Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

Những nguyên nhân gây suy thoái nguồn thủy sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (573.46 KB, 76 trang )

NỘI DUNG
PHẦN I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1. Khái niệm chung về thuỷ sinh.
Theo Đại từ điển tiếng Việt, thuỷ sinh là những loài " sống ở dưới
nước, mọc ở trong nước". Thuỷ sinh bao gồm động vật thuỷ sinh và thực
vật thuỷ sinh.
Nguồn thuỷ sinh là một khái niệm khá rộng, nó bao gồm toàn bộ các
loài động và thực vật sống ở trong nước. Môi trường sống của nguồn thuỷ
sinh bao gồm vùng nước, mặt đất ngập nước và cả phần đất mà các loài
thuỷ sản sinh sống.
Hiện nay, nguồn thuỷ sinh đang ở trong một tình trạng suy thoái trầm
trọng. Và để hiểu thế nào là suy thoái nguồn thuỷ sinh, thì trước hết ta phải
hiểu là suy thoái là gì?


Suy thoái là “ở trong tình trạng yếu và sút kém dần có tính chất kéo
dài”. Như vậy nguồn thuỷ sinh có thể sẽ lâm vào tình trạng suy thoái khi
chúng bị giảm về chất lượng và cạn kiệt về số lượng trong khoảng thời gian
nhất định .”
2. Những nguyên nhân gây suy thoái nguồn thủy sinh.
2.1. Những ảnh hưởng từ tự nhiên đối với nguồn thuỷ sinh.
Môi trường sống của nguồn thuỷ sinh bao gồm vùng nước, mặt đất
ngập nước và cả phần đất mà các loài thuỷ sinh sinh sống. Do đó, nguồn
thuỷ sinh tồn tại có chất lượng hay không trước tiên phải phụ thuộc vào
môi trường sống của chúng.
Một số thành phần môi trường chi phối trực tiếp số lượng và chất
lượng của các loài thuỷ sinh như: nước, đất, không khí, rừng, các yếu tố tự

nhiên thuộc về thời tiết như nhiệt độ, gió, mưa…Trong quá trình vận động
của tự nhiên các yếu tố này có thể diễn biến theo các chiều hướng khác
nhau ảnh hưởng đến sản lượng của các loài thuỷ sinh. Chẳng hạn như: sự
1
suy thoái rừng, ô nhiễm không khí, ô nhiễm nước, hoạt động của núi lửa…
Thường làm cho nguồn thuỷ sinh suy thoái về chất lượng và giảm sút về số
lượng. Bên cạnh đó, sự biến mất hoặc thoái hoá rừng ngập mặn cũng làm
giảm các chức năng nuôi dưỡng và bảo vệ bờ biển gây nên hiện tượng xói
mòn nơi đây. Mà đặc biệt đây lại là khu vực sinh sống và nuôi dưỡng quan
trọng của các loài thuỷ sinh.
Mặt khác, trong quá trình tiến hoá và phát triển, sự thối rửa của xác
động vật và thực vật, của bản thân nguồn thuỷ sinh chết ở tự nhiên cũng

thải ra các thán khí gây ô nhiễm, ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng các
thành phần môi trường sống của nguồn thuỷ sinh.
Một nguyên nhân quan trọng nữa là sự biến đổi khí hậu. Biển và đại
dương là nơi hấp thụ nhiều khí CO
2
nhất. Nhưng hiện nay, do các hoạt
động của con người, hàm lượng CO
2
trong không khí đã tăng lên đáng kể,
dẫn đến lượng CO
2
trong nước biển tăng, gây ra hiện tượng axit hóa. Nước

biển bị axit hóa gây ảnh hưởng rất lớn đến các loài sinh vật biển, đặc biệt là
các loài sử dụng cacbonat canxi để tạo nên bộ khung cho cơ thể như san hô
và các loài giáp xác, thân mềm .
Như vậy, chính bản thân thiên nhiên cũng đã và đang góp phần vào
quá trình suy giảm số lượng và chất lượng các loài thuỷ sinh. Tuy nhiên,
cần phải nhấn mạnh rằng, sự tác động của thiên nhiên tạo ra những ảnh
hưởng từ từ, chậm chạp. Tự nguồn thuỷ sinh có thể lấy lại được thế cân
bằng nếu không có sự tác động mạnh mẽ từ con người. Điều mà biện pháp
pháp luật nói riêng và các biện pháp khác nói chung được thực hiện chính
là nhằm hạn chế các tác động tiêu cực từ con người.
2.2. Những ảnh hưởng từ hoạt động của con người tới nguồn thuỷ sinh.
Như trên đã trình bày, sự suy thoái về môi trường tự nhiên cũng gây

nên những tác động không nhỏ tới sự suy thoái của nguồn thuỷ sinh. Tuy
nhiên, thủ phạm chính tạo ra những tác động nghiêm trọng cho sự suy thoái
thuỷ sinh lại chính là con người.
2
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, con người có
điều kiện để cải tiến công cụ sản xuất, thúc đẩy phát triển các hoạt động
công nghiệp cũng như nông nghiệp, và song song đó là quá trình đô thị
hoá, giao thông vận tải đường thuỷ…cũng làm nên sự ô nhiễm nặng nề cho
nguồn thuỷ sinh.
Ví dụ như, với hàng chục nghìn lượt tàu thuyền ra vào cảng Hải
Phòng và phương tiện thủy nội địa hoạt động gia tăng trong khu vực, mỗi
năm, chúng đã thải ra sông, biển hàng nghìn tấn chất thải sinh hoạt, nhiên

liệu, cặn dầu, nước rửa tàu lẫn chất thải rắn, mạt kim loại, sơn và các chất
tẩy rửa trong quá trình hoạt động.
Bên cạnh đó, chính sự khai thác, đánh bắt, con người cũng góp phần
đáng kể vào quá trình suy thoái nguồn thuỷ sinh, như việc khai thác không
đúng phương pháp, không đúng kỹ thuật, hoặc dùng những phương tiện,
công cụ mang tính huỷ diệt hàng loạt…
Từ 10 năm trở lại nay, tốc độ tàu thuyền khai thác thủy sản tăng nhanh
đáng kể, cùng theo đó là hiện tượng khai thác bằng các ngư cụ phạm pháp:
mắt lưới quá nhỏ, mìn, điện, chất hóa học, đều gây nên tác động xấu tới
nguồn lợi hải sản và môi trường biển. Kết quả của nhiều cuộc điều tra cho
thấy tới hơn 50% số ngư dân được phỏng vấn đều cho rằng sản lượng khai
thác có xu hướng giảm, khuynh hướng này chắc chắn đe dọa tính bền vững

của nguồn lợi hải sản.
Sự nhiễm bẩn của nước do các hoạt động sản xuất nông nghiệp như
phân bón hóa học, thuốc trừ sâu, hay như dầu, cyanur…cũng đã ảnh hưởng
trực tiếp đến môi trường sống của các loài thuỷ sinh.
Theo báo cáo hiện trạng Môi trường Việt Nam của Bộ Khoa Học
Công Nghệ thì từ năm 2000 đến nay, do ngư dân bắt đầu sử dụng cyanur
trong khai thác và có tới 50% số mẫu khảo sát cho thấy có hàm lượng
cyanur vượt quá giới hạn cho phép. Mặc khác, với mật độ tàu thuyền khai
thác lớn thì lượng chất thải, dầu, nước dằn tàu xả ra môi trường nước xung
3
quanh cũng là một vấn đề gây nên ô nhiễm môi trường biển. Bên cạnh đó
là các sự cố, tai nạn hàng hải đều là nguyên nhân gây ô nhiễm, phá hủy môi

trường sống thuỷ sinh. Tổng sản lượng dầu xâm nhập vào môi trường biển
Việt Nam năm 2000 đã là 17.650 tấn...
Không những thế việc bón phân tươi trực tiếp cho các ao cá đã gây ô
nhiễm nước cùng với sự ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức tăng trưởng của
một số loài thuỷ sinh. Hầu hết, các hệ sinh thái của các vùng thành phố
hoặc khu vực đông dân cư đều bị ô nhiễm.
Nuôi trồng thủy sản mặn - lợ được xác định như hướng phát triển
mang tính đột phá của ngành thủy sản những năm qua. Với mục tiêu tăng
tỷ lệ sử dụng, mặt nước tiềm năng cho nuôi trồng thủy sản cũng như tăng
hơn nữa sản lượng nuôi trồng thủy sản. Vì vậy, rất nhiều diện tích rừng
ngập mặn, đất trồng lúa đã và đang được chuyển đổi sang làm đầm nuôi
tôm, cùng với các chất thải từ ao nuôi đã trở thành những nguy cơ gây ô

nhiễm hữu cơ nghiêm trọng cho các vùng ven biển.
Đặc biệt, do các hoạt động phát triển, một số bãi sinh sản của các loài
thuỷ sinh (nhất là cá) đã bị mất. Ví dụ: sau khi hình thành hồ Hoà Bình và
hồ Thác Bà, bãi đẻ của cá Mòi, cá Cháy và các loài cá khác bị chìm sâu
dưới đáy hồ. Tương tự, bãi đẻ của các loài thuỷ sinh ở khu vực sông Thao,
sông Lô, hạ lưu sông Hồng đã bị mất từ 15 – 20 năm nay.
Các biện pháp thuỷ lợi cũng có ảnh hưởng rất lớn đến các loài thuỷ
sinh đắp đê lấn biển, ngăn mặn, đắp đê ngăn lũ làm phân cách mạng lưới
các hệ sinh thái ở nước, các quần xã sinh vật không được trao đổi và bổ
sung cho nhau. Cùng với đó việc con người đắp đập chắn ngang sông xây
dựng các hồ chứa nước cũng làm thay đổi chất lượng nước, phân tách nhiệt
độ…dẫn tới là thay đổi sinh thái quần thể động thực vật ở vùng nước đó

làm mất đi một số loài sống ở vùng nước chảy, nước tĩnh và nước nông.
Thành phần của các loài thuỷ sinh tại các hồ chứa đều giảm rất nhiều so với
các sông hình thành ra nó. Ở thượng lưu hồ, nước bị ngập ứ, úng ở đoạn
4
sông phía trên hồ chứa làm giảm khả năng tự làm sạch của nguồn nước, tốc
độ dòng chảy bị chậm lại làm thay đổi cuộc sống của thuỷ sinh vật, các loài
cá nước chảy phải nhường chỗ cho các loài cá nước tĩnh do không thể thích
nghi, dẫn đến sự tuyệt chủng của một số giống loài quý. Ở hạ lưu đập việc
chắn dòng chảy làm nhiều loài thuỷ sinh không thể di chuyển đến vùng cao
hơn, sản lượng cũng bị giảm. Lượng phù sa, lượng muối dinh dưỡng, hàm
lượng hữu cơ, sinh vật phù du ở các vùng hạ lưu cũng suy giảm nghiêm
trọng.

3. Thực trạng suy thoái thuỷ sinh
3.1. Trên thế giới
Một hệ sinh thái bền vững là một hệ sinh thái mang đến cho nguồn
thuỷ sinh môi trường sống an toàn. Ở những nơi đó, các loại tảo và san hô
phát triển mạnh, cung cấp thức ăn và nơi trú ẩn cho động vật biển. Nhưng
số lượng hệ sinh thái như vậy ngày càng ít đi. Kể từ năm 1950, 29% loại cá
mà con người có thể đánh bắt gần như đã tuyệt chủng (một loài được coi là
tuyệt chủng khi ít nhất 90% số lượng cá thể trong loài đã biến mất), và điều
đáng báo động là tốc độ biến mất của các loài thuỷ sinh ngày càng tăng.
Theo kết quả phân tích, nếu tốc độ này giữ nguyên thì những loài sinh vật
biển mà con người có thể đánh bắt hiện nay sẽ biến mất vĩnh viễn vào năm
2048.

Bên cạnh đó, theo tờ Mongabay.com, thì một phần ba số loài san hô
có nguy cơ tuyệt chủng, 415 vùng hệ sinh thái “chết”, số lượng cá mập và
cá ngừ giảm, và chỉ còn 1/4 diện tích đại dương giữ lại được những đặc
tính như ban đầu.
Từ những năm 1950 đến nay, trữ lượng các loài cá có giá trị thương
mại cao như cá ngừ, cá hồi, cá tuyết, cá mũi kiếm và cá đuối đã bị giảm
đến 90%. Ở miền Bắc Atlantic, trong vòng một thế kỷ, các loài cá tuyết, cá
pôlắc, cá êfin đều giảm khoảng 89%. Loài cá ngừ vây xanh cũng là loài
đang có nguy cơ tuyệt chủng vì bị đánh bắt quá mức. Theo kết quả của một
5
cuộc nghiên cứu ở vùng Tây Bắc biển Atlantíc, số lượng cá thể của loài cá
mập ở vùng biển này đã giảm đi 40- 89 % chỉ trong vòng 14 năm. Loài rùa

biển cũng không nằm ngoài số phận đó. Trong số 7 loài rùa biển có trên trái
đất thì có 6 loài đang bị đe dọa nghiêm trọng. Riêng loài rùa xanh đã giảm
hơn 99%.
3.2. Tại Việt Nam
Xét trong nền kinh tế quốc dân Việt Nam, nguồn lợi thu được từ thuỷ
sản chiếm một vai trò đặc biệt quan trọng. Nhất là trong những năm gần
đây, phát triển nguồn thuỷ sản đã nhanh chóng đạt được mức sản lượng
tăng trưởng nhảy vọt, nhằm đảm bảo an ninh thực phẩm và tạo nguồn
nguyên liệu chủ yếu cho xuất khẩu. Việt Nam phấn đấu đến năm 2010 sẽ
đạt tổng sản lượng nuôi trồng thuỷ sản đạt trên 2 triệu tấn, giá trị kim ngạch
xuất khẩu đạt trên 2.5 tỉ USD, tạo việc làm và thu nhập cho khoảng 2 triệu
người, góp phần tích cực vào phát triển kinh tế xã hội và an ninh ven biển.

Ngoài ra, nguồn thuỷ sinh cũng là nguyên liệu quan trọng cho các ngành
sản xuất, cho các nghiên cứu khoa học, góp phần đa dạng nguồn gen, có ý
nghĩa rất lớn trong việc đảm bảo cân bằng sinh thái.
Tuy vậy, thực trạng về nguồn thuỷ sinh của chúng ta lại lại là một thực
tiễn đáng buồn.
Không chỉ giảm về sổ loài thuỷ sinh mà chất lượng các loài thuỷ sinh
cũng giảm rõ. Đối với các loài động vật thì thể hiện ở việc giảm kích thước.
Theo điều tra gần đây cho thấy rằng kích thước cá đánh bắt được đã
giảm rõ rệt và số lượng cá to cũng không còn nhiều.
Ví dụ như: Trên sông Hồng, bốn loài cá: lăng chấm, cá chiên, cá bỗng
và cá anh vũ đang có nguy cơ bị tuyệt chủng. Sản lượng khai thác 4 loài cá
giảm xuống bằng 10-15% sản lượng những năm 70, 80; thậm chí lượng cá

bỗng chỉ xấp xỉ bằng 1%.
6
Ảnh 1 - Cá anh vũ - một trong 4 loài cá quý hiếm trên sông Hồng
(nguồn fishternet.vn)

Thông tin này vừa được công bố trong Bản điều tra nghiên cứu về
hiện trạng và biện pháp bảo vệ, phục hồi một số loài cá hoang dã quí hiếm
có nguy cơ tuyệt chủng trên hệ thống sông Hồng của nhóm tác giả Phạm
Báu, Nguyễn Ðức Tuân, Bùi Ðình Ðặng, Nguyễn Công Thắng (Viện
Nghiên cứu Nuôi trồng thuỷ sản I).
Theo đó, 4 loại cá quý hiếm có tên khoa học là: Cá lăng chấm
(Hemibagrus gutattus Lacépède, 1803), cá chiên (Bagarius yarrelli Sykes,

1839), cá bỗng (Spinibarbus denticulatus Oshima, 1926) và cá anh vũ
(Semilabeo obscous Lin, 1981). Tuy nhiên, sản lượng những loài cá được
coi là đặc sản hàng đầu của hệ thống sông Hồng này đang có nguy cơ tuyệt
chủng, xếp ở mức nguy cấp bậc 2.
Báo cáo cho thấy, sự phân bố của 4 loài cá này trên hệ thống sông
Hồng đang ngày càng thu hẹp, nhìn chung có xu hướng lùi dần về phía
thượng lưu các sông, suối, nơi có địa hình hiểm trở, phía hạ lưu không gặp
hoặc rất ít gặp. Bãi đẻ của 4 loài này hầu như không còn, cá đẻ phân tán, rải
rác trên khu vực thượng nguồn các sông, suối.
Nói đến suy thoái thủy sinh không thể không nói tới sự suy thoái
nguồn thực vật biển mà cụ thể là sự suy thoái các rạn san hô.
Sự suy thoái của các rạn san hô biểu hiện ở việc giảm sút về các rạn

san hô.Một điêu tra san hô gần đây cho thấy 200 điểm rạn san hô được
7
khảo sát ở vùng ven biển Việt Nam cho thấy trong vòng mười năm qua độ
che phủ của san hô suy giảm một các đáng kể. Theo số liệu tài nguyên thế
giới (2000- 2002) đã cảnh báo 80% rạn san hô biển Việt Nam nằm trong
tình trạng rủi ro, 50% ở trong tình trạng rủi ro cao và tình trạng thảm thực
vật cũng đang trong tình trạng tương tự.
Ảnh 2 - San hô chết ở Vịnh Hạ Long
(nguồn :www.dantri.vn)

Các nhà khoa học đánh giá Việt Nam là một trong những nước có rạn
san hô bị đe dọa nghiêm trọng. Bằng chứng là có đến 80% rạn san hô đang

bị con người tấn công. Hiện Việt Nam có khoảng 1.122km2 rạn san hô với
hơn 300 loài nhưng chỉ 1% rạn được xếp vào loại tốt, 8% rạn trong khu vực
các khu bảo tồn. Ở những khu bảo tồn như Hòn Mun, Núi Chúa, không một
ai đủ tự tin khẳng định ngăn chặn triệt để tình trạng khai thác san hô, và
theo lời 1 quan chức có thẩm quyền dự tính: "Mỗi năm, mất hơn 50 tấn san
hô chưa kể mất san hô đen ở Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Ninh, Hải
Phòng, theo đà này 20 năm nữa san hô sẽ không còn trong vùng biển Việt
Nam...".
8
Điều tra các nguồn đánh bắt hải sản thời gian gần đây ở vùng vịnh
Hạ Long và xung quanh, các nhà khoa học cũng thấy vắng bóng các
loại hải sản quý như cá bướm, mú, kiếm, ốc nón, ốc tù và con tranh

học, v.v... Bộ Thủy sản cho biết, sản lượng khai thác của các tàu giảm
từ 1,1 tấn/sức ngựa vào năm 1985 xuống còn 0,45 tấn/sức ngựa vào
năm 2006. Cũng ở hoàn cảnh tương tự, tại tỉnh Khánh Hòa nhiều loài
hải sản quý bị khai thác cạn kiệt
Ảnh 3 - Rùa biển-loài sinh vật đang có nguy cơ tuyệt chủng.
(Nguồn: Cục bảo vệ môi trường).
Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Khánh Hòa, nhiều loài
hải sản quý trên vùng biển địa phương hiện đang bị khai thác đến mức kiệt
quệ; trong đó có nhiều loài đứng trước nguy cơ tuyệt chủng, như: rùa biển,
hải sâm, cầu gai sọ dừa, cá ngựa, sò huyết...
Loài hải sâm trắng ở đầm Thủy Triều (huyện Cam Lâm), trước năm
1987 có sản lượng hàng năm từ 150- 200 tấn, nhưng hiện nay còn lại rất ít.

Các loài hải sâm đen, hải sâm mít, hải sâm dừa, hải sâm vú... là các đối
tượng kinh tế quan trọng, có giá trị thương mại cao ở vịnh Nha Trang, hiện
cũng nằm trong hoàn cảnh tương tự.
9
Loài cầu gai sọ dừa ở vịnh Nha Trang tập trung nhiều ở Rạn Chắn và
Rạn Cạn, đã bị khai thác ồ ạt với sản lượng thành phẩm có năm lên đến
hàng chục tấn, đến nay đã cạn kiệt...
Vùng biển Khánh Hòa có tổng trữ lượng hải sản khoảng 150.000 tấn,
cho phép khai thác ở mức 70.000 tấn/năm. Trên thực tế sản lượng khai thác
được từ 60.000 tấn- 68.000 tấn/ năm, nhưng các loài hải sản quý hiếm với
giá trị kinh tế cao luôn là đối tượng bị săn lùng, đánh bắt triệt để.
Trong nghị định số 82/2008 QĐ-BNN ngày 17/7/2008 ra quyết định

có 158 loài sinh vật thuỷ sinh có nguy cơ tuyệt chủng ở Việt Nam.
Nguồn lợi gần bờ cũng sẽ chậm phục hồi do các nơi sinh cư tự nhiên
quan trọng ở đây như các rạn san hô, thảm cỏ biển và rừng ngập mặn…bị
phá huỷ nghiêm trọng do các hoạt động phát triển ở vùng ven biển và lưu
vực sông (tốc độ mất rừng ngập mặn do các hoạt động sản xuất trong giai
đoạn 1995-2005 ước khoảng 15.000 ha/năm). Điều này dẫn đến không gian
sống của các loài thủy sinh ngày càng khan hiếm, tính đa dạng sinh học
ngày càng mất đi, tính bất ổn định của hệ sinh thái ngày càng tăng cao.
Hiện nay nguồn lợi thủy sản vùng gần bờ có xu hướng giảm dần về trữ
lượng, sản lượng và kích thước các loài thủy sản đánh bắt. Một số loài cá
kinh tế thông thường vẫn đánh bắt với số lượng lớn, đến nay đã trở nên
khan hiếm. Mùa vụ và khu vực hải sản tập trung có những thay đổi đáng

kể. Sự phân biệt mùa vụ ( vụ Bắc, vụ Nam ) xuất hiện không còn rõ như
những năm 1985-1995. Các đàn cá nổi nhỏ có kích thước trung bình xuất
hiện thưa và xa bờ trong vòng 10 năm (1995- 2005 ) đã giảm trên 30% trữ
lượng, có những biểu hiện thay đổi về cấu trúc quần xã thủy sinh vật ở hầu
hết các vùng biển, đặc biệt khu vực có độ sâu dưới 30 m ở Vịnh Bắc Bộ,
đông tây Nam Bộ và dưới 50- 100m ở ven biển miền Trung. Mật độ quần
thể các loài thủy sản có giá trị khai thác giảm đáng kể, có những loài nhiều
năm không gặp như cá đường, cá gộc... ở vùng biển đông tây Nam Bộ,
cũng như một số loài cá có giá trị thương mại, đối tượng khai thác như
10
trích, nục, lầm, cơm...Tình hình tương tự cũng xảy ra đối với cá heo ở ven
biển miền Trung. 17 loài cá biển đang có nguy cơ bị tuyệt chủng. Trong

nước ngọt, 57 loài cá nước ngọt đang bị đe doạ tuyệt chủng, trong đó có 6
loài có nguy cơ tuyệt chủng, 4 loài bị đe dọa và 8 loài quý hiếm. Nguyên
nhân là do còn đánh bắt bằng phương pháp hủy diệt như đánh mìn, dùng
hoá chất độc, xung điện, lưới mắt nhỏ, khai thác trái vụ và suy giảm chất
lượng hệ sinh thái.
Nghề khai thác tôm ở bãi Mỹ Miều , cửa Ba Lạt, Vũng Tàu và vùng
biển Tây Nam cho thấy trữ lượng tôm biển trong những năm gần đây giảm
tương đối rõ. Đặc biệt các loài tôm có giá trị kinh tế thuộc họ tôm he, tôm
hùm, mức độ giảm từ 40- 90% so với trước năm 1980. Tỷ lệ tôm chất
lượng thấp chiếm hơn 70% thậm chí tới 80-90% sản lượng mẻ lưới ở các
vùng nước sâu ngoài 15m. Kích thước tôm cũng giảm đáng kể và có thể nói
hầu hết các năm sản lượng tôm khai thác đều vượt quá giới hạn cho phép.

Đến nay đã có khoảng 85 loài hải sản có mức độ nguy cấp khác nhau, trong
đó nhiều loài vẫn đang là đối tượng tập trung khai thác như các loài giáp
xác, nhuyễn thể, một số loài cá rạn san hô. Cụ thể:
+ Đang bị đe doạ tuyệt chủng(mức độ E): 17 loài
+ Có thể bị đe doạ tuyệt chủng (mức độ V): 20 loài
+ Loài hiếm có thể suy cấp (mức độ R): 39 loài
+ Bị đe doạ (mức độ T) : 9 loài
Ngoài ra trong nghị định 182/2008 QĐ-BNN ngày 17/7/2008 ra quyết
định có 158 loài sinh vật thuỷ sinh có nguy cơ tuyệt chủng ở Việt Nam.
Nguồn lợi gần bờ cũng sẽ chậm phục hồi do các nơi sinh cư tự nhiên
quan trọng ở đây như các rạn san hô, thảm cỏ biển và rừng ngập mặn…bị
phá huỷ nghiêm trọng do các hoạt động phát triển ở vùng ven biển và lưu

vực sông ( tốc độ mất rừng ngập mặn do các hoạt động sản xuất trong giai
đoạn 1985-2000 ước khoảng 15.000 ha/năm ). Điều này dẫn đến không
gian sống của các loài thủy sinh ngày càng khan hiếm, tính đa dạng sinh
11
học ngày càng mất đi, tính bất ổn định của các hệ sinh thái ngày càng tăng
cao.
Trong đất liền thì các loài thủy sinh cũng bị đe dọa nghiêm trọng bởi
hành động tiêu cực của con người như: làm ô nhiễm nguồn nước , việc
nhập khẩu các sinh vật ngoại lai.
Ảnh 4 - Ô nhiễm sông Đồng Nai, cá chết hàng loạt.
(Ảnh: Trần Duy)
Hiện nay ở nước ta các con sông bị ô nhiễm hàng loạt đã làm suy

giảm các nguồn lợi thủy sinh như: ô nhiễm sông Hồng, sông Đồng Nai,
sông Thị Vải...Các loài sinh vật trong các con sông này đã chịu ảnh hưởng
nặng nề.
Kết quả điều tra cho thấy, hơn một nửa thế kỷ qua, đã có trên 40 loài
động vật thủy sinh lạ được nhập khẩu vào Việt Nam để sản xuất thực
phẩm, làm cảnh, tập trung nhiều nhất ở 2 vùng đồng bằng Bắc bộ và Nam
bộ.
Tiến sĩ Lê Thiết Bình, một thành viên của nhóm các nhà khoa học
thuộc Cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi Thủy sản, cho rằng việc phát
12
triển các loài động vật thủy sinh này đã góp phần tạo ra giá trị kinh tế và
tăng thu nhập cho người nuôi trong nước. Tuy nhiên, có nhiều loài trong số

đó đang khiến các loài thủy sinh bản địa trở nên khan hiếm và bị đe dọa
tiêu diệt do cạnh tranh thức ăn và nơi ở. Điều này khiến nghề nuôi cá
truyền thống bị ảnh hưởng trực tiếp, thậm chí có nguy cơ bị thay thế bởi
việc phát triển các giống cá nhập khẩu.
Hơn thế, các động vật thủy sinh lạ xâm nhập Việt Nam đã và đang làm
suy thoái đa dạng sinh học ở nước, phá hủy nơi ở, chuỗi thức ăn và lưới
thức ăn đã hình thành của quần xã sinh vật đang sinh sống ở địa phương.

Ảnh 5 - Ốc bươu vàng và cá hổ là những loài sinh
vật lạ được nhập vào Việt Nam trước đây
( nguồn: www.thiennhien.net )
Việc nhập khẩu các loài động vật ngoại lai cũng góp phần làm suy

giảm nguồn lợi thủy sinh. Ở hồ Trị An thì các sinh vật trong hồ đang bị đe
dọa nghiêm trọng do sự xuất hiện loài cá ăn thịt là cá chim trắng và cá
Hoàng Đế có nguồn gốc từ Nam Mỹ. Một số loài cá được nhập vào Việt
Nam có giá trị kinh tế cao và tăng thu nhập cho người nuôi để làm thực
phẩm, làm cảnh. Tuy nhiên sự xuất hiện của chúng laị khiến các loài thủy
sản nội địa bị thay thế rồi sẽ dần dẫn đến sự suy giảm sự đa dạng các loài
trong nước. Như cá Trôi Việt bị thay thế bởi trôi Ru và Mrigan; Mè trắng
13
Việt Nam bị thay thế bởi mè trắng Trung Quốc.
Một số loài thì bị lai tạp dẫn đến sự mất dần giống thuần trong nước
như: cá trê phi cho lai rộng rãi với các loài địa phương, cá chép nhập cho
lai rộng rãi với cá chép địa phương. Điều này ảnh hưởng rất lớn tới các loài

giống thuần trong nước.
Kết quả điều tra cho thấy, hơn một nửa thế kỷ qua, đã có trên 40 loài
động vật thủy sinh lạ được nhập khẩu vào Việt Nam để sản xuất thực
phẩm, làm cảnh, tập trung nhiều nhất ở 2 vùng đồng bằng Bắc bộ và Nam
bộ.
4. Yêu cầu phát triển bền vững nguồn thuỷ sinh:
Nguồn thuỷ sinh cần phải được phát triển theo hướng bền vững. Phát
triển bền vững nguồn thuỷ sinh là sự phát triển nhằm thoả mãn nhu cầu về
thuỷ sinh của thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng của thế hệ
trong tương lai đáp ứng các nhu cầu của họ. Phát triển bền vững nguồn
thuỷ sinh đòi hỏi đảm bảo sử dụng đúng mức và ổn định nguồn lợi này
cũng như môi trường sống của chúng. Mọi sự phát triển không theo hướng

bền vững đều phải trả giá.
Kiểm soát suy thoái nguồn thuỷ sinh một cách bền vững nghĩa là phải
đảm bảo vừa tôn trọng cơ sở khoa học, vừa đáp ứng nhu cầu phát triển kinh
tế. Trong quá trình kiểm soát, phải đáp ứng đạt được mục tiêu phát triển lâu
bền, đồng thời phải đảm bảo đời sống cho ngư dân. Đây chính là yêu cầu
phát triển bền vững nguồn thuỷ sinh. Trên cơ sở yêu cầu này, nhà nước đã
và đang có chính sách bảo đảm phát triển bền vững nguồn thuỷ sinh,
khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân khai thác và sử
dụng hợp lý nguồn thuỷ sinh, bảo đảm tái tạo nguồn thuỷ sinh và phát triển
nuôi trồng thuỷ sản trên biển, sông, hồ, đầm, phá và các vùng nước tự
nhiên khác.
14

Những năm gần đây, phát triển bền vững đã được nhiều tổ chức quốc
tế, nhiều nước hết sức chú ý xây dựng các mô hình dự án, chính sách phát
triển kinh tế - xã hội.
Phát triển bền vững không chỉ là tăng trưởng kinh tế hợp lý, mà phải
bảo đảm tính bền vững về môi trường sinh thái và ổn định xã hội, thoả
mãn nhu cầu trước mắt và lâu dài.
Một định hướng mục tiêu như vậy quả là rất khó khăn, phức tạp để
triển khai các mô hình, thậm chí một số nhà nghiên cứu còn cho rằng đây
chỉ là vấn đề lý thuyết, ý tưởng tốt đẹp.
Đối với nghề cá nước ta hiện nay vùng hải sản gần bờ đang bị khai
thác quá mức (năm 1993 một mã lực công suất máy tàu cá khai thác được
0,7 tấn, năm 2003 chỉ còn 0,35 tấn). Sản lượng và kích cỡ cá đánh bắt

được giảm dần, chất lượng môi trường suy giảm, đã có tới 17 loại hải sản
đang dự báo có nguy cơ tuyệt chủng.
Nguồn lợi thủy sản là nguồn lợi có khả năng tái tạo, nếu duy trì được
mức độ khai thác hợp lý, bảo đảm trữ lượng cá thuần thục để sinh trưởng
trong môi trường thuận lợi. Như vậy việc bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản và
môi trường vùng biển gần bờ, vùng quan trọng nhất của nghề khai thác và
nuôi trồng hải sản là một yêu cầu bức thiết.
Để đảm bảo thực hiện được yêu cầu phát triển bền vững nguồn thủy
sinh, nhà nước đã ban hành các chính sách nhằm khuyến khích các tổ chức,
cá nhân đầu tư, nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ tiên tiến, phát
triển nguồn nhân lực, xây dựng kết cấu hạ tầng trong phát triển nguồn thuỷ
sinh nói chung và hoạt động thủy sản nói riêng. Các hoạt động phát triển

nuôi trồng thuỷ sản sạch, đẩy mạnh hoạt động khuyến ngư để phục vụ có
hiệu quả hoạt động thuỷ sản, bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản, việc
tham gia bảo hiểm về người và tài sản trong hoạt động thuỷ sản của các tổ
chức cá nhân đảm bảo phát triển bển vững nguồn thuỷ sinh đều được nhà
nước khuyến khích. Một phần ngân sách nhà nước sẽ dành cho việc đầu tư
15
xây dựng các trung tâm giống thuỷ sản quốc gia thuộc các viện nghiên cứu
và trung tâm nghiên cứu của ngành về giống thuỷ sản nước ngọt, giống hải
sản ở các vùng sinh thái đặc trưng để thực hiện các nhiệm vụ:
+ Sản xuất giống gốc các loài thuỷ sản kinh tế nhằm đảm bảo giữ cho
giống có năng suất, chất lượng ổn định.
+ Lưu giữ giống gốc, bảo vệ nguồn gen những loài thủy sinh, thuỷ sản

quý, hiếm và có khả năng xuất khẩu.
+ Nhập khẩu giống gốc, giống mới, giống thuỷ sinh, thuỷ sản quý có khả
năng thuần hoá để sản xuất rộng rãi. Nhập công nghệ sản xuất giống những
loài thuỷ sản có năng suất và chất lượng cao, trước hết tập trung vào công
nghệ sản xuất giống các loài thuỷ sản có khả năng xuất khẩu.
Ví dụ: Chính phủ quyết định chi 576 tỷ đồng giai đoạn từ nay ( từ
năm 2008) đến 2020 để triển khai Đề án bảo vệ các loài thuỷ sinh quý
hiếm có nguy cơ tuyệt chủng. Số tiền này sẽ xây dựng thí điểm khu bảo
vệ một số loài thủy sinh đặc hữu, điển hình như cá Mòi Cờ, cá Cháy, cá
Chiên, cá Chình, cá Anh vũ...
Trong đó, giai đoạn từ nay đến 2010 Ngân sách Nhà nước sẽ đầu tư
228 tỷ đồng; từ 2010-2015 là 223 tỷ đồng và từ 2016 đến 2020 là 125 tỷ

đồng để triển khai đề án.
Không những thế, Nhà nước còn có dự định xây dựng Bảo tàng các
loài thủy sinh vật Việt Nam, cùng với nhiều chương trình khác như
“Chương trình Bảo vệ và Phát triển Nguồn lợi Thủy sản đến năm 2010"
vừa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Hệ thống này bao gồm Trung
tâm Dữ liệu Quốc gia về Thủy sinh vật; một hoặc hai bảo tàng lưu giữ,
trưng bày các loài thủy sinh vật Việt Nam.
Mặt khác yêu cầu phát triển bền vững nguồn thuỷ sinh còn được nhà
nước thực hiện thông qua hoạt động phát triển kinh tế thuỷ sản trên cơ sở
quy hoạch phát triển ngành thuỷ sản phù hợp với quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế -xã hội trong phạm vi cả nước và của từng địa phương, đảm
16

bảo việc xây dựng các công trình ven sông, ven biển hoặc gần khu vực nuôi
trồng thuỷ sản không làm ảnh hưởng đến nguồn thuỷ sinh.
Ảnh 6 - khu vực nuôi tôm ven biển
(Nguồn: vietbao.com)
Thủy sản là một trong những ngành kinh tế quan trọng của nước ta.
Trong nhiều năm qua, ngành thủy sản đã giải quyết việc làm cho hàng triệu
lao động, bảo đảm nguồn thực phẩm dồi dào cho xã hội, góp phần quan
trọng vào sự tăng trưởng kinh tế đất nước, đặc biệt là giá trị xuất khẩu.
Trên cơ sở yêu cầu phát triển bền vững nguồn thủy sinh, pháp luật về
kiểm soát suy thoái thuỷ sinh đã quy định nghĩa vụ bảo vệ, tái tạo và phát
triển nguồn thuỷ sinh, xác định các hành vi bị nghiêm cấm trong khi tiến
hành các hoạt động có nguy cơ gây hại nguồn thuỷ sinh, các công cụ,

phương tiện, phương thức đánh bắt trong hoạt động thuỷ sản nhằm bảo vệ
nguồn thuỷ sinh, thức ăn, thuốc và các loại hoá chất dùng trong nuôi trồng
thủy sản có nguy cơ tác động đến nguồn thuỷ sinh.
17
PHẦN II: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT SUY
THOÁI THỦY SINH
Sự suy thoái nguồn thuỷ sinh là vấn đề thực sự quan trọng vì vai trò
to lớn của nguồn thuỷ sinh. Do đó ta cần phải quan tâm đến việc kiểm soát
suy thoái nguồn thuỷ sinh. Thế nào là kiểm soát suy thoái nguồn thuỷ sinh?
“ Kiểm soát suy thoái nguồn thuỷ sinh chính là việc nhà nước áp dụng
các biện pháp hữu hiệu nhất nhằm phát hiện, ngăn chặn những nguyên
nhân gây ra hiện tượng suy thoái của nguồn thuỷ sinh.”

Kiểm soát suy thoái nguồn thuỷ sinh diễn ra trên nhiều lĩnh vực, kể cả
quản lý xã hội và lĩnh vực quản lý thế giới tự nhiên hữu sinh và vô sinh.
Kiểm soát suy thoái nguồn thuỷ sinh phải bao gồm kiểm soát tự nhiên và
kiểm soát xã hội. Cần nhấn mạnh lý luận kiểm soát suy thoái nguồn thuỷ
sinh là vì đối tượng tác động quan trọng nhất của việc kiểm soát này chính
là người khai thác, người sử dụng nguồn lợi .
Kiểm soát tự nhiên là việc kiểm soát các tác động bất lợi của thế giới
tự nhiên xung quanh tác động đến các loài thuỷ sinh làm cả chất lượng và
số lượng.
Kiểm soát xã hội là vấn đề đặc biệt cần được coi trọng, nhất là kiểm
soát những tác động tiêu cực của con người. Bởi vì những tác động tiêu cực
của con người ảnh hưởng vô cùng lớn đến hệ sinh thái nói chung và nguồn

thuỷ sinh nói riêng. Từ hàng trăm năm trước,các nhà sinh học đã phát hiện
ra việc đánh bắt bằng chất nổ tác hại lớn đến môi sinh, môi trường và
nguồn thuỷ sinh. Toàn quyền Đông Dương đã ban hành lệnh cấm đánh bắt
bằng chất nổ vào đầu thế kỷ. Trải qua gần một trăm năm, dù qua nhiều chế
độ xã hội khác nhau, mong muốn loại trừ hoàn toàn việc đánh bắt cá bằng
chất nổ vẫn mang tính thời sự và Việt Nam cũng không ngoại lệ. Tuy
nhiên, hiện nay chúng ta vẫn chưa có được cơ chế hữu hiệu để thực thi. Do
đó, việc đi sâu vào các giải pháp tự nhiên, giải pháp sinh học khó có hiệu
quả thực sự. Việc kiểm soát suy thoái nguồn thuỷ sinh muốn có hiệu quả
18
trước tiên cần kiểm soát sự tác động của con người vào môi trường , trên cơ
sở của những quy định pháp luật, cụ thể như sau:

1. Những quy định về bảo vệ, tái tạo và phát triển giống loài thuỷ sinh:
1.1. Các quy định về bảo vệ môi trường sống của các loài thuỷ sinh.
Môi trường sống là nhân tố quan trọng quyết định sự sống còn và chất
lượng của các loài thuỷ sinh. Do vậy, mọi hoạt động của con người đều
phải đảm bảo giữ gìn và cải thiện chất lượng môi trường sống cho chúng.
Theo quy định của Điều 7 Luật thuỷ sản năm 2003 và Luật môi trường năm
2005 thì ta có thể khái quát thành một số vấn đề sau:
- Các tổ chức, cá nhân đều phải có trách nhiệm bảo vệ môi trường
sống của các loài thuỷ sản nói riêng và nguồn thuỷ sinh nói chung. Mọi
hoạt động có nguy cơ tác động đến môi trường sống của nguồn thuỷ sinh
đều phải được áp dụng các biện pháp nhằm triệt tiêu đến mức tối đa sự tác
động đó.

- Khi xây dựng mới, thay đổi hoặc phá bỏ các công trình có liên quan
đến môi trường sống, di cư, sinh sản của các loài thuỷ sinh đều phải thực
hiện việc đánh giá tác động môi trường theo quy định của pháp luật.
- Các hoạt động khai thác thuỷ sản bằng đặt đăng, đáy hoặc bằng
phương pháp ngăn, chắn khác ở các sông, hồ, đầm, phá phải dành hành
lang cho các loài thuỷ sinh di chuyển theo quy định của uỷ ban nhân địa
phương.
- Bảo đảm điều kiện vệ sinh môi trường, phòng ngừa dịch bệnh thuỷ
sản; không được sử dụng hóa chất độc hại hoặc tích tụ độc hại.
- Không được xây dựng khu nuôi trồng thuỷ sản tập trung trên bãi bồi
đang hình thành vùng cửa sông ven biển; phá rừng ngập mặn để nuôi trồng
thuỷ sản (Quy định tại Điều 47 Luật bảo vệ môi trường).

1.2. Các quy định về khuyến khích đầu tư vào bảo vệ và phát triển
giống loài thuỷ sinh.
19
Nhà nước ta luôn có chính sách khuyến khích, tạo điều kiện cho các tổ
chức, hộ gia đình và cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong nước và
các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực bảo vệ và phát triển giống
thuỷ sản nhằm sản xuất đủ giống đạt tiêu chuẩn chất lượng, giá cả phù hợp
cung cấp cho nghề nuôi trồng thuỷ sản trong nhân dân, bao gồm các giống
nuôi nước ngọt, nước lợ, nước mặn, trong nội địa và trên biển.
Trước hết, nhằm bảo vệ, tái tạo và phát triển nguồn thủy sinh, các địa
phương phải có quy hoạch vùng sản suất giống loài thủy sinh.
- Những nơi có điều kiện sản xuất giống thuận lợi cần tận dụng tối đa lợi

thế để sản xuất giống chất lượng cao, hạ giá thành cung cấp cho nhu cầu thị
trường. Cần ưu tiên cấp đất hoặc cho thuê đất lâu dài để các tổ chức, hộ gia
đình và cá nhân trong địa phương và các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào
lĩnh vực phát triển giống loài thủy sinh.
- Những nơi có điều kiện sản xuất không thuận lợi nhưng có nhu cầu lớn
về con giống có thể thuê, mua đất của các địa phương khác thuận lợi hơn
để tổ chức sản xuất giống nhằm cung cấp ổn định cho địa phương mình.
Giống thủy sản để nuôi trồng, tái tạo và phát triển phải đảm bảo chất
lượng theo hệ thống tiêu chuẩn Việt Nam(1). Giống thủy sản nhập khẩu phải
được thông qua kiểm dịch theo quy định của pháp luật về thú ý (pháp lệnh thú
ý năm 2004) cũng như của pháp luật về bảo vệ và kiểm dịch thực vật.
Khuyến khích việc công bố chất lượng các đối tượng GTS khi đưa ra

thị trường, trừ một số loại GTS thương phẩm thuộc các đối tượng nuôi chủ
lực bắt buộc phải công bố, như: Tôm sú, tôm chân trắng, cá chẽm, các loài
cá song, cá giò, nghêu Bến Tre, cá tra, cá basa, tôm càng xanh. Tiêu chuẩn
chất lượng GTS được công bố bao gồm: Tiêu chuẩn Việt Nam, Tiêu chuẩn
Ngành (đã ban hành trước 31/12/2006), Tiêu chuẩn quốc tế hoặc khu vực,
Tiêu chuẩn nước ngoài, Tiêu chuẩn cơ sở do cơ sở tự xây dựng.
20
1.3. Các quy định về bảo vệ giống loài thủy sinh khi có dịch.
Để bảo vệ và phát triển nguồn thủy sinh, Nhà nước đã ban hành nhiều
quy định liên quan, đặc biệt là khi chúng có dịch bệnh. Tổ chức, cá nhân
chăn nuôi nguồn thủy sinh phải thực hiện những biện pháp phòng bệnh cho
chúng. Trên nguyên tắc “việc chăn nuôi không được gây ô nhiễm môi

trường sinh thái” và đảm bảo số lượng cũng như chất lượng của các loài vật
nuôi, các đối tượng có liên quan cần thực hiện công tác phòng chống dịch
bệnh cho thủy sinh (chương II phòng bệnh, chữa bệnh và chống dịch bệnh
cho động vật – pháp lệnh thú y năm 2004) bao gồm:
- Bảo đảm đủ tiêu chuẩn vệ sinh thú y tại các cơ sở chăn nuôi, chế biến
thức ăn chăn nuôi, chế biến sản phẩm từ nguồn thủy sinh.
- Thực hiện các biện pháp phòng bệnh, chuẩn đoán xác định bệnh, khống
chế, tiêu diệt dịch bệnh cho các giống loài thủy sinh.
- Xác định và thông báo giới hạn vùng có dịch; quy định vành đai bảo vệ
quanh vùng có dịch; đặt biển báo hiệu, trạm gác và hướng dẫn việc đi lại
tránh vùng có dịch.
- Thực hiện việc kiểm dịch nguồn thủy sinh và các sản phẩm của chúng,

kiểm soát giết mổ và kiểm tra vệ sinh thực phẩm có nguồn gốc từ nguồn
thủy sinh để phát hiện, ngăn chặn dịch lây lan và bảo đảm an toàn cho
người sử dụng.
Cũng trong thời gian có dịch và tại các vùng dịch, người không có
nhiệm vụ thì không vào nơi có các giống loài thủy sinh ốm hoặc chết; đưa
vào hoặc mang ra khỏi vùng có dịch các loại thuộc đối tượng vệ sinh; mổ
thịt, lưu thông trong vùng có dịch nguồn thuỷ sinh và các sản phẩm của
chúng dễ nhiễm dịch bệnh đã công bố; vận chuyển qua vùng có dịch nguồn
thủy sinh thuộc loại dễ bị nhiễm bệnh dịch đã công bố, tránh lây lan dịch
bệnh cho các giống loài khác.
Theo quy định, trước khi đưa ra khỏi trại giống, cơ sở phải khai báo và
gửi hồ sơ kiểm dịch đến cơ quan quản lý thú ý địa phương để kiểm dịch và

21
cấp phiếu kiểm dịch. Giống lưu thông không có phiếu kiểm dịch buộc phải
tiêu hủy. Đồng thời khi kiểm dịch phát hiện lô giống nhiễm một số bệnh,
cơ sở phải thực hiện tiêu hủy ngay toàn bộ lô giống đó và thực hiện khử
trùng làm sạch khu vực.
Đối với tất cả loại giống thủy sinh nhập khẩu phải làm thủ tục kiểm
dịch qua cửa khẩu, nuôi cách ly từ 1-2 ngày trở lên để theo dõi tình trạng
sức khỏe và sự thích ứng với môi trường, sau khi có xác nhận giống thủy
sinh không bị nhiễm bệnh thì mới được đưa vào sản xuất.
Tổ chức, cá nhân khi sản xuất, kinh doanh giống thuỷ sản phải có đủ
các điều kiện theo quy định tại Điều 11 Nghị định số 59/2005/NĐ-CP ngày
04/5/2005 của Chính phủ về điều kiện kinh doanh một số ngành nghề thuỷ

sản, như có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh về giống thuỷ sản (trừ
trường hợp hộ gia đình ương nuôi, thuần dưỡng, làm dịch vụ giống thuỷ
sản quy mô nhỏ, có thu nhập thấp thì không phải đăng ký kinh doanh); Địa
điểm xây dựng cơ sở sản xuất, kinh doanh giống thuỷ sản phải theo quy
hoạch của địa phương; Quy mô, cơ sở vật chất, các trang thiết bị kỹ thuật,
hệ thống cấp và thoát nước, xử lý nước thải... của cơ sở phải đáp ứng yêu
cầu sản xuất kinh doanh từng đối tượng và phẩm cấp giống thuỷ sản theo
các Tiêu chuẩn Việt Nam, Tiêu chuẩn ngành đã quy định, phải đảm bảo
điều kiện vệ sinh thú y thủy sản được cơ quan có thẩm quyền ở địa phương
chứng nhận và phải đảm bảo các điều kiện về bảo vệ môi trường sinh thái
theo quy định của pháp luật; Có hồ sơ theo dõi quá trình sản xuất, kinh
doanh giống; Riêng các cơ sở sản xuất, kinh doanh đàn giống bố mẹ, giống

thương phẩm phải có nhân viên kỹ thuật có chứng chỉ đã được đào tạo về
kỹ thuật sản xuất giống thuỷ sản hoặc nuôi trồng thuỷ sản; Cơ sở sản xuất,
kinh doanh đàn giống thuần chủng, đàn giống cụ kỵ, đàn giống ông bà phải
có nhân viên kỹ thuật có văn bằng chứng nhận trình độ từ đại học trở lên về
chuyên ngành nuôi trồng thuỷ sản hoặc ngành sinh học. Đối với cơ sở nhập
khẩu giống thủy sản để kinh doanh phải có khu nuôi cách ly để theo dõi
22
tình hình sức khoẻ, dịch bệnh và có chứng nhận cơ sở đảm bảo điều kiện vệ
sinh thú y thuỷ sản. Ngoài ra, địa điểm xây dựng cơ sở sản xuất, kinh
doanh giống thủy sản phải theo quy hoạch của địa phương; quy mô và cơ
sở vật chất kỹ thuật, các trang thiết bị, hệ thống cấp và thoát nước, xử lý
nước thải... phải đáp ứng yêu cầu sản xuất, kinh doanh từng đối tượng và

phẩm cấp thủy sản theo quy định; Có hồ sơ theo dõi quá trình sản xuất,
kinh doanh giống; Có nhân viên kỹ thuật có chứng chỉ, văn bằng về chuyên
ngành nuôi trồng thủy sản.
2. Những quy định về công cụ, phương thức đánh bắt thuỷ sản nhằm
bảo vệ nguồn thuỷ sinh:
Trong hoạt động thuỷ sản, việc các tổ chức, cá nhân sử dụng các công
cụ, phương thức đánh bắt có hiệu quả nhưng vẫn đảm bảo tốc độ sinh sản
để có thể phát triển bền vững nguồn thuỷ sinh là một vấn đề hết sức quan
trọng.
Nhiều năm qua chưa vì chưa được đầu tư đúng mức nên nghề đánh bắt
thủy sản nhìn chung còn hạn chế, chưa khai thác hết nguồn lợi thủy sản sẵn
có. Công cụ khai thác phần lớn mang tính lạm sát nên nguồn lợi thủy sản

trong vùng thủy nội địa và ven bờ ngày càng cạn kiệt. Chẳng hạn như, sử
dụng xung điện, cào điện để khai thác thủy sản, trước hết là hủy diệt tất cả
các loài sinh vật nằm trong phạm vi của hai cực nguồn điện và sau đó nó sẽ
làm phá hủy, thay đổi môi trường.
Dựa trên nguyên tắc chung là việc khai thác thuỷ sản ở vùng biển,
sông, hồ, đầm, phá và các vùng nước tự nhiên khác phải đảm bảo không
làm cạn kiệt các nguồn thuỷ sinh, các tổ chức, cá nhân khi tiến hành các
hoạt động thuỷ sản phải tuân theo những quy định sau đây về mùa vụ khai
thác, thời hạn khai thác, vùng khai thác, chủng loại, kích cỡ thuỷ sản được
khai thác cũng như sản lượng khai thác hàng năm:
- Các tổ chức, cá nhân được phép tiến hành đánh bắt nguồn thuỷ sinh
và nguồn lợi thuỷ sản bằng các công cụ, phương tiện phù hợp với khoảng

23
cách và cường độ hợp lí. Cụ thể là chỉ được phép sử dụng các công cụ có
kích cỡ mắt lưới phù hợp với các loài thuỷ sản được phép khai thác, không
được đánh bắt bằng loại công cụ có kích cỡ mắt luới quá dày. Các tổ chức,
cá nhân khai thác nguồn lợi thuỷ sản bằng các phương tiện như đăng, đáy
hoặc bằng các phương pháp ngăn, chắn ở các sông, hồ, đầm, phá phải dành
hành lang cho các loài thuỷ sản theo quy định của địa phương.
- Các chủ thể không được tiến hành công việc khai thác và đánh bắt
nguồn thuỷ sinh và nguồn thuỷ sản khi chúng đang trong mùa sinh sản.
- Khoảng cách đánh bắt cũng được quy định cụ thể tuỳ thuộc từng loại
thuỷ sinh mà các chủ thể được phép tiến hành ở các vùng nước ven bờ hay
xa bờ với việc chấp hành các quy định của pháp luật.

Trong những năm qua, Thủ tướng Chính phủ, Bộ thuỷ sản, và nhiều
bộ, ngành có liên quan, UBND các tỉnh đã ban hành nhiều văn bản quy
định nghiêm cấm các hành vi như:
- Nghiêm cấm mọi tổ chức, cá nhân sản xuất, buôn bán, tàng trữ, vận
chuyển trái phép và sử dụng chất nổ, xung điện, chất độc để khai thác thuỷ
sản ở tất cả các vùng nước.
- Luật bảo vệ môi trường năm 2005 cũng có quy định về vấn đề này
tại khoản 2 điều 7:
“ Khai thác, đánh bắt các tài nguyên sinh vật bằng phương tiện, công cụ,
phương pháp huỷ diệt, không đúng thời vụ và sản lượng theo quy định của
pháp luật ’’ là một trong những hành vi bị nghiêm cấm.
24

Quy định kích thước mắt lưới nhỏ nhất tại bộ phận tập trung cá của các ngư cụ
khai thác thủy sản biển.
(theo Thông tư số 02 /2006/TT-BTS ngày 20 tháng 3 năm 2006 của Bộ Thuỷ
sản)
Số
TT
Các loại ngư cụ
Kích thước mắt lưới
2a (mm), không nhỏ hơn
1 Rê trích 28
2 Rê thu ngừ 90
3 Rê mòi 60

4 Rê tôm he(1 lớp, 3 lớp lưới ) 44
5 Rê tôm hùm 120
6 Vây rút chì, vó mành, rút, rùng, xăm bãi hoạt
động ngoài vụ cá cơm
18
7 Các loại lưới đánh cá cơm (gồm có vây rút
chì, vó mành, rút, rùng, xăm bãi, pha xúc hoạt
động trong vụ cá cơm)
10
8 Lưới kéo cá:
- Thuyền thủ công và tàu lắp máy dưới 90cv 28
- Tàu lắp máy từ 90 cv đến dưới 150 cv 34

- Tàu lắp máy từ 150 cv trở lên 40
10 Lưới kéo tôm:
- Thuyền thủ công và tàu lắp máy dưới 45 cv 20
- Tàu lắp máy từ 45 cv trở lên 30
11 Các loại đăng 20
12 Đáy hàng cạn, đáy cửa song, te, xiệp, xịch 18
13 Đáy biển hàng khơi 20
14 Lưới chụp mực 30
Trong đ ó: Lưới rê (hay còn gọi là lưới giăng hoặc
lưới cản) là một trong những ngư cụ phổ biến của nước ta
hiện nay, bởi sản lượng do nghề này đem lại đứng hàng
thứ hai sau lưới kéo. Mặt khác, người ta còn thấy l ư ới rê

có thể hoạt động ở rất nhiều thủy vực khác nhau như, ao,
25

×