Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

Sinh viên trường đại học sư phạm hà nội 2 với văn hoá đọc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 68 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
--------------------

HOÀNG THỊ OANH

SINH VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC
SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 VỚI VĂN HÓA ĐỌC

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH: THƢ VIỆN - THÔNG TIN

HÀ NỘI, 2012


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
--------------------

HOÀNG THỊ OANH

SINH VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ
PHẠM HÀ NỘI 2 VỚI VĂN HÓA ĐỌC

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH: THƢ VIỆN - THÔNG TIN

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
TS. LÊ VĂN VIẾT

HÀ NỘI, 2012




LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập tại Khoa Công Nghệ Thông Tin - Trƣờng Đại
học Sƣ phạm Hà Nội 2 em đã nhận đƣợc rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ của
các thầy cô trong và ngoài trƣờng.
Trƣớc hết, em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành sâu sắc tới thầy giáo,
TS. Lê Văn Viết đã tận tình hƣớng dẫn em thực hiện khóa luận này.
Em xin chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu Trƣờng Đại học Sƣ phạm
Hà Nội 2; Ban Chủ nhiệm Khoa Công nghệ thông tin, cùng toàn thể cán bộ
thƣ viện Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện thuận lợi cho
em đƣợc thực tập, nghiên cứu, khảo sát phục vụ đề tài của mình.
Và em cũng xin chân thành cảm ơn tới quý thầy cô trong khoa đã tận
tình giảng dạy, trang bị cho em những kiến thức cần thiết trong suốt quá trình
học tập tại trƣờng. Tất cả những điều đó là nguồn động lực rất lớn để em có
thể hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Trong một thời gian ngắn và trình độ bản thân có hạn nên khóa luận
không thể tránh khỏi những thiếu sót, song em rất mong nhận đƣợc ý kiến chỉ
bảo, đóng góp của thầy cô và các bạn để đề tài đƣợc hoàn thiện hơn và bản
thân có thêm nhiều tri thức cần thiết để áp dụng một cách có hiệu quả trong
công tác sau này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 25 tháng 04 năm 2012
Tác giả
Hoàng Thị Oanh


LỜI CAM ĐOAN
Tên tôi là: Hoàng Thị Oanh
Sinh viên lớp: K34A – Thƣ viện - Thông tin, Trƣờng Đại học Sƣ phạm

Hà Nội 2.
Tôi xin cam đoan:
1. Đề tài: “Sinh viên Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2 với văn hóa
đọc” là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, dƣới sự hƣớng dẫn của thầy giáo TS.
Lê Văn Viết.
2. Khóa luận chƣa từng đƣợc công bố trong bất kì công trình khoa học
nào khác.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 25 tháng 04 năm 2012
Ngƣời cam đoan
Hoàng Thị Oanh


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN
MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: TẦM QUAN TRỌNG CỦA VĂN HÓA ĐỌC VỚI
VIỆC NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 ........................................... 6
1.1. Một số vấn đề lý luận về văn hóa đọc ............................................ 6
1.1.1. Khái niệm văn hóa đọc............................................................ 6
1.1.2. Các thành tố của văn hóa đọc ............................................... 10
1.1.3. Các yếu tố tác động tới văn hóa đọc ..................................... 14
1.2. Chất lƣợng học tập của sinh viên Trƣờng Đại học Sƣ phạm
Hà Nội 2 từ văn hóa đọc .......................................................................... 17
1.2.1. Đặc điểm của sinh viên Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 ...... 17
1.2.2. Vai trò của văn hóa đọc với việc nâng cao chất lượng học
tập của sinh viên Đại học Sư phạm Hà Nội 2 ............................................ 20
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG VĂN HÓA ĐỌC CỦA SINH VIÊN

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 .......................................... 24
2.1. Những biểu hiện văn hóa đọc của sinh viên Trƣờng Đại học
Sƣ phạm Hà Nội 2 .................................................................................... 24
2.1.1. Nhu cầu đọc ........................................................................... 24
2.1.2. Kỹ năng đọc ........................................................................... 29
2.1.3. Ứng xử với sách .................................................................... 31
2.2. Những yếu tố ảnh hƣởng tới văn hóa đọc của sinh viên Đại
học Sƣ phạm Hà Nội 2 ............................................................................. 32


2.2.1. Ảnh hưởng của các phương tiện thông tin giải trí và mạng
internet ....................................................................................................... 32
2.2.2. Phương pháp dạy và học trong trường đại học hiện nay ..... 35
2.2.3. Chất lượng hoạt động của thư viện ...................................... 36
2.2.4. Nhận xét về văn hóa đọc của sinh viên Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội 2 và vai trò của thư viện Đại học Sư phạm Hà Nội 2 tới
sự phát triển văn hóa đọc của sinh viên ..................................................... 42
CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN VĂN HÓA ĐỌC CHO
SINH VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 ................... 44
3.1. Đổi mới nội dung chƣơng trình và phƣơng pháp giảng dạy ... 44
3.2. Nâng cao chất lƣợng hoạt động của thƣ viện ............................. 45
3.2.1. Tăng cường nguồn lực thông tin thư viện ............................. 46
3.2.2. Đa dạng hóa các hình thức phục vụ sinh viên ...................... 47
3.2.3. Tăng cường đào tạo người dùng tin ..................................... 49
3.3. Giáo dục văn hóa đọc cho sinh viên ............................................ 51
KẾT LUẬN ............................................................................................... 54
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................... 56
PHỤ LỤC 1 ............................................................................................... 58
PHỤ LỤC 2 ................................................................................................ 61



MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Khoa học và công nghệ ngày càng phát triển vƣợt bậc làm thay đổi mọi
mặt đời sống xã hội và hình thành nên xã hội thông tin. Những thành tựu công
nghệ thông tin hiện đại đã giúp cho con ngƣời trao đổi, tìm kiếm thông tin
ngày càng thuận tiện và nhanh chóng.
Tuy nhiên, bên cạnh những tiện ích mà chúng mang lại đều có những
mặt trái nếu chúng ta không biết sử dụng đúng cách các nguồn lực. Trong
những năm gần đây, với sự phát triển mạnh mẽ của internet và các phƣơng
tiện truyền thông đại chúng, sách báo truyền thống vẫn không mất đi vị trí
quan trọng trong việc truyền tải thông tin. “Văn hóa đọc” đã và đang là vấn đề
thu hút sự quan tâm chung của toàn xã hội. Văn hóa đọc luôn là một vấn đề
quan tâm của mọi quốc gia trong việc nâng cao dân trí, góp phần làm bền
vững nguồn nhân lực - nhân tố quyết định mọi thành công. Đọc sách vốn là
một nét đẹp từ xa xƣa, không phải của riêng ngƣời Việt, mà toàn nhân loại đã
tôn vinh nét đẹp đó. Hằng năm cả thế giới đã dành riêng ngày 23 tháng 4 là
“Ngày sách và bản quyền thế giới”(World Book And Copyright Day) để
khuyến khích việc đọc sách.
Sự bùng nổ của công nghệ thông tin đã làm con ngƣời bị ngập trong
một thế giới với hỗn độn hàng loạt các thông tin khác nhau. Ngoài việc không
có thời gian đọc sách, ngƣời ta khó có thể lọc cho mình những thông tin có
giá trị. Điều đó càng trở nên nghiêm trọng hơn khi mà giới trẻ, nhất là tầng
lớp sinh viên không còn hứng thú đọc. Trong hai năm 2009 - 2010 và những
năm trở về trƣớc, văn hóa đọc đƣợc đƣa ra bàn bạc sôi nổi ở các cuộc hội
thảo, trên internet và các phƣơng tiện truyền thông. Những vấn đề nhƣ: “30
tuổi không có thói quen đọc sách là… hết cách” của TS. Nguyễn Mạnh Hùng;

1



“Văn hóa đọc của giới trẻ có xuống cấp”; “Bệnh lười đọc của sinh viên”… là
những chủ đề thƣờng xuyên đƣợc nhắc đến.
Nền kinh tế Việt Nam đang định hƣớng chuyển nhanh và mạnh sang
nền kinh tế tri thức, cùng với sự bùng nổ về thông tin nhiều vấn đề đƣợc đặt
ra; điều này đòi hỏi mỗi chúng ta phải luôn nổ lực học hỏi. Đặc biệt sinh viên
là tầng lớp đông đảo, một lực lƣợng lao động trí óc lớn nhất cho xã hội trong
tƣơng lai. Nhƣ lời V.LêNin đã dạy, ngƣời ta phải học suốt đời “Học, học nữa,
học mãi”. Và dĩ nhiên để có đƣợc vốn tri thức phong phú ngƣời ta cũng phải
đọc cả đời. Nhƣng quãng thời gian ham đọc và đọc hiệu quả nhất là những
tháng năm ngồi trên ghế nhà trƣờng. Những kiến thức cơ bản đƣợc nhập tâm
và hình thành nên nền văn hóa, tri thức đƣợc tích lũy từ đó. Nên một câu hỏi
đặt ra là đọc cái gì? Đọc nhƣ thế nào cho có hiệu quả? Và nhƣ vậy văn hóa
đọc trở nên có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình học tập của sinh viên tại
ngôi trƣờng theo học. Lƣời đọc sách, đọc không đều và không biết cách đọc
sẽ dẫn tới sự thiếu hụt tri thức đối với tầng lớp sinh viên. Nhà văn Lỗ Tấn đã
từng nói: “Viết một chữ trong bụng phải có một tấn chữ, muốn nói một từ
trong đầu phải có một ngàn từ”. Việc dành quá ít thời gian cho việc đọc sách
sẽ khiến họ không có chiều sâu tri thức, lƣời vận động, thiếu tìm tòi, và đây sẽ
là nguy cơ xấu đối với sự phát triển của toàn xã hội. LêNin đã dạy rằng:
“Không có sách, không có tri thức. Không có tri thức, không có chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa cộng sản”. Vì vậy để làm đƣợc điều đó rất cần có sự tích lũy
về văn hóa, vốn hiểu biết, kinh nghiệm sống, cách sống… Sự tích lũy đó đƣợc
thể hiện qua một quá trình học tập lâu dài, không chỉ học ở trƣờng mà phần
quan trọng quyết định là quá trình tự học qua việc đọc sách của mỗi cá nhân,
nói rộng ra là văn hóa đọc.
Hệ thống giáo dục đại học của nƣớc ta trong những năm gần đây đã có
những chuyển biến quan trọng. Việc đẩy mạnh, nâng cao quá trình tự học, tự

2



đào tạo đã trở thành mục tiêu chính trong các trƣờng đại học. Hệ thống các
thƣ viện trƣờng đƣợc đầu tƣ đúng mức nhằm đáp ứng nhu cầu tự học, tự
nghiên cứu của sinh viên, đồng thời giúp nâng cao trình độ văn hóa đọc của
sinh viên, góp phần thúc đẩy quá trình tự đào tạo ngày càng trở nên có hiệu
quả. Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2 cũng nằm trong xu hƣớng vận động
và phát triển chung của xã hội. Đặc biệt là một trong những trƣờng đào tạo ra
các cử nhân sƣ phạm, cử nhân khoa học hàng đầu trong quá trình đổi mới và
hội nhập. Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2 có những điểm riêng biệt trong
quá trình đào tạo; từ đó có những nét đặc thù trong văn hóa đọc của sinh viên.
Tìm hiểu những nét đặc thù đó, làm cơ sở điều chỉnh hoàn thiện hoạt động
thông tin - thƣ viện là một vấn đề quan trọng và cấp thiết.
Chính vì vậy, chúng tôi đã lựa chọn vấn đề: “Sinh viên Trường Đại
học Sư phạm Hà Nội 2 với văn hóa đọc”, làm đề tài khóa luận tốt nghiệp bậc
đại học chuyên ngành thƣ viện - thông tin. Để có thể từ việc nghiên cứu vai
trò của văn hóa đọc với một bộ phận sinh viên Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà
Nội 2, góp phần làm sáng tỏ hơn về văn hóa đọc của sinh viên ngày nay nói
chung.
2. Lịch sử vấn đề
Ngày nay, văn hóa đọc của thanh niên trong đó đặc biệt là văn hóa đọc
của sinh viên đang thu hút sự quan tâm của toàn xã hội cũng nhƣ các nhà
nghiên cứu trong và ngoài nƣớc.
Nhiều luận văn, diễn đàn xã hội, các bài viết về văn hóa đọc đƣợc công
bố trên các tạp chí khoa học và các phƣơng tiện thông tin đại chúng trong
nƣớc. Một số công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề này nhƣ: “Giáo dục
văn hóa đọc cho lứa tuổi thiếu nhi” (2006) của Trần Thị Minh Nguyệt; “Đẩy
mạnh văn hóa đọc trong bối cảnh bùng nổ thông tin và truyền thông” (2006)
của Trần Văn Hà... và rất nhiều bài viết đăng trên các báo, tạp chí điện tử nhƣ:


3


“Đọc và văn hóa đọc trước ngưỡng cửa thông tin” (2006) của Phạm Văn
Tình; “Tản mạn về chuyện đọc” của Hà Văn Thịnh; “Sinh viên với văn hóa
đọc sách” (2011) của Phạm Tử Văn…
Nhìn chung, các tác phẩm nói trên đều đề cập tới sự xuống cấp của văn
hóa đọc hiện nay, nhất là văn hóa đọc của giới trẻ, học sinh, sinh viên. Tuy
nhiên các tác phẩm nói trên chƣa đi sâu tìm hiểu một cách toàn diện đến các
biểu hiện văn hóa đọc của sinh viên nói chung và sinh viên Trƣờng Đại học
Sƣ phạm Hà Nội 2 nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích:
Khóa luận tập trung nghiên cứu, khảo sát thực trạng văn hóa đọc của
sinh viên Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2, làm cơ sở để định hƣớng giáo
dục văn hóa đọc và tìm giải pháp thúc đẩy quá trình tự học cho sinh viên đại
học cũng nhƣ nâng cao chất lƣợng hoạt động thƣ viện.
Nhiệm vụ:
Để thực hiện mục tiêu trên khóa luận có những nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu tìm hiểu về văn hóa đọc và vai trò của văn hóa đọc với
việc nâng cao chất lƣợng quá trình tự học của sinh viên.
- Khảo sát thực trạng văn hóa đọc của sinh viên Trƣờng Đại học Sƣ
phạm Hà Nội 2.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa vai trò của văn hóa
đọc đối với việc học tập của sinh viên Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là văn hóa đọc của sinh viên.
- Phạm vi nghiên cứu: Để phù hợp với khuôn khổ của một khóa luận tốt
nghiệp, phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn ở Trƣờng Đại học Sƣ phạm
Hà Nội 2.


4


5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Các phƣơng pháp cụ thể đƣợc sử dụng trong khóa luận là:
- Phƣơng pháp phân tích - tổng hợp tài liệu
- Phƣơng pháp điều tra bằng phiếu hỏi
- Quan sát
- Thống kê số liệu
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Về lý luận:
Trên cơ sở tổng hợp, phân tích các tài liệu và các công trình nghiên cứu
đi trƣớc, khóa luận sẽ góp phần làm rõ hơn khái niệm văn hóa đọc nói chung
và biểu hiện văn hóa đọc của sinh viên nói riêng.
Về thực tiễn:
Việc xử lý kết quả điều tra xã hội học với những biểu hiện văn hóa đọc
của sinh viên sẽ cho thấy thực trạng văn hóa đọc của sinh viên Trƣờng Đại
học Sƣ phạm Hà Nội 2 hiện nay. Kết quả nghiên cứu của khóa luận sẽ là tài
liệu tham khảo thiết thực cho lãnh đạo nhà trƣờng, các cán bộ thƣ viện, và các
nhà quản lý giáo dục quan tâm đến việc nâng cao trình độ văn hóa đọc, góp
phần đẩy mạnh quá trình tự học của sinh viên.
7. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ
lục, nội dung của khóa luận đƣợc chia làm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Tầm quan trọng của văn hóa đọc với việc nâng cao chất
lƣợng học tập của sinh viên Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2.
Chƣơng 2: Thực trạng văn hóa đọc của sinh viên Trƣờng Đại học Sƣ
phạm Hà Nội 2.
Chƣơng 3: Giải pháp phát triển văn hóa đọc cho sinh viên Trƣờng Đại

học Sƣ phạm Hà Nội 2.

5


CHƢƠNG 1
TẦM QUAN TRỌNG CỦA VĂN HÓA ĐỌC VỚI VIỆC NÂNG
CAO CHẤT LƢỢNG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC
SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
1.1. Một số vấn đề lý luận về văn hóa đọc
1.1.1. Khái niệm văn hóa đọc
Theo nhà ngôn ngữ học PGS.TS. Phạm Văn Tình: “Văn hóa đọc chính
là thái độ, là cách ứng xử của chúng ta đối với tri thức sách vở. Phải biết đọc
sao cho hợp lí và bổ ích. Đọc sao cho hợp với quy luật tiếp nhận tri thức”.
Văn hóa đọc là một bộ phận của văn hóa. Vậy văn hóa là gì?
Văn hóa là khái niệm có nội hàm rộng lớn, xung quanh vấn đề này có
nhiều định nghĩa khác nhau. Theo Bách khoa toàn thƣ mở Wikipedia: “Văn
hóa là khái niệm để chỉ một số những kết quả của hoạt động sáng tạo có giá
trị của loài người. Nguyên nghĩa của văn là xăm thân, và nghĩa gốc của văn
hóa là nét xăm mình mà qua đó người khác nhìn vào để nhận biết mình.
Nghĩa hẹp của từ này chỉ người có giáo dục, hành vi cư xử phù hợp với chuẩn
mực đạo đức xã hội”. Tuy nhiên, không phải hoạt động nào của con ngƣời
cũng là văn hóa, chúng còn cần phải tồn tại trong một thời kì lịch sử liên tục
và các giá trị đó phải lập thành một hệ thống chặt chẽ.
Văn hóa là nét đẹp trong lịch sử loài ngƣời đƣợc truyền từ đời này sang
đời khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Trong quá trình vận động phát triển,
nghĩa của văn hóa ngày càng đƣợc mở rộng hơn và xuất hiện ngày càng nhiều
trong các lĩnh vực xã hội để chỉ các hành vi ứng xử của con ngƣời. Văn hóa
bao gồm nhiều lĩnh vực rộng và bao quát: nghệ thuật, giải trí, xã hội và tôn
giáo. Nhƣng nhìn chung tất cả các hiện tƣợng văn hóa đều thuộc một trong

bốn thành tố sau: Văn hóa nhận thức; Văn hóa tổ chức cộng đồng; Văn hóa

6


ứng xử với môi trƣờng tự nhiên; Văn hóa ứng xử với môi trƣờng xã hội. Và
nhƣ vậy, văn hóa là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của loài ngƣời.
Sinh thời Bác Hồ là ngƣời có ý thức sâu sắc về văn hóa. Trong con
ngƣời của Hồ Chí Minh luôn toát lên một nét văn hóa giản dị, mộc mạc của
ngƣời dân Việt Nam. Không những vậy, Ngƣời luôn luôn nêu cao vai trò của
văn hóa trong việc giáo dục và rèn luyện đạo đức con ngƣời mới. Từ đó
Ngƣời đã nêu lên quan niệm về văn hóa nhƣ sau: “Văn hóa là sự tổng hợp
của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã
sản sinh ra nhằm thích ứng với những nhu cầu của đời sống và đòi hỏi sinh
tồn”.
Văn hóa đọc cũng chính là một phần văn hóa của con ngƣời đƣợc lƣu
truyền qua nhiều thế kỷ. Từ khi chữ viết ra đời, cùng với nó là hoạt động đọc
của con ngƣời cũng xuất hiện. Khi công nghệ in ấn phát triển, hoạt động đọc
của con ngƣời ngày càng phổ biến hơn trong xã hội. Sách báo cung cấp cho ta
những thông tin về tri thức, khoa học kĩ thuật, chính trị, kinh tế, văn học…
Trong sách báo lƣu giữ những kinh nghiệm sống, kinh nghiệm sản xuất và
chiến đấu mà con ngƣời đã đúc kết và tích lũy lại trong quá trình sống. Thông
qua quá trình đọc và tự đọc, các tri thức này đƣợc truyền từ đời này qua đời
khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, các hình thức
và các phƣơng tiện giúp con ngƣời tiếp cận với tri thức ngày càng đa dạng và
phong phú. Hoạt động đọc trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống
của con ngƣời, nó là biểu hiện hành vi của cả một cộng đồng, văn hóa đọc
hình thành và phát triển nhƣ là một trình độ văn hóa của một giai đoạn lịch sử
nhất định.

Văn hóa đọc đem tới cho con ngƣời kho tàng tri thức, các giá trị văn
hóa văn minh của thế hệ đi trƣớc truyền lại.

7


Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Sách là liều thuốc bổ tinh thần. Sách
là thuốc chữa tội ngu”. Nhƣ vậy đọc sách vừa là nền tảng, là cơ sở cho sự
phát triển những ý tƣởng sáng tạo mới, vừa góp phần nâng cao dân trí, vừa là
phƣơng tiện lƣu giữ tri thức, kinh nghiệm cho các thế hệ sau. Chính vì vậy mà
văn hóa đọc bao giờ cũng là nét đẹp truyền thống của mỗi dân tộc.
Tuy nhiên, đọc sách không phải là việc dễ. Sách là sản phẩm của con
ngƣời, mang theo dấu ấn của con ngƣời. Trong xã hội có ngƣời tốt kẻ xấu thì
trên thị trƣờng sách cũng có sách hay sách dở. Đặc biệt là ngày nay, khi mà
tiến bộ khoa học kĩ thuật phát triển không ngừng, dẫn đến khối lƣợng xuất
bản phẩm tăng mạnh, bao gồm cả xuất bản phẩm in trên giấy và xuất bản
phẩm điện tử, thì việc đọc càng khó khăn hơn nhiều. Ngày nay, việc đọc chỉ
đem lại kết quả mong muốn, với điều kiện ngƣời đọc có sự chuẩn bị đầy đủ
về văn hóa đọc.
Vậy văn hóa đọc là gì? Ở nƣớc ta hiện nay có rất nhiều quan niệm khác
nhau về “Văn hóa đọc”.
Ở nghĩa rộng: “Đó là ứng xử, giá trị và chuẩn mực đọc của các nhà
quản lý và cơ quan quản lý nhà nước, ứng xử đọc của cộng đồng xã hội và
ứng xử đọc của mỗi cá nhân trong xã hội. Ứng xử, giá trị và chuẩn mực đọc
của các nhà quản lý và cơ quan quản lý nhà nước là chính sách, đường lối và
ứng xử hàng ngày nhằm phát triển nền văn hoá đọc”[17].
Ở nghĩa hẹp: “Văn hoá đọc là ứng xử, giá trị và chuẩn mực đọc của
mỗi cá nhân. Ứng xử, giá trị và chuẩn mực này cũng gồm ba thành phần: thói
quen đọc, sở thích đọc và kỹ năng đọc. Ba thành phần này cũng là ba lớp, ba
vòng tròn không đồng tâm, ba vòng tròn giao nhau”[17].

Theo Nguyễn Công Phúc trong bài viết “Văn hóa đọc và công tác đào
tạo hƣớng dẫn bạn đọc - ngƣời dùng tin” thì: Văn hóa đọc là cách đọc tích
cực, nhằm mục tiêu khai thác, sử dụng có hiệu quả những thông tin, tri thức

8


chứa đựng trong sách và trong các loại tài liệu khác, bao gồm cả tài liệu in
và tài liệu điện tử. Văn hóa đọc bao hàm toàn bộ những kiến thức, kỹ năng,
thói quen cần cho người đọc, để đạt tới mục tiêu đọc.
Văn hóa đọc thực sự đã trở thành một chủ đề thu hút sự quan tâm của
xã hội và giới khoa học. Tuy có sự khác nhau nhất định, song xét cho cùng có
thể khái quát những quan niệm đó theo hai khuynh hƣớng chính. Khuynh
hƣớng thứ nhất, là cách tiếp cận văn hóa đọc từ phía đối tƣợng đọc, nhu cầu
đọc, đây là quan niệm tƣơng đối phổ biến ở nƣớc ta hiện nay. Khuynh hƣớng
thứ hai, tiếp cận văn hóa đọc một cách toàn diện hơn, không thể xem xét chủ
thể đọc cái gì? Đọc nhƣ thế nào? Mà còn ở khả năng lĩnh hội thông tin đọc
đƣợc ở mức độ nào? Đồng thời nó bao hàm cả thái độ ứng xử với sách báo
của ngƣời đọc[11].
Khoa học, công nghệ càng phát triển, thuật ngữ “Văn hóa đọc” ngày
càng đƣợc nhắc đến nhiều hơn trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng.
Song, không phải ai cũng hiểu hết về khái niệm này. V.I.LêNin đã từng nói
rằng: “Đọc cũng là một nghệ thuật, một khoa học”. Nghệ thuật trong văn hóa
đọc chính là đọc sao cho hợp lý, khoa học và tích cực nhất. “Văn hóa đọc”
không chỉ thể hiện ở chỗ mỗi ngày bạn đọc đƣợc bao nhiêu trang sách mà nó
thể hiện ở chỗ liệu bạn có tìm đƣợc những cuốn sách phù hợp với mình? Sách
tạo cho bạn sự đam mê, hứng thú nhƣ thế nào với những thông tin đọc đƣợc
và những thông tin đó giúp gì cho bạn trong cuộc sống? Văn hóa đọc còn
đƣợc thể hiện ở cách đối xử với những cuốn sách và đọc chúng nhƣ thế nào?
Văn hóa đọc xét cho cùng là nhằm vào chất lƣợng của việc đọc. Tùy theo

những điều kiện cụ thể mà có những biểu hiện chất lƣợng văn hóa đọc khác
nhau. Tuy nhiên để chất lƣợng văn hóa đọc ngày càng đƣợc cải thiện và nâng
cao, ngƣời đọc sách cần có nhu cầu và hứng thú đọc, cũng nhƣ kỹ năng đọc
sao cho dễ hiểu và dễ cảm thụ nội dung cuốn sách.

9


1.1.2. Các thành tố của văn hóa đọc
Trong khóa luận này tác giả đi sâu tìm hiểu văn hóa đọc theo khuynh
hƣớng thứ hai, đƣợc mô tả: “Văn hóa đọc cần phải được hiểu một cách toàn
diện, cả giá trị của đối tượng đọc (sách, báo), cả ở trình độ cảm thụ và thái
độ ứng xử với sách báo của chủ thể (người đọc)”. Xuất phát từ quan niệm
này: “Văn hóa đọc được nhìn nhận từ ba khía cạnh chủ yếu: đặc điểm nhu
cầu và hứng thú đọc, kỹ năng đọc, phong cách ứng xử với sách báo”[11].
Theo quan điểm nêu trên, “Văn hóa đọc” bao gồm các thành tố sau:
nhu cầu đọc, kỹ năng đọc, và văn hóa ứng xử với sách.
Nhu cầu đọc
Trong mọi mặt của cuộc sống, con ngƣời luôn luôn có những mong
muốn và những đòi hỏi khác nhau. Đó chính là những nhu cầu của con ngƣời
nhằm duy trì sự sống và sự phát triển. Nhu cầu của con ngƣời là một khái
niệm rất rộng, nó là đòi hỏi khách quan của con ngƣời với một đối tƣợng nhất
định, trong những điều kiện nhất định, đảm bảo duy trì sự sống, sự phát triển
của con ngƣời. Nhu cầu đó là những mong muốn thỏa mãn về nhu cầu vật
chất, tinh thần trí tuệ, và giao lƣu tình cảm, trong đó có mong muốn đƣợc sử
dụng về sách - loại nhu cầu tinh thần trí tuệ.
Nhu cầu đọc là thái độ nhận thức hoặc cảm thụ của người đọc (cá
nhân, nhóm xã hội) đối với việc đọc như đối với hoạt động cần thiết của cuộc
sống mà nhờ đó các nhu cầu giao tiếp, nhận thức, thẩm mĩ được thỏa mãn
[18].

Nhu cầu đọc thuộc nhóm nhu cầu tinh thần của con ngƣời và đó là nhu
cầu cấp cao. Nhu cầu đọc đƣợc hình thành và phát triển trong những điều kiện
nhất định và đạt tới một trình độ nhất định. Có rất nhiều yếu tố ảnh hƣởng tới
nhu cầu đọc nhƣ: Lứa tuổi; Trình độ hiểu biết và khả năng nhận thức của ngƣời
đọc; Tính chất nghề nghiệp cụ thể của từng ngƣời; Nhân cách… Tóm lại, nhu

10


cầu nhận thức và hiểu biết thế giới khách quan cũng nhƣ những nhu cầu giao
tiếp trong xã hội làm nảy sinh nhu cầu đọc. Đồng thời đọc sách góp phần làm
phát triển nhận thức và hiểu biết con ngƣời. Tuy nhiên không đồng nhất nhu
cầu đọc và hứng thú đọc cũng nhƣ không đối lập hứng thú với nhu cầu.
Hứng thú đọc là thái độ lựa chọn tích cực của người đọc khi đọc những
tài liệu hấp dẫn về mặt cảm xúc hoặc có giá trị đối với chủ thể ở một khía
cạnh nào đó [18].
Nhƣ vậy, nhu cầu đọc là đọc những gì cần đọc. Ngƣời ta có thể đọc
một cuốn sách do có nhu cầu nhƣng chƣa phải đã có hứng thú.
Sinh viên là bộ phận trí thức trẻ tuổi, họ chính là chủ nhân tƣơng lai của
đất nƣớc, đồng thời là lực lƣợng trình độ cao, góp phần quyết định cho sự
phát triển của đất nƣớc. Họ đang trong thời kỳ học hỏi, trau dồi kiến thức, họ
cần trang bị cho mình đầy đủ tri thức cần thiết cho tƣơng lai. Chính vì vậy
sinh viên là đối tƣợng có nhu cầu đọc rất lớn. Nhu cầu đọc của họ chủ yếu tập
trung vào việc thỏa mãn việc tự học và khả năng tự sáng tạo của mình.
Kỹ năng đọc
Để có đƣợc một kỹ năng đọc sách đó là điều không phải dễ dàng,
không phải bất cứ ai cầm cuốn sách trong tay là đã có kỹ năng đọc. Kỹ năng
đọc sách là cả một nghệ thuật. Nói chung, không có một quy chuẩn nào về
đọc sách. Có những cuốn sách nên đọc kĩ nhƣng có những cuốn sách chỉ cần
đọc lấy ý chính là đủ...

Nhƣ vậy, kỹ năng đọc đƣợc hình thành nhƣ thế nào?
PGS.TS Phạm Văn Tình đã nói: “Muốn biết đọc trước hết phải ham
đọc. Bởi đọc là một sở thích nhưng cũng là công việc đầy nặng nhọc. Nhiều
người coi việc đọc để giải trí, một thú vui. Song, đọc không phải là một trò
chơi nếu ta muốn phấn đấu thành tài”. Chỉ khi chúng ta coi việc đọc nhƣ một
say mê, tự thân ta mới dám vƣợt khó, mới ham đọc và mới hiểu hết những tri

11


thức nằm trong sách vở. Có nhiều tri thức phải qua bao nhiêu “cửa” ta mới có
cơ hội hiểu hết, “thẩm thấu” và biến thành tri thức của riêng mình. Mỗi ngƣời
có kỹ năng đọc riêng, nó đƣợc hình thành trong mỗi con ngƣời thông qua quá
trình đọc.
Đọc, xét cho cùng là một công việc gian nan, đầy lao lực, phải có kinh
nghiệm và phải đƣợc trang bị một tri thức nền cần có. Đó là cả một quá trình
học hỏi, tự đúc rút những kinh nghiệm cho bản thân ngƣời đọc sách.
Kỹ năng đọc là thành tố quan trọng nhất trong cấu trúc văn hóa đọc, là
khả năng hiểu, lĩnh hội và cảm thụ tác phẩm, biến tri thức kinh nghiệm trong
sách thành tri thức kinh nghiệm của chính mình để có thể vận dụng một cách
nhuần nhuyễn, sáng tạo trong khi tiến hành các hoạt động sống khác nhau
[11].
Kỹ năng đọc phụ thuộc vào nhiều yếu tố: tri thức, kinh nghiệm, năng
lực và tính chất các quá trình tâm lý trong mỗi cá nhân, đồng thời cũng là kết
quả của quá trình rèn luyện lâu dài của chính họ.
Kỹ năng đọc là sự thể hiện tổ hợp những thao tác tƣ duy đƣợc xác lập
thành thói quen ứng xử đọc. Các thao tác tƣ duy đó là:
Lựa chọn vấn đề cần đọc.
Biết định hƣớng nguồn tài liệu cần thiết cho bản thân.
Thể hiện tính hệ thống, liên tục trong quá trình lựa chọn tài liệu từ đơn

giản đến phức tạp.
Biết cách tiếp nhận tối đa nội dung tài liệu đọc.
Biết vận dụng các biện pháp kỹ thuật để cũng cố và đào sâu những nội
dung đã đọc nhƣ ghi chép, soạn tóm tắt, viết chú giải, trao đổi với ngƣời khác.
Biết vận dụng vào thực tiễn những nội dung đọc để cải thiện cuộc sống
của họ: hiểu nội dung và hiểu các khái niệm; biết cách đi đến các nội dung, đi
đến các khái niệm.

12


Kỹ năng đọc cũng thể hiện trình độ văn hóa của mỗi cá nhân. Kỹ năng
đọc ảnh hƣởng rất nhiều tới chất lƣợng đọc: Nếu bạn có kỹ năng đọc tốt bạn
sẽ lĩnh hội đƣợc hết thông tin mà tác giả muốn truyền đạt; ngƣợc lại nếu
không có kỹ năng đọc, những thông tin đó sẽ trở nên vô giá trị, thậm chí còn
làm bạn hiểu sai ý nghĩa của tác phẩm. Một cuốn sách có ngƣời hiểu theo
nghĩa này, có ngƣời lại hiểu theo nghĩa khác, và cũng không phải ai cũng hiểu
hết ý nghĩa mà tác giả muốn truyền đạt trong cuốn sách của họ.
Thói quen và kỹ năng đọc mang tính chất đồng loạt, còn sở thích đọc
lại phụ thuộc hoàn toàn vào từng cá nhân cụ thể (trình độ giáo dục và thiên tƣ
cá nhân), ví dụ: có ngƣời thích đọc thơ, có ngƣời thích đọc tiểu thuyết, có
ngƣời thích đọc sách nghiên cứu, có ngƣời thích đọc sách khoa học kỹ thuật,
văn hoá nghệ thuật ... Yếu tố này tạo ra sự đa dạng, phong phú, giàu mầu sắc
cho nền văn hoá đọc trong xã hội.
Nếu xét văn hoá đọc của từng cá nhân thì phải đảm bảo có đủ cả ba yếu
tố trên. Do đó một ngƣời có thói quen đọc, nhƣng thiếu kỹ năng đọc, hiệu quả
đọc không cao, thậm chí không có hiệu quả và chỉ mất thời gian vô ích. Nếu
nắm vững kỹ năng đọc, nhƣng không tạo đƣợc thói quen đọc, cũng chẳng thu
lƣợm đƣợc kiến thức là bao, thiếu những kiến thức cần thiết cho cuộc sống
của chính họ.

Kỹ năng đọc cần đƣợc hoàn thiện nhƣ một hệ thống hoàn chỉnh. Từ kỹ
năng đọc hiểu các đoạn, các phần trong chính văn đến tóm tắt thông tin, chọn
lọc thông tin, khái quát hóa các chủ đề đến phân tích và đánh giá thông tin…
đều cần đƣợc rèn luyện và phát triển trong quá trình lâu dài.
Đối với sinh viên, có một kỹ năng đọc thật tốt sẽ giúp ích rất nhiều cho
quá trình tự học và tự nghiên cứu. Kỹ năng lựa chọn sách để đọc và phƣơng
pháp đọc quyết định phần lớn đến chất lƣợng học tập của sinh viên. Để có
đƣợc phƣơng pháp đọc và phƣơng pháp học làm sao cho có hiệu quả là điều

13


không dễ dàng. Bởi vậy mà mỗi sinh viên nên trang bị cho mình một kỹ năng
cũng nhƣ phƣơng pháp đọc tối ƣu và phù hợp nhất để lĩnh hội các kiến thức
từ sách vở một cách nhanh nhất.
Văn hóa ứng xử với sách
Thuật ngữ văn hóa ứng xử tồn tại hàng ngày trong đời sống của con
ngƣời. Văn hóa ứng xử chính là cách mà con ngƣời thể hiện thái độ của mình
với ngƣời khác và môi trƣờng xung quanh.
Sách và văn hóa đọc đã trở thành một cặp phạm trù mang tính tích cực
và không thể thiếu trong đời sống xã hội. Sách là chiếc cầu nối giữa những
ngƣời bạn, những tình bạn, những tình yêu…mà kỉ niệm về nó thƣờng không
bao giờ ngƣời ta quên đƣợc. Sách báo là sản phẩm kết tinh các giá trị văn hóa
của nhân loại, là tài sản tinh thần của thế hệ đi trƣớc truyền lại cho thế hệ sau.
Văn hóa ứng xử với sách thể hiện ở việc bạn có tôn trọng những cuốn sách sản phẩm trí tuệ của ngƣời khác hay không. Nói tới văn hóa ứng xử với sách
là nói tới việc bạn tiếp thu những thông tin đó nhƣ thế nào, bạn đối xử với
những cuốn sách đó ra sao?
Có nhiều ngƣời đọc sách nhƣng không biết giữ gìn và quý trọng sách,
đem sách cắt, xé, làm nhầu nát…Có thể bạn đang tìm một vài hình ảnh minh
họa cho đề tài của mình và bạn sẵn sàng cắt nó từ bất cứ cuốn sách nào bạn

thấy. Và sẽ không thể có chuyện bạn yêu sách nếu bất cứ lúc nào bạn cũng có
thể viết, vẽ bậy lên sách báo hay thậm chí đọc xong thì quăng vào chỗ nào đó.
1.1.3. Các yếu tố tác động tới văn hóa đọc
Văn hóa đọc chịu ảnh hƣởng tới rất nhiều yếu tố nhƣ: Sự phát triển của
khoa học kỹ thuật; Môi trƣờng xã hội; Lứa tuổi; Nghề nghiệp; Trình độ văn
hóa…
Sự phát triển của khoa học kỹ thuật
Trƣớc khi có nghề in, vốn tài liệu rất ít ỏi vì không đƣợc nhân bản
nhiều, lúc này văn hóa đọc đã hình thành nhƣng chƣa phát triển. Kể từ khi

14


công nghệ in ấn ra đời và phát triển, nguồn thông tin ngày càng phong phú và
đa dạng đáp ứng nhu cầu của con ngƣời, kể từ đó văn hóa đọc cũng phát triển
mạnh mẽ.
Ngày nay khi khoa học, công nghệ phát triển nhƣ vũ bảo mang lại
nhiều tiện ích cho con ngƣời. Con ngƣời không chỉ tiếp cận thông tin trên
sách vở mà còn trên mạng internet ở mọi lúc mọi nơi. Vật liệu chứa đựng
thông tin ngày càng phong phú và đa dạng (băng từ, đĩa từ, CD-ROM…), tạo
điều kiện cho văn hóa đọc ngày càng phát triển phong phú hơn.
Môi trường xã hội
Môi trƣờng xã hội có ảnh hƣởng rất lớn tới văn hóa đọc. Văn hóa đọc ở
mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ lịch sử lại có những biểu hiện khác nhau.
Từ trƣớc TK XIX: sách là tài sản quý giá của con ngƣời, là phƣơng tiện
hiệu quả nhất ghi lại các giá trị văn hóa nhân loại truyền lại cho thế hệ mai
sau. Văn hóa đọc là công cụ quan trọng giúp mỗi ngƣời và cả xã hội tiếp nhận
thông tin tri thức.
Cùng với sự phát triển của xã hội và những thành tựu công nghệ thông
tin và viễn thông, nhiều phƣơng tiện nghe nhìn xuất hiện đã phần nào làm

giảm bớt vai trò của văn hóa đọc. Có giai đoạn văn hóa đọc dƣờng nhƣ bị văn
hóa nghe nhìn lấn át. Đặc biệt thanh thiếu niên là đối tƣợng bị lôi cuốn bởi
phƣơng tiện nghe nhìn hiện đại, một bộ phận thanh niên thờ ơ với sách, lƣời
đọc sách. Hậu quả của nó dẫn đến tình trạng không có chiều sâu tri thức, thiếu
sự tìm tòi sáng tạo trong học sinh, sinh viên. Đây là nguy cơ xấu của xã hội.
Cùng với sự phát triển của thời đại văn minh công nghệ cao, các tiện
ích mà khoa học công nghệ mang lại sẽ hỗ trợ để văn hóa đọc kết hợp với văn
hóa nghe nhìn trong một hình thức mới. Việc đọc để học không bao giờ có thể
mất đi, trái lại nó là nhu cầu thiết yếu của mỗi cá nhân cũng nhƣ toàn xã hội,
đặc biệt là sinh viên - lực lƣợng lao động có trình độ cao trong tƣơng lai.
Trình độ văn hóa

15


Trình độ văn hóa là yếu tố tác động nhiều nhất tới văn hóa đọc. Tri
thức càng cao thì nhu cầu đọc càng sâu, đòi hỏi nhiều phƣơng thức thỏa mãn
khác nhau, kỹ năng đọc càng hoàn thiện.
Nghề nghiệp
Thực tế cho thấy nghề nghiệp có ảnh hƣởng tới nhu cầu đọc, mỗi nghề
khác nhau có nhu cầu đọc khác nhau. VD: Những ngƣời lao động chân tay có
văn hóa đọc không rõ ràng nhƣ những ngƣời lao động trí óc. Sách báo mà họ
tìm đọc là những tin mang tính giải trí, tin ngắn...
Lứa tuổi
Ở mỗi độ tuổi khác nhau, văn hóa đọc lại có những cấp độ khác nhau
do đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi.
- Ở lứa tuổi thiếu nhi, văn hóa đọc đang trong quá trình hình thành và
phát triển, có nhiều biến động.
- Ở lứa tuổi trƣởng thành, đây là giai đoạn nhận thức về thế giới, do đó
việc tập trung chủ yếu phục vụ cho việc học tập và giải trí.

- Ở độ tuổi trung niên, là lúc văn hóa đọc biểu hiện rõ nét nhất. Việc
đọc chủ yếu phục vụ cho quá trình nghiên cứu và đáp ứng nhu cầu công việc
và hiểu biết xã hội.
- Ở độ tuổi về già, việc đọc chủ yếu là sách báo về y học, xã hội...
Hoạt động thư viện
Thƣ viện có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao chất lƣợng văn
hóa đọc. Thƣ viện các trƣờng đại học là một trong những yếu tố quan trọng
không thể thiếu trong sự nghiệp giáo dục đào tạo. Có thể thấy hệ thống thƣ
viện trƣờng đại học với việc nâng cao chất lƣợng văn hóa đọc cho sinh viên ở
những điểm sau:
- Thƣ viện trƣờng đại học là nơi tàng trữ, bảo quản các tài liệu, thu
thập, bổ sung, trao đổi các tài liệu cần thiết đáp ứng nhu cầu cho sinh viên.

16


- Thƣ viện đại học là nơi cung cấp nguồn tin quan trọng nhất trong nhà
trƣờng.
- Bên cạnh đó, thƣ viện đại học cung cấp các phƣơng tiện và hƣớng dẫn
cho sinh viên phƣơng pháp sử dụng tài liệu một cách có hệ thống các giáo
trình, các tài liệu tham khảo, sách báo phục vụ các nhu cầu khác.
- Nghiên cứu, quản lý, rèn luyện thói quen, hứng thú đọc của sinh viên,
giúp họ hoàn thiện năng lực tự học, tự đào tạo và có khả năng áp dụng những
kiến thức đã học vào cuộc sống một cách có hiệu quả.
- Thƣ viện đại học là điểm kết nối giữa nguồn tin của xã hội và nhu cầu
thông tin của sinh viên.
- Không ngừng nâng cao chất lƣợng đội ngũ cán bộ thƣ viện nhằm
phục vụ tốt hơn nhu cầu bạn đọc.
- Thƣ viện đại học có thể góp phần cải tiến nội dung, chƣơng trình
giảng dạy.

- Thƣ viện giúp bạn đọc vƣợt qua hiện tƣợng bùng nổ thông tin.
Nhƣ vậy, một hệ thống thƣ viện đƣợc xây dựng tốt sẽ góp phần nâng
cao chất lƣợng giảng dạy, học tập, đào tạo nhân lực, bồi dƣỡng nhân tài, tạo
điều kiện hiểu biết, khả năng nghiên cứu khoa học cho bạn đọc. Vì thƣ viện
lƣu giữ những kinh nghiệm và tri thức của nhân loại nên con ngƣời vẫn rất
cần học hỏi và không ngừng học hỏi ở thƣ viện.
1.2. Chất lƣợng học tập của sinh viên Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2
từ văn hóa đọc
1.2.1. Đặc điểm của sinh viên Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Trong thời kỳ nền kinh tế mở cửa, Việt Nam tham gia nhiều tổ chức
kinh tế thế giới, đó là điều kiện thuận lợi nhƣng cũng là thách thức lớn. Vì
vậy việc đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao là yêu cầu cấp thiết đối với sự
phát triển của đất nƣớc. Trách nhiệm đó đƣợc đặt lên vai ngành giáo dục nƣớc

17


ta. Vấn đề tự học, tự đào tạo đƣợc quan tâm đặt lên hàng đầu trong các trƣờng
đại học, đặc biệt là trong các trƣờng sƣ phạm nhƣ Trƣờng Đại học Sƣ phạm
Hà Nội 2.
Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2 là một trong các trƣờng đại học sƣ
phạm đầu nghành của nƣớc ta. Đào tạo chủ yếu nguồn nhân lực về cử nhân sƣ
phạm và cử nhân khoa học đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam, Trƣờng Đại học Sƣ phạm
Hà Nội 2 là một trƣờng đại học sƣ phạm có quy mô đào tạo khá lớn (khoảng
hơn 7000 sinh viên, cán bộ giảng viên) với 23 chuyên nghành đào tạo đại học
thuộc 11 khoa và một bộ môn trực thuộc, 9 chuyên nghành thạc sĩ, 2 chuyên
ngành nghiên cứu sinh.
Với những chức năng và nhiệm vụ đào tạo nhƣ thế, nhu cầu chủ yếu
của sinh viên Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2 là các tài liệu về các lĩnh

vực: Toán học, Ngữ văn, Hóa học, Vật lý, Tin học, Sinh học, Sử học, Việt
nam học, Thƣ viện học…Bên cạnh đó để đáp ứng nhu cầu hiểu biết của mình
sinh viên Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2 cũng quan tâm nhiều tới các lĩnh vực
Kinh tế, Thể thao, Giải trí... và những thông tin nền tảng ban đầu cho những
kinh nghiệm trong học tập và trong cuộc sống sau này.
Sinh viên là bộ phận ƣu tú đƣợc tuyển chọn qua các kỳ thi quốc gia,
quốc tế và đƣợc đào tạo trong các trƣờng đại học. Họ là một nhóm xã hội đặc
thù, đang trong giai đoạn hoàn thiện và phát triển nhân cách, năng động, sáng
tạo, chịu khó tìm kiếm và nghiên cứu, nhạy cảm với những cái mới và ham
hiểu biết tích lũy kiến thức; nắm vững kĩ năng dạy và học trang bị cho hành
trang vào đời.
Trong xã hội sinh viên luôn là nguồn nhân lực đƣợc đào tạo với trình
độ cao. Mỗi thế hệ thanh niên nói chung, sinh viên Việt Nam nói riêng đều
thuộc về một nền văn hóa xã hội - lịch sử nhất định. Lịch sử tạo cơ sở vật chất

18


và tinh thần cho họ thực hiện vai trò và vị thế của mình trong xã hội, đồng
thời họ cũng là lớp ngƣời có nhiều đóng góp tích cực cho sự nghiệp chung
của đất nƣớc. Sinh viên là lực lƣợng kế tiếp, bổ sung cho đội ngũ tri thức
trong tƣơng lai. Do vậy, sinh viên Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2 có một
số đặc điểm tâm, sinh lý đặc trƣng của sinh viên cả nƣớc nhƣ sau:
- Họ là lớp ngƣời có văn hóa cao và sống tập trung phần lớn ở trung
tâm kinh tế,văn hóa của đất nƣớc nên có nhiều điều kiện để đón nhận những
thông tin về khoa học kỹ thuật, văn hóa, chính trị, tƣ tƣởng...từ bên ngoài.
- Là đội ngũ có trình độ tiên tiến trong hàng ngũ thanh niên Việt Nam.
Với tƣ cách là những tri thức tƣơng lai, sinh viên có những quan điểm, nhu
cầu và những nguyện vọng riêng trong việc tiếp nhận những thay đổi của thời
đại, của giáo dục và đào tạo.

- Đây là độ tuổi mà con ngƣời đã có những bƣớc trƣởng thành nhất
định cả về tâm, sinh lý lẫn quan hệ xã hội. Về mặt sinh học, đây là giai đoạn
phát triển gần nhƣ hoàn chỉnh về thể chất và tinh thần của mỗi cá nhân. Do đó
sự phát triển sinh lý của sinh viên không chỉ đem lại tiền đề tất yếu để họ sinh
hoạt và học tập độc lập, mà còn ảnh hƣởng trực tiếp đến sự phát triển tâm lý,
khiến họ nhận thức đƣợc rằng mình đã là ngƣời lớn, yêu cầu độc lập, tự chủ
rất mạnh mẽ, mong muốn thể hiện năng lực của mình. Trí tuệ phát triển tới
đỉnh cao, gồm nhiều mặt trong đó năng lực nhận thức, năng lực tƣ duy và
năng lực sáng tạo là điều cốt lõi.
- Sinh viên có nhu cầu rất đa dạng. Nhu cầu học tập và nghiên cứu của
sinh viên có tác động tích cực đến sự phát triển đạo đức nhân cách của họ.
Hoạt động học tập và nghiên cứu giúp sinh viên nâng cao hiểu biết, trau dồi
tri thức. Cũng chính nó giúp hình thành lao động tự giác và sáng tạo trong
mỗi sinh viên, là động lực thúc đẩy họ nâng cao khả năng, tích lũy kiến thức
về chính trị, xã hội, nghề nghiệp.

19


×