xấu thì ảnh hưởng xấu".
1.4.1. Tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên
trường Cao đẳng
Với vai trò chủ đạo trong quá trình giáo dục - đào tạo ở các trường, các
cơ sở giáo dục đào tạo, chất lượng đội ngũ GV tác động trực tiếp đến chất
lượng giáo dục đào tạo. Muốn trò giỏi phải có thầy giỏi. Chủ tịch Hồ Chí
Minh kính yêu của chúng ta đã từng nói “Thầy tốt thì ảnh hưởng tốt, thầy xấu
thì ảnh hưởng xấu” [12,tr.188]. Không thể có trò giỏi nếu thiếu thầy giỏi.
Nghị quyết Trung ương II khoá VIII “Giáo viên là nhân tố quyết định chất
lượng giáo dục”. Bởi vậy, ngành giáo dục đào tạo coi việc xây dựng đội ngũ
nhà giáo chất lượng cao là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của quá trình
đổi mới nền giáo dục đào tạo nước nhà.
Giáo dục - đào tạo ngày nay được tiến hành trong điều kiện cuộc cách
mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ phát triển cao, là thời đại của những giá
trị nhân văn tốt đẹp, của trí tuệ và những bàn tay vàng, nguồn lực trực tiếp của
việc tạo ra của cải vật chất, văn hoá, tinh thần có chất lượng cao.
Sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta hiện nay đòi hỏi phải có những con
người rất mực trung thành với lý tưởng XHCN, giàu lòng yêu nước, có trình

độ kiến thức ( kỹ thuật ) và có kỹ năng thành thạo, có năng lực sáng tạo và
làm ra những sản phẩm đủ sức cạnh tranh với thị trường thế giới. Để tạo ra
nguồn lực con người với những phẩm chất và nhân cách như vậy, khâu then
chốt trong giáo dục đào tạo là phải nâng cao chất lượng đội ngũ GV, tập trung
xây dựng và phát triển đội ngũ GV có chất lượng cao cả về số lượng, cơ cấu,
phẩm chất, trình độ năng lực.


19
Viện nghiên cứu phát triển giáo dục Bộ Giáo dục-Đào tạo (1998) cho
rằng: Trong quá trình phát triển giáo dục và đào tạo, đội ngũ GV ở tất cả các
ngành học, bậc học ngày càng lớn mạnh về cả số lượng , chất lượng và trình
độ nghiệp vụ. Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển giáo dục thì đội ngũ nhà
giáo ở hầu hết các bậc học, các ngành đào tạo, thiếu GV giảng dạy có trình độ
cao và các chuyên gia đầu ngành cũng như bất cập về cơ cấu .
Chúng ta cần phải thừa nhận rằng “một nền giáo dục không thể phát
triển cao hơn tầm những nhà giáo làm việc cho nó”. Thầy giáo có một vị trí
cực kỳ quan trọng, nhất là trong tình hình giáo dục phải hướng vào phục vụ
yêu cầu CNH, HĐH đưa đất nước bước vào các lộ trình “Đi tắt”, “Đón đầu”
để đuổi kịp các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới, trong đó vấn đề
xây dựng các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ GV trong chiến
lược phát triển giáo dục đào tạo có ý nghĩa, tầm quan trọng và tính cấp bách
đặc biệt.
1.4.2. Các tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ giảng viên trường Cao
đẳng
Điều 24 Điều lệ trường đại học quy định giảng viên phải có những
tiêu chuẩn sau đây:
- Có phẩm chất, đạo đức, tư tưởng tốt;
- Có bằng tốt nghiệp đại học trở lên và có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp
vụ sư phạm. Có bằng thạc sĩ trở lên đối với giảng viên giảng dạy các môn lý

thuyết của chương trình đào tạo đại học; có bằng tiến sĩ đối với giảng viên
giảng dạy và hướng dẫn chuyên đề, luận văn, luận án trong các chương trình
đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ;
- Có trình độ ngoại ngữ, tin học đáp ứng yêu cầu công việc;
- Đủ sức khỏe theo yêu cầu nghề nghiệp;
- Lý lịch bản thân rõ ràng.


20
Dựa vào các tiêu chuẩn trên, chất lượng ĐNGV được đánh giá thông
qua: phẩm chất, đạo đức, trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ và các
hoạt động khác.
 Yêu cầu về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống:
Phẩm chất chính trị là yếu tố rất quan trọng giúp người GV có bản lĩnh
vững vàng trước những biến động của xã hội. Trên cơ sở đó thực hiện hoạt
động giáo dục toàn diện, định hướng xây dựng nhân cách cho HS –SV có
hiệu quả. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “ chính trị là linh hồn, chuyên môn
là cái xác; có chuyên môn mà không có chính trị thì chỉ là cái xác không hồn.
Phải có chính trị rồi mới có chuyên môn... Nói tóm lại, chính trị là đức,
chuyên môn là tài; có tài mà không có đức là hỏng”.
Phẩm chất chính trị của người giảng viên thể hiện ở việc:
- Chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước, có ý thức kỷ luật, chấp hành tốt nội quy, quy định của ngành, của
nhà trường và của địa phương;
- Người giảng viên phải có tinh thần đoàn kết hợp tác và quan hệ tốt với
với đồng nghiệp, giúp đỡ đồng nghiệp hoàn thành nhiệm vụ;
- Phẩm chất của người giảng viên còn được thể hiện qua lòng yêu nghề,
tận tụy với nghề, ý thức tìm tòi học hỏi;
Phẩm chất đạo đức mẫu mực cũng là một trong những tiêu chuẩn hàng
đầu của người GV. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “ Người cách mạng có

đạo đức, không có đạo đức thì tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được
nhân dân” Trong sự nghiệp “trồng người”, phẩm chất đạo đức luôn có vị trí
nền tảng. Nhà giáo nói chung và đội ngũ GV nói riêng phải có phẩm chất đạo
đức trong sáng, phải “chí công, vô tư, cần, kiệm, liêm, chính để trở thành tấm
gương cho thế hệ trẻ noi theo, để giáo dục đạo đức và xây dựng nhân cách
cho thế hệ trẻ.
- Người giảng viên phải tôn trọng nhân cách của người học, đối xử
công bằng với người học, bảo vệ các quyền, lợi ích chính đáng của người học;


21
- Có ý thức giữ gìn phẩm chất đạo đức, uy tín, danh dự của nhà giáo;
- Có tinh thần trách nhiệm, tính trung thực trong công tác, tinh thần đấu
tranh chống các biểu hiện tiêu cực;
- Người giảng viên phải có lối sống, lành mạnh, văn minh, phù hợp với
môi trường giáo dục, có tác phong mẫu mực, làm việc khoa học;
- Tích cực tham gia các hoạt động xã hội và các phong trào của trường.
 Yêu cầu về năng lực:
Đối với đội ngũ GV, năng lực được hiểu là trên cơ sở hệ thống những
tri thức mà người GV được trang bị, họ phải hình thành và nắm vững hệ
thống các kỹ năng để tiến hành hoạt động sư phạm có hiệu quả. Kỹ năng của
người GV được hiểu “ là khả năng vận dụng những kiến thức thu được vào
hoạt động sư phạm” và biến nó thành kỹ xảo. Kỹ xảo là kỹ năng đạt tới mức
thành thục.
Năng lực chuyên môn:
Ngoài các tiêu chuẩn mà người giảng viên cần phải đáp ứng theo quy
định của Bộ GD&ĐT, người giảng viên cần phải:
- Nắm vững mục tiêu giáo dục, nội dung, chương trình;
- Có kiến thức chuyên môn vững vàng;
- Có khả năng tiếp cận và cập nhật những thành tựu mới của thế giới,

những tri thức khoa học hiện đại và vận dụng trực tiếp vào hoạt động giảng
dạy và nghiên cứu;
- Có khả năng tự học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ và phát triển
bản thân.
Năng lực nghiên cứu khoa học:
Công tác NCKH tạo điều kiện cho người GV nâng cao trình độ chuyên
môn, năng lực giảng dạy, chất lượng bài giảng và rèn luyện năng lực xử lý
tình huống. Việc nghiên cứu khoa học của đội ngũ GV nhằm đáp ứng yêu cầu
của sự công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. NCKH trong các trường Đại
học, Cao đẳng chủ yếu là nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu triển khai. Do đó,


22
người GV phải có trình độ cao và năng lực tốt mới có thể giải quyết các vấn
đề đặt ra.
NCKH là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của người giảng
viên ngày nay. Năng lực nghiên cứu khoa học của giảng viên được thể
hiện thông qua:
- Số lượng báo cáo, chuyên đề, tham luận, đề tài nghiên cứu;
- Việc chủ trì hoặc tham gia thực hiện các chương trình, đề tài nghiên
cứu khoa học, các hợp đồng nghiên cứu khoa học, chuyển giao kỹ thuật và
công nghệ;
- Số lượng giáo trình, sách chuyên khảo, tài liệu tham khảo đã
biên soạn;
- Tham gia các hội thảo khoa học của khoa và bộ môn, hướng dẫn
người học NCKH và tham gia các hoạt động hợp tác quốc tế về NCKH và
công nghệ;
- Thâm nhập thực tiễn, phổ biến kiến thức khoa học phục vụ đời sống.
Năng lực sư phạm: Bên cạnh những yêu cầu về chứng chỉ nghiệp vụ sư
phạm đối với giảng viên, người giảng viên cần phải có khả năng:

- Xây dựng kế hoạch dạy học, đề cương môn học, bài giảng và thiết kế
học liệu cần thiết phục vụ cho giảng dạy;
- Tổ chức và thực hiện các hoạt động dạy học trên lớp phát huy được
tính chủ động sáng tạo của người học;
- Tích cực đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích
cực chủ động của sinh viên trong học tập. Giảng viên phải bồi dưỡng cho sinh
viên khả năng tự học, tự nghiên cứu;
- Khả năng nắm bắt tâm sinh lý người học;
- Năng lực truyền đạt kiến thức cho sinh viên;
- Tham gia đánh giá hoạt động giảng dạy của giảng viên khác, tham gia
công tác giáo viên chủ nhiệm và cố vấn học tập.


23
Năng lực tin học, ngoại ngữ: Trong xu thế phát triển của xã hội hiện
đại, ngoại ngữ và tin học ngoài việc hỗ trợ giảng viên trong việc đổi mới
phương pháp giảng dạy, chúng còn là những công cụ quan trọng giúp giảng
viên tiếp cận những tri thức mới trên thế giới cũng như giao lưu quốc tế để
nâng cao trình độ. Để giúp cho công việc giảng dạy và nghiên cứu đạt chất
lượng, người giảng viên cần phải có khả năng sử dụng công nghệ thông tin và
phương tiện kỹ thuật dạy học mới trong giảng dạy, có khả năng sử dụng
ngoại ngữ để hỗ trợ cho hoạt động nghề nghiệp hay giảng dạy bằng ngoại ngữ
hoặc NCKH.
Để hỗ trợ cho giảng viên trong việc thực hiện nhiệm vụ một cách tốt
nhất, ngoài những năng lực cần có ở trên, người giảng viên cần phải có một
số kỹ năng bổ trợ như khả năng quản lý, giao tiếp, giải quyết vấn đề và khả
năng tham gia công tác xã hội.
 Yêu cầu về trình độ chuyên môn:
Điều 77 của Luật Giáo dục quy định trình độ chuẩn được đào tạo của
giảng viên: Có bằng tốt nghiệp đại học trở lên và có chứng chỉ bồi dưỡng

nghiệp vụ sư phạm đối với nhà giáo giảng dạy cao đẳng, đại học; có bằng
thạc sĩ trở lên đối với nhà giáo giảng dạy chuyên đề, hướng dẫn luận văn
thạc sĩ; có bằng tiến sĩ đối với nhà giáo giảng dạy chuyên đề, hướng dẫn
luận án tiến sĩ.
Điều 54 của Luật giáo dục đại học quy định thêm: Trình độ chuẩn của
chức danh giảng viên giảng dạy trình độ đại học là thạc sĩ trở lên. Trường hợp
đặc biệt ở một số ngành chuyên môn đặc thù do Bộ trưởng Bộ giáo dục và
đào tạo quy định.
Cụ thể hóa các tiêu chuẩn trên, thông tư liên tịch số: 06/2011/TTLTBNV-BGDĐTquy định tiêu chuẩn đối với giảng viên như sau:


24
* Giảng viên:
- Có bằng tốt nghiệp đại học sư phạm trở lên hoặc có bằng tốt nghiệp
đại học trở lên phù hợp với chuyên môn, chuyên ngành giảng dạy và có
chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm;
- Có ngoại ngữ trình độ B trở lên;
- Có tin học trình độ B trở lên;
- Có trình độ trung cấp lý luận chính trị - hành chính hoặc trung cấp lý
luận chính trị và chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước theo quy định.
* Giảng viên chính:
- Có bằng thạc sĩ trở lên phù hợp với chuyên môn, chuyên ngành giảng
dạy;
- Có ngoại ngữ trình độ C, tin học trình độ C trở lên;
- Có khả năng thiết kế, xây dựng kế hoạch, chương trình đào tạo, bồi
dưỡng và biên soạn tài liệu giảng dạy môn học, tài liệu tham khảo phục vụ
đào tạo, bồi dưỡng;
- Có đề án hoặc đề tài nghiên cứu khoa học được cấp khoa hoặc cơ sở
đào tạo, bồi dưỡng công nhận và áp dụng có kết quả trong chuyên môn;
- Có trình độ cao cấp lý luận chính trị - hành chính hoặc cao cấp lý luận

chính trị và chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước theo quy định.
* Giảng viên cao cấp:
- Có bằng tiến sĩ;
- Có ngoại ngữ trình độ C, tin học trình độ C trở lên;
- Có đề án hoặc công trình khoa học sáng tạo cấp tỉnh hoặc cấp bộ, ngành
trở lên được Hội đồng khoa học công nhận và đưa vào áp dụng có hiệu quả;
- Có trình độ cao cấp lý luận chính trị - hành chính hoặc cao cấp lý luận
chính trị và chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước theo quy định.


25

1.4.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng đội ngũ giảng viên trường Cao
đẳng
1.4.3.1. Hội nhập kinh tế quốc tế và thế giới
Toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang là xu thế nổi bật của
kinh tế thế giới đương đại. Nền kinh tế Việt Nam đã, đang chủ động và tích
cực hội nhập với nền kinh tế quốc tế trong khu vực và thế giới. Do đó, nó thúc
đẩy sự phát triển giáo dục trên mọi phương diện ngành nghề. Giáo dục và đào
tạo phải phù hợp với quy luật phát triển của nền kinh tế, phù hợp với nhu cầu
xã hội. Kiến thức đạt được của người học phải đáp ứng được yêu cầu trong
tương lai của nền kinh tế.
Qua đó cho thấy, nhiệm vụ của giáo dục là nhằm hướng người học tiến
đến việc chiếm lĩnh tri thức. Chất lượng của giáo dục cũng có phần đóng góp
không nhỏ của chất lượng đội ngũ GV.
1.4.3.2. Xã hội thông tin, nền kinh tế tri thức
Thông tin có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của mọi
quốc gia trên thế giới. Thông tin là tất cả các nhân tố góp phần giúp con người
nắm bắt và nhận thức đúng đắn, đầy đủ đối tượng của mình. Khi kinh tế và xã
hội phát triển thì vị trí thông tin càng trở nên quan trọng, nhu cầu khai thác

thông tin càng trở nên cấp thiết.

Ngày nay, xã hội đã phát triển sang nền kinh tế tri thức, trong đó tri
thức đóng vai trò chủ đạo đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của nhân loại.
Các giá trị kinh tế lớn nhất được làm ra không phải trong khu vực trực tiếp
sản xuất của cải vật chất mà trong khu vực khoa học, kỹ thuật. Nguồn lực về
tri thức còn mạnh hơn cả nguồn lực về vốn, về đất đai, sức lao động.... Kinh
tế tri thức là một dạng hình thái kinh tế, trong đó việc sáng tạo và khai thác tri
thức sẽ là thành phần then chốt trong quá trình tạo ra của cải vật chất nhằm


×