Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Trình bày những đặc trưng tư tưởng của thiền phái trúc lâm trong quá trình phát triển phật giáo đại việt đời trần

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.08 KB, 15 trang )

TRÌNH BÀY NHỮNG ĐẶC TRƯNG
TƯ TƯỞNG CỦA THIỀN PHÁI
TRÚC LÂM TRONG QUÁ TRÌNH
PHÁT TRIỂN PHẬT GIÁO ĐẠI
VIỆT ĐỜI TRẦN

Bài thi giữa học kỳ 6 năm thứ 3
MÔN LỊCH SỬ TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO VN

Sinh viên Nguyễn Quý Hoàng
Mã số sinh viên DTTX 1087

GV hướng dẫn TT TS. Thích Phước Đạt

HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP.HCM
2012


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN


Dàn bài

Chương 1 Dẫn nhập
1. Ý nghĩa & lý do chọn đề tài
2. Giới hạn đề tài và phương pháp nghiên cứu
3. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Chương 2 Nội dung tư tưởng của Thiền phái Trúc Lâm
1. Sự ra đời của thiền phái Trúc Lâm
2. Các tư tưởng cơ bản của Thiền phái Trúc Lâm
2.1 Phật tại tâm


2.2 Chủ thuyết cư trần lạc đạo
2.3 Phương pháp hành trì tu chứng
Chương 3 Đánh giá gía trị tư tưởng của Thiền phái Trúc Lâm
1. Giá trị văn hóa xã hội
2. Giá trị tôn giáo
3. Giá trị triết lý
Chương 4 Kết luận

Tài liệu tham khảo

Trúc lâm Thiền viện


Chương 1 Dẫn nhập
1. Ý nghĩa và lý do chọn đề tài
Với khuynh hướng tìm về cội nguồn, và trở lại với những tinh hoa văn hóa của dân
tộc, việc nghiên cứu thiền Trúc Lâm Yên Tử - một thiền phái Việt Nam, do người Việt
Nam tạo dựng và phát triển - là một vấn đề cần thiết, thông qua việc tìm hiểu những
đặc trưng tư tưởng của Thiền phái cũng góp phần hiểu thêm về giá trị của các tư tưởng
này trong dòng chảy của lịch sử Phật giáo Việt Nam.
Với tư tưởng cốt lõi Phật tại Tâm và tinh thần nhập thế mang đầy tính sáng tạo, thiền
phái Trúc Lâm đã trở thành một hiện tượng nổi bật và độc đáo của Thiền tông Việt
Nam. Thiền phái này đã nhập thế cùng dân tộc trong sự nghiệp phát triển và bảo vệ đất
nước trong suốt giai đoạn lịch sử đời Trần và các giai đoạn tiếp nối sau đó. Nói đến
lịch sử hay các tông phái Phật giáo Việt Nam người ta không thể nào không nghĩ đến
Thiền phái Trúc Lâm, đó cũng là lý do Giảng viên phụ trách gợi ý cho chúng tôi viết
về đề tài này
Mục đích của việc nghiên cứu này là vạch ra những điểm độc đáo, đặc sắc cửa tư
tưởng Phật giáo thời Trần, tiêu biểu là thiền Trúc Lâm Yên Tử và đánh giá giá trị của
nó trong lịch sử Phật giáo Việt Nam.


2. Giới hạn đề tài và phương pháp nghiên cứu
Trong khuôn khổ của một bài tiểu luận ngắn nên người viết chỉ sử dụng phương pháp
chính là phân tích, nhận xét và đánh giá các tư tưởng đặc trưng của Thiền phái, và sẽ
không đi quá sâu vào từng đề mục, việc phân tích kĩ hơn sẽ được nghiên cứu trong các
bài luận văn mang tính chuyên sâu.

3. Tình hình nghiên cứu về Thiền phái Trúc Lâm
Tại Việt Nam cũng có nhiều tài liệu và bài viết liên quan đến Thiền phái Trúc Lâm
như:
- TS. Thích Phước Đạt- Tinh thần nhập thế của Thiền phái Trúc Lâm trong việc
Xây dựng và phát triển đất nước ( />- TS. Thích Phước Đạt- Lịch sử truyền thừa Thiền phái Trúc Lâm 2006
- TS. Thích Phước Đạt- Phương thức hành thiền tu chứng của Thiền phái Trúc
Lâm 2008
- TS. Thích Phước Đạt- Tìm hiểu giá trị “ Cư trần lạc đạo phú” của Trần Nhân
Tông
- Thích Nhất Hạnh- Trái tim của Trúc Lâm Đại sĩ, phân tích bài Cư trần lạc đạo,
NXB Phương Đông 2009


-

Thích Nhật Quang- Mùa xuân Vân Yên, phân tích Vịnh Vân Yên tự phú của
Thiền sư Huyền Quang
Thích Thanh Từ- Tinh hoa trí tuệ của Phật hoàng Trần Nhân Tông
()
PGS. TS. Trần Lê Bảo- Thiền phái Trúc Lâm Yên tử
( />
-


Nguyễn Hùng Hậu- Lược khảo tư tưởng Thiền Trúc Lâm Việt Nam, NXB
Khoa học xã hội
……

Ngoài ra, phải kể đến những công trình nghiên cứu trực tiếp thiền phái Trúc Lâm như
"Yên Tử non thiêng" (Sở Văn hóa Quảng Ninh), "Non thiêng Yên Tử" (Nxb Văn hóa
Thông tin 1994), "Yên Tử và thiền phái Trúc Lâm" (Sở Văn hóa Thông tin Quảng
Ninh), 'Tam tố Trúc Lâm" của Thích Thanh Từ.1
Nghiên cứu thiền phái Trúc Lâm không thể không tính đến những tác phẩm của người
xưa, những văn bản gốc như "Thiền Uyển tập anh", “Tam tổ thực lục”, "Thánh đăng
lạc", "Khóa hư lục”, “Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục", "Trần triều đặt tồn phật điển
lục", "Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh", những tác phẩm của Trần Nhân Tông, Pháp
Loa, Huyền Quang được sưu tầm, tập hợp in trong cuốn "Thơ Văn Lý Trần"...
Nhìn chung, trừ những văn bản gốc, những công trình trên đã đề cập tới những khía
cạnh khác nhau của Thiên Trúc Lâm Yên Tử kể cả khía cạnh tư tưởng triết học.
Nhưng cũng chưa thấy có một bài viết nào tổng hợp và đánh giá các tư tưởng đặc
trưng của Thiền phái Trúc lâm trong quá trình phát triển Phật giáo Đại Việt thời Trần

Chương II Nội dung tư tưởng của Thiền phái Trúc Lâm
1. Sự ra đời của thiền phái Trúc Lâm
Do phát triển của mười thế kỉ trước thời kì Lý Trần nên khi đất nước độc lập, Phật
giáo Việt Nam càng có điều kiện phát triển mạnh mẽ hơn. Phật giáo lúc này không chỉ
ảnh hưởng to lớn trong đời sống tâm linh, đời sống văn hóa của dân tộc mà còn chi
phối đến chính trị, xã hội, v.v…
Lúc này, các vương triều phong kiến cần tìm chỗ dựa vững chắc về ý thức hệ – một
công cụ tinh thần để quản lí và xây dựng đất nước – mà Phật giáo lúc này có một thế
lực mạnh và có một lực lượng quần chúng đáng kể; nhiều nhà sư am hiểu nhiều ngôn
ngữ, thông suốt Tam tạng kinh điển, nhiều Tăng Ni, Phật tử đã tham gia vào việc giải
phóng dân tộc, nên việc các vương triều Việt Nam bấy giờ chọn đạo Phật làm quốc
giáo cũng là lẽ đương nhiên.

1

Nguyễn Hùng Hậu- Lược khảo tư tưởng Thiền phái Trúc Lâm ( />

Phật giáo thời này khơng chỉ bó hẹp trong nhà chùa, lo truyền đạo, chăm sóc đời sống
tâm linh cho con người mà còn đóng góp nhiều cơng sức trong cơng cuộc dựng nước
và giữ nước. Như các thiền sư đời Lý được trực tiếp tham dự chính sự, tiếp sứ thần
ngoại bang (như thiền sư Pháp Thuận và Vạn Hạnh thuộc thiền phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi,
thiền sư Ngơ Chân Lưu thuộc thiền phái Vơ Ngơn Thơng, v.v…).
Vào đầu thế kỷ XIII, ba thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vơ Ngơn Thơng và Thảo
Đường dần dần sát nhập thành một.Thiền sư Thường Chiếu có thể được gọi là người
khởi đầu cho sự tổng hợp giữa ba Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vơ Ngơn Thơng và
Thảo Đường và cũng là gạch nối giữa Phật giáo đời Lý và Phật giáo đời Trần. Phái
thiền Trúc Lâm được thành lập vào đời nhà Trần. Điều Ngự Giác Hoàng (Trần
Nhân Tông) thành lập phái thiền Trúc Lâm với ý đònh thống nhất Phật giáo Đại
Việt, ngoài ra có thể còn có một số chi phái thiền khác nữa. Phái thiền Trúc Lâm
nổi danh với ba vò Tổ đầu tiên là: Trúc Lâm Đầu Đà, Tôn giả Pháp Loa và Tôn giả
Huyền Quang, nhưng thực ra, phái thiền TrúcLâm bắt nguồn từ truyền thống ở núi
Yên Tử, nên người ta thường gọi là Trúc Lâm-Yên Tử. Phái thiền Trúc Lâm chòu
nhiều ảnh hưởng của truyền thống Yên Tử như trên, nhất là chòu ảnh hưởng của
Thượng só Tuệ Trung. Thiền sư Hiện Quang khai sơn núi n Tử mở đầu cho Phật
giáo Trúc Lâm, nền Phật giáo thống nhất đời Trần.
Sự kiện ra đời dòng thiền này có ý nghĩa rất lớn, nó đáp ứng nhu cầu lịch sử của dân
tộc là xây dựng một đất nước Đại Việt độc lập tự chủ, khơng chỉ được xác định trên
cương thổ biên giới mà còn độc lập tự chủ trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa
và ngay cả tơn giáo.

2. Các tư tưởng cơ bản của Thiền phái Trúc Lâm
2.1 Phật tại tâm
Tư tưởng Phật tại tâm bắt nguồn từ một quan điểm “Tâm tịch nhi tri, thị danh chân

phật” nghĩa là lắng lòng mà hiểu, đó là chân Phật hay “Phật vơ nam bắc” của Trần
Thái Tơng, ơng cho rằng cái thực tại siêu nhiên ấy làm đối tượng khơng phải chỉ cho
suy tưởng mà chính là đối tượng để sống thực hiện cả trong tư tưởng lẫn ngồi hành
động. Cái thực tại ấy chính là Phật tính, tuy nó khơng lệ thuộc vào điều kiện thời gian
và khơng gian, siêu việt lên trên, mà mặt khác nó cũng đồng thời tiềm tàng linh động
trong thiên hình vạn trạng của vũ trụ sự vật, biến hố khơng ngừng. Vì bản thể chung
của nhân loại, còn gọi là Phật tính “ bình đẳng cho mỗi người có thể tự tu sửa để tìm
cầu. Hơn nữa, Thiền Tơng cũng bắt nguồn từ bản nhiên thanh tịnh của mỗi người, mà
đã là con người thì bất cứ ở thời nào hay ở đâu cũng đều có tính bản nhiên thanh tịnh
ấy. Do đó ở đâu có con ngưới thì ở đó có nguồn gốc của Thiền, của giác ngộ, tức là
Phật. Quan điểm Phật ở lòng được xác định rất rạch ròi, rồi nó sẽ chi phối tồn bộ lịch
sử tư tưởng Việt Nam và Phật giáo Việt Nam về sau. Tiêu biểu là lời xác định của vua
Trần Nhân Tơng trong cư trần lạc đạo phú:


Bụt ở trong nhà
Chẳng phải tìm xa.

2.2 Chủ thuyết cư trần lạc đạo
Tư tưởng chủ đạo của Phật giáo Trúc Lâm là “cư trần lạc đạo”, “tức tâm tức
Phật”. Quan niệm này đã có mặt từ thời vua Trần Thái Tông, khi nhà vua bỏ
ngai vàng vào núi để tìm Đạo và được Quốc sư Viên Chứng thức tỉnh: “Trong
núi vốn không có Phật. Phật chỉ có ở trong tâm. Tâm lặng mà biết thì đó đích
thị là Phật”, và ít nhiều Trần Nhân Tông cũng đã kế thừa được từ Tuệ Trung
Thượng Sĩ, một con người vĩ đại mà Trần Nhân Tông đã ca ngợi:
“Càng nhìn càng cao
Càng khoan càng bền
Thoạt nhìn thấy trước
Bỗng phía sau liền
Đó chính đạo Thiền

Của riêng Thượng sĩ”.
Tư tưởng của Trúc Lâm là hành đạo giúp đời, đưa đạo đến đời, mọi giáo pháp
đều xuất phát từ khuynh hướng “nhập thế”. Do vậy, thực tại cuộc sống là một yếu
tố cấu thành giáo pháp, dẫn đến việc hoằng dương Phật pháp trước tiên phải tôn
trọng thực tế cuộc sống với đặc điểm dân tộc, làm cho dân tộc trường tồn. Về
phương diện lịch sử tư tưởng, Thiền phái Trúc Lâm có tầm quan trọng đặc biệt đến
sự phát triển tư tưởng dân tộc Việt. Trên nền tảng tư tưởng của những Thiền phái
Phật giáo đã có từ trước như Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Đường,
có tiếp thu các Thiền phái Trung Hoa, đặc biệt là Lâm Tế (với biện pháp hành thiền
quyết liệt), Thiền phái Trúc Lâm đã tổng hoà những tư tưởng đó, nâng cao về
phương diện bác học, đưa Thiền học vào cuộc sống bằng cách coi trọng yếu tố thực
tiễn Việt Nam.
Trần nhân Tông đã chủ trương nhập thế tích cực như một cương lĩnh đường lối
hoạt động của Thiền phái mà Cư trần lạc đạo phú đã ghi nhận:
“ Trần tục mà nên, phúc ấy càng yêu hết tấc
Sơn lâm chẳng cốc, họa kia thật đồ công”2
Các tác phẩm cơ sở của Thiền học Trúc Lâm như Khoá Hư Lục, Tuệ Trung
Thượng Sĩ Ngữ Lục đã diễn tả tư tưởng và giáo pháp đó. Các Thiền sư Trúc Lâm đi
thẳng vào thế giới thực chứng bằng cách tháo bỏ mọi hàng rào khái niệm, đó thực
sự là biện pháp đốn ngộ mà Vô Ngôn Thông đã nhắc đến, nhưng nhấn mạnh đến
yếu tố “tâm”, phá bỏ những ảo tưởng, khuyến thiện bằng cách lấy cá nhân và đời
2

Trần lý Trai- Lịch sử truyền thừa phái Trúc Lâm trang 2


sống thực tại làm trọng. Chính vì vậy, Trúc Lâm thiền phái đã góp phần xây dựng
triều đại đương thời, tổ chức xã hội, bồi đắp nhân cách Đại Việt.
Tư tưởng của dòng thiền Trúc Lâm là phát triển đỉnh cao của quan niệm "tức
tâm tức Phật". Trong bài phú Cư trần lạc đạo, ngài Trần Nhân Tông đã viết:

Nhân khuấy bổn nên ta tìm Bụt
Chỉnh mới hay chính Bụt là ta.
Và trước đó, quan niệm này đã được ngài Viên Chứng thức tỉnh vua Trần Thái
Tông khi nhà vua bỏ ngai vàng trốn vào núi để tìm đạo: "Trong núi vốn không có
Phật. Phật chỉ có ở trong tâm. Tâm lặng mà biết thì đó đích thị là Phật" . Tuệ Trung
Thượng sĩ thì nói: " Khi mê không biết ta là Phật, khi ngộ thì ra Phật là ta" hay
"Thân ta tức là thân Phật, không có hai tướng" ...Chính quan niệm đó đã đánh thức
sức sống mãnh liệt bên trong con người thời bấy giờ và làm nên lẽ sống cao quý
của thời đại, để lại nhiều kinh nghiệm hết sức xương máu trong công cuộc chống
ngoại xâm và xây dựng đất nước. Cùng với học thuyết vô niệm làm nên tư tưởng
chung của thiền phái.[ ]
3

Nền tảng chung là thế, nhưng chúng ta dễ dàng nhận ra những đặc điểm của
phương pháp tu hành ở dòng Thiền này, nó không thuần túy pháp môn Thiền định
mà bao gồm cả yếu tố Tịnh độ. Theo ngài Trúc Lâm Ðầu Ðà thì những pháp môn
Tịnh độ cũng chính là Thiền. Ðây có thể nói là đặc điểm của Thiền tông Việt Nam.
Trong Cư trần lạc đạo phú, Ngài viết:
Miễn được lòng rồi,
Chẳng còn phép khác.
Gìn tính sáng, tính mới hầu an,
Nén niềm vọng, niềm dừng chẳng thác (...)
Tịnh độ là lòng trong sạch, chớ còn hỏi đến Tây phương,
Di Ðà là tính soi sáng, mựa phải nhọc tìm về Cực lạc...

2.3 Phương pháp hành trì tu chứng
Pháp môn niệm Phật
Phong cách thiền của Thiền phái Trúc Lâm đời Trần theo phương thức niệm Phật là
tùy duyên và hết sức tự tại. phương thức niệm Phật theo quan điểm thiền, được ghi lại
trong Cư trần lạc đạo phú, ở hồi thứ hai:


3

Hương lam - Tổng Lược Về Thiền Phái Trúc Lâm ( />

“Tịnh độ là lòng trong sạch, chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương;
Di Đà là tính sáng soi, mựa phải nhọc tìm về Cực lạc.” 4

Không phải ngẫu nhiên đến đời Trần phương thức niệm Phật được Thiền phái Trúc
Lâm chú trọng trong việc vận dụng vào đời sống thực nghiệm tâm linh trong các Thiền
đường nước Đại Việt. Mặc dầu vào thời kỳ này với sự ra đời của Thiền phái Trúc
Lâm, hẳn nhiên việc thực tập hành thiền là phương thức tu tập được xem trọng yếu để
kiến tính thành Phật. Tuy nhiên phương thức niệm Phật vẫn được Thiền phái Trúc
Lâm khuyến cáo mọi giới, mọi thành phần trong xã hội cần phải nỗ lực tu tập, tinh tấn
hành trì mọi lúc mọi nơi, trong mọi hoàn cảnh là điều đáng nói.5
Mục đích niệm Phật theo Thiền phái Trúc Lâm là loại bỏ niệm xấu thay vào đó là niệm
tốt để tâm trở nên trong sạch hoàn toàn. Con người sống trong một xã hội đầy biến
động, việc cần xác định trước tiên nói như trong tác phẩm Khóa hư lục qua bài Niệm
Phật luận là tâm luôn phải khởi niệm thiện, khi niệm thiện khởi thì niệm ác không có
cơ duyên hiện khởi.Vì vậy, con người cần có những niệm thiện, những niệm tốt, ý
nghĩ lành thì không cách gì hơn là niệm Phật. Niệm Phật nhằm có khả năng xử lý
những sai lầm, ngõ hầu dập tắt ba nghiệp thân khẩu ý. Công năng niệm Phật là thế,
nhưng phương thức hành trì của mỗi đối tượng dựa trên sự phân chia căn trí cao thấp.
Thực tế, theo Trần Thái Tông nói, trong xã hội có có ba hạng người ứng với ba loại trí:
thượng trí, trung trí, hạ trí, ứng với ba cách thức hành trì niệm Phật.
- Cách thứ nhất dành cho bậc thượng trí là những người tự thân biết tâm mình chính
là tâm Phật, sống trong bụi trần mà không nhiễm trần, không cần tu niệm thêm gì cả.
Chính họ là những người đã được giác ngộ, tâm không còn sự nhiễm ô, sống trong đời
mà không nhiễm bụi đời, an nhiên tự tại, mà đóng góp cho đời, đúng như bài Niệm
Phật luận ghi “Bậc thượng trí thì tâm tức Phật, không phải nhờ thêm sự tu hành. Ý

nghĩ là bụi trần không vướng một mảy. Ý nghĩ bụi trần vốn tịnh, cho nên nói “như như
không động là thân Phật”. Thân Phật tức là thân ta, không có hai tướng. Tướng và
tướng không phải là hai, lặng lẽ tồn tại hằng thường. Tồn tại mà không biết, đó là Phật
sống.).
- Cách thứ hai dành cho đối tượng có căn trí bậc trung. Đây là thành phần thứ hai
trong xã hội. Người có căn trí bậc này thì phải huy động ý chí, dùng niệm thiện để đẩy
lùi các niệm ác, không cho chúng có cơ hội xuất hiện. Bậc trung trí ắt nhờ niệm Phật.
Chú ý tinh cần, luôn luôn niệm mà không quên thì tâm mình ắt tự thuần thiện. Ý nghĩ
thiện đã hiện ra thì ý nghĩ ác sẽ bị tiêu tan. Ý nghĩ ác đã bị tiêu tan thì chỉ còn ý nghĩ
thiện. Dùng ý nghĩ mà ý thức về nghĩ thì mọi ý nghĩ đều bị diệt hết. Khi ý nghĩ đã bị
tiêu diệt ắt trở về chính đạo; lúc mệnh hết qua đời sẽ được niềm vui cõi Niết bàn.).

4
5

Thích Phước Đạt- Phương thức hành thiền tu chứng của Thiền phái Trúc Lâm trg 4
Trần Lý Trai- Phương thức niệm Phật đời Trần ( />

- Cách thứ ba dành cho người có căn cơ hạ trí, đông nhất trong xã hội. Đối với những
người này, tâm họ chỉ hướng về nước Phật, mong sao thoát khỏi những bụi bặm ở đời
này. Kẻ hạ trí miệng chuyên cần niệm lời Phật, lòng mong thấy hình tướng Phật, thân
nguyện sinh ở nước Phật, ngày đêm tu hành chăm chỉ, không thối chí thay đổi, như
vậy đến khi mệnh hết qua đời sẽ theo ý nghĩ thiện mà được sinh ở nước Phật; sau đó
lĩnh hội chính pháp mà chư Phật nêu ra và chứng được Bồ đề cũng được Phật quả.
Tuy căn trí mỗi hạng người khác nhau nhưng sở đắc giải thoát phải là một. Trong ba
cách thức niệm Phật, Trần Thái Tông đánh giá cao phương thức hành trì niệm Phật sau
cùng vì nó được xây dựng trên một nền tảng vững chắc, thích hợp với quần chúng số
đông.
Lục thời sám bái
Lục Thời Sám Hối Khoa Nghi đã được vua Trần Thái Tông ngự chế để thực hành sám

hối một ngày sáu lần, có lẽ trong những ngày ít bận rộn việc triều chính và có lẽ cả ở
chùa Phổ Minh hay Chân Giáo. Khoa nghi chia làm sáu phần, để thực hành sáu lần
trong ngày. Mỗi lần lâu khoảng 20 phút. Nghi thức gây tác động cảnh giác rất cao và
rất tha thiết: sám hối ở đây không phải là xin tội với Phật mà là gạn lọc và thức tỉnh tự
tâm.
Lục Thời Sám Hối Khoa Nghi vốn là một phương tiện cảnh tỉnh tâm hồn, không hơn
không kém. Sự cảnh tỉnh này được thực hiện trong mọi mặt, (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân
và ý) và vào mọi lúc trong ngày (tang tảng sáng, buổi trưa, buổi chiều, buổi nhá nhem,
buổi tối, buổi quá nửa đêm).
“Mỗi nghi thức bắt đầu bằng một bài kệ cảnh giác, rồi đến lễ dâng hương, một bài kệ
dâng hương, một bài kệ dâng hoa, một bài trần bạch có tác dụng cảnh giới, một bài
văn sám hối, một bài kệ khuyến thỉnh, một bài kệ tùy hỷ, một bài kệ phát nguyện, và
cuối cùng là một bài kệ Vô Thường. Lời văn rất diễm lệ, hình ảnh rất phong phú, tư
tưởng rất sâu sắc. Sáu nghi thức là sáu hòn bích ngọc: Lục Thời Sám Hối Khoa Nghi
của Trần Thái Tông là một sám pháp gọn gàng, thực tiễn và đẹp đẽ và thực dụng hơn.
Không biết tại sao ở các thiền đường xứ ta, sám pháp vua Trần Thái Tông lại được rất
ít người sử dụng trong khi các sám pháp Lương Hoàng, Dược Sư, Thủy Sám lại rất
phổ thông…!” 6

Chương 3 Đánh giá gía trị tư tưởng của Thiền phái Trúc Lâm
1. Giá trị văn hóa xã hội
Sự ra đời Thiền phái Trúc Lâm đã góp phần cho khả năng phát triển những giá trị
văn hóa bản địa, nội sinh trong lòng dân tộc. Có thể nói sự ra đời của Thiền phái
Trúc Lâm Yên Tử đã tạo nên trường lực hấp dẫn mạnh mẽ, tạo đà thúc đẩy sự ra
6

Thích Thanh Kiểm dịch- Trần Thái Tông- Khóa hư lục THPGTPHCM 1992


đời hàng trăm ngôi chùa lớn, nhiều tầng lớp Tăng chúng cùng quy hướng theo một

dòng tu hành in đậm sắc thái Phật giáo dân tộc. Bản thân hình tượng ba vị sư tổ
cũng được tôn thờ, nghệ thuật hóa thành tranh, tượng và nhân vật trong văn học
viết cũng như truyền thuyết dân gian. Nguyễn Lang, trong Việt Nam Phật Giáo Sử
Luận đã viết: “Phật Giáo Trúc Lâm là một nền Phật Giáo độc lập, uy tín tinh thần
của nó là uy tín tinh thần quốc gia Đại Việt. Nó là xương sống của một nền văn
hóa Việt Nam độc lập. Nền Phật giáo này tuy có tiếp nhận những ảnh hưởng của
Phật giáo Trung Hoa, Ấn Độ và Tây Tạng nhưng vẫn giữ cá tính đặc biệt của
mình.” Tuy sự truyền thừa của Thiền phái Trúc lâm không kéo dài lâu theo thời
gian, nhưng tinh thần Thiền phái đã kịp chuyển hóa, thấm sâu trong đời sống tinh
thần dân chúng và trở thành những giá trị văn hóa bền vững trước thời gian.
Nếu văn hóa là những gì còn lại trước thời gian thì chính các giá trị vật thể và phi
vật thể liên quan Thiền phái Trúc Lâm đã là một minh chứng sâu sắc cho khả năng
tồn tại và phát triển của một di sản văn hóa, bất chấp năm tháng và mọi thăng trầm
thế sự. Thiền phái Trúc Lâm tỏa sáng thành "tâm thức Trúc Lâm" trong lòng mỗi
con người thuộc mọi thế hệ, ở khắp mọi vùng đất nước.
Theo truyền thống “cư trần lạc đạo” của phái Trúc Lâm, mọi nhà lãnh đạo vẫn vừa
có thể làm việc nước mà vẫn tu hành. Do đó, Phật giáo thời Trần có tác dụng rất
tích cực đối với tình hình quân sự và chính trị. Tinh thần nhập thế tích cực của tư
tưởng Thiền phái mới mẻ gặp được cái khí thế đoàn kết vươn lên của toàn dân đã
khởi thêm sức mạnh cho dân tộc. Nhà Trần nhờ tinh thần đoàn kết dân tộc mà đã 3
lần chiến thắng quân Nguyên xâm lược nước ta.
Giá trị văn hóa của tư tưởng Thiền phái còn thể hiện ở chỗ nó góp phần xây dựng
mạnh mẽ nền văn hóa dân tộc Đại Việt thời bấy giờ. Các nhà lãnh đạo Thiền phái
Trúc Lâm là những nhà văn hóa, thi nhân có tài, các ngài đã ý thức muốn bảo vệ
nền độc lập dân tộc một cách lâu dài thì phải dựa trên một nền văn hóa dân tộc.
Những tác phẩm của Trần Nhân Tông và Tuệ Trung Thượng Sĩ đã tác động đến sự
trưởng thành và phát triển của văn học đời Trần. Đệ nhị tổ Pháp Loa (Ðồng Kiên
Cương, 1284-1330) cũng là người am hiểu Thiền học, có tài tổ chức các hoạt động văn
hóa Phật giáo. Qua hơn hai mươi năm lãnh đạo, Pháp Loa đã cho san khắc bộ Ðại
Tạng kinh với hơn 5.000 quyển. Ông còn trực tiếp giảng dạy giáo lý, có tới ba nghìn

đệ tử đến cầu pháp và đắc pháp. Ông để lại các tác phẩm khuyên người xuất gia chăm
lo việc tu đạo, khuyên mọi người hiểu sâu con đường tu thiền chân chính bằng việc
học giới luật, thiền định và trí tuệ, chỉ rõ cách học cần sáng tỏ...
Huyền Quang, Tam tổ thiền phái Trúc Lâm, ông rất yêu hoa cúc, ngoài việc tụng kinh
tham thiền ông còn thôi sáo ngâm thơ, ông để lại cho đời những bài thơ tràn đầy thiền
vị.
Người cuối cùng trong số ba vị tổ Trúc Lâm là Huyền Quang (Lý Ðạo Tái, 12541334), hơn Pháp Loa tròn ba mươi tuổi nhưng lại tu hành muộn hơn, từng làm quan


trong triều đình rồi mới từ chức đi tu. Huyền Quang để lại hơn hai mươi bài thơ chữ
Hán, một bài phú vịnh chùa Vân Yên bằng chữ Nôm và câu chuyện liên quan đến
Ðiểm Bích đượm chất thế sự.
Một số nhà vua và quý tộc sùng Phật đã biên soạn những tác phẩm về giáo lý nhà Phật
như các cuốn Khóa hư lục, bài Thiền tông chi nam của Trần Thái Tông, Thiền lâm
thiết chủy ngữ lục của Trần Nhân Tông, Tuệ trung thượng sĩ ngữ lục của Trần Tung.
Về lịch sử Phật giáo có các cuốn Thiền uyển tập anh ngữ lục, Tam tổ thực lục nói về
thiền phái Trúc lâm. Một số cuốn sách, cùng với những bản kinh Phật giáo, đã được
nhà nước cho đem khắc in và phổ biến.
2. Giá trị tôn giáo

Tư tưởng Phật tại tâm bắt nguồn từ vua Trần Thái Tông nghĩa là mỗi người đều là
Phật sẽ thành, mọi người cần phải phát huy nội lực, để trở về với trí tuệ Bát Nhã
của chính mình. Trong bài luận về niệm Phật ông viết: “Phật thân tức ngã thân thị,
vô hữu nhị tướng, tướng tướng vô nhị, t ịch nhiên thường tồn, tồn nhi bất tri, thị vi
hoạt Phật” (Thân ta tức là thân Phật, không có hai tướng, tướng Phật và tướng ta
không phải hai, lặng vậy thường tồn tại, tồn tại mà không biết, đó là Phật sống vậy).
Tư tưởng độc đáo này được vua Trần Nhân Tông sau này nhắc lại một cách nôm na và
rõ ràng trong Cư Trần Lạc Đạo:
“Bụt ở trong nhà,
chẳng phải tìm xa

Nhân khuấy bổn nên ta tìm Bụt
Chỉn mới hay, chính Bụt là ta”.
Chính tư tưởng này góp phần thúc đẩy quá trình tu tập và giác ngộ trong các thành
viên quần chúng thời bấy giờ
Tư tưởng Phật Giáo “biện tâm” của Trần Thái Tông, và tư tưởng “Cư Trần Lạc
Đạo” của Trần Nhân Tông đã mang lại sức mạnh cho Phật giáo đời Trần, tư tưởng
đó như là những giọt cam lồ tắm mát cho mọi người, giúp cho người tu đạo tìm
thấy Phật tại tâm khỏi phải tìm kiếm đâu xa. Phật giáo biện tâm và Cư trần lạc đạo
là Phật giáo của quần chúng nhân dân, không hạn chế trong giới tu sĩ cũng không
hạn chế trong tư viện. Ai cũng biện tâm được, bất kể là xuất gia hay tại gia, ở đâu
cũng có thể tu và giác ngộ.
Thứ nhất là tu tại gia, Thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa. Ở nơi đâu con người cũng có
thể thành Phật.
Tư tưởng lớn nhất của Phật giáo đời Trần là không chấp tướng, không giáo điều,
không vướng mắc vào hình thức, khiến cho đạo Phật được phổ biến trong quần


chúng một cách rộng rãi. Ai cũng có thể học và tu đạo được; Đây cũng chính là giá
trị tôn giáo quan trọng nhất của tư tưởng Thiền phái Trúc Lâm.
Ngoài ra, hình thức lục thời sám bái cũng giúp cảnh tỉnh con người một cách
thường trực. Việc chia lễ sám làm sáu thời như thế là nhằm phục vụ cho việc sám
hối sáu căn của con người, tức mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và ý “Phàm những nghiệp
chướng tích tụ đều do sáu căn tạo thành”. Nó góp phần tạo ra những con người tỉnh
thức với trần thế một cách thường trực.
Ðây cũng chính là sự đáp ứng nhu cầu đời sống tâm linh, tín ngưỡng của mỗi cộng
đồng người ở từng thời đại, giai đoạn lịch sử cụ thể.

3. Giá trị triết lý
Thiền phái Trúc Lâm là sự kết hợp của bốn dòng thiền đã có mặt ở Việt Nam, thể
hiện tinh thần và khả năng đoàn kết của nó. Không chỉ là sự kết hợp của các dòng

Thiền ta còn có thể thấy giáo lý của thiền phái Trúc Lâm là sự kết hợp giữa triết
học siêu nhiên của Phật giáo với nhân sinh quan của Nho giáo.
Nhân sinh quan Nho giáo mang nặng tính nhập thế tề gia, trị quốc bình thiên hạ, và
nó có thể thấy sự tương đồng trong triết lý quan trọng ứng xử thế gian nằm trong ba
chữ "hãy tùy duyên" ( thả tùy duyên) trong Cư trần lạc Đạo phú của Trần Nhân
Tông. Đây là học thuyết nhập thế về phương diện xã hội không thể tìm thấy trong
phật giáo Nguyên thủy. Nó là một phần ứng dụng của thuyết Bồ tát đạo của Phật
giáo phát triển.
Triết lý thiền học thứ 2 được vua Trần Nhân Tông đề cập là triết lý vô tâm, ( vô
tâm đối cảnh hỏi chi Thiền)
Cốt tủy của Thiền là vô tâm (無 心) hay vô niệm (無 念), khái niệm này bắt nguồn
từ vô ngã (無 我), tức là có “sự vắng bóng của cái tôi”, theo ngài Huệ Năng, Bátnhã là tên gọi của tự tính , hay của vô niệm, như chúng ta thường gọi, khi nó tự ý
thức được chính nó, hoặc đúng hơn là tự hành xử để trở thành ý thức. Bát-nhã, do
vậy, nhắm tới hai chiều hướng: một đến vô niệm và một đến thế giới vô thức mà
đến nay vẫn chưa được phô bày. Một hướng được gọi là Trí huệ Bát-nhã vô phân
biệt và hướng kia gọi là trí phân biệt.
Trần Nhân Tông cũng đề xướng tinh thần vô niệm hoặc vô tâm muốn giúp chúng ta
hằng sống trong Bát Nhã và giúp ta phải biết trông chừng thường xuyên để đừng
lạc vào hướng phân biệt.


Đạt được vô tâm, nói một cách khách quan, là khôi phục lại trí Bát-nhã vô phân
biệt. Đây cũng chính là triết lý mà Trần Nhân Tông muốn đề cập trong tác phẩm
Cư Trần Lạc Đạo của mình.

Kết luận
Giá trị lớn nhất của thiền phái Trúc Lâm đó chính là tư tưởng triết lý Phật giáo
thuần Việt đánh dấu một quá trình kết hợp sáng tạo của dân tộc với tinh hoa nhân
loại; Tư tưởng của thiền phái Trúc Lâm là nguồn gốc của sức mạnh Đại Việt thời
nhà Trần. Đặc trưng tư tưởng của Thiền phái đã góp phần đưa nước ta trở thành

một quốc gia hùng mạnh phát triển về mọi mặt dựa trên cơ sở đoàn kết toàn dân,
tinh thần nhập thế tích cực tốt đời đẹp Đạo.


Tài liệu tham khảo
1. Thích Phước Đạt- Lịch sử truyền thừa của Thiền phái Trúc Lâm 2006
2. Thích Phước Đạt- Phương thức hành thiền tu chứng của Thiền phái Trúc Lâm,
HVPGVN tại TP.HCM 2008
3. Trần lý Trai- Tìm hiểu giá trị “ Cư Trần lạc đạo phú” của Trần Nhân Tông
4. Thích Thanh Kiểm dịch- Khóa Hư Lục Trần thái Tông Thành hội PGTP.HCM
1992
5. Thích Phước Đạt- Phương thức niệm Phật đời Trần
( />6. Hương lam - Tổng Lược Về Thiền Phái Trúc Lâm
( />7. Thích Nhất Hạnh – Trái tim của Trúc Lâm đại sĩ NXBPĐ 2009
8. Thích Phước Sơn dịch, chú- Tam tổ thực lục- Viện Nghiên cứu PHVN 1995
9. Thích Thanh Từ- Tam tổ Trúc Lâm giảng giải NXBTG 1997
10. Nguyễn Hùng Hậu- Lược khảo tư tưởng Thiền phái Trúc Lâm
( />


×