Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Nâng cao hiệu quả chương trình giáo dục thể chất cho sinh viên ngành sư phạm mầm non trường đại học sư phạm hà nội 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (731.35 KB, 88 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Trẻ em là niềm hạnh phúc của mỗi gia đình, là tương lai của mỗi dân
tộc. Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ là trách nhiệm của Đảng, Nhà Nước,
của toàn xã hội và mỗi gia đình. Đã từ lâu, Đảng, Nhà Nước, xã hội và mỗi
gia đình nhận thức rõ và đi tới những biện pháp thiết thực để bảo vệ, chăm
sóc giáo dục trẻ, phát huy tối đa các năng lực trí tuệ, thể chất cho thế hệ trẻ,
phát triển phù hợp với sự tiến bộ của thời đại.
GDTC là một bộ phận của giáo dục tồn diện, ngày nay GDTC là mơn
học bắt buộc trong tất cả các bậc học từ mầm non đến Đại học, nhằm thực
hiện mục tiêu đào tạo con người “phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về Thể
chất, phong phú về tinh thần và trong sang về đạo đức” [8]. Nhận thức được
vị trí, vai trị của GDTC trường học, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đầu
tư cơ sở vật chất cho giáo dục, đào tạo đội ngũ GV chun mơn, xây dựng
chương trình phù hợp với từng đối tượng nhằm góp phần đẩy mạnh cơng tác
giáo dục tồn diện cho thế hệ trẻ, phục vụ q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
GDMN là mắt xích đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân đặt nền
móng cho sự phát triển và hình thành nhân cách của trẻ. Mục tiêu của GDMN
là giúp trẻ phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những
yếu tố đầu tiên của nhân cách và chuẩn bị cho trẻ vào lớp một. GDMN tạo sự
khởi đầu cho sự phát triển toàn diện cho trẻ, đặt nền tảng cho việc học tập ở
các cấp học tiếp theo.
Để thực hiện được mục tiêu trên, cần nhận thức đúng đắn rằng: Mọi
năng lực, chức năng của trẻ chỉ có thể hình thành, phát triển tốt khi cơ thể
khỏe mạnh và có khả năng tư duy. Khi đó việc học tập và giáo dục mới phát
huy vai trị chủ đạo, có tính quyết định đến việc hình thành chức năng, năng
lực cho trẻ. Điều đó, thể hiện vai trò to lớn của GDTC đối với sự phát triển



2

con người toàn diện. GDTC trong giai đoạn này sẽ tạo cơ sở tốt cho sự phát
triển cơ thể trong suốt cuộc đời sau này của đứa trẻ.
Đội ngũ GVMN là lực lượng lòng cốt, biến các mục tiêu giáo dục thành
hiện thực, giữ vai trò quyết định chất lượng và hiệu quả giáo dục. Xu thế đổi
mới giáo dục đang đặt ra những yêu cầu mới về phẩm chất, năng lực của
người GVMN. Trước hết, đó phải là giáo dục, một cơng dân gương mẫu, có
tư cách đạo đức, có lối sống lành mạnh, hăng hái tham gia vào sự phát triển
cộng đồng. GVMN khơng chỉ đống vai trị truyền đạt tri thức khoa học kỹ
thuật, dạy trẻ những kỹ năng vận động cơ bản mà đồng thời phải là người tổ
chức và trực tiếp thực hiện các hoạt động GDTC cho trẻ.
Vì vậy, chương trình GDTC cho trẻ em lứa tuổi mầm non là căn cứ để
triển khai và chỉ đạo cơng tác chăm sóc giáo dục trẻ trong các cơ sở giáo dục
mầm non, đồng thời là căn cứ để đào tạo bồi dưỡng GVMN, tăng cường cơ sở
vật chất và đảm bảo các điều kiện khác để nâng cao chất lượng GVMN.
Thực trạng, chương trình mơn học GDTC hiện hành tại trường ĐHSP
Hà Nội 2 còn bộc lộ một số hạn chế cơ bản: Nội dung chương trình, khối
lượng kiến thức và phương pháp đào tạo chưa phù hợp với yêu cầu thực tiễn
của SV ngành SPMN, hiệu quả hướng nghiệp của chương trình cịn nhiều hạn
chế. Trong một khóa học tồn tại hai chương trình đào tạo về GDTC hoàn toàn
độc lập và tách rời nhau.
Với 75 tiết thuần túy về lý thuyết của chương trình GDTC cho SV mầm
non (căn cứ vào Quyết định số 286/QĐ - QLKH của hiệu trưởng trường
ĐHSP Hà Nội 2 năm 2005 đã ký), không trang bị về kỹ năng vận động.
Chương trình GDTC dành cho SV khối khơng chuyên với 150 tiết (30 tiết lý
thuyết, 120 tiết thực hành),(căn cứ vào hướng dẫn số 904/ĐH, Quyết định số
3244/GD - ĐT và Quyết định số 1262/GD - ĐT của bộ trưởng Bộ GD&ĐT),
chỉ trang bị cho SV về kiến thức và thể lực chung. Như vậy, cùng một lúc nhà

trường đào tạo song song hai chương trình GDTC, nhưng SV ngành SPMN


3

lại không đảm bảo yêu cầu đào tạo chuẩn mang tính nghề và khơng có đủ
năng lực về: Lựa chọn bài tập, sử dụng các bài tập vận động nhằm hình thành
và hồn thành các năng lực tự thốt hiểm cho SV mầm non, lựa chọn trò chơi
vận động trong các giờ học cho trẻ mầm non.
Vì vậy để đáp ứng yêu cầu đổi mới trong đào tạo GVMN và đổi mới
GVMN, là dùng giáo viên để “cải cách” giáo dục. Với đề tài: “Nâng cao hiệu
quả chương trình Giáo dục Thể chất cho sinh viên ngành sư phạm mầm non
trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2”, tôi mong muốn được góp phần nâng cao
chất lượng GDTC trong nhà trường mầm non nói chung và trong đào tạo giáo
viên ngành SPMN nói riêng.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng tổ chức GDTC ở trường mầm non đề xuất giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo GV ngành SPMN trường ĐHSP Hà nội 2.
3. Giả thuyết khoa học
Chương trình GDTC dành cho SV ngành SPMN (Chương trình GDTC
chung và Chương trình phương pháp GDTC cho trẻ mầm non), cịn nhiều hạn
chế. Lãng phí về thời gian,chất lượng và hiệu quả đào tạo không đáp ứng nhu
cầu thực tiễn. Nếu tiến hành đổi mới chương trình mơn học GDTC dành cho
SV sư phạm mầm non theo hướng:
Lồng ghép hai chương trình (GDTC chung và GDTC đào tạo GVMN)
thành một chương trình thì cùng một lúc thực hiện được hai chức năng đó là:
- Phát triển thể chất cho SV.
- Đào tạo năng lực tiến hành GDTC cho trẻ mầm non.



4

Chương 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1.Giáo dục mầm non trong hệ thống giáo dục quốc dân
GDMN là mắt xích đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, có vị trí
quan trọng trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực con người, nhà giáo
dục học người Nga, Makarenco đã viết: “Những cơ sở căn bản của việc giáo
dục trẻ đã được hình thành trước tuổi lên năm. Những điều dạy trẻ trong thời
kì đó, chiếm 90% tiến trình giáo dục trẻ về sau, việc giáo dục đào tạo con
người vẫn tiếp tục, nhưng lúc đó là bắt đầu nếm quả, cùng những nụ hoa đã
được vun trồng trong năm đầu tiên.” [8]. Điều đó cho thấy rằng: Việc nuôi
dạy “con người” bắt đầu từ những năm đầu tiên của cuộc sống là một việc
làm hết sức quan trọng và có ý nghĩa lớn lao về nhân văn, xã hội và kinh tế,
nhưng lại vô cùng vất vả và khó khăn.[2]
1.1.1. Giáo dục mầm non
GDMN thực hiện việc ni dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em từ ba
tháng tuổi đến sáu tuổi.
GDMN gồm hai giai đoạn:
- Trẻ ba tháng tuổi đến ba tuổi (nhà trẻ).
- Trẻ từ ba tuổi đến sáu tuổi (trường mầm non).
1.1.2. Mục tiêu của Giáo dục Mầm non
Mục tiêu của GDMN là giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm, trí
tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho
trẻ vào lớp một.
1.1.3. Yêu cầu về nội dung, phương pháp Giáo dục Mầm non
Nội dung GDMN phải đảm bảo phù hợp với sự phát triển tâm sinh lý
của trẻ em, hài hịa giữa ni dưỡng, chăm sóc và giáo dục, giúp trẻ phát triển



5

cân đối, khỏe mạnh, nhanh nhẹn, biết kính trọng, yêu mến, lễ phép với ông
bà, cha mẹ, thầy cô giáo và người trên, yêu quý anh, chị, em, bạn bè, thật thà,
mạnh dạn, hồn nhiên, yêu thích cái đẹp, ham hiểu biết, thích đi học.
Phương pháp GDMN chủ yếu là thông qua việc tổ chức các hoạt động
vui chơi để giúp trẻ em phát triển toàn diện, chú trọng việc nêu gương, động
viên, khích lệ.
1.1.4. Chương trình Giáo dục Mầm non
Chương trình GDMN thể hiện mục tiêu GDMN, cụ thể hóa các u cầu
về ni dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em ở từng độ tuổi, quy định việc tổ
chức các hoạt động nhằm tạo điều kiện để trẻ em phát triển về thể chất, tình
cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hướng dẫn đánh giá sự phát triển của trẻ em ở lứa tuổi
mầm non.
1.1.5. Cơ sở Giáo dục Mầm non
Cơ sở GDMN bao gồm:
- Nhà trẻ, nhóm trẻ nhận trẻ em từ ba tháng tuổi đến ba tuổi.
- Trường, lớp mẫu giáo nhận trẻ từ ba tuổi đến sáu tuổi.
- Trường Mầm non là cơ sở giáo dục kết hợp nhà trẻ và Mẫu giáo, nhận
trẻ em từ ba tháng tuổi đến sáu tuổi.
1.2. Đặc điểm hoạt động nghề nghiệp của Giáo viên Mầm non
1.2.1. Khái niệm về nghề nghiệp
Nghề nghiệp theo tiếng Latinh “Professio” có nghĩa là cơng việc
chun mơn được hình thành một cách chính thống, là dạng lao động địi hỏi
một trình độ học vấn nào đó, là cơ sở hoạt động cơ bản giúp con người tồn tại.
Theo tác giả E.A.Klimov thì: “Nghề nghiệp là một lĩnh vực sử dụng
sức lao động vật chất và tinh thần của con người một cách có giới hạn, cần
thiết cho xã hội (do sự phân công lao động mà có) nó tạo cho con người khả



6

năng sử dụng lao động của mình để thu lấy những phương tiện cần thiết cho
việc tồn tại và phát triển” [5].
Theo từ điển Tiếng việt, khái niệm nghề nghiệp là: “Công việc chuyên
làm theo sự phân công lao động của xã hội” [9].
Từ một số khái niệm trên, có thể hiểu nghề nghiệp như một dạng lao
động vừa mang tính xã hội (Sự phân cơng xã hội), vừa mang tính cá nhân
(nhu cầu bản thân) trong đó con người với tư cách là chủ thể hoạt động đòi
hỏi để thỏa mãn những nhu cầu nhất định của xã hội và cá nhân. Và bất cứ
nghề nghiệp nào cũng hàm chứa trong đó một hệ thống giá trị: Tri thức nghề,
kỹ xảo nghề, truyền thống nghề, hiệu quả do nghề mang lại. Những giá trị này
có thể hình thành theo con đường tự phát (tức là do tích lũy kinh nghiệm
trong q trình sống với cộng đồng mà có), hoặc theo con đường tự giác (do
được đào tạo trong các cơ sở trường, lớp dài hạn hay ngắn hạn).
Như vậy: Nghề nghiệp là một dạng lao động đòi hỏi ở con người một
q trình đào tạo chun biệt, có kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo chuyên môn nhất
định. Nhờ quá trình hoạt động nghề nghiệp, con người có thể tạo ra sản phẩm
thỏa mãn những nhu cầu của cá nhân và xã hội.
1.2.2. Khái quát về nghề sư phạm
Ngay từ buổi bình minh của xã hội lồi người, khi con người chỉ săn
bắn và hái lượm, lồi người đã có nhu cầu chuyền đạt và lĩnh hội kinh
nghiệm. Nhờ đó mà kinh nghiệm của con người được giữ gìn và cũng nhờ đó
mà xã hội lồi người tồn tại và phát triển. Hoạt động truyền đạt và lĩnh hội đó
được gọi là hoạt động dạy học. Cùng với sự phát triển của xã hội, hoạt động
dạy học được thực hiện bởi người nhà giáo, dạy học được coi là một nghề
trong xã hội và ta gọi đó là nghề dạy học hay nghề sư phạm. Nghề sư phạm là
nghề đào tạo ra những con người phục vụ cho sự phát triển kinh tế xã hội của



7

đất nước, nghề không đơn giản chỉ là dạy chữ mà còn là nghề “trồng” người,
giáo dục, xây dựng nên tâm hồn, nhân cách con người.
Trong bất cứ thời đại nào, xã hội nào thì nghề sư phạm đều cần thiết và
quan trọng. Vì giáo dục là nền tảng văn hóa của một nước, là sức mạnh tương
lai của một dân tộc. Người nhà giáo có vai trị to lớn trong quá trình giáo dục
thế hệ trẻ, là người quyết định chất lượng đào tạo và là “cái cầu nối” giữa nền
văn hóa nhân loại và dân tộc, là mắt xích trong sợi dây chuyền nối liền các thế
hệ, các thời đại, là người trao “tín vật” của hiện tại cho tương lai. Chính điều
đó làm cho hoạt động của người nhà giáo trở nên thiêng liêng và giàu
sáng tạo.
Xã hội càng phát triển, càng đặt ra yêu cầu cao hơn đối với người lao
động. Do vậy vai trò và nhiệm vụ của công việc đào tạo thế hệ trẻ, chuẩn bị
cho thế hệ trẻ bước vào cuộc sống, hòa nhịp với xã hội ngày càng trở nên
nặng nề hơn. Trong thời đại ngày nay, chức năng của người nhà giáo rất tồn
diện, nhà giáo khơng chỉ là người truyền thụ tri thức khoa học hiện đại mà
còn là người tổ chức, điều khiển hoạt động học tập của học sinh.
Như vậy: Nghề sư phạm là một lĩnh vực hoạt động của người nhà giáo
theo sự phân công của xã hội, trong đó người thầy sử dụng các năng lực thể
chất tinh thần và tồn bộ nhân cách của mình để dạy, giáo dục, đào tạo thế hệ
trẻ trở thành những con người hữu ích cho xã hội.
Lao động của người nhà giáo không giống như lao động của các ngành
nghề khác. Lao động của người nhà giáo không trực tiếp tạo tạo ra của cải vật
chất, nhưng lao động của người nhà giáo cao quý và giá trị ở chỗ nó sáng tạo,
phát triển nhân cách và trí tuệ con người - sản phẩm cao quý nhất của xã hội,
Đó là nét đặc thù riêng, độc đáo của LĐSP mà khơng nghề nào
có được.



8

Như bất kì loại lao động nào, LĐSP là một hoạt động có mục đích.
LĐSP nhằm giáo dục thế hệ trẻ, hình thành ở họ những phẩm chất và năng
lực của xã hội yêu cầu. LĐSP là quá trình tác động qua lại giữa người dạy và
người học, là quá trình truyền thụ kinh nghiệm và tri thức của thế hệ trước
cho thế hệ sau.
1.2.3. Đặc điểm hoạt động của nghề Giáo viên mầm non
1.2.3.1.Vị trí của người giáo viên trong xã hội hiện đại
Người GV có một vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp giáo dục
của Đảng, Nhà nước, nhà giáo là cầu nối liền giữa nền văn hóa dân tộc và
nhân loại với sự tái sản xuất nền văn hóa ấy trong chính đứa trẻ. Hoạt động
của người GVMN gồm có: Hoạt động dạy, hoạt động giáo dục, hoạt động tự
hồn thiện chun mơn nghiệp vụ và hoạt động xã hội.
Thời đại ngày nay người GV khơng chỉ có chức năng truyền đạt tri thức
cho học sinh mà cịn có chức năng tác động tích cực đến sư hình thành nhân
cách của học sinh. Người GV phải có tính tích cực cơng dân, có ý thức trách
nhiệm xã hội hăng hái tham gia phát triển cộng đồng, GV phải có lịng u trẻ
hợp tác với trẻ. Nhà trường hiện đại phải tơ đậm tính nhân văn của mình,
trong đó hoạt động của người GV phải chú ý đến mục tiêu nhân văn. Một giờ
lên lớp không chỉ dừng lại ở việc truyền thụ tri thức khoa học, hình thành các
kỹ năng cụ thể mà phải hướng vào tạo dựng, phát triển nhân cách của học
sinh. Vì vậy quá trình dạy học và giáo dục, nhà giáo có nhiệm vụ đào tạo, vun
trồng từng học sinh, làm nảy nở hết bản sắc của mỗi học sinh để chúng trở
thành con người có đặc trưng cá nhân.
1.2.3.2.Đặc thù lao động của Giáo viên Mầm non
Đối tượng lao động trực tiếp của người GVMN là trẻ từ 0,3 - 6 tuổi.
Các em có quy luật tâm sinh lí riêng, là lứa tuổi ẩn những khả năng phát triển
rất lớn. Do đó, nhà giáo phải có tình thương u, lịng tin và sư tôn trọng đối



9

với trẻ em, đối sử công bằng, dân chủ và tế nhị trong cách cư sử, mềm dẻo
nhưng cương quyết.
Lao động của GVMN tạo ra sản phẩm đặc biệt, đó là trang bị cho trẻ
em kỹ năng sống, kỹ năng vận động, khả năng tư duy và nhân cách trước tuổi
ngồi trên ghế nhà trường phổ thông.
Suy nghĩ cho thấy con người chỉ sinh ra con người, còn giáo dục mới
sản sinh ra nhân cách. Nói cách khác, lao động của nhà giáo là lao động sản
xuất ra nhân cách, sản xuất ra giá trị nhân loại. Sản phẩm lao động của nhà
giáo gắn liền với tương lai dân tộc, loài người. Lao động của nhà giáo là tạo
sức lao động mới trong từng con người. Nghề dạy học là nghề tái sản xuất mở
rộng sức lao động.
Khác với GV các bậc học khác, GVMN là được đào tạo để giảng dạy
tồn diện các mơn học thuộc cấp học, nên họ có tác động cực kỳ to lớn đến
tâm hồn, nhân cách và trí tuệ của trẻ. Họ vừa là người dạy chữ, dạy kiến thức,
dạy những kỹ năng cơ bản của cuộc sống, vừa là người quản lý giáo dục,
người tổ chức quá trình dạy học, người chịu trách nhiệm toàn diện và triệt để
đối với sự tiến bộ của trẻ.
1.2.3.3.Yêu cầu chuẩn về nghề nghiệp giáo viên mầm non
“Khơng cịn nghi ngờ gì, chất lượng giáo dục phụ thuộc rất lớn vào
khơng khí chung của nhà trường, nhưng điều quan trọng hơn cả vẫn là ở nhân
cách người giáo viên, con người thường xuyên tiếp xúc với trẻ. Ảnh hưởng
nhân cách của người giáo viên lên tâm hồn trẻ tạo nên một sức mạnh giáo dục
to lớn mà sách giáo khoa, các lời thuyết giáo đạo đức, khen thưởng và trách
phạt khơng thể thay thế được”.(K.D.Usinxki)[2].
Do đó, người GVMN cần có yêu cầu chuẩn về nghề nghiệp như sau:
Yêu cầu thuộc lĩnh vực phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, chấp

hành các quy định của pháp luật, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà


10

nước, là người có đạo đức tốt, lối sống lành mạnh và giản dị, yêu nghề, mến
trẻ, thân thiện với đồng nghiệp chăm sóc giáo dục trẻ bằng tình thương, sự
cơng bằng và trách nhiệm,
Tích cực học tập, nghiên cứu, tiếp cận nhu cầu xã hội để phát triển,
đóng góp cho ngành nghề trong cơng tác xã hội hóa GDMN. Các yêu cầu
thuộc lĩnh vực kiến thức: hiểu biết về đặc điểm tâm lý, sinh lý trẻ lứa tuổi
mầm non, nắm vững chương trình GDMN hiện hành của Bộ GD&ĐT; hội tụ
đầy đủ kiến thức và kỹ năng về nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, phát triển thể
chất cho trẻ. Có kiến thức xã hội sâu rộng, định hướng phát triển đối với trẻ;
có phương pháp tổ chức hoạt động chơi cho trẻ, tạo nhiều tình huống, khơi
dậy sự hứng thú, tính tị mị thúc đẩy sự phát triển của trẻ lứa tuổi mầm non.
Các yêu cầu thuộc lĩnh vực kỹ năng sư phạm: “biết lập kế hoạch theo
dõi, chăm sóc, giáo dục trẻ theo tuần, theo tháng, theo năm. Tổ chức các hoạt
động chăm sóc, giáo dục trẻ theo hướng tích hợp, phát huy tính tích cực, sáng
tạo của trẻ; dạy trẻ một số kỹ năng tự phục vụ, chăm sóc cho bản thân; biết
quan sát, đánh giá trẻ và có phương pháp chăm sóc, giáo dục trẻ phù hợp;
giao tiếp, ứng xử nhẹ nhàng với đồng nghiệp, gia đình trẻ và những người
xung quanh.
1.3. Giáo dục Thể chất trong hoạt động đào tạo của bậc học Mầm non
1.3.1. Cơ sở khoa học của lý luận Giáo dục Thể chất cho trẻ em
1.3.1.1.Cơ sở khoa học xã hội
* Cơ sở triết học
Trong đời sống thực tế xã hội, không có GDTC chung chung tồn tại
ngồi điều kiện lịch sử cụ thể. Trong mỗi chế độ kinh tế xã hội nhất định đều
có từng loại GDTC cụ thể.

Các nhà lý luận giáo dục duy tâm cho rằng, GDTC là bản tính hay nhu
cầu bản năng của con người giống như các sinh vật khác, GDTC mang tính


11

chất bẩm sinh của con người cũng tương tự như: “Sự giáo dục”- bắt chước
của loài vật như đi, chạy, nhảy… Với lập luận này, trên thực tế họ đã phủ
nhận vai trò của lao động và tư duy - một hiện tượng mới về chất đã làm cho
con người khác biệt với các loài vật. Theo họ, thực tiễn của hình thức giáo
dục này nhằm thỏa mãn những yêu cầu bản năng nào đó và hầu như khơng có
liên quan đến yêu cầu xã hội. Họ đã phủ nhận mối quan hệ chặt chẽ giữa xã
hội và giáo dục và cả nội dung của giáo dục.
Các nhà duy vật lý luận cho rằng, GDTC là một hiện tượng xã hội, là
phương tiện phục vụ xã hội, chủ yếu nhằm nâng cao thể chất, đồng thời tác
động mạnh mẽ đến sự phát triển tinh thần của con người. Họ khẳng định rằng,
chỉ khi nào con người tự giác tập luyện các bài tập thể dục, nhằm phát triển cơ
thể của bản thân để chuẩn bị cho những hoạt động nhất định, thì lúc đó mới
có GDTC thực sự.
Các tư tưởng tiến bộ về giáo dục toàn diện con người cho rằng con
người phải được phát triển hài hòa về thể chất và tinh thần, đã xuất hiện trong
kho tàng văn hóa chung của xã hội lồi người từ nhiều thế kỷ trước đây.
Từ nhà triết học cổ Hi Lạp Aristốt (384-322 T.CN), những người theo
chủ nghĩa nhân đạo thời Phục Hưng như: Moongtenghơ (1533-1592), những
người theo chủ nghĩa không tưởng như Saint-Simon (1760-1825), Robert
Owen (1771-1858), đến các nhà bác học và giáo dục nổi tiếng của Nga như
M.V.Lômôxốp (1771-1765), V.G.Belinxki (1811-1848), K.Đ.Usinxki (18241870), N.G.Strecnưsepxki (1828-1889), P.Ph.Lexgap(1837-1909) và nhiều
người khác nữa, đã phát triển, bảo vệ tư tưởng của học thuyết về sự phát triển
hài hòa giữa năng lực thể chất và tinh thần của con người.
Tuy nhiên, do tính chất của quan hệ xã hội và lịch sử trong các chế độ

ấy, thực tế đã không vượt ra khỏi giới hạn của những ước mơ tuy cao đẹp
nhưng khơng có điều kiện khách quan để biến thành hiện thực.


12

Trên cơ sở nghiên cứu một cách sâu sắc các quy luật khách quan của sự
phát triển xã hội, Các Mác và Ăngghen đã chứng minh sự phụ thuộc của giáo
dục vào điều kiện vật chất, khám phá xã hội và giai cấp của giáo dục. Các
Mác nhấn mạnh: “Giáo dục trong tương lai sẽ kết hợp lao động sản xuất với
trí dục và thể dục, đó khơng những là biện pháp để tăng thêm sức sản xuất của
xã hội, mà còn là biện pháp duy nhất để đào tạo con người phát triển toàn
diện” [13].
Các Mác đã phát hiện ra sự tái sản xuất trong mỗi con người để xã hội
phát triển. Ông coi GDTC là một bộ phận hữu cơ của quá trình giáo dục, là
điều kiện tất yếu đối với việc phát triển con người một cách toàn diện. GDTC
là phương tiện quan trọng để phát triển thể lực con người và nó phải được bắt
đầu từ lứa tuổi nhỏ. GDTC cho trẻ mầm non là cơ sở phát triển tồn diện, rèn
luyện cơ thể, hình thành những thói quen vận động cần thiết cho cuộc sống.
Như vậy, luận điểm về tính tất yếu của sự thống nhất giữa thể chất và
tinh thần, luận điểm về sự phát triển toàn diện giữa các mặt giáo dục đức, trí,
thể, mỹ và lao động trong học thuyết của Mác và sau này người kế tục là
V.I.Lênin đã trang bị cho lí luận GDTC phương pháp nhận thức và cho phép
nghiên cứu sâu sắc những quy luật sư phạm trong q trình GDTC cho con
người nói chung cũng như cho trẻ mầm non nói riêng.
*Cơ sở tâm lí học
Căn cứ vào kiến thức về tâm lí học trẻ em như: lý thuyết hoạt động, các
đặc điểm tâm lí lứa tuổi, các trạng thái tâm lí lứa tuổi, các trạng thái tâm lí và
các thuộc tính tâm lí của trẻ em, các nhà giáo dục thiết kế hệ thống phương
pháp GDTC phù hợp với trẻ em.

*Cơ sở giáo dục học
GDMN cung cấp những kiến thức về mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục trẻ
em, những quan điểm cơ bản, các nguyên tắc xây dựng chương trình chăm


13

sóc và giáo dục, các phương pháp, hình thức tổ chức chăm sóc giáo dục trẻ,
trong đó có GDTC là một bộ phận của giáo dục phát triển toàn diện.
1.3.1.2. Cơ sở khoa học tự nhiên
Cơ sở khoa học tư nhiên của lý luận GDTC là toàn bộ các chuyên môn
khoa học mà nhiệm vụ của chúng là nghiên cứu những quá trình phát triển
sinh học của con người. Những kiến thức về đặc điểm giải phẫu, sinh lí, vệ
sinh trẻ em giúp cho việc bảo vệ sức khỏe trẻ, việc tổ chức sinh hoạt hợp lí và
hoạt động vận động của các em. Những kiến thức khoa học này được xây
dựng trên cơ sở học thuyết của các nhà sinh học vĩ đại như: I.M.Xêtrênnôp
(1829-1905), I.P.Paplôp (1849-1936) và những người kế tục.
Các học thuyết đó bao gồm: Học thuyết về sự thống nhất giữa cơ thể và
môi trường, học thuyết về mối liên hệ tạm thời của các phản xạ có điều kiện
và sự hình thành định hình động lực, học thuyết về hệ thần kinh cao cấp.
1.3.2. Nhiệm vụ và nguyên tắc giáo dục Thể chất cho trẻ em lứa tuổi
mầm non
1.3.2.1. Nhiệm vụ Giáo dục Thể chất cho trẻ em lứa tuổi Mầm non
*Nhiệm vụ bảo vệ sức khỏe
Nhiệm vụ quan trọng của GDTC là bảo vệ và tăng cường sức khỏe cho
trẻ nhằm đảm bảo sự phát triển thể lực toàn diện.
Nhiệm vụ bảo vệ sức khỏe gồm: Chăm sóc, ni dưỡng và rèn luyện
một cách khoa học, chăm sóc trẻ khi ăn, ngủ, nghỉ, chơi và học, đảm bảo việc
thực hiện chế độ sinh hoạt đúng giờ giấc cho trẻ, cho trẻ ăn đủ chất, đủ lượng,
rèn luyện cơ thể trẻ bằng các hình thức tiết học Thể dục, trò chơi vận động,

dạo chơi…
Như vậy, nhiệm vụ rèn luyện cơ thể trẻ được triển khai thông qua việc:
Rèn luyện, nâng cao sức đề kháng của cơ thể trước tác động của những điều


14

kiện môi trường xung quanh. Củng cố cơ quan vận động, hình thành tư thế
thân người hợp lý, góp phần nâng cao chức năng của hệ thần kinh thực vật.
*Nhiệm vụ giáo dưỡng
Hình thành và rèn luyện những kỹ năng, kỹ xảo vận động phát triển các
tố chất thể lực, thói quen vệ sinh cho trẻ, trang bị cho trẻ một số kiến thức sơ
đẳng về GDTC.
Tập luyện đúng đắn các động tác của bài tập vận động sẽ ảnh hưởng
tích cực tới sự phát triển cơ bắp, dây chằng, khớp và hệ xương.
Việc sử dụng thành thạo các kỹ năng vận động cho phép trẻ suy nghĩ về
nhiệm vụ xuất hiện trong những tình huống bất ngờ khi tham gia hoạt động
vận động và trò chơi. Cùng với việc hình thành kỹ năng vận động cho trẻ, cần
phát triển các tố chất thể lực cho trẻ: Sự nhanh nhẹn, khéo léo, sự mạnh mẽ,
bền bỉ …
Rèn luyện những thói quen vệ sinh cá nhân và vệ sinh công cộng có ý
nghĩa quan trọng đối với sức khỏe của trẻ. Cần giáo dục cho trẻ thói quen tuân
thủ chế độ sinh hoạt hàng ngày.
Tùy từng độ tuổi của trẻ, ta cần truyền đạt một số hiểu biết có liên quan
đến GDTC. Những kiến thức lĩnh hội được giúp trẻ có ý thức tự giác trong
luyện tập và biết sử dụng các phương tiện GDTC ở trường, ở gia đình tốt hơn.
Thông qua các tiết học Thể dục, cần dạy trẻ những kiến thức về tên gọi
và cách sử dụng những dụng cụ thể dục đơn giản như: bóng, vịng, gậy…
*Nhiệm vụ giáo dục
- GDTC với giáo dục đạo đức: Trong các giờ học Thể dục, trò chơi vận

động hoặc thể dục sáng, GV nên nhận xét, đánh giá hành vi đạo đức của trẻ,
tạo cho trẻ những hiểu biết nhất định về đạo đức. Ngồi ra có thể giáo dục trẻ
những phẩm chất ý chí như lịng dũng cảm, tính kiên trì, biết kiềm chế, tính
kiên quyết, tính tổ chức kỷ luật.


15

- GDTC với giáo dục trí tuệ: Trong q trình tập luyện, GV sử dụng hệ
thống phương pháp dạy học khác nhau tác động đến quá trình nhận thức của
trẻ, yêu cầu trẻ phải tư duy tích cực để ghi nhớ và nhớ lại cách thức thực hiện
bài tập. Đối với trẻ mầm non, điều quan trọng là phải giáo dục trẻ những cảm
xúc tích cực, đảm bảo sự sảng khoái, trạng thái vui tươi, phát triển khả năng
vượt qua những trạng thái tâm lí tiêu cực.
- GDTC với giáo dục thẩm mỹ: Trong quá trình dạy bài tập cho trẻ, GV
phải làm mẫu. Các động tác mẫu phải đẹp, chính xác giúp trẻ nhận thức đúng
đắn về cái đẹp. Chính các bài tập TDTT cũng chứa đựng nhiều yếu tố nghệ
thuật như tập với dụng cụ, tập theo nhạc, Thể dục đồng diễn… Điều này hình
thành cho trẻ có được nhận thức về cái đẹp, tạo khả năng cảm thụ âm nhạc,
nhịp điệu…
- GDTC với giáo dục lao động: Q trình GDTC cũng chính là q
trình giải quyết một số nhiệm vụ lao động. Trong các giờ luyện tập thể dục,
trẻ có thể tham gia chuẩn bị và thu dọn dụng cụ thể dục. Thơng qua các trị
chơi vận động có chủ đề trẻ sẽ hiểu được tính chất của các nghề nghiệp và các
thao tác lao động của người lớn.
Như vậy, quá trình GDTC cho trẻ mầm non cần đảm bảo kết hợp chặt
chẽ với tất cả các mặt giáo dục toàn diện.
1.3.2.2. Các nguyên tắc Giáo dục Thể chất cho trẻ em lứa tuổi mầm non
* Nguyên tắc hệ thống
Nguyên tắc hệ thống là nguyên tắc đầu tiên được vận dụng trong việc

thực hiện mục tiêu giáo dục và giảng dạy các bài tập thể chất. Bản chất
nguyên tắc hệ thống được thể hiện:
- Tính thường xuyên, lặp lại, biến đổi các buổi tập với sự luân phiên
hợp lí giữa vận động và nghỉ ngơi.


16

- Tính tự hợp lí của từng buổi tập và mối liên quan giữa các mặt khác
nhau của nội dung bên trong.
Như vậy, các buổi tập thường xuyên mang lại hiệu quả lớn hơn so với
các buổi tập thất thường hoặc gián đoạn.
*Nguyên tắc tự giác và tích cực
Trong quá trình GDTC, nguyên tắc này được tiến hành theo hướng cơ
bản sau:
- Hình thành ở trẻ thái độ có ý thức và sự hứng thú vận động trong từng
buổi tập cụ thể.
- Động viên trẻ tham gia vào việc phân tích các bài tập thể dục và đánh
giá việc tập luyện của các bạn.
- Giáo dục tính chủ động, tự lập, sáng tạo khi thực hện bài tập thể chất.
* Nguyên tắc trực quan
Nguyên tắc trực quan biểu hiện những vấn đề sau:
- Tính trực quan là tiền đề cần thiết để tiếp thu động tác.
- Tính trực quan khơng những là tiền đề, mà cịn là điều kiện khơng thể
thiếu được của việc hoàn thiện hoạt động vận động.
- Mối quan hệ tương hỗ giữa tính trực quan trực tiếp và gián tiếp.
* Nguyên tắc vừa sức và giáo dục cá biệt
Nguyên tắc này được biểu hiện như sau:
- Xác định mức độ vừa sức.
- Những điều kiện về mặt phương pháp đối với tính vừa sức.

- Cá biệt hóa theo xu hướng chung và theo các con đường riêng trong
GDTC.
* Nguyên tắc phát triển
Nguyên tắc phát triển được thể hiện như sau:


17

- Sự cần thiết phải thường xuyên đổi mới các nhiệm vụ với xu hướng
chung là tăng cường lượng vận động.
- Những điều kiện để phức tạp hóa nhiệm vụ tập luyện và những hình
thức nâng cao lượng vận động (hình thức tăng theo đường thẳng, bậc thang,
làn sóng.)
* Ngun tắc đảm bảo an toàn trong tập luyện
GV thường xuyên kiểm tra, tổ chức sắp xếp bài giảng hợp lý, sao cho
phù hợp với nội dung và yêu cầu kỹ thuật, kiến thức đề ra, cách bố trí, sắp xếp
sân bãi, dụng cụ, bảo hiểm.
GV cần chú ý:
- Đảm bảo thứ tự tiết học, hướng dẫn, giải thích, làm quen với các kỹ
thuật động tác, từ đó tăng dần độ khó của bài tập, tăng dần lượng vận động.
- Giúp trẻ tự tin, sẵn sàng vượt khó trong tập luyện.
- Tiến hành kiểm tra thiết bị, dụng cụ tập luyện, quần áo, dày dép của
GV và trẻ phải gọn gàng.
- Có kế hoạch kiểm tra sức khỏe cho trẻ.
Tóm lại: Khơng thể ngun tắc nào có thể đảm bảo chức năng hoạt
động GDTC một cách đầy đủ nếu các tắc khác bị trừ. Chỉ trên cơ sở thống
nhất các nguyên tắc mới có thể đạt được hiệu quả cao nhất của từng
nguyên tắc.
1.3.3. Đặc điểm phát triển thể chất ở trẻ em lứa tuổi mầm non
* Đặc điểm phát triển của trẻ em lứa tuổi mầm non

Thể chất là chất lượng cơ thể con người có thể vận dụng vào thực hiện
một việc nào đó trong học tập, lao động, thể thao…
Phạm trù Thể chất thường bao gồm các mặt về: Tầm vóc cơ thể, năng
lực cơ thể, năng lực thích ứng của cơ thể, trạng thái tâm lý.


18

Phát triển Thể chất là quá trình thay đổi hình thái và chức năng sinh
học của cơ thể con người, là tổng hợp các đặc tính hình thái của cơ thể, đặc
trưng cho quá trình trưởng thành của cơ thể ở mỗi giai đoạn phát triển.
Mục tiêu chăm sóc, giáo dục trẻ mầm non là tạo điều kiện tốt nhất để
trẻ phát triển thể chất, ngôn ngữ, nhận thức và tình cảm. Nói đến sự phát triển
thể chất của trẻ em là đề cập đến sự lớn lên của trẻ em về mặt hình thể nên
ngồi những thay đổi và hoàn thiện chức năng của các cơ quan tương ứng với
độ tuổi.
Như vậy, đánh giá sự phát triển thể chất của trẻ em dựa vào các chỉ số
về hình thái (chiều cao, cân nặng, vòng đầu…) và chức năng sinh học (nhịp
tim, nhịp hô hấp, huyết áp…) của cơ thể.
Sự phát triển thể chất của trẻ em khác nhau theo từng lứa tuổi và diễn
ra theo quy luật nhất định trong cùng một độ tuổi. Sự phát triển thể chất có
liên quan chặt chẽ tới yếu tố di truyền và mơi trường sống của trẻ em. Nó có
ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới các lĩnh vực phát triển vận động và tinh
thần của trẻ.
- Tuổi nhà trẻ: Trẻ từ 0 - 3 tuổi: Một trong những chỉ số quan trọng của
sự phát triển thể chất là sự tăng cân bình thường. Ngồi ra cần chú ý đến chỉ
số chiều cao, kích thước vịng đầu, mọc răng…Tình trạng các hệ cơ, hệ
xương, hệ thần kinh, các cơ quan nội tạng cũng như sự phát triển tâm lý có ý
nghĩa to lớn đối với sự phát triển cân đối của trẻ.
- Tuổi mẫu giáo: Trẻ từ 3 - 6 tuổi: Đây là thời kỳ thuận lợi để trẻ tiếp

thu và củng cố các kỹ năng cần thiết. Trẻ em lứa tuổi này lớn nhanh, cảm thấy
như gầy hơn, mất vẻ trịn trĩnh, mập mạp đã có ở tuổi nhà trẻ. Đặc trưng của
trẻ em lứa tuổi này là cơ thể phát triển chưa ổn định và khả năng vận động
còn hạn chế.


19

* Đặc điểm phát triển vận động ở trẻ em
Phát triển vận động của trẻ trong năm đầu
- Giai đoạn từ 1,5 - 3 tháng: Giai đoạn này trẻ đã có thời gian thức sau
khi ăn nên ta có thể bắt đầu áp dụng một số bài tập vận động cho trẻ. Điều
kiện cơ bản để phát triển đầy đủ thể lực và thần kinh ở giai đoạn này là tạo
cho trẻ có trạng thái cảm xúc tốt. Có thể áp dụng các bài tập xoa vuốt nhẹ các
ngón tay và chân để giảm trương lực cơ gấp, tăng khả năng duỗi của cơ. Đến
cuối tháng thứ hai sang tháng thứ ba tập cho trẻ biết nâng và giữ đầu cao, có ý
nghĩa lớn cho sự phát triển của não. Sự vận động của đầu làm cho tuần hoàn
tốt hơn, mở rộng sự hiểu biết của trẻ, não nhận thức được nhiều kích thích từ
bên ngồi.
- Giai đoạn từ 3 - 4 tháng: Giai đoạn này đã có sự cân bằng trương lực
cơ và cơ duỗi của tay, trẻ có thể co, duỗi tay dễ dàng. Ta có thể áp dụng các
bài tập thụ động cho tay như: Cho trẻ duỗi các ngón tay, sờ vào tay của mình,
với lắc hay giữ đồ chơi. Chân của trẻ chưa có sự cân bằng trương lực giữa cơ
co và duỗi nên cần tập các bài tập xoa vuốt nhẹ, bài tập phản xạ cho chân và
bàn chân.
- Giai đoạn từ 4 - 6 tháng: Ở trẻ đã có sự cân bằng trương lực cơ co và
duỗi của chân, xuất hiện động tác trườn. Các nhóm tay, chân, ngực và bụng
được củng cố. Tháng thứ tư đến tháng thứ năm trẻ đã hình thành đường dẫn
truyền thính giác, khi cho trẻ tập nên phối hợp đếm để tăng mức độ nhịp
nhàng của động tác và rèn luyện phản xạ vận động với âm thanh. Tháng thứ

sáu trẻ có thể lẫy thành thạo, có thể đứng hoặc ngồi nếu được đỡ lưng và bắt
đầu tập bò.
- Giai đoạn từ 6 - 9 tháng: Trẻ ở giai đoạn này phát triển nhanh các vận
động và các hoạt động tương đối nhịp nhàng. Tháng thứ bảy, trẻ biết nâng
người bằng hai tay, hai chân và bò. Đây là giai đoạn quan trọng trong quá


20

trình phát triển, là vận động chuyển từ tư thế nằm sang đứng, củng cố các cơ
lưng, bả vai, tác động đến cột sống. Đến tháng thứ tám trẻ có thể ngồi và
đứng vịn. Do vậy, giai đoạn này cần dạy trẻ các bài tập củng cố cơ toàn than,
nhằm phát triển khả năng ngồi, bò, đứng và đi men cho trẻ. Hệ thống tín hiệu
thứ hai tiếp tục được hoàn thiện, trẻ hiểu được một số từ, bắt đầu nói bập bẹ
nên trong q trình tập luyện cần nói chuyện với trẻ để điều khiển động tác.
- Giai đoạn từ 9 - 12 tháng: Trẻ có thể thay đổi tư thế trong không gian
một cách dễ dàng, nên tập cho trẻ những bài tập thay đổi tư thế đứng, ngồi, đi
theo vật chuyển động… cho trẻ tập với đồ chơi khác nhau, tập bắt chước các
vận động của người hướng dẫn, kết hợp với việc sử dụng lời nói để hướng sự
chú ý của trẻ đến việc thực hiện bài tập.
Phát triển vận động cho trẻ hai tuổi: Sự phát triển vận động diễn ra
trên cơ sở của những vận động tự đi bộ, cảm giác thăng bằng, vận động bò,
vận động lăn và ném. Như vậy, khi trẻ lên hai, đa số các vận động cơ bản đã
được hình thành, trừ vận động chạy và nhảy. Khi quan sát trẻ chơi cho thấy,
trẻ có khả năng bắt chước cao và dần tự thực hiện được động tác. Khả năng
phối hợp vận động của trẻ hai tuổi cũng trở nên rõ rệt hơn.
Vai trò điều chỉnh của trẻ ở lứa tuổi này tốt hơn, các phản xạ có điều
kiện được hình thành nhanh chóng,các q trình kìm hãm được phát triển. Trẻ
có cảm giác thường xun địi hỏi thay đổi vận động, trẻ khơng giữ được
mình trong tư thế yên tĩnh, cần phải luân phiên giữa vận động và nghỉ ngơi.

Sự phát triển vận động của trẻ diễn ra trên cơ sở những vận động đi, chạy và
cảm giác thăng bằng, vận động nhảy, vận động bò và ném. Như vậy, để phát
triển những vận động khác nhau ở trẻ, phải sử dụng nhiều loại dụng cụ khác
nhau nhằm gây hứng thú và lòng ham muốn vận động của trẻ.
Phát triển vận động của trẻ bốn tuổi: Tốc độ phát triển thể lực lứa tuổi
này chậm hơn lứa tuổi trước, nhưng q trình cốt hóa của xương diễn ra


21

nhanh. Khả năng làm việc của hệ thần kinh còn yếu, nên nếu vận động nhiều,
nặng thì trẻ nhanh mệt mỏi. Phản xạ có điều kiện được hình thành nhanh,
song củng cố cịn chậm. Vì vậy những thói quen vận động mới được hình
thành bền vững, dễ sai lệch. Sự phát triển vận động của trẻ diễn ra trên cơ sở
những vận động đi, chạy và cảm giác thăng bằng vận động nhảy, vận động
ném, truyền, bắt, vận động bò, trườn, trèo.
Phát triển vận động của trẻ năm tuổi: Giai đoạn này trẻ trở nên cứng
cáp hơn, biết tự lực, rất hiếu động và không biết mệt mỏi, các mệt mỏi của trẻ
dần đi đến hồn thiện. Vì vậy, sự vận động của trẻ cần được người lớn theo
dõi, kiểm tra. Khả năng chú ý của trẻ tăng, trẻ hiểu được nhiệm vụ của mình
trẻ có thể thực hiện được những động tác quen thuộc bằng nhiều cách, trong
một thời gian dài hơn, với lượng vận động lớn hơn. Các vận động của trẻ đạt
tới mức độ chính xác, nhịp nhàng, biết phối hợp vận động của mình với các
bạn: Trẻ có khả năng quan sát hình ảnh động tác mẫu của GV ghi nhớ để thực
hiện lại. Do đó, phải tăng dần yêu cầu đối với trẻ để giúp trẻ hoàn thiện vận
động, sử dụng nhiều phương pháp dạy học khác nhau giúp trẻ thực hiện động
tác một các có ý thức và đạt hiệu quả cao hơn. Chú ý thường xuyên theo dõi,
kiểm tra đánh giá quá trình vận động của trẻ. Lứa tuổi này sự phát triển vận
động của trẻ diễn ra trên cơ sở những vận động đi, chạy và phát triển cảm giác
thăng bằng, vận động nhảy, vận động ném, trườn, trèo.

Phát triển vận động của trẻ sáu tuổi: Tốc độ trưởng thành của trẻ tăng
rất nhanh, tỷ lệ cơ thể đã cân đối, tạo ra tư thế vững chắc, cảm giác thăng
bằng được hoàn thiện, sự vận động tốt hơn. Hệ thần kinh của trẻ phát triển tốt,
trẻ có khả năng chú ý cao trong quá trình tập luyện bài tập vận động. Các vận
động cơ bản được thực hiện tương đối chính xác, mềm dẻo, thể hiện sự khéo
léo trong vận động, lực cơ bắp được tăng lên. Sự phát triển vận động của trẻ


22

diễn ra trên cơ sở những vận động đi, vận động nhảy, vận động chạy,
bò, ném.
Như vậy, dựa vào đặc điểm phát triển Thể chất và vận động của trẻ ở
từng độ tuổi mầm non, ta sẽ lựa chon những nội dung và phương pháp hướng
dẫn vận động phù hợp với trẻ để có thể đạt được hiệu quả cao nhất trong quá
trình tập luyện.
1.3.4. Nội dung và hình thức của bài tập Giáo dục Thể chất cho trẻ em
lứa tuổi mầm non
1.3.4.1. Nội dung của bài tập Giáo dục Thể chất cho trẻ mầm non
Con người sinh ra và lớn lên ai cũng momg muốn được khỏe mạnh cơ
thể phát triển cân đối hài hòa. Song để đạt được điều đó họ cần giáo dục và tổ
chức tập luyện thể dục một các có hệ thống nhằm hồn thiện dần về cơ thể
ngay từ những năm tháng đầu tiên.
Tập luyện thể dục, khơng chỉ hình thành kỹ năng, kỹ xảo vận động cần
thiết cho cuộc sống mà còn rèn luyện các phẩm chất ý chí, đạo đức, nếp sống
lành mạnh, ý thức tổ chức kỷ luật, tình cảm tập thể, tư thế đúng, óc thẩm mỹ
tinh tế, nâng cao sức khỏe, kéo dài tuổi thọ - chuẩn bị cho con người đầy đủ
những yếu tố cần thiết về mặt sức khỏe để bước vào cuộc sống, học tập, lao
động. Do vậy, môn học Thể dục được đưa vào giảng dạy ở tất cả các trường
từ bậc học mầm non đến đại học.

*Các bài tập Thể dục
Bài tập Thể dục gồm một hệ thống động tác được chọn lọc, tác động
lên toàn bộ cơ thể con người, tăng cường các quá trình chức năng cơ bản,
thuận lợi cho sự phát triển cân đối và nâng cao trương lực sống.
Bài tập Thể dục có tác dụng đẩy mạnh các q trình sinh lí trong cơ thể
và củng cố sức khỏe cho trẻ. Giúp hình thành đúng những hoạt động vận động
và phát triển các tố chất thể lực.


23

Bài tập Thể dục cho trẻ em lứa tuổi mầm non là là bài tập thể dục bao
gồm: Bài tập đội hình đội ngũ, bài tập phát triển chung và bài tập vận động
cơ bản.
- Bài tập đội hình đội ngũ: Là loại bài tập thể chất sử dụng vận động đi
với nhiều hình thức khác nhau.
Bài tập đội hình đội ngũ cho trẻ ở trường mầm non thực hiện nhiều
trong thể dục buổi sáng, tiết học thể dục, giáo dục âm nhạc và sử dụng trong
trò chơi vận động.
Luyện tập đội hình đội ngũ giúp trẻ phát triển khả năng chú ý, phối hợp
hành động khi hoạt động tập thể, khả năng định hướng trong không gian, rèn
luyện tư thế đúng như: Đi thẳng, bước dứt khoát và bồi dưỡng tính tổ chức kỷ
luật, tinh thần tập thể, tính tự giác cho trẻ.
Nội dung tập luyện đội hình đội ngũ đối với trẻ em các lứa tuổi, từ 18
tháng tuổi trở lên, khi trẻ biết đi vững, bắt đầu cho trẻ tập luyện đội hình
đội ngũ.
+ Đối với trẻ từ 18 - 36 tháng tuổi, có: Đội hình tự do, đội hình vịng
cung, đội hình vịng trịn, quay về phía có vật chuẩn, đứng thành hàng dọc,
đứng thành hàng ngang.
+ Đối với trẻ 3 - 4 tuổi có: Đội hình vịng trịn, xếp hàngtheo tổ, từ

hàng dọc chuyển thành hàng ngang, từ hàng ngang chuyển thành hàng dọc,
quay phải, quay trái, quay đằng sau.
+ Đối với trẻ 4 - 5 tuổi có: Xếp thành 1 - 2 vịng trịn, xếp thành hàng
dọc, hàng ngang, từ hàng dọc chuyển thành hàng ngang và ngược lại, từ một
hàng dọc chuyển thành hai hàng dọc và ngược lại.
+ Đối với trẻ từ 5 - 6 tuổi có: Xếp hàng dọc, hàng ngang theo tổ,
chuyển một hàng dọc (ngang) thành hai hàng dọc (ngang) và ngược lại, một
vòng tròn thành hai vòng tròn và ngược lại.


24

- Bài tập phát triển chung: Là một hệ thống động tác được chọn lọc có
tác dụng phát triển và củng cố những nhóm cơ bắp riêng biệt như cơ bản vai,
cơ tay, cơ lưng, cơ ngực…
Bài tập phát triển chung có tác dụng củng cố và tăng cường sức khỏe
cho trẻ, nâng cao trạng thái hoạt động của cơ thể ảnh hưởng tích cực lên hệ
thần kinh. Hệ tuần hồn, hệ hơ hấp, giúp cơ thể phát triển cân đối, hài hịa về
hình thái và chức năng bằng con đường củng cố các bắp cơ riêng biệt, củng cố
hệ xương, đặc biệt là sự hình thành đúng độ cong của cột sống, tạo nên tư thế
đúng, điều hòa vận động có ý thức và chủ động.
Nội dung tập luyện đội hình đội ngũ đối với trẻ em các lứa tuổi:
Trẻ em từ 3 - 12 tháng tuổi được chia thành các giai đoạn sau:
+ Với trẻ em từ 3 - 6 tháng cần dạy những bài tập sau:
Nằm ngửa bắt chéo hai tay trước ngực, nằm ngửa tay co, tay duỗi, nằm
ngửa co duỗi đều hai chân, nằm ngửa chân co chân duỗi, đứng nhún nhảy, (4 6 tháng), lẫy sấp (4 - 6 tháng), tập trườn (5 - 6 tháng).
+ Với trẻ từ 6 - 9 tháng cần dạy trẻ những bài tập sau:
Nằm ngửa bắt chéo hai tay trước ngực, nằm ngửa co duỗi đều hai chân,
nằm ngửa chân co, chân duỗi, nằm ngửa nâng hai chân duỗi thẳng, trường
theo đồ chơi (6 - 7 tháng), tập bò (7 - 9 tháng) tập ngồi (8 - 9 tháng), ngồi tay

co, tay duỗi (8 - 9 tháng) vị đứng lên, ngồi xuống (8 - 9 tháng).
+ Với trẻ từ 9 - 12 tháng cần tập những bài tập sau:
Nằm ngửa bắt chéo hai tay trước ngực, nằm ngửa co duỗi đều hai chân,
nằm ngửa nâng hai chân duỗi thẳng, ngồi tay co tay duỗi, ngồi đưa tay ra mọi
phía, nằm ngửa, luân phiên đưa thẳng từng chân lên, chuyển từ ngồi xuống
nằm (9 - 10 tháng), bò theo hướng thẳng, đứng vịn và đi men, tập chững (10 12 tháng) tập đi (11 - 12 tháng).
Trẻ em từ 12 - 24 tháng được chia thành các giai đoạn sau:


25

+ Với trẻ em từ 12 - 18 tháng cần dạy trẻ những bài tập sau:
Tập đi (12 - 15 tháng), đi theo hướng thẳng (14 - 18 tháng), đi cầm vật
trên tay (16 - 18 tháng), bò qua vật cản (12 - 18 tháng), bị chui dưới vật, lăn
bóng bắng hai tay, ném bóng bằng một tay về phía trước (17 - 18 tháng).
+ Với trẻ em từ 18 - 24 tháng: Các bài tập hô hấp (ngửi hoa, thổi bóng,
gà gáy) các bài tập phát triển cơ tay, vai, các bài tập phát triển cơ lưng, bụng,
các bài tập phát triển cơ chân.
+ Trẻ từ 24 - 36 tháng tuổi: Sử dụng các bài tập hô hấp, các bài tập phát
triển cơ tay, vai, các bài tập phát triển cơ bụng, lườn, các bài tập phát triển
cơ chân.
+ Trẻ em từ 3 - 4 tuổi: Sử dụng các bài tập hô hấp, các bài tập phát
triển cơ tay, vai, các bài tập phát triển cơ bụng, lườn, các bài tập phát triển cơ
chân.
+ Trẻ em từ 4 - 5 tuổi: Sử dụng các bài tập hô hấp, các bài tập phát
triển cơ tay, vai, các bài tập phát triển cơ bụng, lườn, các bài tập phát triển cơ
chân, các động tác bật nhảy (tại chỗ, về phía trước, tách chân, khép chân, luân
phiên chân trước chân sau).
+ Trẻ em từ 5 - 6 tuổi: Sử dụng các bài tập hô hấp, các bài tập phát triển
cơ tay, vai, các bài tập phát triển cơ bụng, lườn, các bài tập phát triển cơ chân,

các bài tập bật nhảy (bật về phía trước, qua gậy, vịng, bật tách chân, bước
chân, nhảy bước đệm trên một chân, đổi dáng nhảy chân sáo, bật luân phiên
chân trước chân sau).
- Bài tập vận động cơ bản: Là những vận động cần thiết cho hoạt động
của con người trong cuộc sống. Khi hoạt động chúng thu hút phần lớn cơ bắp
tham gia và nâng cao hoạt động sống của toàn bộ cơ thể, đẩy mạnh các quá
trình sinh lý. Như vậy, chúng tác động và tạo ra sự phát triển thể lực và sức
khỏe cho trẻ. Luyện tập vận động cơ bản sẽ góp phần hoàn thiện khả năng


×