Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

NGHIÊN CỨU VỀ THU NHẬP CỦA HỘ GIA ĐÌNH NÔNG DÂN TẠI HÀ GIANG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (514.27 KB, 78 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Việt Nam là một quốc gia nông nghiệp có đến 70% số dân sống ở khu
vực nông thôn, trong đó nông dân chiếm 62%. Theo báo cáo về kết quả khảo
sát của Tổng Cục Thống kê năm 2010, thu nhập bình quân 1 người 1 tháng ở
khu vực nông thôn đạt 1.071 nghìn đồng. Đó là một con số tương đối thấp.
Tuy nhiên, thu nhập của người nông dân lại còn thấp hơn nhiều. Phần lớn các
hộ gia đình nông dân có thu nhập từ 400 nghìn đồng/tháng đến 1000 nghìn
đồng/tháng.
Thu nhập của hộ gia đình là chỉ tiêu tổng hợp biểu hiện toàn bộ kết quả
hoạt động sản xuất – kinh doanh của hộ gia đình hay đây chính là nguồn nội
sinh (bao gồm thu nhập từ hoạt động sản xuất nông nghiệp và các hoạt động
sản xuất phi nông nghiệp) và nguồn ngoại sinh bao gồm các hoạt động trợ cấp
của nhà nước, trợ giúp của họ hàng hoặc là từ thành viên trong gia đình gửi
về…
Nguồn nội sinh là nguồn hình thành thu nhập chính của hộ gia đình,
chiếm trên 92% tổng thu nhập. Tuy nhiên, thực tế cho thấy nguồn này chưa
được phát huy hiệu quả, chưa tạo nên nền tảng vững chắc để đảm bảo cuộc
sống cho người dân. Nguồn nội sinh thì chịu tác động của rất nhiều yếu tố.
Thứ nhất, những yếu tố từ môi trường bên trong như: ngành nghề và việc làm,
trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật, tư liệu sản xuất, tăng trưởng kinh tế…
Thứ hai, những yếu tố từ môi trường bên ngoài: chính sách của chính phủ và
việc thi hành chính sách của chính phủ…
Nguồn ngoại sinh chiếm khoảng 8% trong tổng thu nhập, tuy chiếm tỷ
lệ nhỏ nhưng nguồn này đóng vai trò rất quan trọng. Nó không chỉ là bộ phận
hình thành nên thu nhập mà còn là động lực, điều kiện để thúc đẩy nguồn nội
sinh. Những yếu tố chính ảnh hưởng đến nguồn ngoại sinh là: thứ nhất, an
sinh xã hội truyền thống. Thứ hai, chính sách và sự thi hành chính sách của
chính phủ.


Ở Việt Nam hiện nay, các nhà chính sách cũng đã quan tâm đến một số
yếu tố: nghề nghiệp và việc làm, trình độ giáo dục, các chính sách… nhằm


2

nâng cao thu nhập cho người dân. Tuy nhiên, việc thực hiện còn mờ nhạt, tràn
lan, chưa đánh giá được tầm quan trọng của các nhân tố cũng như chưa chỉ ra
được yếu tố tác động mạnh nhất đến thu nhập của người dân.
Hà Giang là một tỉnh miền núi có rất nhiều điểm mạnh và lợi thế, tuy
nhiên hiện đang xếp vào dạng tỉnh nghèo, thu nhập bình quân đầu người còn
rất thấp, nhất là thu nhập của người nông dân. Nếu như thu nhập bình quân
đầu người của người nông dân cả nước khoảng 0,8 triệu đồng/tháng thì thu
nhập bình quân đầu người của người nông dân tỉnh Hà Giang chỉ khoảng 0,45
triệu đồng/tháng. Hà Giang là tỉnh có tỉ lệ hộ nghèo và cận nghèo lớn, hộ
nghèo chiếm tỷ lệ 35,38%; hộ cận nghèo chiếm 13,37%. Nguồn thu chủ yếu
của các hộ gia đình nông dân tại đây là từ hoạt động sản xuất nông nghiệp.
Tuy nhiên nguồn này chỉ đóng góp khoảng 47% trong tổng thu nhập của hộ.
Vậy làm thế nào để đa dạng hóa nguồn thu nhập cho hộ gia đình nông dân Hà
Giang, tôi quyết định lựa chọn đề tài: “ Nghiên cứu về thu nhập của hộ gia
đình nông dân tại Hà Giang” để tiến hành nghiên cứu.
2. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Các công trình nghiên cứu liên quan đến phạm vi nghiên cứu của đề
tài:
Có thể kể đến những công trình nghiên cứu tiêu biểu đã được nghiệm
thu, công bố của các nhà khoa học thuộc các trường đại học, các học viện và
các cơ quan quản lý. Theo đó, vấn đề thu nhập được nghiên cứu với hai góc
độ:
Thứ nhất, dưới góc độ chung nhất, các nghiên cứu về phân phối thu
nhập trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. Theo hướng này có các công trình

như Tống Văn Đường (1994) về “Luận cứ khoa học của việc đổi mới chính
sách và cơ chế quản lý lao động, tiền công, thu nhập trong nền kinh tế thị
trường” đề tài KX03.11/1991-1995 đã trình bày cơ sở lý luận xác định tiền
công, thu nhập trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần; phân tích thực
trạng chính sách và cơ chế quản lý lao động, tiền công và thu nhập trong nền
kinh tế thị trường ở Việt Nam; đề xuất quan điểm và giải pháp đổi mới chính
sách và cơ chế quản lý lao động, tiền công và thu nhập trong nền kinh tế nhiều
thành phần ở nước ta;


3

Mai Ngọc Cường trong tác phẩm “Phân phối thu nhập trong nền kinh
tế thị trường ở Việt Nam” NXB Thống kê năm 1994 đã nêu ra các lý thuyết
về thu nhập và phân phối thu nhập qua các thời kỳ lịch sử, và đưa ra quan
điểm về phân phối thu nhập ở Việt Nam giai đoạn chuyển sang kinh tế thị
trường.
Nguyễn Công Nghiệp (2006) và cộng sự với công trình Phân phối
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa do NXB Chính trị
quốc gia phát hành, đã đề cập đến những vấn đề phân phối thu nhập đối với
các đối tượng lao động, trong đó có nông dân.
Thứ hai, những nghiên cứu về thu nhập của người nông dân trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước có các công trình Nguyễn Đình
Hương (1999) Thực trạng và giải pháp đảm bảo sản xuất và đời sống cho các
hộ nông dân không có đất hoặc thiếu đất ở đồng bằng Sông Cửu Long, nhiệm
vụ chính phủ giao 1998-1999 đã phân tích thực trạng việc làm và thu nhập của
các hộ nông dân không có đất hoặc thiếu đất sản xuất và khuyến nghị cơ chế
chính sách đảm bảo thu nhập cho các hộ này.
Tuy nhiên, vấn đề thu nhập của hộ gia đình nông dân hiện nay có nhiều
biến đổi. Đặc biệt trong điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa diễn ra mạnh

mẽ, có nhiều yếu tố tác động đến thu nhập của hộ gia đình nông dân, song yếu
tố nào là mạnh nhất thì chưa có nghiên cứu nào đề cập một cách đầy đủ. Đây
là một trong những mục tiêu mà nghiên cứu này đề cập đến.
3. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
- Đánh giá các nguồn thu nhập của hộ gia đình nông dân tỉnh Hà
Giang.
- Phân tích, đánh giá mức độ ảnh hưởng của các yếu tố tới thu nhập
của người nông dân tỉnh Hà Giang.
- Đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao thu nhập của người nông
dân tỉnh Hà Giang.
Để hoàn thành mục tiêu nghiên cứu, đề tài tập trung đi vào trả lời
những câu hỏi nghiên cứu sau:
Trong các yếu tố tác động đến các nguồn thu nhập của người nông dân tỉnh
Hà Giang, thì yếu tố nào có tác động nhiều nhất? Biến đó chịu tác động bởi
nhân tố nào?


4

- Làm thế nào để nâng cao thu nhập của người nông dân từ việc thay
đổi biến chính tác động theo chiều hướng tích cực?
- Đưa ra những giải pháp nào nhằm biến đổi các biến còn lại để đạt
được sự thay đổi theo chiều tích cực?
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về thu nhập của hộ gia đình nông dân tại Hà Giang.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Đề tài tiến hành nghiên cứu thu nhập của hộ gia đình
nông dân tại Huyện Xín Mần – Hà Giang.
Về thời gian: Dữ liệu nghiên cứu của đề tài là các số liệu sơ cấp và thứ

cấp liên quan đến thu nhập của hộ gia đình tỉnh Hà Giang giai đoạn 20102015.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để đáp ứng yêu cầu cá nội dung nghiên cứu, đề tài tiến hành sử dụng cả
phương pháp định lượng và định tính trong quá trình nghiên cứu.
Đối với phương pháp định tính: đề tài sử dụng các phương pháp nghiên
cứu: phân tích, so sánh, đánh giá…
Cùng với phương pháp định tính đề tài còn sử dụng phương pháp định
lượng cho quá trình phân tích đánh giá và đưa ra các đề xuất kiến nghị. Các
phương pháp định lượng là:
- Phương pháp thống kê mô tả: sử dụng phần mềm SPSS
- Phương pháp điều tra chọn mẫu: tỉnh Hà Giang có 01 thành phố và 10
huyện, chọn huyện Xín Mần để tiến hành điều tra. Phương pháp này sử dụng
để thu thập số liệu.
- Phương pháp phân tích tài liệu được sử dụng trong việc định hướng đề
tài nghiên cứu các số liệu về thông tin thu thập được sử lý và phân tích giải
quyết các vấn đề được nêu ra trong giả thuyết.
- Phương pháp phỏng vấn: là kết quả của sự tập trung kiến thức nhằm
định lượng các thông tin cần thiết.


5

Để có số liệu phục vụ cho phương pháp định lượng đề tài sẽ tiến hành
phỏng vấn điều tra khoảng 100 phiếu trên địa bàn huyện Xín Mần, với 02
nhóm đối tượng. Cụ thể là: 70 phiếu điều tra cho các hộ gia đình nông dân, 30
phiếu điều tra đối với cán bộ quản lý thuộc chính quyền địa phương.
Huyện Xín Mần thuộc nhóm huyện nghèo nhất của tỉnh Hà Giang và
đây cũng là huyện có tỷ lệ hộ được hưởng lợi từ dự án/chính sách giảm nghèo
đạt ở mức cao của tỉnh. Tuy nhiên thu nhập cũng như đời sống của người
nông dân nơi đây đang gặp phải rất nhiều khó khăn. Làm thế nào để nâng cao

thu nhập cho người nông dân toàn tỉnh nói chung và huyện Xín Mần nói riêng
đang là vấn đề được quan tâm hàng đầu của các cấp chính quyền Trung Ương
và chính quyền địa phương.
Các phiếu điều tra đối với các hộ gia đình nông dân sẽ giúp nhà nghiên
cứu xác định được thực trạng về thu nhập của đối tượng phỏng vấn và phân
tích, đánh giá được các nhân tố ảnh hưởng tới thu nhập. Thông qua một số câu
hỏi như: “Mỗi tháng, thu nhập trung bình của một khẩu trong mỗi gia đình
nông dân là bao nhiêu?”, “ Thu nhập của hộ gia đình nông dân bao gồm
những nguồn nào?”, “Những yếu tố nào ảnh hưởng đến thu nhập của gia
đình?”
Các phiếu điều tra đối với các cơ quan quản lý địa phương sẽ tập trung
vào việc đánh giá mức độ phù hợp và tính hiệu quả của các chính sách của
Nhà nước trong việc nâng cao thu nhập cho người dân nói chung và người
nông dân nói riêng. Những nguyên nhân làm cho hiệu quả của các chương
trình trợ giúp xã hội chưa cao; đặc biệt là quan điểm của những nhà quản lý
đối với vấn đề hỗ trợ người nông dân thoát nghèo. Ngoài các vấn đề trên,
phỏng vấn các nhà quản lý địa phương còn hướng tới mục tiêu tìm ra cơ chế
phối hợp trong tổ chức thực hiện phát triển kinh tế- xã hội trong toàn tỉnh.
Mẫu phiếu phỏng vấn hộ gia đình nông dân và cán bộ quản lý chính
quyền địa phương được đính kèm ở phụ lục 1.


6

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THU NHẬP CỦA NGƯỜI NÔNG
DÂN
1.1 Hộ gia đình nông dân- khái niệm và một số đặc điểm
1.1.1 Khái niệm
Hộ gia đình nông dân là một tập hợp gồm một hoặc một số người có
quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân hoặc nhận nuôi dưỡng cùng chung

sống trong một căn hộ; sinh sống bằng nghề nông, lâm, ngư, diêm nghiệp; có
ngân sách chung, là một tế bào kinh tế, xã hội của một quốc gia.
1.1.2 Đặc điểm
Hộ gia đình nông dân có một số đặc điểm sau:
- Cùng chung sống trong một căn hộ;
- Phải có chung một ngân sách;
- Là tế bào kinh tế, xã hội của một quốc gia;
- Sinh sống bằng nghề nông, lâm, ngư, diêm nghiệp.
Đặc điểm 1 và 2 là căn cứ để xác định số khẩu trong hộ và trên cơ sở đó
mới xác định đúng đắn nguồn thu do ai cung cấp và ai được tính vào thu nhập,
tiêu dùng.
Đặc điểm 3 là cơ sở để xác định vai trò của hộ gia đình trong công tác
xã hội và phát triển kinh tế.
Đặc điểm 4 thể hiện nét riêng của hộ gia đình nông dân, phân biệt hộ
gia đình nông dân với các hộ gia đình khác.
Như vậy một người được coi là thành viên của hộ gia đình phải đảm
bảo các điều kiện sau:
- Điều kiện cần: điều kiện quan hệ thể hiện qua việc hoặc có quan hệ
hôn nhân, hoặc có quan hệ huyết thống, hoặc có quan hệ nuôi dưỡng; cùng ở,
cùng hưởng thụ các khoản chi tiêu.
- Điều kiện đủ: thu nhập và tiêu dùng của người đó là bộ phận cấu
thành thu nhập, tiêu dùng của hộ.
1.2 Nguồn hình thành thu nhập của người nông dân
Thu nhập là yếu tố quyết định đến quy mô, cơ cấu tiêu dùng và phản
ánh mức sống của dân cư. Mức sống của dân cư trước hết bắt nguồn từ thu
nhập là một trong những chỉ tiêu kinh tế quan trọng để đánh giá mức sống của
hộ gia đình. Tăng mức thu nhập là yếu tố quan trọng hàng đầu để cải thiện


7


nâng cao mức sống cho người dân. Đây là một trong những mục tiêu quan
trọng được đặt ra trong các kỳ Đại hội Đảng, các kỳ kế hoạch ngắn hạn và dài
hạn của nước ta.
Qua mỗi thời kỳ khác nhau, thu nhập hộ gia đình dân cư đều có thay
đổi. Một trong những yếu tố quan trọng để xác định đúng đắn thu nhập của hộ
gia đình dân cư là phải phân tích đúng đắn nội dung, cơ cấu và các yếu tố ảnh
hưởng đến thu nhập của dân cư.
Thu nhập của các hộ gia đình nông dân được hình thành từ các nguồn
chủ yếu sau:
Nguồn 1: Nguồn nội sinh hay chính là nguồn thu từ hoạt động lao động
của bản thân các hộ gia đình nông dân.
Thứ nhất: Thu nhập từ hoạt động sản xuất nông nghiệp
 Thu từ hoạt động sản xuất nông nghiệp
Hoạt động nông nghiệp bao gồm trồng trọt, chăn nuôi và dịch vụ nông
nghiệp. Do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp là chu kỳ sản xuất dài, một bộ
phận sản phẩm nông nghiệp trở thành yếu tố tái sản xuất ra nó, các loại cây
trồng và vật nuôi độc lập với nhau nhưng có liên hệ mật thiết với nhau trong
sản xuất nên tổng giá trị sản xuất nông nghiệp được tính theo phương pháp
chu chuyển, nghĩa là cho phép tính trùng giữa trồng trọt và chăn nuôi cũng
như trong nội bộ ngành.
Tổng thu nhập trong ngành nông nghiệp được xác định như sau:
Tổng thu nhập

Thu nhập từ

Từ nông nghiệp = trồng trọt

Thu nhập từ


Thu nhập từ dịch vụ

+ chăn nuôi

+

nông nghiệp

Trong đó: Thu nhập từ dịch vụ sản xuất nông nghiệp là thu nhập (doanh
thu) từ các hoạt động cày bừa, tưới tiêu, phòng trừ sâu bệnh, bảo hiểm cây
trồng, vật nuôi, cho thuê các công cụ sản xuất trong nông nghiệp như cho thuê
trâu bò, cho thuê ruộng đất,…
 Thu nhập từ lâm nghiệp
Thu nhập từ lâm nghiệp được tính như sau:


8

Tổng thu nhập

Thu nhập từ trồng,

Thu nhập từ gỗ,

từ lâm nghiệp = chăm sóc và nuôi +
của hộ

dưỡng rừng

Thu nhập từ


củi, lâm sản do + hoạt động có

hộ khai thác

tính chất sản xuất
lâm nghiệp

Trong đó: Thu nhập từ việc trồng mới và nuôi dưỡng rừng như chăm
sóc, tu bổ và cải tạo rừng được tính bằng chi phí trong năm cho các hoạt động
đó.
Thứ hai: Thu từ hoạt động sản xuất phi nông nghiệp
 Thu nhập từ hoạt động dịch vụ (du lịch)
- Thu nhập từ việc hướng dẫn khách du lịch tham quan;
- Thu nhập từ việc chở xe ôm phục vụ khách du lịch;
Thu nhập từ việc bán hàng ăn uống, hàng lưu niệm cho khách du lịch
cụ thể được tính như sau:
- Nếu thực hiện hoạt động bán hàng lưu niệm, hàng ăn uống qua chế
biến như tự làm hàng lưu niệm bán cho khách du lịch, các đồ ăn uống do gia
đình tự sản xuất ra thì:
- Thu nhập = Doanh thu phục vụ
- Nếu thực hiện hoạt động bán hàng lưu niệm, hàng ăn uống không
qua chế biến như bánh kẹo, bia chai, bia hộp, cà phê, mua các hàng lưu niệm
về bán lại cho du khách thì:
Thu nhập = Doanh số hàng bán ra – Giá trị vốn hàng bán ra
 Thu nhập từ tiền công
Thu nhập từ tiền công là thu nhập của những người lao động làm thuê
cho các cá nhân và hộ gia đình khác như chăn trâu thuê, đi cấy thuê…Do tính
chất trong ngành nông nghiệp là có tính thời vụ cao nên những lúc nông nhàn
thì người nông dân có thể làm những công việc khác như: làm thuê dọn dẹp

việc nhà cho các hộ gia đình khác, phụ hồ…Những người đi làm thuê này
thường được trả công theo ngày làm việc hoặc theo khối lượng, kết quả công
việc đã được giao khoán. Những hộ nghèo đặc biệt là những hộ thiếu đất làm
nông nghiệp thì một năm tính trung bình mỗi lao động lớn tuổi thường đi làm
thuê từ 3-4 tháng.
 Thu nhập từ hoạt động sản xuất- kinh doanh khác


9

- Thu nhập từ các ngành nghề phụ khác như: buôn bán hàng tạp hóa
nhỏ tại gia đình, xay xát lúa…
- Thu nhập từ các ngành nghề truyền thống: dệt thổ cẩm, chạm,
khảm…
Nguồn 2: Nguồn ngoại sinh là nguồn từ bên ngoài mà không phải thu
từ hoạt động lao động của bản thân hộ gia đình nông dân.
Nguồn ngoại sinh bao gồm các khoản thu chủ yếu sau:
-

Thu từ trợ cấp của Nhà nước;
Thu từ trợ giúp của họ hàng, làng xóm;
Tiền từ thành viên gia đình gửi về;
Tiền lãi do gửi tiết kiệm;
Tiền bán tài sản.

Để tăng thu nhập cho người nông dân, trước hết phải nghiên cứu các
nguồn thu nhập nào có khả năng phát triển nhanh và chiếm tỷ trọng lớn trong
tổng thu nhập, xác định được yếu tố nào là yếu tố ảnh hưởng lớn nhất tới
nguồn thu nhập đó, nhằm đề ra các chủ trương, chính sách và hướng phát triển
các nguồn đó sao cho phù hợp.

1.3 Tiêu chí đánh giá thu nhập của hộ gia đình nông dân
Tiêu chí đánh giá thu nhập của hộ gia đình nông dân:
Chia thành 5 nhóm hộ:
Nhóm 1: nhóm hộ giàu. Thu nhập bình quân đầu người từ 2,463 triệu
đồng/người/tháng trở lên.
Nhóm 2: nhóm hộ khá. Thu nhập bình quân đầu người từ 1,175- 2,463
triệu đồng/người/tháng.
Nhóm 3: nhóm hộ trung bình. Thu nhập bình quân đầu người từ 0,821,175 triệu đồng/người/tháng.
Nhóm 4: nhóm hộ nghèo. Thu nhập bình quân đầu người từ 0,4- 0,569
triệu đồng/người/tháng.
Nhóm 5: nhóm hộ cận nghèo. Thu nhập bình quân đầu người từ 0,5690,82 triệu đồng/người/tháng.
1.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến nguồn thu nhập của người nông dân


10

 Đối với nguồn nội sinh: chia thành 2 nhóm yếu tố chính sau:
Nhóm 1: Những yếu tố từ môi trường bên trong:
Thứ nhất, ngành nghề và việc làm ảnh hưởng tới thu nhập của các hộ
gia đình nông dân
Thu nhập của hộ gia đình nông dân thuộc các nhóm ngành nghề khác
nhau có khác nhau. Thu nhập bình quân của các nhóm hộ gia đình nông dân
có kết cấu ngành nghề khác nhau cũng khác nhau. Nói cách khác, thu nhập
của hộ gia đình nông dân phụ thuộc nhiều vào loại ngành nghề của họ. Bên
cạnh một số ngành nghề có thu nhập cao còn có các ngành nghề khác thu nhập
thấp. Trong những năm trước đây, các hộ gia đình nông dân có nguồn thu
nhập chủ yếu từ sản xuất nông nghiệp (trồng trọt và chăn nuôi). Do mức đầu
tư cho sản xuất và trình độ tổ chức quản lý còn thấp, thị trường nông sản chưa
được mở rộng, thu nhập của hộ gia đình nông dân mới đạt ở mức thấp. Sau
khi thực hiện đổi mới tổ chức sản xuất và quản lý nông nghiệp, các ngành

nghề như trồng cây ăn quả, chăn nuôi cá và các loại đặc sản… được phát triển.
Các hợp tác xã, các làng nghề truyền thống như chạm, khảm, dệt thổ cẩm…
Trên cơ sở phát triển sản xuất thủ công, kinh doanh dịch vụ tạo ra khối lượng
hàng hóa lớn bán trên thị trường và xuất khẩu, nhiều hộ gia đình nông dân đã
có mức thu nhập hàng trăm triệu đồng từ ngành nghề và dịch vụ. Rõ ràng là
lựa chọn ngành nghề sản xuất, kinh doanh phù hợp không ngừng hoàn thiện
cơ cấu ngành nghề là một trong những nhân tố làm tăng thu nhập hộ gia đình
nông dân.
Phân tích thu nhập của hộ gia đình nông dân theo ngành nghề đòi hỏi
phải chỉ ra được mức đầu tư, chi phí, thu nhập theo ngành nghề, các ngành có
thu nhập cao và tăng nhanh làm cơ sở cho việc hoạch định chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ở nông thôn một cách hợp lý. Phân tích thu nhập hộ nông dân theo
ngành nghề cho phép vạch ra và khai thác các khả năng tiềm tàng trong nông
dân, góp phần làm tăng thu nhập của hộ gia đình nông dân, cũng như của xã
hội, góp phần thực hiện xóa đói giảm nghèo trong khu vực chiếm hơn 62%
dân số cả nước.
Căn cứ vào chỉ báo về xu hướng chuyển dịch và đặc điểm sản xuất kinh
doanh của các hộ gia đình nông dân có thể chia ra làm 2 loại hộ như sau:


11

- Nhóm hộ thuần nông gồm: những hộ có thu nhập chủ yếu và cơ bản từ
trồng trọt và chăn nuôi. Đây là những hộ có thời gian nông nhàn nhiều nhất,
họ chỉ tập trung lo chăm bón ruộng lúa, hoa màu và chăn nuôi.
Trong số này có cả những hộ thuần nông nhưng lại có xu hướng mở
rộng sản xuất chăn nuôi, không ít trong số họ biết vận dụng đúng và linh hoạt
các biện pháp kỹ thuật, có sự đầu tư đúng đắn về vốn cho nên thu nhập khá
cao nhờ năng suất và sản lượng cao.
- Nhóm hộ kiêm nghề gồm những hộ có mức thu nhập khá dàn trải từ

nghề chính và phụ. Ở đây họ coi nông nghiệp là hàng đầu, bên cạnh đó còn
kiếm thêm nguồn thu nhập từ các loại hình sản xuất tiểu thủ công nghiệp, làm
thuê, buôn bán nhỏ… Đặc điểm của nhóm hộ này là có ý thức và mong muốn
có sự cải thiện về mức thu nhập. Do đó mức thu nhập của họ tăng lên đáng kể.
Nhóm hộ kiêm nghề chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu.
Từ thực tế cho thấy rõ ràng có nhiều nghề phụ, nhiều nguồn thu nhập
thì sẽ cho thu nhập cao hơn là làm nông nghiệp. Đặc biệt là: nếu chỉ trông vào
trồng trọt thì thu nhập hầu như đều không đủ ăn. Những người chỉ tập trung
làm nông nghiệp thì thời gian nhàn rỗi của họ sẽ rất nhiều trong khi có thêm
nghề phụ thì toàn bộ thời gian rỗi ấy đầu tư vào sản xuất đem lại nguồn thu
nhập cho gia đình.
Hơn nữa, ngành nghề và việc làm không chỉ ảnh hưởng tới thu nhập của
người nông dân mà còn ảnh hưởng tới tính ổn định của thu nhập. Người nông
dân thu nhập chủ yếu là từ trồng trọt và chăn nuôi nên khi có những biến động
về thị trường, thời tiết, dịch bệnh…thì dễ bị tổn thương. Điều đáng lưu ý là do
tính thời vụ cao trong sản xuất nông nghiệp nên số người lao động đi làm thuê
trong lúc nông nhàn là tương đối lớn. Tuy nhiên thì nguồn thu này không có
tính ổn định.
So sánh về quan niệm nhận thức giữa hộ giàu làm dịch vụ buôn bán với
hộ nghèo cũng cho thấy sự khác biệt. Trong khi những hộ nghèo thuần nông
an phận với công việc của mình thì những người tham gia vào việc buôn bán
có quan niệm không chịu cảnh mãi với cuộc sống nghèo khổ, họ luôn tìm
kiếm cách thức để bươn trải làm giàu.


12

Với điều kiện lao động và việc hỗ trợ vốn, người dân còn muốn có
những chính sách xã hội tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất, đó cũng là
những vấn đề đáng lưu tâm trong việc tạo thêm công ăn việc làm, tăng thu

nhập.
Chính vì thế, cần tạo ra ngành nghề phụ cho người nông dân, điều đó
cho phép vừa tận dụng dược số lao động dư thừa, vừa tăng thu nhập cho
người nông dân. Hơn nữa, cần phải thay đổi phương hướng, cơ cấu sản xuất,
đa dạng hóa hoạt động sản xuất kinh doanh, khai thác tối đa tiềm năng về lao
động, tài nguyên, thị trường đặc biệt là điều kiện và thị trường tại chỗ. Theo
hướng đó khôi phục và phát triển thủ công nghiệp các làng nghề truyền thống
như: dệt thổ cẩm, chạm khắc, mây tre đan…là vấn đề cần được quan tâm đúng
mức.
Thứ hai, trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật ảnh hưởng tới thu nhập
của hộ gia đình nông dân.
Sự khác nhau về trình độ văn hóa, chuyên môn của những người lao
động cũng có ảnh hưởng không ít tới thu nhập của hộ gia đình. Qua nghiên
cứu các chuyên gia của Ngân hàng Thế giới đã đi đến kết luận rằng: “Tỷ lệ
nghèo giảm xuống khi trình độ học vấn tăng lên” (Việt Nam tấn công nghèo
đói, 1999). Trình độ văn hóa cao giúp cho người nông dân tự mình tìm ra
những phương pháp sản xuất có hiệu quả cao nhất. Họ biết căn cứ vào điều
kiện khí hậu, các yếu tố sản xuất đồng thời theo dõi diễn biến của thị trường
để quyết định nuôi con gì, trồng cây gì thì mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất,
từ đó đem lại thu nhập cao cho người nông dân.
Nâng cao trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật cho người nông dân là
một nhân tố tích cực làm tăng và ổn định thu nhập cho người nông dân ở các
vùng khác nhau. Thu nhập là kết quả của lao động sáng tạo của người nông
dân. Lao động nhanh, chậm, tốt, xấu phụ thuộc vào trình độ năng lực của
người lao động.
Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương hết sức đúng đắn là phổ cập cấp
1, cấp 2 cho nông dân và nhân dân các tỉnh, thành phố; phát triển khoa học kỹ
thuật, đầu tư các công nghệ mới nhằm mục đích nâng cao trình độ hiểu biết và



13

vốn kỹ thuật cho nông dân, tạo cho họ có khả năng lao động sáng tạo và có
nguồn thu nhập ngày càng cao.
Nâng cao trình độ văn hóa và đầu tư khoa học kỹ thuật cho người nông
dân các vùng là việc hết sức cần thiết. Trong nhiều báo cáo, thường chỉ nói tới
phần khoa học kỹ thuật mà chưa đề cập đến vấn đề văn hóa một cách đầy đủ.
Yếu tố văn hóa, nhận thức và hiểu biết về kỹ thuật canh tác là một trong
những yếu tố quan trọng hàng đầu trong phát triển sản xuất. Tuy nhiên, để
lượng hóa chúng trong việc phân tích thu nhập từ trước tới nay cũng chưa ai
đề cập một cách đầy đủ.
Yếu tố trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật không chỉ dược xem là một
yếu tố góp phần mà còn có ý nghĩa quyết định trong việc tăng năng suất, tăng
thu nhập cho người nông dân. Những địa phương có thu nhập thấp hầu hết là
những địa phương có trình độ dân trí thấp. Nhiều hộ gia đình do trình độ văn
hóa và khoa học kỹ thuật quá thấp nên lâm vào tình trạng nghèo túng, có được
vốn vay cũng không làm ra lãi. Thực tế đó là hiển nhiên, song giải quyết nó là
một vấn đề lâu dài. Chủ trương xóa nạn mù chữ chỉ mới là bước đầu chưa
phải đã nâng cao ngay được năng suất lao động cho người nông dân. Cần phải
có các biện pháp phổ biến kỹ thuật gieo trồng theo các công nghệ mới một
cách rộng rãi trong nông dân và phải làm thường xuyên, sâu rộng và lâu dài
mới góp phần tăng năng suất lao động, xóa đối giảm nghèo một cách vững
chắc.
Thứ ba, trình độ trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật
Một phần chênh lệch trong thu nhập của người nông dân là do mức
trang bị cơ sở hạ tầng cho lãnh thổ ở các vùng khác nhau. Ở những vùng được
đầu tư nhiều, thu nhập người nông dân sẽ cao mặc dù cùng bỏ ra một sức lao
động sống như nhau. Ngược lại, ở các vùng trang bị cơ sở hạ tầng thấp, nông
dân khó có điều kiện thu nhập cao. Khi chi phí đầu tư ít thì mọi hoạt động sản
xuất kinh doanh khó có giá thành thấp được. Khi nghiên cứu thu nhập của

người nông dân, vấn đề trang bị cơ sở hạ tầng cho lãnh thổ ở các vùng khác
nhau cần được đề cập đến một cách thỏa đáng nhằm chỉ rõ đó có phải là
nguyên nhân làm cho nông dân ở một số vùng có thu nhập thấp hay không.
Các báo cáo phân tích thu nhập của người nông dân từ trước tới nay chưa đề


14

cập dầy đủ đến vấn đề đó. Nghiên cứu đổi mới cơ chế quản lý cũng chúng là
chỉ ra các hướng đầu tư, đặc biệt là đầu tư đổi mới cơ sở hạ tầng và phát triển
sản xuất ở các vùng mà mức đầu tư còn quá thấp. Phấn đấu nâng độ đồng đều
về cơ sở hạ tầng cũng chính là một yếu tố quan trọng để góp phần nâng cao
thu nhập cho người nông dân ở các vùng một cách ổn định và thường xuyên.
Để khắc phục tình trạng thiếu vốn, Nhà nước đã có có chủ trương kêu gọi đầu
tư nước ngoài và đầu tư trong nước vào việc phát triển sản xuất nhất là phát
triển sản xuất nông nghiệp ở các vùng mà tiềm năng kinh tế còn lớn nhưng
chưa được khai thác. Ở những vùng này khi đầu tư tăng lên thi thu nhập của
người nông dân được tăng lên.
Việc đổi mới cách quản lý và tăng đầu tư, nhất là đầu tư cho thủy lợi ở
các vùng sẽ làm cho thu nhập của người nông dân được tăng lên nhanh chóng.
Thực tế đó lại một lần nữa chứng minh rằng: Để nâng cao thu nhập cho người
nông dân cần chuyển đổi cơ cấu đầu tư đi đôi với đổi mới cách quản lý mới
mang lai hiệu quả thiết thực.
Thứ tư, tư liệu sản xuất ảnh hưởng đến thu nhập của người nông dân.
Ruộng đất là tư liệu sản xuất đặc biệt quan trọng không thể thay thế
được đối với sản xuất nông nghiệp. Nó là một vấn đề gay gắt và nan giải đối
với người nông dân nước ta vì diện tích đất nông nghiệp bình quân đầu người
rất thấp. Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là những sinh vật sống. Mức
năng suất trên 1 ha bị giới hạn bởi khả năng sinh học của cây trồng và vật
nuôi. Với quy mô diện tích có hạn làm cho nhiều hộ thiếu việc làm. Điều đó

không chỉ gây ra tình trạng lãng phí sức lao động mà còn gây khó khăn cho
việc cơ giới hóa nông nghiệp, hiệu quả đầu tư thấp và thu nhập của người
nông dân thấp.
Trong khi đất đai bị giới hạn về quy mô thì trang bị công cụ sản xuất
có vai trò vô cùng quan trọng đối với việc nâng cao năng suất cây trồng, tạo
thu nhập tăng thêm cho các hộ gia đình nông dân. Tuy nhiên, rất ít hộ có được
các công cụ tiên tiến để phục vụ cho việc sản xuất đạt hiệu quả cao. Phần lớn
công cụ lao động của các hộ gia đình nông dân bao gồm: trâu, bò, cày, bừa,
cuốc, xẻng, liềm… và một số công cụ sản xuất khác. Đó là những công cụ hết
sức tho sơ và việc tăng năng suất cây trồng, mở rộng quy mô sản xuất, tăng


15

thu nhập cho người nông dân là rất khó khăn. Vì thế cần tìm các giải pháp
trang bị công cụ lao động cho người nông dân, mặt khác đi đôi với tăng cường
trang bị công cụ cần có kế hoạch đào tạo, nâng cao kỹ năng, trình độ cho
người nông dân. Khi người nông dân có công cụ khả năng tìm ra những
phương thức sản xuất mới để tăng thu nhập cho mình.
Thứ năm, tăng trưởng kinh tế chung ảnh hưởng đến thu nhập của người
nông dân.
Đây cũng là một nhân tố có tầm quan trọng ảnh hưởng đến thu nhập
của người nông dân. Nước ta 62% dân số là nông dân. Vấn đề tăng trưởng
kinh tế nói chung có ảnh hưởng trực tiếp đến việc tăng thu nhập cho người
nông dân và cũng là một động lực thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển.
Tuy nhiên, do đặc điểm của từng vùng khác nhau nên mức độ tăng thu nhập
của người nông dân cũng không thể đồng đều như nhau được.
Thứ sáu, số khẩu và quy mô hộ ảnh hưởng đến thu nhập của người
nông dân.
Mối liên hệ giữa thu nhập vào số hộ, số khẩu có liên quan mật thiết

với nhau, chế ước lẫn nhau. Để có thu nhập cao và ổn định không thể tăng số
lượng nhân khẩu quá nhanh so với tốc độ tăng thu nhập. Công tác kế hoạch
hóa gia đình phát triển cũng chính là để bảo đảm việc hạ thấp mức tăng dân số
tới mức cần thiết để góp phần vào việc ổn định và nâng cao thu nhập cho
người nông dân. Thu nhập bình quân khẩu ảnh hưởng rất lớn bởi quy mô và cơ
cấu hộ gia đình. Số hộ có mức thu nhập bình quân khẩu cao thưởng là các nhóm
có quy mô hộ nhỏ, số lao động và có cơ cấu ngành nghề sản xuất đa dạng.
Thu nhập bình quân của các hộ gia đình cũng bị ảnh hưởng rất lớn bởi
số người ăn theo và số lao động chính. Cùng có số lượng như nhau, tổng thu
nhập như nhau hộ nào đông nhân khấu (nhiều con) thì thu nhập bình quân của
hộ đó giảm sút và tất yếu sẽ dẫn đến đói nghèo. Quả thực, trong số hộ nghèo
và đông con, số lao động lại bận bịu vào việc con cái không thể sản xuất kinh
doanh được nên thu nhập đã thấp lại càng thấp. Một trong những nguyên nhân
quan trọng gây nên sự chênh lệch về thu nhập giữa hộ giàu và hộ nghèo là do số
nhân khẩu một lao động phải nuôi của hộ giàu thường ít hơn hộ nghèo.


16

Nhóm 2: Những yếu tố từ môi trường bên ngoài: Chính sách của Chính
phủ và việc thi hành chính sách của Chính phủ.
- Phương thức phân phối có ảnh hưởng rất lớn đến thu nhập của các
nhóm hộ gia đình nông dân.
Chế độ phân phối bình quân trước đây tuy đã có tác dụng bảo đảm tính
đồng đều trong đời sống của các tầng lớp nông dân ở các vùng, có tác dụng
động viên hậu phương ổn định và an tâm sản xuất trong khi hàng vạn con em
nông dân phải tập trung vào công cuộc chiến đấu và bảo vệ Tổ quốc. Song,
sau khi hòa bình lập lại, chế độ phân phối đó lại kìm hãm sản xuất. Phân phối
bình quân không những không kích thích và thúc đẩy phát triển sản xuất, mà
còn gây nên lãng phí cả lao động sống lẫn lao động quá khứ. Cơ chế quản lý

mới đã tạo ra sự phân phối hợp lý làm cho người nông dân phấn khởi tạo động
lực kích thích sản xuất phát triển từ đó đã góp phần tăng thêm thu nhập cho
chính bản thân họ và cho xã hội.
- Chính sách xóa đói, giảm nghèo ở các vùng nông thôn là một chủ
trương lớn của Ðảng trong tiến trình đổi mới và thực hiện các mục tiêu thiên
niên kỷ. Chương trình 135 giai đoạn I, II và Chương trình giúp các huyện
nghèo tập trung chủ yếu cho khu vực nông thôn. Hàng chục nghìn tỷ đồng
Chính phủ đầu tư hỗ trợ phát triển sản xuất cho hộ nghèo như ưu đãi tín dụng,
chính sách hỗ trợ đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số, khuyến nông,
lâm, ngư, phát triển ngành nghề, xây dựng kết cấu hạ tầng các xã đặc biệt khó
khăn, dạy nghề ở nông thôn... đã góp phần rất quan trọng trong việc xóa đói,
giảm nghèo khu vực nông thôn.
- Chính sách xóa nạn mù chữ: Bộ Chính trị vừa ban hành Chỉ thị số 10CT/TW về phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, củng cố kết quả phổ cập
giáo dục tiểu học và trung học cơ sở, tăng cường phân luồng học sinh sau
trung học cơ sở và xóa mù chữ cho người lớn. Việc phổ cập giáo dục, nâng
cao trình độ văn hóa có tầm quan trọng rất lớn. Phải có văn hóa, hiểu biết thì
mới có thể tìm ra những cách giúp gia đình thoát nghèo, nâng cao thu nhập.
- Công tác kế hoạch hóa gia đình: Công tác dân số là một bộ phận quan
trọng trong chiến lược phát triển đất nước, là yếu tố cơ bản để nâng cao chất
lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và của toàn xã hội, góp phần
quyết định để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thực hiện


17

đồng bộ, từng bước và có trọng điểm việc điều hoà quan hệ giữa số lượng với
chất lượng dân số, giữa phát triển dân số với phát triển nguồn nhân lực, giữa
phân bổ và di chuyển dân cư với phát triển kinh tế - xã hội là nhiệm vụ trọng
tâm của công tác dân số; tập trung ưu tiên cho các vùng khó khăn có mức sinh
cao, vùng nghèo, vùng sâu, vùng xa để giải quyết các vấn đề dân số và nâng

cao mức sống nhân dân.
 Đối với nguồn ngoại sinh: cũng chia thành 2 nhóm yếu tố:
Thứ nhất, an sinh xã hội truyền thống.
Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO): “An sinh xã hội là sự cung cấp phúc
lợi cho các hộ gia đình và cá nhân thông qua cơ chế của Nhà nước hoặc tập
thể nhằm ngăn chặn sự suy giảm mức sống hoặc cải thiện mức sống thấp”.
Định nghĩa này nhấn mạnh khía cạnh bảo hiểm xã hội và mở rộng tạo việc
làm.
Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) cho rằng: an sinh xã hội là sự bảo vệ mà xã
hội cung cấp cho các thành viên của mình thông qua một loạt các biện pháp
công cộng để chống lại tình cảnh khốn khổ về kinh tế và xã hội gây ra bởi tình
trạng bị ngừng hoặc giảm sút đáng kể về thu nhập. Như vậy, ILO quan niệm
đối tượng của an sinh xã hội là nhóm người có thu nhập không đủ trang trải
cho những điều kiện tối thiểu, xã hội cần tiến hành đồng bộ các biện pháp
công cộng khác nhau nhằm phân phối lại thu nhập, dịch vụ xã hội…
Tổ chức này cũng xác định bộ phận cấu thành của an sinh xã hội bao gồm 9
nội dung: (I) Hệ thống chăm sóc y tế; (II) Hệ thống trợ cấp ốm đau; (III) Trợ
cấp thất nghiệp; (IV) Hệ thống trợ cấp tuổi già; (V) Trợ cấp tai nạn lao động
hoặc bệnh nghề nghiệp; (VI) Trợ cấp gia đình; (VII) Trợ cấp thai sản; (VIII)
Hệ thống trợ cấp cho tình trạng không tự chăm sóc được bản thân (trợ cấp tàn
tật); (IX) Trợ cấp tiền tuất.
Ở Việt Nam hệ thống các chính sách về an sinh xã hội có thể chia thành 3
nhóm chính: (1) Nhóm các chế độ về Bảo hiểm xã hội gồm Bảo hiểm xã hội
bắt buộc và bảo hiểm xã hội tự nguyện quan niệm trên nguyên tắc có đóng thì
có hưởng và cùng chia sẻ rủi ro. Mọi chi phí cho các chế độ được chi trả bởi
nguồn quỹ chung; (2) Nhóm các chế độ về trợ cấp xã hội bao gồm các chế độ
cứu trợ xã hội cho những đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn do gặp


18


phải những rủi ro trong cuộc sống. Nguồn chi trả cho các chế độ trợ cấp xã
hội được lấy từ ngân sách Nhà nước; (3) Nhóm các chương trình xã hội khác
bao gồm: Chương trình xóa đói giảm nghèo, chương trình y tế và gồm cả các
loại quỹ tiết kiệm và các loại bảo hiểm khác.
Thứ hai, chính sách và sự thi hành chính sách của Chính phủ
Vai trò của Nhà nước hết sức quan trọng, nếu cơ chế chính sách của
Nhà nước phù hợp với quy luật phát triển kinh tế sẽ tạo điều kiện thuận lợi
cho việc cải thiện đời sống của các thành viên trong xã hội. Ngược lại nếu cơ
chế chính sách của Nhà nước không phù hợp với quy luật phát triển kinh tế nó
có tác động kìm hãm sự tăng trưởng kinh tế, hạn chế việc cải thiện đời sống
của một thành viên trong xã hội. Những hộ nông dân nghèo muốn vượt qua
ngưỡng của sự đói nghèo chỉ có cách duy nhất là nâng cao mức thu nhập của
mình. Để tăng được thu nhập người nghèo phải được làm việc và việc làm có
thu nhập. Hiện nông dân là một dơn vị kinh tế tự chủ nên họ có thể tự tổ chức
kinh doanh sản xuất, song muốn tiến hành sản xuất cần phải có đất đai, vốn và
lao động có trình độ kinh nghiệm… mà những điểm đó thì người nghèo lại
thiếu và thường gặp khó khăn khi tiến hành sản xuất: đất đai ít, thiếu vốn sản
xuất, thiếu kinh nghiệm.
Ngoài việc tổ chức sản xuất của gia đình mình sao cho có hiệu quả,
người nghèo có thể đi làm thuê cho các doanh nghiệp khác. Do ít được học
nghề nên người nghèo chỉ kiếm được những việc lao động chân tay nặng
nhọc, tiền công thấp. Chính vì vậy, họ rất khó cải thiện được cuộc sống của
gia đình mình, nếu không có sự giúp đỡ của Chính phủ và cộng đồng xã hội.
Nhà nước cần có chính sách giúp đỡ người nghèo phát triển kinh tế
bằng cách cho họ vay vốn, phân phối lại sản phẩm xã hội thông qua các chính
sách xã hội. Nhà nước có quỹ để trợ giúp người nghèo học tập văn hóa và học
nghề, trợ cấp thất nghiệp, chữa bệnh không mất tiền. Tất nhiên trong quá trình
giúp đỡ của Nhà nước phải tính đến quy luật mâu thuẫn giữa công bằng và
hiệu quả. Nếu có sự công bằng sẽ giảm tính hiệu quả kinh tế xã hội và ngược

lai khi chú ý đến mặt hiệu quả kinh tế sẽ dẫn đến sự mất công bằng xã hội. Do
vậy muốn xóa đi cuộc sống nghèo khổ bản thân người nghèo phải tự nỗ lực


19

phấn đấu vươn lên song không thể không có sự giúp đỡ của cộng đồng và của
Nhà nước.

CHƯƠNG 2: ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG THU NHẬP CỦA HỘ GIA
ĐÌNH NÔNG DÂN Ở HÀ GIANG
2.1Tổng quan về tình hình kinh tế - xã hội của Hà Giang
2.1.1 Khái quát chung


20

Tỉnh Hà Giang gồm 11 huyện, thành phố; với 178 xã, 5 phường, 12 thị
trấn (có 114 xã đặc biệt khó khăn); là địa bàn sinh sống của 22 dân tộc anh
em, trong đó dân tộc Mông chiếm 30,6%, Tày chiếm 24,9%, Dao chiếm 15,2
%, Kinh chiếm 12%...
Khu vực nông thôn có tới 88,4% dân số tự nhiên, 89% lao động của
toàn tỉnh đang sinh sống và làm việc. Trong những năm qua, được sự quan
tâm đầu tư của Trung ương, cùng với sự chỉ đạo sâu sát của tỉnh tới nông
nghiệp, nông thôn và nông dân; các chương trình, dự án được tập trung đầu tư
xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thiết yếu vào khu vực nông thôn.
Tỉnh đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách hỗ trợ giúp nông dân ổn định và
phát triển sản xuất; các hình thức tổ chức sản xuất ở nông thôn tiếp tục có đổi
mới; qua đó, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực ở nông thôn; cư



21

dân ở nông thôn có thêm việc làm, thu nhập được nâng cao, góp phần xóa đói
giảm nghèo, diện mạo nông thôn ngày càng đối mới, đời sống nông dân từng
bước được cải thiện. Hệ thống chính trị ở nông thôn có chuyển biến, tiến bộ;
dân chủ cơ sở được phát huy; an ninh chính trị, trật tự xã hội khu vực nông
thôn được giữ vững.
Về đánh giá tình hình 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ
tỉnh lần thứ XIV (nhiệm kỳ 2005 – 2010), Đại hội thống nhất nhận định:
Trong nhiệm kỳ qua, mặc dù gặp không ít những khó khăn do thiên tai,
dịch bệnh diễn biến phức tạp; ảnh hưởng của lạm phát và suy giảm kinh tế thế
giới; phải tập trung nguồn vốn lớn để giải quyết nợ đọng xây dựng cơ bản của
những năm trước; các thế lực thù địch luôn lợi dụng các vấn đề nhân quyền,
dân tộc, tôn giáo để thực hiện âm mưu “ Diễn biến hòa bình”,…Nhưng, Đảng
bộ và nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã phát huy truyền thống đoàn kết,
năng động, sang tạo, quyết tâm đổi mới, nỗ lực khắc phục khó khăn; lãnh
đạo, chỉ đạo, điều hành và tổ chức thực hiện với sự đồng thuận, quyết tâm
chính trị cao, quyết liệt nên đã giành được những kết quả.
2.1.2 Thành tựu nổi bật

Lĩnh vực kinh tế
- Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, giá trị tăng thêm của nền kinh tế
đạt tốc độ tăng bình quân năm 12,7%.
- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, tăng tỉ trọng các
ngành dịch vụ, công nghiệp– xây dựng, giảm tỉ trọng các ngành nông lâm
nghiệp. Cụ thể: Dịch vụ tăng 0,43%, Công nghiệp xây dựng tăng 0,33%,
Nông lâm nghiệp giảm 0,76%.
- Tổng sản phẩm trong tỉnh tăng 13,02%, trong đó nông lâm
nghiệp tăng 5,45%; công nghiệp – xây dựng tăng 16,94%, các ngành dịch

vụ tăng 16,5%.
- Thu nhập bình quân đầu người đạt 7,5 triệu đồng/người/năm,
tăng 4,3 triệu đồng so với năm 2005.
- Thu ngân sách trên địa bàn tăng mạnh, đạt trên 600 tỷ đồng (tăng
gần gấp 3 lần so với năm 2005, vượt trên 200 tỷ đồng so với Nghị quyết).
- An ninh lương thực từng bước được đảm bảo, bình quân lương
thực đầu người đạt 460kg (tăng 90kg so với Nghị quyết, tăng 95kg so với
năm 2005)


22

- Đổi mới mạnh mẽ và đem lại hiệu quả cao trong chuyển đổi cơ
cấu cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao, như: Phát triển chăn nuôi đại
gia súc, trồng rừng kinh tế, trồng cây cao su, cây cải dầu… có tác động
tích cực làm thay đổi mô hình, phương thức sản xuất, quan hệ sản xuất
trong nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
- Giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá thực tế) đạt 1.300 tỷ đồng,
gấp 3,5 lần so với năm 2005.
- Phát huy nội lực, khai thác, quản lý và sử dụng lồng ghép có hiệu
quả các nguồn lực, nhất là nguồn vốn của Trung ương để xây dựng và
phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, tạo ra diện mạo mới từ nông
thôn đến thành thị.
- Bước đầu đã thu hút được các thành phần kinh tế đầu tư vào một
số lĩnh vực thế mạnh của tỉnh như: Thủy điện, khoáng sản, dịch vụ, du
lịch.
- Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ thị trường xã hội đạt 2.250
tỷ đồng (gấp 2 lần so với năm 2005).

Lĩnh vực văn hoá – xã hội

- Giảm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên xuống còn 1,2%
- Tỷ lệ huy động học sinh trong độ tuổi (6 – 14 tuổi) đến trường đạt
95%.
- Tỷ lệ che phủ rừng đạt 54%.
- Tỷ lệ hộ gia đình đạt tiêu chuẩn văn hóa trên 50%; thôn, bản đạt tiêu
chuẩn văn hóa 60%.
- Tỷ lệ dân thành thị được sử dụng nước hợp vệ sinh 90%; tỷ lệ dân
nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh 63%.
- Tỷ lệ phủ sóng phát thanh 85%, tỷ lệ phủ song truyền hình 80%.

Lĩnh vực quốc phòng - an ninh
- Đảm bảo, bảo vệ vững chủ quyền biên giới Quốc gia, giữ vững ổn
định an ninh, chính trị và trât tự an toàn xã hội. Hoàn thành phân giới cắm
mốc, bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới quốc gia, đảm bảo biên giới hòa
bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển.
- Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị có sự đổi mới, góp
phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở
Đảng, phát huy hiệu lực, hiệu quả quản lý điều hành của chính quyền các cấp.
- Khối đại đoàn kết các dân tộc trong tỉnh được tăng cường, củng cố;
nhân dân tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.
- Công tác cán bộ có sự đổi mới và chuyển biến tích cực.


23

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được thì vẫn còn tồn tại
không ít những khó khăn.
2.1.3 Những tồn tại, hạn chế
- Chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nề kinh tế còn thấp chưa
tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của tỉnh.

- Kết quả xóa đói giảm nghèo chưa bền vững.
- Tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo còn lớn: tỷ lệ hộ nghèo là 35,38%, tỷ lệ
hộ cận nghèo là 13,37%.
- Đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn; mức thu nhập bình quân đầu
người còn thấp so với bình quân chung của cả nước và khu vực.
Hiện nay, với mức thu nhập trung bình toàn tỉnh là 7,5 triệu/người/năm,
các hộ gia đình có kinh tế khá giả tập trung chủ yếu ở các thị trấn. Phần lớn
những người có thu nhập cao là viên chức nhà nước và các hộ kinh doanh.
Trong khi đó, thu nhập bình quân của người nông dân tại địa phương, đặc biệt
tại các khu vực xa xôi, hẻo lánh rất thấp (4,5 - 4,8 triệu/người/năm). Trung bình
mỗi ngày, một người dân làm ra được 12.000đ để trang trải cho tất cả các chi
tiêu. Mức thu nhập này chỉ bằng hơn một nửa so với mức nghèo của thế giới
(1USD/người/ngày).
- Trình độ phát triển so với một số tỉnh trong khu vực như Lào Cai, Yên
Bái còn có những khoảng cách đáng kể.
- Phát triển thiếu quy hoạch, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thiếu đồng
bộ; môi trường ngày càng ô nhiễm. Đô thị hóa nông thôn còn tự phát, cảnh
quan bị phá vỡ; nhiều nét văn hóa truyền thống của làng xã bị pha tạp, phôi
phai.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa phát triển kinh tế-xã hội và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động còn chậm. Các tổ chức sản xuất có quy
mô nhỏ, khả năng cạnh tranh thấp. Chất lượng lao động nông nghiệp, nông
thôn thấp so với yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhất là ở vùng sâu,
vùng xa.
- Tổ chức, thể chế kinh tế ở nông thôn chậm đổi mới, chưa đóng vai trò
mong đợi trong hỗ trợ hoạt động sản xuất của nông hộ. Kinh tế trang trại phát
triển chậm và chiếm tỉ lệ không đáng kể trong hoạt động sản xuất nông nghiệp
cũng như kinh tế nông thôn.



24

- Giá trị hàng hóa nông nghiệp tăng trưởng còn thấp. Sản xuất nông
nghiệp quy mô nhỏ, manh mún. Phần lớn nông sản chế biến ở dạng sơ chế,
chưa có thương hiệu, giá trị gia tăng thấp.
- Đời sống vật chất và tinh thần cư dân nông thôn nhất là ở các vùng
sâu, vùng xa, vùng biên giới còn ở mức thấp; chênh lệch giàu nghèo giữa
thành thị và nông thôn, giữa các vùng ngày càng lớn, phát sinh nhiều vấn đề
xã hội bức xúc về việc làm, thu nhập; nếp sống văn minh chậm hình thành.
- Hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở khu vực nông thôn còn nhiều
hạn chế. An ninh nông thôn có nơi chưa tốt, đơn thư khiếu kiện giải quyết
chưa kịp thời.
- Cơ chế chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn chưa đồng bộ;
chưa có bộ tiêu chuẩn để thực hiện.
- Cách chỉ đạo, tiếp cận để xây dựng nông thôn còn theo truyền thống
(từ cấp trên xuống). Quan điểm đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn có lúc
chưa thống nhất, thiếu quyết tâm và tập trung nguồn lực.
- Năng lực lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện của hệ thống chính
trị, nhất là ở cơ sở nhiều mặt chưa đáp ứng được yêu cầu; chưa có sự phối hợp
tốt giữa các ngành, các cấp để hướng dẫn, hỗ trợ và huy động được các nguồn
lực có hiệu quả.
2.2 Nhận định chung về thu nhập của người nông dân Hà Giang
Hà Giang là một tỉnh miền núi có rất nhiều điểm mạnh và lợi thế, tuy
nhiên hiện đang xếp vào dạng tỉnh nghèo, thu nhập bình quân đầu người còn
rất thấp, nhất là thu nhập của người nông dân. Nếu như thu nhập bình quân
đầu người của người nông dân cả nước khoảng 0,8 triệu đồng/tháng thì thu
nhập bình quân đầu người của người nông dân tỉnh Hà Giang chỉ khoảng 0,45
triệu đồng/tháng.
Bảng 2.2.1: Kết quả phân loại hộ gia đình tỉnh Hà Giang năm 2010


TT

TÊN HUYỆN/ Tổng sổ
THÀNH PHỐ hộ

Hộ không
nghèo
Số hộ

Hộ cận nghèo

Hộ nghèo

Tỷ lệ
Tỷ lệ
' Tỷ lệ
Sổ hộ
Số hộ
(%)
(%)
(%)

1 MÈO VẠC

13.917 4.718

33,90 1.276

9,17 7.923


56,93

2 ĐỒNG VĂN

13.672 2.838

20,76 2.186 15,99 8.648

63,25


25

3 YÊN MINH

15.044 5.714

37,98 2.196 14,60 7.134

47,42

4 QUẢN BẠ

9.737 3.212

32,99 2.052 21,07 4.473

45,94

5 XÍN MẦN


11.774 3.406

28,93 1.874 15,92 6.494

55,16

HOÀNG SU
PHÌ

12.193 4.277

35,08 1.971 16,17 5.945

48,76

7 BẮC QUANG

24.922 21.097

84,65 1.736

6,97 2.089

8,38

8 QUANG BÌNH

12.177 9.062


74,42 1.175

9,65 1.940

15,93

9 VỊ XUYÊN

21.409 11.305

52,80 3.820 17,84 6.284

29,35

9.240 3.809

41,22 1.862 20,15 3.569

38,63

6

10 BẮC MÊ

11 TP. HÀ GIANG 11.128 10.109
Chung toàn tỉnh 155.213 79.547

90,84

604


5,43

415

3,73

51,25 20.752 13,37 54.914

35,38

Nguồn: Kết quả điều tra năm 2010
Theo kết quả phân loại hộ gia đình năm 2010 thì Hà Giang là tỉnh có tỷ
lệ hộ nghèo và cận nghèo lớn. Trong tổng 155.213 hộ gia đình có đến 54.914
hộ nghèo chiếm 35,38%; 20.752 hộ cận nghèo chiếm 13,37%.
Thu nhập bình quân 1 người 1 tháng của nhóm hộ nghèo nhất (nhóm 4)
đạt 269,3 nghìn đồng, của nhóm hộ giàu nhất (nhóm 1) đạt 1.412,5 nghìn
đồng. Chênh lệch giữa nhóm hộ giàu nhất và nghèo nhất là 5,25 lần.

Bảng 2.2.2: Thu nhập bình quân dầu người/tháng theo 5 nhóm thu nhập
Nhóm 1
Thu nhập bình quân 1 1.412,5
người/tháng(1000 đ)

Nhóm 2

Nhóm 3 Nhóm 4 Nhóm 5

583,6


451,4

269,3

346,8

Nguồn: Kết quả điều tra năm 2010
Năm 2010 chi tiêu cho đời sống bình quân đầu người ở khu vực nông
thôn tỉnh Hà Giang đạt 865,5 ngìn đồng, tăng 55,1% so với năm 2008, bình
quân mỗi năm tăng 27,55%. Chi tiêu cho đời sống năm 2010 của nhóm hộ
nghèo nhất đạt 350 ngìn đồng, của nhóm hộ giàu nhất là 1.400 nghìn đồng.
Chênh lệch giữa nhóm hộ giàu nhất và nghèo nhất là 4 lần. Tỷ trọng chi ăn


×