Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

đạo đức thanh niên tỉnh sóc trăng hiện nay – thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (549.05 KB, 75 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
ĐẠO ĐỨC THANH NIÊN TỈNH SÓC TRĂNG
HIỆN NAY – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Chuyên ngành: Sư phạm giáo dục công dân
Mã ngành: 52140204

Giáo viên hướng dẫn:
TS. Lê Ngọc Triết

Sinh viên thực hiện:
Nguyễn Thị Nhã
MSSV: 6096103
Lớp:Sp.GDCD k35- 01

Cần Thơ, 11/2012


MỤC LỤC
-----PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................. 1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài ...................................................... 2
3. Mục đích cuả đề tài ............................................................................................. 3
4. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài .......................................................................... 3
5. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................... 3
6. Kết cấu luận văn .................................................................................................. 3
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƢ
TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC VÀ VIỆC CẦN THIẾT CỦA


GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC ĐỐI VỚI THANH NIÊN .............................................. 4
1.1. Khái niệm về đạo đức ............................................................................... 4
1.1.1 Khái niệm về đạo đức .................................................................... 4
1.1.2 Khái niệm về đạo đức mới .............................................................. 6
1.2 Nguồn gốc của đạo đức ............................................................................. 8
1.3 Bản chất và chức năng của đạo đức ......................................................... 11
1.3.1 Bản chất của đạo đức .................................................................... 11
1.3.2 Chức năng của đạo đức ................................................................. 13
1.4 Sự cần thiết của đạo đức và giáo dục đạo đức đối với thanh niên .......... 18
1.4.1 Sức mạnh của truyền thống đạo đức trong lịch sử phát triển của
dân tộc .................................................................................................................... 18
1.4.2 Vị trí của đạo đức trong xã hội ..................................................... 23
1.4.3 Vai trò của thanh niên trong xã hội ............................................... 25
1.4.4 Sự cần thiết của việc rèn luyện, giáo dục đạo đức đối với thanh
niên Việt Nam hiện nay.......................................................................................... 31
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG ĐẠO ĐỨC THANH NIÊN Ở SÓC TRĂNG
HIỆN NAY VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP .............................................................. 37
2.1Thực trạng đạo đức thanh niên ở Sóc Trăng hiện nay .............................. 37
2.1.1 Những ưu điểm của đạo đức thanh niên Sóc Trăng ...................... 37


2.1.2 Những hạn chế của đạo đức thanh niên Sóc Trăng....................... 48
2.1.3 Nguyên nhân những hạn chế của đạo đức thanh niên................... 52
2.2 Một số giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế của đạo đức thanh
niên tỉnh Sóc Trăng hiện nay ................................................................................. 55
2.2.1 Tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật, hạn chế tiêu cực xã
hội, kết hợp giáo dục đạo đức với giáo dục ý thức pháp luật cho thanh niên ........ 55
2.2.2 Kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong công
tác rèn luyện, giáo dục đạo đức cho thanh niên ..................................................... 59
2.2.3 Nâng cao vai trò tự giáo dục, tự rèn luyện đạo đức của thanh niên

gắn với các phong trào hoạt động do tỉnh tổ chức ................................................. 61
2.2.4 Giáo dục đạo đức cho thanh niên bằng cách nêu gương tốt, việc
tốt ............................................................................................................................ 63
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 70
TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Đất nước ta đang trong thời kỳ chuyển đổi từ nền kinh tế lạc hậu với cơ
chế quản lí kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế của đất nước,
Đảng ta xác định tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa như là một phương
hướng chiến lược quan trọng, cùng với những nỗ lực đầu tư huy động về vốn,
tri thức, thì một yếu tố không kém phần quan trọng thúc đẩy kinh tế phát triển
là vấn đề đạo đức. Đặc biệt là vấn đề xây dựng đạo đức của thanh niên, bởi
vì, thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, nguồn lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát
triển của xã hội, là người chủ của đất nước quyết định sự thành bại của công
cuộc phát triển kinh tế đất nước hiện tại và tương lai. Nghị quyết 25-NQ/TW,
Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương (khóa X), về “Tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa” đã khẳng định: “Thanh niên là tường cột của nước
nhà, là chủ nhân của đất nước, tương lai của dân tộc, lực lượng xung kích
trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, một trong những nhân tố quyết định sự
thành bại của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập
quốc tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thanh niên được đặt ở vị trí trung tâm
trong chiến lược bồi dưỡng, phát huy nhân tố và nguồn lực con người. Chăm
lo, phát triển thanh niên vừa là mục tiêu, vừa là động lực đảm bảo cho sự ổn
định và phát triển vững bền của đất nước” [17, trang 41].
Thực tế thời buổi công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng mang tính hai

mặt. Bên cạnh việc tạo ra động lực thúc đẩy sự biến đổi to lớn về các mặt thì
công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng tác động lên những mặt nhân cách con
người, tạo cho con người tâm lý sùng bái vật chất, chức quyền, khao khát sự
hưởng thụ. Nhiều giá trị đạo đức mới được chấp nhận một cách dễ dàng, vai
trò cá nhân với tư cách là con người thành đạt được đề cao, đồng thời trở
thành thước đo của phẩm chất nhân cách, tình trạng suy thoái đạo đức diễn ra
ngày càng gây gắt hơn, nhất là đối với thanh niên. Nghị quyết 25-NQ/TW,
1


Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương (khóa X) đã đánh giá: “một
bộ phận thanh niên sống thiếu lý tưởng, giảm sút niềm tin, ít quan tâm đến
tình hình đất nước, thiếu ý thức chấp hành pháp luật, sống thực dụng, xa rời
truyền thống văn hóa của dân tộc… tình trạng tội phạm và tệ nạn xã hội trong
thanh niên lệch chuẩn, đặc biệt là những hành vi vi phạm pháp luật của thanh
niên có xu hướng ngày càng gia tăng...” [17,trang 21]. Với vai trò đặc biệt
quan trọng của thanh niên, nếu để tình trạng suy thoái đạo đức đó kéo dài và
trở thành hiện tượng phổ biến trong xã hội sẽ dẫn đến hậu quả khôn lường.
Vì thế cùng với sự nghiệp phát triển đất nước và con người, ngày nay
chúng ta cần nhận thức rằng: Việc giáo dục đạo đức luôn là vấn đề ý nghĩa
sống còn đối với bất cứ xã hội nào, thời đại nào. Do đó cần đẩy mạnh công
tác xây dựng, giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống văn hóa lành mạnh trong
mọi tầng lớp của xã hội, đặc biệt đối với thanh niên, vì đây là thế hệ sẽ làm
chủ tương lai của đất nước. Với mong muốn góp một phần nhỏ bé của mình
vào việc giữ gìn và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống, góp phần
củng cố thêm vai trò to lớn của đạo đức đối với đời sống con người nên tôi
quyết định chọn đề tài “Đạo đức thanh niên tỉnh Sóc Trăng hiện nay Thực trạng và giải pháp” làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu những quan điểm của chủ nghĩa Mác –Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và vai trò của đạo đức đối với thanh niên

trong xã hội. Trên cơ sở đó đi sâu phân tích thực trạng vấn đề đạo đức thanh
niên ở tỉnh Sóc Trăng, Từ đó đề xuất ra một số giải pháp nhằm khắc phục, rèn
luyện, giáo dục đạo đức cho thanh niên của tỉnh Sóc Trăng trong giai đoạn
tới.
3. Mục đích của luận văn
Từ cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức và quan điểm về giáo dục đạo đức thanh niên của Đảng đề tài góp
phần làm sáng tỏ sự cần thiết của đạo đức và giáo dục đạo đức, đề ra một số
2


giải pháp nhằm khắc phục, giáo dục đạo đức cho thanh niên ở tỉnh Sóc Trăng
trong giai đoạn tới.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Để thực hiện mục đích trên, đề tài thực hiện một số nhiệm vụ sau:
Phân tích rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức và sự cần thiết của đạo đức và việc giáo dục đạo đức đối với
thanh niên trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Phân tích rõ thực trạng đạo đức thanh niên ở tỉnh Sóc Trăng hiện nay, từ
đó đề ra một số giải pháp nhằm khắc phục, giáo dục đạo đức cho thanh niên
trong tỉnh.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong đó sử dụng
các phương pháp nghiên cứu chủ yếu như: phân tích và tổng hợp; so sánh, đối
chiếu, logic và lịch sử; gắn lý luận với thực tiễn để thực hiện nhiệm vụ đề tài
đặt ra.
6. Kết cấu luận văn
Luận văn gồm có phần mở đầu, phần nội dung, kết luận và danh mục tài liệu

tham khảo, luận văn gồm 2 chương và 6 tiết.

3


PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ
MINH VỀ ĐẠO ĐỨC VÀ SỰ CẦN THIẾT CỦA GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
ĐỐI VỚI THANH NIÊN
1.1 Khái niệm về đạo đức và đạo đức mới
1.1.1 Khái niệm về đạo đức
Với tư cách là một bộ phận của tri thức triết học, những tư tưởng đạo đức
học đã xuất hiện hơn 26 thế kỷ trước đây trong triết học Trung Quốc, Ấn Độ,
Hy Lạp cổ đại.
Danh từ đạo đức bắt nguồn từ tiếng La tinh là mos (moris) – lề thói,
(moralis nghĩa là liên quan đến lề thói, đạo nghĩa). Còn từ thường xem như
đồng nghĩa với “đạo đức” có gốc ở chữ Hy Lạp là Ethicos nghĩa là lề thoái;
tập tục. Vậy, khi ta nói đến đạo đức, tức là nói đến lề thói, tập tục và biểu hiện
mối quan hệ nhất định giữa người và người trong sự giao tiếp với nhau hằng
ngày. Sau này người ta thường phân biệt hai khái niệm, moral là đạo đức, còn
Ethicos là đạo đức học.
Ở phương Đông, các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc cổ
đại xuất hiện sớm, được biểu hiện trong quan niệm về đạo và đức của họ. Đạo
là một trong những phạm trù quan trọng nhất của triết học Trung Quốc cổ đại.
Đạo có nghĩa là con đường đi, về sau khái niệm đạo được vận dụng trong triết
học để chỉ con đường của tự nhiên. Đạo còn có ý nghĩa là con đường sống của
con người trong xã hội.
Khái niệm đức đầu tiên xuất hiện trong kinh văn đời nhà Chu và từ đó
trở đi nó được người Trung Quốc cổ đại sử dụng nhiều. Đức dùng để nói đến

nhân đức, đức tính và nhìn chung đức là biểu hiện của đạo, đạo là nghĩa, là
nguyên tắc luân lý. Như vậy có thể nói đạo đức của người Trung Quốc cổ đại
chính là những yêu cầu, những nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà mỗi người
phải tuân theo.
4


Ở phương Tây vấn đề đạo đức từ lâu đã thu hút sự quan tâm của nhiều
nhà tư tưởng. Cho đến nay, người ta vẫn coi Xôcrat (469 – 399 tr, CN) là
người đầu tiên đặt nền móng cho khoa học đạo đức học. Còn Arixtốt (384 –
322 tr.CN) đã viết bộ sách Đạo đức học với 10 cuốn, trong đó ông đặc biệt
quan tâm đến phẩm hạnh con người. Nội dung của phẩm hạnh chính là ở chỗ
biết định hướng đúng, biết làm việc thiện. Ông nói: chúng ta bàn về đạo đức
không phải để biết đức hạnh là gì mà là để trở thành con người có đức hạnh.
Trong lịch sử đạo đức học Êpiquaya (341 – 271 tr.CN) là người đầu
tiên đưa phạm trù “Lẽ sống” vào đạo đức học và là một trong những người có
công luận giải về sự tự do của con người.
Ngày nay, đạo đức được định nghĩa là một hình thái ý thức xã hội, là
tập hợp những nguyên tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh đánh giá cách
ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và với xã hội, chúng được thực
hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi sức mạnh truyền thống và sức mạnh của dư
luận xã hội.
Trong định nghĩa trên có ba điểm cần lưu ý:
Thứ nhất, đạo đức với tư cách là một hình thái ý thức xã hội phản ánh
tồn tại xã hội, phản ánh hiện thực đời sống đạo đức xã hội. Đạo đức cũng như
các quan điểm triết học, chính trị, nghệ thuật, tôn giáo đều mang tính chất của
kiến trúc thượng tầng. Chế độ kinh tế - xã hội là nguồn gốc của quan điểm về
đạo đức con người và các quan điểm này thay đổi theo cơ sở đẻ ra nó.
Thứ hai, đạo đức là một phương thức điều chỉnh hành vi của con người.
Loài người đã sáng tạo nhiều phương thức điều chỉnh hành vi: phong tục, tập

quán, tôn giáo, pháp luật đạo đức…Đối với đạo đức, sự đánh giá hành vi con
người theo khuôn phép chuẩn mực và quy tắc đạo đức biểu hiện thành những
khái niệm về thị giác, vinh và nhục, chính nghĩa và phi nghĩa. Bất kỳ trong
thời đại lịch sử nào, đạo đức con người cũng đều được đánh giá như vậy và
những chuẩn mực, quy tắc đạo đức nhất định được công luận của xã hội, hay
của một giai cấp, dân tộc thừa nhận; đồng thời sự điều chỉnh đạo đức mang
5


tính tự nguyện, và xét về bản chất, đạo đức là sự tự do lựa chọn của con
người.
Thứ ba, đạo đức là hệ thống các giá trị. Đạo đức là một hiện tượng xã
hội, mang tính chuẩn mực: mệnh lệnh, đánh giá rõ rệt. Các hiện tượng đạo
đức thường bày tỏ sự tán thành hay phản đối trước thái độ hoặc hành vi ứng
xử của các cá nhân, giữa các cá nhân với cộng đồng trong một xã hội nhất
định. Vì vậy, đạo đức là một nội dung hợp thành hệ thống giá trị xã hội. Nếu
hệ thống giá trị đạo đức phù hợp với sự phát triển, tiến bộ, thì hệ thống ấy có
tính tích cực, mang tính nhân đạo. Ngược lại, thì hệ thống ấy mang tính tiêu
cực, phản động, phản nhân đạo.
1.1.2 Khái niệm về đạo đức mới
Đạo đức là một trong những quan hệ chủ yếu của đời sống xã hội và ý
thức đạo đức là một hình thái giá trị tinh thần cơ bản của con người và xã
hội. Là một yếu tố cốt lõi của tính cách con người, đạo đức đóng vai trò rất
quan trọng trong đời sống của mỗi con người.
Trong lịch sử phát triển xã hội nói chung và lịch sử phát triển đạo đức
nói riêng đã tồn tại các kiểu đạo đức khác nhau phản ánh trình độ phát triển
của xã hội qua các thời đại khác nhau. Những hình thái sơ khai của quan hệ
đạo đức và ý thức đạo đức đã xuất hiện từ rất sớm ngay trong thời kỳ công
xã nguyên thủy, tiếp đến là sự ra đời, phát triển và thay thế lần lượt của các
kiểu đạo đức chiếm hữu nô lệ, phong kiến và tư bản bản chủ nghĩa. Quy luật

phát triển này tương ứng với sự phát triển và thay thế nhau của các hình thái
kinh tế xã hội, đạo đức là một bộ phận trong đó.
Trong các kiểu đạo đức của lịch sử thì đạo đức tư bản chủ nghĩa là sự
phát triển cao hơn so với các kiểu đạo đức trước đó. Tuy nhiên, khẳng định
tiến bộ đạo đức, C.Mác và Ph.Ănghen đã dự báo cho sự xuất hiện nền đạo
đức mới với tính cách là biểu hiện về mặt đạo đức của xã hội mới - cộng sản
chủ nghĩa mà giai đoạn ban đầu là chủ nghĩa xã hội. Nền đạo đức này là sự
tiếp tục và phát triển của nền đạo đức vô sản đã xuất hiện trong lòng xã hội
tư bản chủ nghĩa.
6


Như vậy, nền đạo đức mới chính là nền đạo đức cộng sản, nền đạo đức
do giai cấp công nhân tạo nên trong quá trình đấu tranh xóa bỏ áp bức bóc
lột của giai cấp tư bản và xây dựng xã hội mới do giai cấp công nhân làm
chủ mà đội tiên phong là Đảng Cộng sản. Như Ph.Ănghen đã chỉ rõ: “Nền
đạo đức có nhiều nhân tố hứa hẹn, lâu dài nhất, chắc chắn nhất là nền đạo
đức hiện nay đang tiêu biểu cho sự lật đổ hiện tại, tiêu biểu cho tương lai,
tức là nền đạo đức vô sản” [4, trang 138] và V.I.Lênin cũng viết: “Đạo đức
đó là những gì góp phần xóa bỏ xã hội cũ của bọn bóc lột và góp phần đoàn
kết tất cả những người lao động chung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo
ra xã hội mới” và “Cơ sở của đạo đức cộng sản là cuộc đấu tranh để củng cố
và hoàn thành công cuộc xây dựng chủ nghĩa cộng sản” [26, trang 369, 372].
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và lý luận về đạo
đức nói riêng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã trở thành
nhà lý luận lõi lạc, là tấm gương đạo đức sáng ngời soi sáng cho sự nghiệp
giải phóng dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Theo Người, đạo
đức cách mạng “không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức
vĩ đại, nó không phải vì danh vọng cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng,
của dân tộc, của loài ngươi” [22, trang 252]. Đạo đức đó được hình thành và

phát triển cùng với quá trình vận động, phát triển sự nghiệp cách mạng của
nhân dân đồng thời, nó kế thừa và phát triển những tinh hoa đạo đức truyền
thống của dân tộc và nhân loại. Người xác định đạo đức cách mạng là “tuyệt
đối trung thành với nhân dân”, “ra sức phấn đấu thực hiện mục tiêu của
Đảng”, “quyết tâm đấu tranh chống mọi kẻ địch”, “đặt lợi ích của Đảng lên
trên hết”, luôn hòa mình với quần chúng. Người viết: “Nói tóm lại, thì đạo
đức cách mạng là:
Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ
chốt nhất.
Ra sức làm việc cho Đảng… thực hiện tốt đường lối, chính sách của
Đảng.
7


Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi
ích riêng của cá nhân mình. Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì
dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc.
Ra sức học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, luôn luôn dùng tự phê bình và
phê bình để nâng cao tư tưởng và cải tiến công tác của mình và cùng đồng
chí mình tiến bộ” [22, trang 285].
Đạo đức mới, đạo đức cách mạng mà Hồ Chí Minh khởi xướng và cùng
Đảng ta xây dựng, bồi dưỡng cho các thế hệ cách mạng và nhân dân ta, xét
về tính giai cấp và mục đích, nó thống nhất với đạo đức vô sản, đạo đức
cộng sản mà C.Mác và Ph.Ănghen là những người đặt nền mống và
V.I.Lênin là người kế thừa, phát triển. Đạo đức mới là đạo đức gắn liền với
lợi ích của giai cấp công nhân nói riêng và của quần chúng nhân dân lao
động nói chung đó là đạo đức chiến đấu vì sự nghiệp cách mạng giải phóng
dân tộc, vì sự tiến bộ của nhân loại, vì tự do, hạnh phúc của mỗi người, mục
đích cuối cùng là góp phần giải phóng triệt để con người, trước hết là giai
cấp công nhân và nhân dân lao động thoát khỏi áp bức bất công xã hội.

1.2 Nguồn gốc của đạo đức
Các quan niệm trước C.Mác về nguồn gốc của đạo đức:
Trước C. Mác những nhà triết học dù là duy tâm hay duy vật đều rơi vào
quan điểm duy tâm khi xem xét vấn đề xã hội và đạo đức. Họ không thấy
được tính quy định của nhân tố kinh tế đối với sự vận động của xã hội nói
chung và về đạo đức nói riêng. Do vậy, họ tách rời đạo đức với cơ sở sản sinh
và quy định bản chất, nội dung của nó là kinh tế - xã hội. Đạo đức trước
C.Mác đã tìm nguồn gốc, bản chất của đạo đức với ngay chính bản tính của
con người, hoặc ở một bản thể siêu nhiên bên ngoài con người, bên ngoài xã
hội. Ở đây, các lý thuyết này đều không coi đạo đức phản ánh cơ sở xã hội,
hiện thực khách quan.
Các nhà triết học - thần học coi con người và xã hội chẳng qua là những
hình thái biểu hiện cụ thể khác nhau của một đấng siêu nhiên nào đó. Những
chuẩn mực đạo đức là những chuẩn mực do thần thánh tạo ra để răn dạy con
8


người, mọi biểu hiện đạo đức của con người đều là sự thể hiện tối cao từ đấng
siêu nhiên và là tiêu chuẩn tối cao để thẩm định thiện - ác chính là sự phán xét
của đấng siêu nhiên đó.
Những nhà duy tâm khách quan tiêu biểu như Platon, sau là Ph.Ănghen
tuy không mượn tới thần linh nhưng lại nhờ tới “ý niệm” hoặc “ý niệm tuyệt
đối”, về các lý giải nguồn gốc và bản chất đạo đức suy cho cùng, cũng tương
tự như vậy.
Những nhà duy tâm chủ quan nhìn nhận đạo đức như là những năng lực
“tiên thiên” của lý trí con người. Ý chí đạo đức hay là “thiện ý” theo cách gọi
của Cantơ, là những năng lực có tính nhất thành bất biến, có trước kinh
nghiệm, nghĩa là có trước và độc lập với những hoạt động mang tính xã hội
của con người.
Khác với các nhà duy tâm, những nhà duy vật trước Mác mà tiêu biểu là

L.Phoi-ơ-bắc đã nhìn thấy đạo đức trong quan hệ con người, người với người.
Nhưng với ông, con người chỉ là một thực thể trừu tượng, bất biến, nghĩa là
con người ở bên ngoài lịch sử, đứng trên giai cấp, dân tộc và thời đại.
Những người theo quan điểm Đác - Uyn xã hội cho rằng những phẩm
chất đạo đức của con người là đồng nhất với bản năng bầy đàn của động vật.
Đối với họ, đạo đức về thực chất cũng chỉ là những năng lực đem lại từ bên
ngoài con người, từ xã hội.
Quan niệm triết học Mác – Lênin về nguồn gốc của đạo đức:
Khác với tất cả các quan niệm trên, C.Mác, Ph.Ănghen đã quan niệm đạo
đức nảy sinh do nhu cầu của đời sống xã hội, là kết quả của sự phát triển lịch
sử. Theo C.Mác, Ph.Ănghen trong quá trình tồn tại và phát triển con người đã
tạo nên mối “quan hệ song trùng”. Một mặt, con người quan hệ với tự nhiên,
tác động vào tự nhiên để thỏa mãn cuộc sống của mình. Mặt khác, khi tác
động vào tự nhiên, con người phải tập hợp cùng nhau, tức con người phải
quan hệ với con người để tác động vào tự nhiên bởi quá trình này nằm ngoài
khả năng của một cá thể đơn lẻ. Sự tác động lẫn nhau giữa người và người là
9


hệ quả của hoạt động vật chất và tinh thần mà cơ bản là hoạt động thực tiễn
và hoạt động nhận thức.
Khi bàn về vai trò của lao động đối với sự hình thành, tồn tại và phát
triển của xã hội loài người, C.Mác - Ph.Ănghen cho rằng: “lao động là điều
kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người” [4, trang 137]; rằng:
“người ta phải ăn, ở, mặc, đi lại trước khi làm chính trị, khoa học, nghệ
thuật…”. Xuất phát từ con người thực tiễn chứ không phải con người thuần
túy ý thức hay con người sinh học, hai ông đi đến quan niệm về phương thức
sản xuất quy định đối với toàn bộ các hoạt động của con người, xã hội loài
người. Trong “lời tựa” của tác phẩm “Góp phần phê phán chính trị - kinh tế
học” C.Mác viết: “Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định quá

trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung, không phải ý thức của
con người quyết định sự tồn tại của họ, trái lại chính sự tồn tại xã hội của họ
quyết định ý thức của họ” [3, trang 15]. Luận điểm này chính là chìa khóa để
khám phá ra tất cả các hiện tượng xã hội trong đó có đạo đức.
Như vậy, đạo đức không là sự biểu hiện của một sức mạnh nào đó ở bên
ngoài xã hội, bên ngoài các quan hệ con người, cũng không là sự biểu hiện
của những năng lực “tiên thiên”, nhất thành bất biến của con người. Với tư
cách là sự phản ánh tồn tại xã hội, đạo đức là sản phẩm của những điều kiện
sinh hoạt vật chất của xã hội, của cơ sở kinh tế. Xét cho cùng, mọi học thuyết
về đạo đức đã và có từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế
của xã hội lúc bấy giờ.
Khi những hình thái kinh tế - xã hội có đối kháng giai cấp thì những hệ
thống đạo đức của các giai cấp khác nhau và đối nghịch nhau đều lấy “những
quan điểm đạo đức của mình từ những quan hệ thực tiễn làm cơ sở cho vị trí
giai cấp của mình, tức là những quan hệ kinh tế trong đó người ta sản xuất và
trao đổi” [4, trang 136]. Trong xã hội phân chia thành giai cấp, đạo đức đã tự
khẳng định mình là một hình thái ý thức xã hội, là lĩnh vực sản xuất tinh thần
của xã hội. Hình thái kinh tế - xã hội có giai cấp là một bước tiến của lịch sử
nhân loại, làm cho đạo đức cũng phát triển theo. Tuy vậy, bước phát triển này
10


cũng làm nảy sinh những cái ác, tham lam, ích kỷ, lừa dối…mà loài người sau
này phải đấu tranh quyết liệt để chống lại nó. Trong xã hội có đối kháng giai
cấp, nội dung và hình thức của đạo đức phát triển nhưng chưa thật nhân đạo,
chưa hoàn thiện. Sự hoàn thiện của đạo đức chỉ có thể đạt được khi con người
chiến thắng được tình trạng đối kháng giai cấp và tạo ra những điều kiện để
có thể “quên được tình trạng đối kháng giai cấp”. Điều kiện đó chỉ có thể có
được trong xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội.
Sự hoàn thiện đạo đức được thực hiện từ đạo đức của giai cấp công nhân, một

dạng đạo đức “có nhiều nhân tố hứa hẹn” để dẫn tới một kiểu đạo đức “thật sự
có tính nhân đạo”.
Như vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, đạo đức sinh ra
trước hết là từ nhu cầu phối hợp hành động trong lao động sản xuất vật chất,
trong quá trình đấu tranh xã hội, trong phân phối sản phẩm, để con người tồn
tại và phát triển. Cùng với sự phát triển của sản xuất, các quan hệ sản xuất,
các quan hệ xã hội, hệ thống các quan hệ đạo đức, ý thức đạo đức, hành vi
đạo đức cũng theo đó mà ngày càng phát triển, ngày càng nâng cao, phong
phú, đa dạng và phức tạp.
Đạo đức là sản phẩm tổng hợp của các yếu tố khách quan và chủ quan, là
sản phẩm của hoạt động thực tiễn và nhận thức của con người. Những quan
hệ người - người, cá nhân - xã hội càng có ý thức, tự giác, ý nghĩa và hiệu quả
của chúng càng có tính chất xã hội rộng lớn thì hoạt động của con người càng
có đạo đức. Đạo đức “đã là sản phẩm của xã hội, và vẫn là như vậy chừng nào
con người còn tồn tại”.
1.3 Bản chất và chức năng của đạo đức
1.3.1 Bản chất của đạo đức
Sự hình thành, phát triển, hoàn thành bản chất xã hội của đạo đức được
quyết định bởi trình độ phát triển và hoàn thiện của thực tiễn và nhận thức xã
hội của con người. Nói cách khác, nội dung khách quan của các quan niệm,
quan điểm, các nguyên tắc, các chuẩn mực đạo đức chính là biểu hiện của
11


trạng thái, một trình độ phát triển nhất định của những điều kiện sinh hoạt vật
chất của xã hội, của cơ sở kinh tế.
Khẳng định tính quy luật của cơ sở kinh tế đối với đạo đức cho phép nhìn
nhận sự biến đổi của đạo đức theo sự biến đổi của cơ sở kinh tế. Phân tích
mối quan hệ giữa cơ sở kinh tế với kiến trúc thượng tầng mà trong đó đạo
đức là yếu tố của nó, C.Mác viết “Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ kiến trúc

thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều, nhanh chóng” [3, trang 15].
Tiếp tục cụ thể hóa tư tưởng của C.Mác, Ph.Ănghen đã luận chứng cho
bản chất xã hội của đạo đức bằng cách chỉ ra tính thời đại, tính dân tộc và
tính giai cấp của đạo đức.
Về tính thời đại, trong tác phẩm Chống Đuyrinh, Ph. Ănghen đã chỉ ra
mối quan hệ của các thời đại đối với các nguyên tắc, các chuẩn mực đạo đức
với tính cách là biểu hiện về mặt đạo đức của các thời đại kinh tế. Phê phán
quan điểm của Đuyrinh về những chân lý đạo đức vĩnh cửu, Ph. Ănghen đã
khẳng định rằng, thực chất và xét đến cùng, các nguyên tắc, các chuẩn mực,
các quan điểm đạo đức chẳng qua chỉ là sản phẩm của các chế độ kinh tế, các
thời đại kinh tế mà thôi.
Về tính dân tộc, có thể nhìn nhận tính dân tộc như là sự biểu hiện đặc thù
tính thời đại của đạo đức trong các dân tộc khác nhau. Là một hình thái ý
thức xã hội, ý thức đạo đức vừa bị quy định bởi tồn tại xã hội, vừa chịu ảnh
hưởng của các hình thái ý thức xã hội khác như chính trị, triết học, nghệ
thuật, tôn giáo… Tổng thể những nhân tố ấy trong mỗi dân tộc là sự khác
biệt nhau, làm thành cái mà ngày nay chúng ta gọi là bản sắc dân tộc. Bản
sắc ấy được phản ánh vào đạo đức tạo nên tính độc đáo của các quan niệm,
các chuẩn mực, cách ứng xử đạo đức, nghĩa là tạo nên tính độc đáo trong đời
sống đạo đức của mỗi dân tộc. Nhìn nhận tính độc đáo ấy về mặt dân tộc
cũng như sự biến đổi chúng qua các thời đại và dân tộc, Ph. Ănghen viết:
“Từ dân tộc này sang dân tộc khác, từ thời đại này sang thời đại khác, những
quan niệm về thiện và ác đã biến đổi nhiều đến mức chúng thường trái ngược
hẳn nhau” [4, trang 135].
12


Về tính giai cấp, C. Mác và Ph. Ănghen cho rằng: “…cho tới nay xã hội
đã vận động trong những sự đối lập giai cấp, cho nên đạo đức cũng luôn luôn
là đạo đức của giai cấp” [4, trang 137]. Trong xã hội có đối kháng giai cấp,

mỗi giai cấp có vai trò và địa vị khác nhau, do đó mà họ có lợi ích khác nhau
và đối nghịch nhau. Đạo đức với tư cách là hình thái ý thức xã hội đã phản
ánh và khẳng định lợi ích của mỗi giai cấp. Ý thức đạo đức giúp mỗi giai cấp
hiểu được lợi ích của nó, hiểu được những cách thức, biện pháp bảo vệ và
khẳng định lợi ích giai cấp. Mặt khác, mỗi giai cấp sẽ sử dụng đạo đức của
mình như là công cụ để bảo vệ lợi ích của mình. Mỗi giai cấp có những lợi
ích riêng, do đó cũng có những quan niệm đạo đức, hệ thống đạo đức riêng.
Tuy nhiên, hệ thống đạo đức áp đặt cho toàn xã hội bao giờ cũng là hệ thống
đạo đức của giai cấp thống trị, mặc dù, trong cuộc sống hàng ngày, mỗi giai
cấp vẫn ứng xử theo những lợi ích trực tiếp của mình.
Đạo đức mang tính giai cấp trong xã hội có giai cấp nhưng không phải vì
vậy mà phủ nhận tính nhân loại chung của đạo đức. Tính nhân loại của đạo
đức tồn tại hình thức thấp là biểu hiện của những quy tắc đơn giản, thông
thường nhưng lại cần thiết để đảm bảo trật tự bình thường cho cuộc sống
hằng ngày của con người. Biểu hiện cao hơn là ở những giá trị đạo đức tiến
bộ nhất trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử, những giá trị đạo đức này
thường là những giá trị đạt được tiến bộ nhất trong từng giai đoạn phát triển
của lịch sử nhân loại.
Như vậy, bên cạnh tính thời đại, tính dân tộc và tính giai cấp, đạo đức
còn mang tính nhân loại. Đi đến tột đỉnh các giá trị đạo đức của giai cấp tiến
bộ của từng thời kì lịch sử, nhân loại sẽ bắt gặp đạo đức của mình tương ứng
với các thời kì lịch sử đó.
1.3.2 Chức năng của đạo đức
Chức năng điều chỉnh hành vi
Đạo đức là phương thức điều chỉnh hành vi. Sự điều chỉnh hành vi làm
cá nhân và xã hội cùng tồn tại và phát triển, đảm bảo quan hệ lợi ích cá nhân
và cộng đồng.
13



Sự điều chỉnh hành vi được thực hiện bằng hai hình thức chủ yếu:
Một là, thông qua dư luận xã hội, ca ngợi, khuyến khích cái thiện, cái tốt,
lên án, phê phán cái ác, cái xấu. Với hình thức này, giá trị đạo đức phụ thuộc
vào sức mạnh và tính đúng đắn của dư luận. Mỗi khi dư luận xã hội được
củng cố và phát triển, được mọi người đồng tình ủng hộ, nó sẽ trở thành sức
mạnh to lớn trong việc điều chỉnh đạo đức. Dân tộc ta có câu ca dao: “Trăm
năm bia đá cũng mòn, ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ”. Chúng ta có thể
thấy, cái “bia miệng” (dư luận xã hội) hàng ngàn năm vẫn lưu truyền, nó lâu
bền hơn cả sắt đá, nó trở thành công cụ lợi hại trong việc điều chỉnh hành vi
đạo đức.
Do đó, nếu dư luận xã hội mỗi khi được hướng dẫn bởi những học thuyết
đạo đức tiên tiến sẽ góp phần điều chỉnh hành vi đạo đức, làm cho nó phù hợp
với sự tiến bộ xã hội, tạo nên những giá trị đạo đức tích cực.
Hai là, bản thân chủ thể đạo đức tự giác điều chỉnh hành vi của mình
theo những chuẩn mực đạo đức xã hội. Cách điều chỉnh này phụ thuộc vào
việc giáo dục, giác ngộ của chủ thể đạo đức. Bởi lẽ, trong quan hệ đạo đức
chủ thể đạo đức vừa tham gia vào hành vi ứng xử, vừa là người phán xét hành
vi ứng xử của chính mình. Khi thực hiện hành vi ứng xử, chủ thể đạo đức dựa
vào các chuẩn mực được hình thành trong bản thân họ. Nếu các chuẩn mực đó
phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội, nó sẽ trở thành cơ sở khách quan làm
cho hành vi đạo đức của cá nhân phù hợp với lợi ích xã hội, được dư luận
đồng tình ủng hộ. Ngược lại, mỗi khi chuẩn mực cá nhân sai lệch chuẩn mực
xã hội sẽ dẫn đến những hành vi đạo đức cá nhân không phù hợp với lợi ích
xã hội. Trong trường hợp này, dư luận xã hội sẽ lên án, phê phán.
Khi phán xét hành vi ứng xử của mình, chủ thể đạo đức căn cứ vào
chuẩn mực đạo đức cá nhân họ. Nếu không thực hiện được một quan hệ đạo
đức nào đó đúng như chuẩn mực bản thân, thì lương tâm họ bị cắn rứt, họ
cảm thấy ân hận, xấu hổ về hành vi của mình. Như vậy, với cách thức điều
chỉnh này, giá trị đạo đức được hình thành trong mỗi chủ thể đạo đức đó là cơ
14



sở cho hành vi đạo đức của mỗi cá nhân phù hợp với lợi ích và sự tiến bộ xã
hội.
Tóm lại, mục đích điều chỉnh của đạo đức nhằm đảm bảo sự tồn tại và
phát triển xã hộ bằng việc tạo nên sự hài hòa quan hệ lợi ích cộng đồng và cá
nhân (và có khi còn ưu tiên lợi ích cá nhân). Đối tượng điều chỉnh của đạo
đức là hành vi cá nhân (trực tiếp) qua đó điều chỉnh quan hệ cá nhân với cộng
đồng (gián tiếp). Cách thức điều chỉnh của đạo đức được biểu hiện qua sự lựa
chọn giá trị đạo đức; xác định chương trình của hành vi bởi lý tưởng đạo đức;
xác định phương án cho hành vi bởi chuẩn mực đạo đức; tạo nên động cơ của
hành vi bởi niềm tin, lý tưởng, tình cảm đạo đức, kiểm soát, uốn nắn hành vi
bởi dư luận xã hội.
Chức năng giáo dục
Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể của lịch sử. Con
người tạo ra hoàn cảnh đến mức nào thì hoàn cảnh cũng tạo ra con người đến
mức ấy.
Con người sinh ra bắt gặp hệ thống đạo đức của xã hội. Hệ thống ấy tác
động đến con người và con người tác động lại hệ thống. Hệ thống đạo đức do
con người tạo ra sau khi ra đời hệ thống đạo đức tồn tại như là cái khách quan
hóa tác động chi phối con người.
Xã hội có giai cấp hình thành và tồn tại nhiều hệ thống đạo đức mà các
cá nhân chịu sự tác động. Ở đây, môi trường đạo đức: Tác động đến đạo đức
cá nhân bằng nhận thức đạo đức và thực tiễn đạo đức. Nhận thức đạo đức để
chuyển hóa đạo đức xã hội thành ý thức đạo đức cá nhân. Thực tiễn đạo đức
là hiện thực hóa nội dung giáo dục bằng hành vi đạo đức. Các hành vi đạo
đức lặp đi lặp lại trong đời sống xã hội và cá nhân làm cả đạo đức cá nhân và
xã hội được củng cố, phát triển thành thói quen, truyền thống, tập quán đạo
đức.
Hiệu quả giáo dục đạo đức phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, cách

thức tổ chức, giáo dục mức độ tự giác của chủ thể và đối tượng giáo dục trong
quá trình giáo dục.
15


Giáo dục đạo đức gắn với tiến bộ đạo đức:
Nhân đạo hóa các quan hệ xã hội và mức độ phổ biến nhân đạo hóa các
quan hệ xã hội; sự hoàn thiện của cấu trúc đạo đức và mức độ phổ biến của
nó…sẽ giúp chủ thể lựa chọn, đánh giá đúng các hiện tượng xã hội, đánh giá
đúng tư cách của người khác hay cộng đồng cũng như tự đánh giá đúng thông
qua mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ, nội dung, phương thức, hình thức và các
bước đi của quá trình giáo dục sẽ giúp mỗi cá nhân và cộng đồng tạo ra các
hành vi và thực tiễn đạo đức đúng.
Như vậy, chức năng giáo dục của đạo đức cần được hiểu một mặt “giáo
dục lẫn trong cộng đồng”, giữa cá nhân và cá nhân, giữa cá nhân và cộng
đồng; mặt khác sự “tự giáo dục” ở các cấp độ cá nhân lẫn cấp độ cộng đồng.
Chức năng nhận thức
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức có chức năng nhận
thức thông qua sự phản ánh tồn tại xã hội.
Sự phản ánh của đạo đức với hiện thực có đặc điểm riêng khác với các
hình thái ý thức khác. Đạo đức là phương thức đặc biệt của sự chiếm lĩnh thế
giới con người. Nếu xét dưới gốc độ bản thể luận, đạo đức là hệ thống tinh
thần (nhận thức đạo đức) không tách rời thực tiễn - hành động của con người.
Do vậy, đạo đức là hiện tượng xã hội vừa mang tính tinh thần vừa mang tính
hành động hiện thực.
Sự nhận thức của đạo đức có đặc điểm:
Hành động đạo đức tiếp liền sau nhận thức giá trị đạo đức. Và đa số
trường hợp quá trình đó có sự hào quyện ý thức đạo đức với hành động đạo
đức. Ở hình thái ý thức xã hội khác, chẳng hạn như khoa học thì việc ứng
dụng các thành tựu khoa học có khoảng cách về không gian và thời gian.

Nhận thức của đạo đức là quá trình vừa hướng ngoại (hướng ra ngoài) và
hướng nội (tự nhận thức - hướng vào chính mình, chính chủ thể).
Nhận thức hướng ngoại lấy chuẩn mực, giá trị, đời sống, đạo đức của
xã hội làm đối tượng. Nhờ sự nhận thức này mà chủ thể nhận thức đã chuyển
16


hóa đạo đức của xã hội như là cái chung thành ý thức đạo đức của cá nhân
như là cái riêng.
Nhận thức hướng nội (tự nhận thức), lấy bản thân mình - chủ thể đạo
đức - làm đối tượng nhận thức. Đây là quá trình tự đánh giá, tự thẩm định, tự
đối chiếu những nhận thức, hành vi, đạo đức của mình với những chuẩn mực
giá trị chung của cộng đồng. Từ cách nhận thức này mà chủ thể hình thành
phát triển thành các quan điểm và nguyên tắc sống: sang tạo hay chủ động, hy
sinh hay hưởng thụ, vị tha hay vị kỷ, hướng thiện hay sa vào tội ác…
Trong tự nhận thức, vai trò của dư luận xã hội và lương tâm là to lớn. Dư
luận xã hội là sự bình phẩm, đánh giá từ phía xã hội đối với chủ thể, còn
lương tâm là sự phê bình. Cả hai đều giúp chủ thể tái tạo lại giá trị đạo đức
của mình - giá trị mà xã hội mong muốn.
Tự nhận thức giúp chủ thể ý thức được trách nhiệm của mình và sẵn sàng
để nó hoàn thành trách nhiệm đó. Trong cuộc sống có vô số những trách
nhiệm như vậy. Nó luôn đặt ra trong quan hệ phong phú giữa chủ thể đạo đức
với xã hội, gia đình, bạn bè, đồng chí, đồng đội, tập thể, dân tộc, giai cấp, tổ
quốc.
Nhận thức đạo đức (đạo đức phản ánh hiện thực) ở hai trình độ: trình độ
thông thường và trình độ lý luận.
Nhận thức đạo đức ở trình độ thông thường là ý thức thông thường,
những giá trị riêng lẻ. Nó đáp ứng nhu cầu đạo đức thông thường đủ để chủ
thể xử lý kịp thời trong cuộc sống và sự phát triển bình thường của xã hội.
Mọi cá nhân đều có thể và cần phải phản ánh đạo đức ở trình độ này.

Nhận thức đạo đức ở trình độ lý luận là những nhận thức có tính nguyên
tắc được chỉ đạo bởi những giá trị đạo đức có tính tổng quát. Trình độ này đáp
ứng những đòi hỏi của sự phát triển đạo đức và tiến bộ xã hội. Đây là yếu tố
không thể thiếu được trong tư tưởng và hành vi của các giai cấp cầm quyền.
Nhận thức đạo đức đưa lại tri thức đạo đức, ý thức đạo đức. Các cá nhân,
nhờ tri thức đạo đức, ý thức đạo đức xã hội đã nhận thức (trở thành đạo đức
cá nhân). Cá nhân hiểu và tin ở các chuẩn mực, lý tưởng giá trị đạo đức xã hội
17


trở thành cơ sở để cá nhân điều chỉnh hành vi, thực hiện đạo đức (hiện thực
hóa đạo đức).
1.4 Sự cần thiết của đạo đức và giáo dục đạo đức đối với thanh niên
1.4.1 Sức mạnh của truyền thống đạo đức trong lịch sử phát triển
của dân tộc
Dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, vấn đề truyền thống đạo đức đã luôn
được khai thác và trở thành những nhân tố quyết định mọi thắng lợi của
mạng.
Trong lịch sử lâu đời của dân tộc, có biết bao truyền thống tốt đẹp đã
hình thành, được dư luận xã hội tôn vinh, trở thành lương tâm và vinh dự của
mỗi người như: cần cù lao động, dũng cảm chiến đấu, tình nghĩa thủy chung
với đồng bào, yêu nước, anh dũng bất khuất trước quân thù…
Tuy nhiên, do điều kiện hình thành của nó, truyền thống không chỉ có
tác dụng tích cực mà cũng còn ảnh hưởng tiêu cực. Nó bộc lộ ở những lúc
tình hình và nhiệm vụ lịch sử đã thay đổi, truyền thống cũ không còn thích
hợp nữa mà vẫn được giữ lại, trở thành những cản trở đối với cuộc sống.
C.Mác, Ph.Ănghen và V.I.Lênin luôn tỏ thái độ kiên quyết đối với những
truyền thống tiêu cực: “Truyền thống của tất cả các hệ thống đã chết đè nặng
như quả núi lên đầu ở những người đang sống”.
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và

của Đảng ta về giáo dục đạo đức truyền thống, chúng ta kiên quyết đấu tranh
gạt bỏ mọi tập quán lỗi thời cản trở bước tiến của xã hội, nhưng phải hết sức
nâng niu quý trọng, phát huy những truyền thống tốt đẹp làm động lực thúc
đẩy tiến bộ xã hội ta.
Trong những truyền thống quý báu của dân tộc, nổi bật lên nhất là
truyền thống đạo đức. Nó được giữ gìn và phát huy từ đời này sang đời khác,
trở thành một tình cảm sâu sắc, một lẽ sống tự nhiên và gần gũi với toàn thể
nhân dân, một niềm tự hào chính đáng và cao quý của mỗi con người Việt
Nam.
18


Ngày nay, chúng ta luôn đề cao và tiếp thu những phẩm chất đạo đức
cao đẹp trong truyền thống của ông cha, coi đó là lẽ sống cao đẹp của mỗi cá
nhân. Quần chúng nhân dân thường hướng về học tập và tấm gương đạo đức
của những anh hùng dân tộc như: Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Thường Kiệt, Lê
Lợi…
Yêu quý anh hùng, học tập và noi theo những tấm gương đạo đức là
truyền thống được nối tiếp từ đời này qua đời khác. Hình ảnh Bà Trưng, Bà
Triệu đã gần hai ngàn năm nay nhưng vẫn sống mãi trong lòng kính phục,
thương yêu của nhân dân ta.
Từ thời Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi…cho
đến chủ tịch Hồ Chí Minh đã được nhân dân ta tôn thờ, ca ngợi. Và các anh
hùng sau lại nhắc tới các anh hùng trước để học tập, noi theo và vươn lên cao
hơn nữa.
Những truyền thống anh hùng được chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng
chí lãnh đạo của Đảng luôn nhấn mạnh và nêu cao. Chủ tịch Hồ Chí Minh
giáo dục lòng tự hào của chúng ta đối với truyền thống dân tộc: “chúng ta có
quyền tự hào về những trang lịch sử vẻ vang của thời đại Bà Trưng, Bà Triệu,
Trần Hưng Đạo, Lê Lợi…chúng ta phải ghi nhớ công lao của các vị anh hùng

dân tộc, vì các vị ấy là tiêu biểu của một dân tộc anh hùng”.
Thái độ quý trọng anh hùng và biểu dương truyền thống đạo đức đã tạo
ra trong nhân dân ta một niềm vinh dự chính đáng. Đó là sức mạnh tinh thần
luôn thôi thúc những hành động cứu nước, cứu dân.
Một số truyền thống đạo đức của dân tộc ta:
Trong đời sống của nhân dân ta từ xưa đến nay, nhiều phẩm chất đạo
đức quý báu luôn được nhắc nhở như: tinh thần lao động cần cù, sáng tạo,
lòng yêu nước thương dân, ý kiên cường bất khuất, đầu óc thực tiễn, tinh thần
lạc quan…những phẩm chất ấy nổi lên và trở thành truyền thống đạo đức của
dân tộc ta.
Truyền thống đạo đức trong việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ:
Thứ nhất, ý thức xây dựng Tổ quốc và chủ quyền độc lập dân tộc.
19


Để khắc phục mọi khó khăn thử thách trước thiên nhiên, dân tộc Việt
Nam đã từng bước xây dựng Tổ quốc mình về mọi mặt: kinh tế, xã hội, chính
trị, văn hóa và chiến đấu chống giặc ngoại xâm đến cùng để bảo vệ chủ quyền
dân tộc. Vì vậy xây dựng Tổ quốc và bảo vệ chủ quyền dân tộc đã sớm trở
thành yêu cầu cao nhất về đạo đức Việt Nam.
Thứ hai, quyết tâm giành và giữ chủ quyền dân tộc.
Suốt thời kỳ Bắc thuộc, nhân dân Việt Nam sống khổ cực dưới ách áp
bức của giặc ngoại xâm, đã liên tục đấu tranh nhằm giải phóng đất nước. Kiên
trì và bất khuất, họ tìm mọi cách để giành cho được độc lập và chủ quyền đất
nước.
Khởi nghĩa Hai Bà Trưng đã mở đầu những trang oanh liệt đấu tranh
giành độc lập tự do cho dân tộc ta. Sau ba năm giành lại chính quyền, cuộc
khởi nghĩa đã tỏa sáng suốt một nghìn năm bị đô hộ. Ngọn lửa anh hùng nhen
nhúm lên từ cuộc khởi nghĩa ấy đã luôn luôn bừng cháy chẳng bao giờ tắt.
Lịch sử đã ghi nhận sự nghiệp chiến đấu anh dũng của dân tộc ta với

những tên tuổi bất diệt của Triệu Thị Trinh, Triệu Quan Phục, Mai Thúc
Loan, Khúc Thừa Dụ…những cuộc nổi dậy của dân tộc Việt Nam đã nhiều
lần làm gián đoạn sự thống trị của quân xâm lược bằng việc thành lập những
chính quyền độc lập tồn tại từ 3, 4 năm đến 5, 6 chục năm… Cuối cùng với
chiến thắng Bạch Đằng, Ngô Quyền quân dân Việt Nam đã chấm dứt sự cai
trị lâu dài của quân xâm lược, vĩnh viễn chôn vùi sự hung tàn và cường bạo
của chúng dưới dòng sông lịch sử và mở ra kỷ nguyên rực rỡ của văn minh
Đại Việt.
Ngày nay, tiếp nối truyền thống cha ông, kiên quyết bảo vệ chủ quyền
đất nước, chúng ta đã chiến đấu kiên cường và chiến thắng oanh liệt những
đội quân xâm lược hung hãn và hùng mạnh. Chúng ta kiên quyết không cho
bất cứ một kẻ thù nào đến lấn chiếm biên cương hoặc xâm phạm bất cứ một
phần nhỏ nào thuộc phạm vi vùng trời, vùng biển và hải đảo của Tổ quốc.
Truyền thống đạo đức trong cuộc sống cộng đồng:
Không ai có thể sống và tồn tại ngoài cộng đồng, cộng đồng là điều
20


kiện sống và là sức mạnh trường tồn của mỗi dân tộc. Chúng ta thường xuyên
phải chống lại quân xâm lược vô cùng lớn mạnh và hung ác, nếu không có
tinh thần “toàn dân chống giặc, cả nước một lòng” thì khó có thể giành thắng
lợi.
Những nhân tố tích cực trong đạo đức làng xã:
Sự tồn tại lâu dài của công xã nông thôn có tác dụng củng cố tính cộng
đồng làng xã, nhưng trong quá trình phát triển lịch sử, nó cũng bộc lộ nhiều
nhược điểm.
Cho đến nay, những học giả nghiên cứu công xã Việt Nam đều thống
nhất nhận định về vai trò quan trọng của nó trong việc hình thành những
phẩm chất đạo đức của con người Việt Nam trong quan hệ hàng ngày, trước
hết là tình cảm cộng đồng giữa người với người.

Làng xã Việt Nam đã phát huy được ý thức tập thể, tinh thần chủ động
và sáng tạo của mỗi người, tính cộng đồng được củng cố bền chặt trong
những phong tục tập quán kéo dài từ đời này qua đời khác.
Làng xã Việt Nam đã có những đóng góp to lớn trong những thời kỳ
chống ngoại xâm. Làng xã đã trở thành những pháo đài kiên cố, những đơn vị
chiến đấu rất lợi hại đối với kẻ thù dân tộc, khiến cho quân ngoại xâm gặp
phải những khó khăn lớn trong việc đánh chiếm và bình định. Bọn chúng đi
đến đâu cũng bị đánh bại. Chúng đánh vùng này thì vùng khác nổi lên cứu
viện.
Nếu chế độ làng xã đã mang lại những thuận lợi cho sản xuất và chiến
đấu, thì sản xuất và chiến đấu lại củng cố thêm những truyền thống tích cực
của làng xã, tạo nên tình yêu thương sâu sắc của con người Việt Nam trong
quan hệ với đồng bào, với Tổ quốc.
Từ cộng đồng làng xã mở rộng đến cộng đồng dân tộc và cộng đồng
nhân loại.
Ở Việt Nam, tính cộng đồng làng xã đã sớm được mở rộng thành tính
cộng đồng dân tộc. Chính vì thế mà mối quan hệ mật thiết giữa những dân cư
21


trên dải đất Việt Nam ngày càng mật thiết hơn, tinh thần đoàn kết dân tộc và ý
thức về lòng yêu Tổ quốc không ngừng nâng cao.
“Bầu ơi thương lấy bí cùng”, đó là tình cảm chân thành giữa các dân
tộc an hem cùng chung một số phận, cùng an vui, cùng hoạn nạn. Tinh thần
đoàn kết ấy là một truyền thống lâu đời khiến quân xâm lược phải khiếp sợ.
Thực chất của tính cộng đồng trong truyền thống đạo đức Việt Nam:
Tính cộng đồng được biểu hiện rất sinh động và phong phú trong cuộc
sống hàng ngày của nhân dân. Mọi người cùng nhau chia sẻ những niềm vui
và nỗi buồn. Cùng vui với nhau mỗi khi có lễ lộc, hội hè, khi có đám cưới,
ngày sinh, ngày mừng thọ, dịp thi đổ, dịp làm nhà mới. Cùng buồn với nhau

và nâng đỡ nhau khi có điều bất hạnh.
Thái độ niềm nở, tính hiếu khách của người Việt Nam không chỉ bộc lộ
trong phạm vi họ hàng, thôn xóm mà còn mở rộng ra đối với vả nước ngoài.
Ở đây chúng ta chỉ thấy trong văn hóa giao tiếp mà còn thấy toát lên vẻ đẹp
và sự sâu sắc của tính cộng đồng Việt Nam trong quan hệ giữa người với
người.
Tình cảm sâu sắc đối với cộng đồng đi liền với nghĩa vụ. Mọi người
đều tôn trọng và có nghĩa vụ lao động, chiến đấu và học tập để phục vụ cho
quê hương, đất nước. Sức mạnh của cá nhân kết tụ lại thành sức mạnh của
cộng đồng và sức mạnh của cộng đồng lại thâm nhập vào sức mạnh của cá
nhân, đem lại cho cá nhân ý chí và niềm tin mới trong cuộc sống.
Với tính cộng đồng, người Việt Nam đặt lợi ích cộng đồng cao hơn lợi
ích cá nhân, lợi ích Tổ quốc cao hơn lợi ích gia đình. Mỗi cá nhân đều cảm
thấy tình cảm sâu sắc nhất và hạnh phúc cao nhất của mình là được sống giữa
tình yêu thương của gia đình, làng xã và Tổ quốc. Trong cuộc sống của người
Việt Nam, điều đau khổ nhất là phải tách ra khỏi cuộc sống cộng đồng. Có thể
nói rằng tính cộng đồng của người Việt Nam là cơ sở bền vững cho truyền
thống đạo đức Việt Nam, cho tinh thần dũng cảm phi thường và đầu óc mưu
trí, sáng tạo.
22


×