Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Hoàn thiện pháp luật về dịch vụ môi giới bất động sản trên sàn giao dịch kinh doanh bất động sản ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (770.86 KB, 114 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN TH HIN

HOàN THIệN PHáP LUậT Về DịCH Vụ MÔI GIớI
BấT ĐộNG SảN TRÊN SàN GIAO DịCH KINH DOANH
BấT ĐộNG SảN ở VIệT NAM

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2015


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN TH HIN

HOàN THIệN PHáP LUậT Về DịCH Vụ MÔI GIớI
BấT ĐộNG SảN TRÊN SàN GIAO DịCH KINH DOANH
BấT ĐộNG SảN ở VIệT NAM
Chuyờn ngnh: Lut Kinh t
Mó s: 60 38 01 07

LUN VN THC S LUT HC

Cỏn b hng dn khoa hc: TS. DON HNG NHUNG

H NI - 2015



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Hiển


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ DỊCH VỤ MÔI GIỚI BẤT ĐỘNG
SẢN VÀ PHÁP LUẬT VỀ DỊCH VỤ MÔI GIỚI TRÊN
SÀN GIAO DỊCH KINH DOANH BẤT ĐỘNG SẢN ....................... 6
1.1.


Tổng quan về dịch vụ môi giới bất động sản trên sàn giao
dịch kinh doanh bất động sản ........................................................ 6

1.1.1. Mục đích, ý nghĩa và đặc điểm của dịch vụ môi giới trên sàn
giao dịch kinh doanh bất động sản ................................................. 19
1.1.2. Kinh nghiệm về môi giới bất động sản của một số nước trên
thế giới và bài học rút ra cho Việt Nam .......................................... 25
1.2.

Khái quát chung về pháp luật điều chỉnh dịch vụ môi giới
bất động sản trên sàn giao dịch ................................................... 31

1.2.1. Sự cần thiết điều chỉnh của pháp luật về dịch vụ môi giới bất
động sản trên sàn giao dịch ............................................................ 31
1.2.2. Nội dung pháp luật điều chỉnh dịch vụ môi giới trên sàn giao
dịch bất động sản............................................................................ 34
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................... 36
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ DỊCH VỤ MÔI
GIỚI BẤT ĐỘNG SẢN TRÊN SÀN GIAO DỊCH KINH
DOANH BẤT ĐỘNG SẢN Ở VIỆT NAM ................................. 38
2.1.

Thực trạng pháp luật về dịch vụ môi giới bất động sản
trên sàn giao dịch kinh doanh bất động sản ............................... 38


2.1.1. Chủ thể tham gia môi giới trên sàn giao dịch bất động sản ............. 38
2.1.2. Nguyên tắc và điều kiện hoạt động của dịch vụ môi giới trên
sàn giao dịch bất động sản.............................................................. 42
2.1.3. Nội dung hoạt động của dịch vụ môi giới trên sàn giao dịch

bất động sản ................................................................................... 44
2.1.4. Quy trình và kỹ năng môi giới bất động sản trên sàn giao dịch
bất động sản ................................................................................... 46
2.1.5. Thù lao và hoa hồng môi giới bất động sản trên sàn giao dịch
bất động sản ................................................................................... 54
2.1.6. Hợp đồng môi giới bất động sản..................................................... 55
2.1.7. Quản lý nhà nước đối với dịch vụ môi giới bất động sản trên
sàn giao dịch bất động sản.............................................................. 59
2.2.

Thực tiễn thi hành pháp luật về dịch vụ môi giới trên sàn
giao dịch bất động sản ở Việt Nam .............................................. 60

2.2.1. Đánh giá tổng quan về dịch vụ môi giới trên sàn giao dịch bất
động sản ở Việt Nam...................................................................... 60
2.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập ....................................... 69
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................... 70
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ DỊCH VỤ MÔI GIỚI BẤT
ĐỘNG SẢN TRÊN SÀN GIAO DỊCH KINH DOANH
BẤT ĐỘNG SẢN Ở VIỆT NAM ................................................. 72
3.1.

Sự cần thiết và phương hướng hoàn thiện pháp luật về dịch
vụ môi giới bất động sản trên sàn giao dịch ở Việt Nam............... 72

3.2.

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về
dịch vụ môi giới trên sàn giao dịch bất động sản ở Việt Nam ....... 77


3.2.1. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về dịch vụ
môi giới trên sàn giao dịch bất động sản......................................... 77


3.2.2. Các giải pháp bổ trợ dịch vụ môi giới trên sàn giao dịch bất
động sản ......................................................................................... 83
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ........................................................................... 90
KẾT LUẬN ............................................................................................... 92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 94
PHỤ LỤC................................................................................................ 100


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ASEAN:

Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á

LKDBĐS:

Luật Kinh doanh bất động sản

SGDBĐS:

Sàn giao dịch bất động sản

WTO:

Tổ chức Thương mại thế giới



MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Với sự phát triển không ngừng của thị trường bất động sản, hoạt động
môi giới ra đời như một tất yếu khách quan. Việc cho phép tổ chức, cá nhân
môi giới bất động sản với mô hình phù hợp, chiến lược phát triển hợp lý sẽ
thúc đẩy thị trường, kích thích nhu cầu, mở rộng kênh phân phối, gián tiếp
hình thành và làm tăng giá trị của bất động sản. Qua đó tạo điều kiện thuận lợi
cho các nhà đầu tư bất động sản rút ngắn thời gian thu hồi vốn, tái đầu tư, bảo
đảm hiệu quả kinh tế, tăng uy tín và tính hấp dẫn cho nhà đầu tư, người tiêu
dùng có cơ hội được phục vụ tốt hơn. Với ý nghĩa đó, dịch vụ môi giới bất
động sản ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong cơ cấu các ngành dịch vụ ở
nước ta. Hiện nay, đội ngũ môi giới bất động sản ở nước ta được chia thành
nhiều cấp độ, quy mô nhất là các Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu
hạn với phương thức hoạt động khá bài bản, tiếp đó là các văn phòng nhà đất
và hình thức hoạt động của các cá nhân riêng lẻ. Hình thức kinh doanh dịch
vụ môi giới bất động sản hiệu quả hơn cả là các tổ chức kinh doanh bất động
sản thành lập dưới hình thức sàn giao dịch. Đây là trung tâm giúp các nhà đầu
tư, các nhà kinh doanh bất động sản tiếp cận được những nguồn thông tin
chính xác về hàng hóa bất động sản, được cung cấp đầy đủ các dịch vụ một
cách nhanh gọn, chuyên nghiệp. Có thể nói, sự ra đời của các SGDBĐS đã
đưa các loại hình dịch vụ bất động sản, đặc biệt là môi giới bất động sản vào
quản lý theo hệ thống, góp phần thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển
lành mạnh và đúng theo định hướng của Đảng và Nhà nước.
Tuy nhiên hoạt động môi giới bất động sản ở nước ta thời gian qua
cũng bộc lộ nhiều bất cập, các quy định về môi giới bất động sản được ghi
nhận kể từ khi LKDBĐS năm 2006 ra đời, việc áp dụng các quy định về môi


1


giới bất động sản cũng còn nhiều trở ngại, hiện tại pháp luật chưa quy định
riêng và chi tiết đối với dịch vụ môi giới trên SGDBĐS. Để khắc phục những
trở ngại này cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về môi giới bất động sản nói
chung, các quy định pháp luật về môi giới trên SGDBĐS nói riêng. Để đưa ra
các giải pháp hữu hiệu cần phải đánh giá khách quan, đầy đủ về các quy định
pháp luật hiện hành, cũng như thực trạng áp dụng các quy định này để có thể
tìm ra những tồn tại, khuyết điểm. Chính vì vậy, tôi chọn đề tài “Hoàn thiện
pháp luật về dịch vụ môi giới bất động sản trên sàn giao dịch kinh doanh
bất động sản ở Việt Nam” để nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu
Việc nghiên cứu và xây dựng thị trường bất động sản với các thể chế
của nó đối với các nước có nền kinh tế thị trường phát triển không còn là vấn
đề mới. Tuy nhiên đối với thị trường bất động sản ở Việt Nam, công việc này
mới chỉ được quan tâm nghiên cứu chủ yếu ở mức độ lý luận. Hơn thế nữa,
các công trình nghiên cứu tổng quát, chưa đi vào từng lĩnh vực cụ thể, chi tiết.
Điều này được thể hiện trong một số công trình nghiên cứu như:
- Sách chuyên khảo “Thị trường bất động sản - Lý luận và thực tiễn ở
Việt Nam” của PGS.TS Thái Bá Cẩn và ThS. Trần Nguyên Nam do NXB Tài
chính xuất bản năm 2003.
- Sách chuyên khảo “Pháp luật về kinh doanh bất động sản” của Trần
Quang Huy, Nguyễn Quang Tuyến do NXB Tư pháp xuất bản năm 2009.
- Đề tài QL08.01 “Hoàn thiện pháp luật về môi giới kinh doanh bất
động sản ở Việt Nam” - Chủ nhiệm đề tài TS. Doãn Hồng Nhung, nghiệm thu
T11/2009 tại Khoa Luật - ĐHQG Hà Nội.
- Sách chuyên khảo “Pháp luật về tạo dựng đẳng cấp và thương hiệu
môi giới bất động sản ở Việt Nam” của TS Doãn Hồng Nhung, do NXB Lao
Động xuất bản năm 2010.


2


- Sách chuyên khảo “Pháp luật về kinh doanh dịch vụ bất động sản”
của PGS.TS Nguyễn Quang Tuyến do NXB Tư pháp xuất bản năm 2012.
Nhiều vấn đề liên quan đến tổ chức và các hoạt động của sàn giao dịch
như môi giới, định giá, quảng cáo bất động sản và vai trò của nó đối với sự
phát triển của thị trường bất động sản, đặc biệt dưới góc độ pháp lý đã được
đề cập, tuy nhiên chưa toàn diện, đòi hỏi phải được tiếp tục nghiên cứu, hoàn
thiện. Đặc biệt, các tài liệu trên được nghiên cứu khi thị trường bất động sản
đang trong thời kỳ phát triển “đỉnh điểm”, khác với thời điểm hiện tại, thị
trường bất động sản rơi vào tình trạng “đóng băng”, Nhà nước đã và đang
phải nghiên cứu đưa ra các giải pháp để khắc phục những khó khăn của nền
kinh tế nói chung và của thị trường bất động sản nói riêng, nghiên cứu, sửa
đổi LKDBĐS phù hợp với thực tiễn và xu hướng thế giới.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài này là nhằm làm sáng tỏ những
vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn về dịch vụ môi giới bất động sản trên
SGDBĐS và vai trò của nó với sự phát triển kinh tế - xã hội, góp phần hoàn
thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về dịch vụ môi giới bất
động sản.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trong phạm vi luận văn, tác giả tập trung làm rõ một số nội dung sau:
Nghiên cứu các quan hệ dịch vụ môi giới bất động sản trên sàn giao dịch
kinh doanh bất động sản ở Việt Nam; phân tích các quy định pháp luật của Việt
Nam có liên quan đến dịch vụ môi giới bất động sản và môi giới bất động sản
trên SGDBĐS. Thông qua đó, tác giả đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm
góp phần hoàn thiện các quy định pháp luật về dịch vụ môi giới bất động sản
trên sàn giao dịch.


3


5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu được sử dụng
Luận văn sử dụng phép biện chứng duy vật của triết học Mác - Lênin
làm cơ sở phương pháp luận cho việc nghiên cứu. Ngoài ra, trong quá trình
nghiên cứu, tác giả sử dụng một số phương pháp sau:
- Phương pháp thu thập thông tin: thu thập các văn bản pháp luật và các
tài liệu liên quan đến dịch vụ môi giới bất động sản cũng như dịch vụ môi
giới bất động sản trên SGDBĐS; thu thập thông tin về thực tiễn hoạt động
môi giới bất động sản trên SGDBĐS.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Trên cơ sở những thông tin thu
thập được, tác giả sẽ tổng hợp để nghiên cứu, phân tích và đưa ra những nhận
xét, đánh giá về các quy định của pháp luật, thực trạng hoạt động môi giới.
Theo đó, phân tích, đánh giá các quy định pháp luật về dịch vụ môi giới bất
động sản trên SGDBĐS theo LKDBĐS 2006 và các văn bản pháp luật có liên
quan, đồng thời phân tích một số điểm mới trong LKDBĐS năm 2014 (sẽ có
hiệu lực vào ngày 01/7/2015).
6. Những đóng góp mới của Luận văn
Qua nghiên cứu lý luận và thực tiễn, tác giả đã hệ thống hóa các quy
định của pháp luật về dịch vụ môi giới bất động sản trên sàn giao dịch kinh
doanh bất động sản ở Việt Nam; đánh giá về thực tiễn áp dụng các quy định
về môi giới bất động sản ở Việt Nam.
Tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khoá 13, LKDBĐS năm 2014 đã được thông
qua với 6 Chương, 82 Điều và sẽ có hiệu lực vào ngày 01/7/2015, đã cụ thể
hoá đường lối, quan điểm của Đảng và Hiến pháp năm 2013 về phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước
trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản, đồng thời khắc phục những tồn tại,
hạn chế, bất cập của thị trường bất động sản, nhằm đảm bảo cho thị trường


4


bất động sản phát triển theo đúng định hướng, ổn định và bền vững, góp phần
tích cực vào phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Vì vậy, trong luận văn
của mình, bên cạnh việc đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật về môi giới bất động sản trên SGDBĐS, tác giả tiếp tục nghiên cứu,
đề xuất các biện pháp để triển khai các quy định của LKDBĐS năm 2014 liên
quan đến môi giới bất động sản trên SGDBĐS.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được chia làm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về dịch vụ môi giới bất động sản trên sàn
giao dịch kinh doanh bất động sản.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về dịch vụ môi giới bất động sản trên
sàn giao dịch kinh doanh bất động sản ở Việt Nam.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về
dịch vụ môi giới bất động sản trên sàn giao dịch kinh
doanh bất động sản ở Việt Nam.

5


Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ DỊCH VỤ MÔI GIỚI BẤT ĐỘNG SẢN VÀ
PHÁP LUẬT VỀ DỊCH VỤ MÔI GIỚI TRÊN SÀN GIAO DỊCH
KINH DOANH BẤT ĐỘNG SẢN
1.1. Tổng quan về dịch vụ môi giới bất động sản trên sàn giao dịch
kinh doanh bất động sản

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, quá trình trao đổi
hàng hóa diễn ra trên quy mô ngày càng lớn, chủng loại hàng hóa ngày càng
phong phú và phương thức trao đổi hàng hóa theo đó ngày một dạng hơn. Thị
trường càng phát triển, sản phẩm và dịch vụ ngày càng tăng về số lượng, đa
dạng và phong phú về thể loại. Do đó, đòi hỏi việc cung cấp cho người tham
gia giao dịch những thông tin cần thiết, những lời khuyên mang tính thời điểm
giúp cho họ thực hiện các giao dịch một cách thuận lợi nhất. Chính vì vậy cần
có khâu trung gian giúp thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hóa, rút ngắn thời
gian tìm kiếm, gặp gỡ giữa những người có nhu cầu giao dịch với nhau, nghề
môi giới tồn tại từ rất lâu trong nền kinh tế hàng hóa.
Hoạt động môi giới không phải ngẫu nhiên xuất hiện mà phải có một số
yếu tố nhất định, được coi là nguyên nhân làm xuất hiện của nghề này, đó là
phải có nhu cầu về giao dịch hàng hóa (có người cần mua, người cần bán;
người cần cho thuê, người cần thuê...), đồng thời các bên tham gia giao dịch
về hàng hóa không thể tự tìm được đối tác của mình hoặc không tự giải quyết
được công việc, nhu cầu của mình hay giải quyết không hiệu quả thì cần phải
tìm đến người thứ 3 (đó là nhà môi giới) có đủ năng lực, điều kiện để giúp
giải quyết những công việc và đáp ứng nhu cầu của các bên liên quan trong
các giao dịch hàng hóa.
Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học thì môi giới được hiểu
là “Làm trung gian, giúp hai bên tiếp xúc, trao đổi việc gì”.
6


Theo Điều 150 Luật Thương mại 2005, môi giới thương mại là việc
làm trung gian cho các bên mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thương mại
trong việc đàm phán, kí kết hợp đồng mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ
thương mại để hưởng thù lao theo hợp đồng môi giới.
Đối với thị trường bất động sản thì khi thị trường phát triển đến một
trình độ nhất định thì hoạt động môi giới bất động sản ra đời. Sự ra đời của

hoạt động môi giới bất động sản là một tất yếu khách quan, xuất phát từ nhu
cầu nội tại của các giao dịch bất động sản và từ chính đặc điểm của bất động
sản, của thị trường bất động sản. Đối với các nền kinh tế có trình độ phát triển
cao, môi giới bất động sản được coi là một hoạt động quan trọng của thị
trường bất động sản. Hoạt động môi giới thực hiện chức năng là cầu nối giữa
người mua và người bán, qua đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc mua bán,
cung cấp thông tin và tư vấn cho khách hàng, cung cấp các sản phẩm là dịch
vụ giúp khách hàng thực hiện các giao dịch theo yêu cầu và lợi ích của chính
người môi giới.
Ở Việt Nam, dịch vụ môi giới bất động sản được hợp pháp hoá kể từ
khi LKDBĐS năm 2006 ra đời, tuy không đưa ra khái niệm về môi giới bất
động sản nhưng có thể hiểu môi giới bất động sản là việc một hoặc nhiều chủ
thể đứng ra làm trung gian cho hai hoặc nhiều chủ thể khác trong các quan hệ,
giao dịch về hàng hóa bất động sản. Đến LKDBĐS năm 2014, sẽ có hiệu lực
vào ngày 01/7/2015, các nhà làm luật đã đưa khái niệm môi giới bất động sản
quy định tại khoản 2 Điều 3 “Môi giới bất động sản là việc làm trung gian
cho các bên trong việc mua bán, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, cho
thuê mua bất động sản”.
Hoạt động môi giới bất động sản ngày càng phát triển, ban đầu xuất
hiện các cá nhân nhỏ lẻ, không chuyên nghiệp, hoạt động tự do dựa trên
những kinh nghiệm cá nhân, hoạt động với mục đích giúp các chủ thể mua

7


bán, trao đổi, cho thuê, thuê bất động sản và được hưởng lời từ đó. Sau đó,
những cá nhân này họp lại với nhau và thành lập các trung tâm môi giới bất
động sản. Thị trường bất động sản phát triển đòi hỏi việc cung cấp cho người
tham gia giao dịch bất động sản những thông tin cần thiết, những lời khuyên
mang tính thời điểm giúp cho họ thực hiện các giao dịch một cách thuận lợi

nhất. Một khâu trung gian quy mô, chuyên nghiệp và đa dạng hơn sẽ thúc đẩy
quá trình lưu thông hàng hóa, rút ngắn thời gian tìm kiếm để gặp gỡ giữa
những người có nhu cầu giao dịch với nhau. Bên cạnh đó, khi các quan hệ
giao dịch bất động sản vượt ra khỏi phạm vi của một vùng, một khu vực dân
cư hay là phạm vi một nước với sự tham gia của nhiều chủ thể trong thị
trường bất động sản đòi hỏi có một trung gian có đủ năng lực, điều kiện giúp
các giao dịch bất động sản thuận tiện, nhanh chóng. Trên cơ sở đó, sàn giao
dịch kinh doanh bất động sản ra đời.
SGDBĐS là khái niệm được biết đến ở nhiều quốc gia trên thế giới, đây
là cầu nối giữa Nhà nước, nhà đầu tư và người mua. Ở Việt Nam, khái niệm
SGDBĐS còn khá mới mẻ, trước đây, trên thị trường bất động sản, người ta
thường nhắc đến những chủ thể như: siêu thị địa ốc, văn phòng giao dịch, trung
tâm giao dịch, môi giới nhà đất ... Theo quy định của LKDBĐS năm 2006 thì
sàn giao dịch là một hoạt động kinh doanh dịch vụ bất động sản, nó độc lập với
các hoạt động kinh doanh khác. Doanh nghiệp có thể đăng ký kinh doanh từng
dịch vụ riêng biệt hoặc đăng ký kinh doanh SGDBĐS để thực hiện các dịch vụ
khác, như: môi giới bất động sản; định giá bất động sản; tư vấn bất động sản;
quảng cáo bất động sản; đấu giá bất động sản; quản lý bất động sản. Trong đó,
dịch vụ môi giới là nội dung cơ bản và quan trọng nhất trong các hoạt động của
SGDBĐS. Dịch vụ môi giới trên SGDBĐS ngoài việc tuân thủ các quy định
của pháp luật về môi giới thương mại nói chung, môi giới bất động sản nói
riêng mà còn tuân thủ các quy định về SGDBĐS.

8


Để có cái nhìn tổng quan về vị trí, vai trò của môi giới trên sàn giao
dịch, tác giả đã nghiên cứu khái quát các vấn đề cơ bản của sàn giao dịch,
như: Khái niệm SGDBĐS; Vai trò của SGDBĐS; Điều kiện, nguyên tắc hoạt
động của SGDBĐS; Nội dung hoạt động của SGDBĐS.

Thứ nhất, khái niệm SGDBĐS được chính thức ghi nhận tại LKDBĐS
năm 2006. Theo khoản 4 Điều 5 thì sàn giao dịch kinh doanh bất động sản
(SGDBĐS) được khái niệm như sau: "SGDBĐS là nơi diễn ra các giao dịch
bất động sản và cung cấp các dịch vụ cho kinh doanh bất động sản" [45].
SGDBĐS là một mô hình hoạt động tổng hợp, các chủ thể tham gia giao dịch
trên sàn sẽ được cung cấp đầy đủ các dịch vụ một cách nhanh gọn, chuyên
nghiệp và khép kín. Đặc biệt là bảo đảm tính minh bạch, chuẩn xác, rất hữu
hiệu cho công việc quản lý và điều tiết của nhà nước.
Trong quá trình xây dựng dự thảo LKDBĐS sửa đổi, có nhiều ý kiến
cho rằng việc quy định cho phép SGDBĐS được làm các dịch vụ về môi giới,
thẩm định giá, quảng cáo, đấu giá, quản lý bất động sản là không đúng chức
năng của sàn. Vì vậy, khoản 6 Điều 3 LKDBĐS năm 2014 quy định: “Sàn
giao dịch là nơi diễn ra các giao dịch về mua bán, chuyển nhượng, cho thuê,
cho thuê lại, cho thuê mua bất động sản” [48] theo hướng sàn chỉ là nơi diễn
ra các giao dịch về mua bán, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê mua bất
động sản, không làm các dịch vụ bất động sản khác.
Tuy nhiên, theo tác giả khái niệm này chưa bao quát được và chưa
thống nhất với các quy định khác trong LKDBĐS năm 2014, đặc biệt là quy
định tại Điều 70 Luật này. Tại Điều 70, ngoài nội dung hoạt động là nơi diễn
ra các giao dịch mua bán, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, cho thuê
mua bất động sản thì sàn giao dịch còn có thể là bên thứ ba đứng ra tổ chức
việc bán, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê mua bất động sản; giới thiệu,
niêm yết, cung cấp công khai thông tin về bất động sản cho các bên tham gia

9


có nhu cầu giao dịch; kiểm tra giấy tờ về bất động sản bảo đảm đủ điều kiện
được giao dịch; làm trung gian cho các bên trao đổi, đàm phán và ký kết hợp
đồng mua bán, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, cho thuê mua bất động

sản. Như vậy có thể thấy pháp luật vẫn quy định cho SGDBĐS được tiến
hành một số dịch vụ bất động sản, đối chiếu quy định này với khoản 2 Điều 3
LKDBĐS năm 2014 thì dịch vụ môi giới bất động sản tiếp tục là một trong
những nội dung hoạt động quan trọng và chủ yếu của SGDBĐS.
Thứ hai, vai trò của SGDBĐS. SGDBĐS có thể được hiểu như một
“chợ chuyên biệt” để giao dịch về bất động sản, không phân biệt đối tượng
tham gia là tổ chức hay cá nhân. Xét tổng thể thì việc đưa bất động sản giao
dịch qua sàn sẽ giúp Nhà nước quản lý được các giao dịch bất động sản, từ đó
có chính sách kịp thời để điều tiết thị trường, bảo đảm hoạt động kinh doanh
bất động sản theo đúng định hướng và đúng yêu cầu đặt ra [57, tr.150].
Thông qua SGDBĐS, Nhà nước sẽ kiểm soát được hoạt động bán, cho
thuê hàng hoá bất động sản của doanh nghiệp kinh doanh bất động sản. Theo
định kỳ 6 tháng, hàng năm hoặc đột xuất, các doanh nghiệp bất động sản phải
phải báo cáo kết quả hoạt động của mình cho cơ quan có thẩm quyền, qua đó
giúp Nhà nước biết được số lượng hàng hoá được đưa vào lưu thông, giá mua
bán, nhu cầu giao dịch, làm cơ sở để Nhà nước đưa ra các giải pháp nhằm
bình ổn thị trường, xử lý những doanh nghiệp có vi phạm.
SGDBĐS sẽ từng bước hạn chế được các giao dịch không chính thức,
giao dịch ngầm, làm tăng các giao dịch lành mạnh, hạn chế tối đa thất thu
thuế từ việc chuyển nhượng bất động sản. Thông qua báo cáo hoạt động của
các sàn giao dịch, Nhà nước sẽ biết được các hạn chế, sự không phù hợp của
các chính sách về bất động sản, các quy định về giao dịch bất động sản để có
sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn, tạo điều kiện để các chủ thể gặp
thuận lợi hơn trong kinh doanh bất động sản.

10


Với các thủ tục chặt chẽ, yêu cầu khắt khe về giấy tờ, điều kiện bất
động sản tham gia thị trường sẽ giảm tần suất bất động sản tham gia giao dịch

bất động sản diễn ra trên SGDBĐS, cũng làm giảm đáng kể số lượng người
tham gia đầu tư với mục đích kiếm lợi làm khan hiếm thị trường, tạo cơn sốt,
từ đó tạo sự bình ổn về giá bất động sản.
SGDBĐS giúp minh bạch hóa thị trường bất động sản, thúc đẩy thị
trường bất động sản phát triển có hiệu quả, chính quy, lành mạnh. SGDBĐS
còn là nơi kết nối các nhà đầu tư bất động sản. Các nhà đầu tư gặp nhau trên
sàn giao dịch sẽ cùng trao đổi, tham khảo thông tin và quyết định đầu tư đối
với những dự án khả thi. Sàn giao dịch đã trở thành yếu tố thiết yếu để hỗ trợ
và định hướng cho nhà đầu tư trong phân tích, đánh giá, nhận định cơ hội khi
tham gia thị trường bất động sản.
LKDBĐS năm 2006 quy định bắt buộc tổ chức, cá nhân kinh doanh bất
động sản khi bán, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê mua bất động sản phải
thông qua SGDBĐS và khuyến khích các tổ chức, cá nhân không kinh doanh
bất động sản thực hiện giao dịch bất động sản thông qua SGDBĐS để đảm
bảo công khai, minh bạch và quyền lợi của các bên (Điều 59). Tuy nhiên
LKDBĐS năm 2014 không quy định bắt buộc giao dịch qua sàn bất động sản,
với các lý do như: Việc giao dịch bất động sản thông qua sàn đã làm tăng
thêm tổ chức kinh doanh dịch vụ trung gian, tăng thêm thủ tục, chi phí và góp
phần đẩy giá, tạo giao dịch ảo; qua nhiều năm tồn tại, ngày càng nhiều sàn
hoạt động thiếu chuyên nghiệp, mang tính hình thức, thậm chí trở thành công
cụ hợp thức hoá vi phạm cho các chủ đầu tư, không ít sàn giao dịch bị xử lý vi
phạm, buộc đóng cửa khiến khách hàng chịu thiệt hại; điều kiện thành lập sàn
đơn giản, phần lớn đội ngũ nhân viên SGDBĐS chỉ qua đào tạo ngắn hạn là
đã có chứng chỉ. Việc bãi bỏ quy định này sẽ phù hợp với thực tế thị trường
“trầm lắng” như hiện nay, khắc phục được một số bất cập về vấn đề làm tăng
thêm thủ tục, thêm chi phí cho người mua, thuê bất động sản.

11



Trong quá trình xây dựng LKDBĐS năm 2014, cũng có ý kiến cho rằng
thay vì bỏ quy định giao dịch bắt buộc qua sàn nên chuyên nghiệp hoá hoạt
động của chủ đầu tư xây dựng, phát triển dự án; nâng cao chất lượng môi giới
trên SGDBĐS, làm cầu nối người dân đến với sản phẩm và cơ quan quản lý
cần có biên pháp siết chặt quản lý các sàn. Bên cạnh đó, thời gian gần đây
người dân đã tin tưởng và quen với việc đến các sàn giao dịch để tìm hiểu
thông tin nhà đất, đăng ký mua bán, giao dịch và SGDBĐS cũng làm tốt vai
trò của mình trong việc giúp Nhà nước tăng cường sự minh bạch, kiểm soát
chặt chẽ thị trường.
LKDBĐS năm 2014 không bắt buộc nhưng cũng không cấm, việc
giao dịch qua sàn hay không tuỳ vào khách hàng. Nếu chủ đầu tư thấy họ
không đủ khả năng hoặc tự tổ chức bán hàng sẽ kém chuyên nghiệp, hạn chế
tiếp cận khách hàng tiềm năng thì họ sẽ tìm đến các SGDBĐS chuyên
nghiệp để gửi bán sản phẩm. Theo quan điểm của tác giả thì SGDBĐS trong
thời gian tới vẫn tiếp tục là kênh trung gian quan trọng, hữu ích của thị
trường bất động sản.
Thứ ba, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của SGDBĐS được quy định
tại Điều 56 LKDBĐS năm 2006: Một là, tổ chức, cá nhân kinh doanh bất
động sản, tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ bất động sản được thành lập
SGDBĐS hoặc thuê SGDBĐS của tổ chức, cá nhân khác để phục vụ cho hoạt
động kinh doanh bất động sản. Hai là, SGDBĐS phải là pháp nhân. Trường
hợp doanh nghiệp, hợp tác xã kinh doanh bất động sản thành lập SGDBĐS thì
sàn giao dịch đó phải có tư cách pháp nhân hoặc sử dụng tư cách pháp nhân
của doanh nghiệp, hợp tác xã kinh doanh bất động sản để hoạt động. Ba là,
Hoạt động của SGDBĐS phải công khai, minh bạch và tuân thủ pháp luật.
Bốn là, SGDBĐS, doanh nghiệp, hợp tác xã kinh doanh bất động sản thành
lập SGDBĐS phải chịu trách nhiệm về hoạt động của SGDBĐS. Năm là,

12



SGDBĐS phải có tên, địa chỉ, biển hiệu và phải thông báo về việc thành lập
trên phương tiện thông tin đại chúng; trước khi hoạt động phải thông báo với
cơ quan nhà nước có thẩm quyền tại địa phương.
LKDBĐS năm 2014 không quy định riêng nguyên tắc tổ chức và hoạt
động của SGDBĐS, theo đó SGDBĐS hoạt động trên cơ sở tuân thủ nguyên
tắc kinh doanh bất động sản quy định tại Điều 4, như sau: Bình đẳng trước
pháp luật; Tự do thoả thuận trên cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp
của các bên thông qua hợp đồng, không trái quy định của pháp luật; Bất động
sản đưa vào kinh doanh phải có đủ điều kiện theo quy định của Luật này;
Kinh doanh bất động sản phải trung thực, công khai, minh bạch. Bên cạnh đó,
SGDBĐS phải tuân thủ quy định tại Điều 69 LKDBĐS năm 2014 về điều
kiện kinh doanh, bao gồm: Tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ SGDBĐS
phải thành lập doanh nghiệp; Doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ SGDBĐS
phải có ít nhất 02 người có chứng chỉ hành nghề môi giới bất động sản; người
quản lý, điều hành SGDBĐS phải có chứng chỉ hành nghề môi giới bất động
sản; SGDBĐS phải có quy chế hoạt động, tên, địa chỉ, cơ sở vật chất, kỹ thuật
đáp ứng yêu cầu hoạt động.
Về cơ bản, quy định về nguyên tắc, điều kiện tổ chức, hoạt đông
SGDBĐS vẫn giữ nội dung cũ, tuy nhiên các nhà làm luật đã cơ cấu lại dễ
hiểu và khoa học hơn, sửa đổi, bổ sung một số điểm mới so với LKDBĐS
năm 2006. Theo LKDBĐS năm 2006, tổ chức, cá nhân kinh doanh bất động
sản, tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ bất động sản được thành lập
SGDBĐS hoặc thuê SGDBĐS của tổ chức, cá nhân khác để phục vụ cho hoạt
động kinh doanh bất động sản của mình. SGDBĐS phải là pháp nhân, có thể
là pháp nhân độc lập với doanh nghiệp thành lập ra sàn cũng có thể phụ thuộc
(lấy tư cách pháp nhân của doanh nghiệp để hoạt động). Tuy nhiên, cơ quan
chức năng không hướng dẫn cụ thể về vấn đề này, theo Bộ Luật Dân sự năm

13



2005 thì một pháp nhân phải vừa có trụ sở, vừa có tài sản, vừa có cơ cấu tổ
chức chặt chẽ và được quyền nhân danh pháp nhân để hoạt động nếu thiếu
một trong các điều kiện thì không gọi là pháp nhân, còn theo Luật Doanh
nghiệp thì pháp nhân phải có đủ các điều kiện trên và có con dấu để nhân
danh pháp nhân. SGDBĐS gọi là pháp nhân, có đủ các điều kiện nhưng
không được cơ quan có thẩm quyền cấp con dấu để nhân danh hoạt động bởi
sàn giao dịch không nằm trong hệ thống các doanh nghiệp theo Luật Doanh
nghiệp mà sàn là do doanh nghiệp thành lập ra, được coi là “nơi, địa điểm” để
giao dịch hàng hoá [57, tr.157]. Khắc phục những điểm mâu thuẫn trong quy
định SGDBĐS là pháp nhân, Điều 69 LKDBĐS năm 2014 bỏ quy định
SGDBĐS là pháp nhân, chỉ quy định cá nhân, tổ chức kinh doanh dịch vụ
SGDBĐS thì phải thành lập doanh nghiệp. Tư cách pháp nhân của sàn giao
dịch sẽ được thực hiện thống nhất với các quy định về pháp nhân trong Bộ
Luật Dân sự năm 2005, Luật Doanh nghiệp năm 2014.
Nếu LKDBĐS năm 2006 quy định ít nhất có 02 người có chứng chỉ
môi giới và nếu kinh doanh dịch vụ định giá phải có ít nhất 02 người có
chứng chỉ định giá thì LKDBĐS năm 2014, SGDBĐS chỉ là nơi diễn ra các
giao dịch về mua bán, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, cho thuê mua
bất động sản mà không tiến hành các hoạt động dịch vụ bất động sản khác nên
doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ SGDBĐS chỉ phải có ít nhất 02 người có
chứng chỉ hành nghề môi giới. Đồng thời, bổ sung quy định người quản lý,
điều hành SGDBĐS phải có chứng chỉ hành nghề môi giới bất động sản.
Bên cạnh đó, tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ SGDBĐS phải thành
lập doanh nghiệp và theo quy định tại khoản 1 Điều 10 về Điều kiện của tổ
chức, cá nhân kinh doanh bất động sản, doanh nghiệp kinh doanh bất động
sản phải có vốn pháp định không được thấp hơn 20 tỷ đồng, đối chiếu với quy
định này thì doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ SGDBĐS phải có vốn pháp


14


định không dưới 20 tỷ đồng. Ngoài ra, SGDBĐS phải có quy chế hoạt động,
tên, địa chỉ, cơ sở vật chất, kỹ thuật đáp ứng yêu cầu hoạt động.
Thứ tư, nội dung hoạt động của SGDBĐS. Thị trường bất động sản là
thị trường phát triển nhưng lại tiềm ẩn nhiều biến động. Việc quản lý thị
trường bất động sản cần sự hỗ trợ của các SGDBĐS. SGDBĐS là chủ thể
cung cấp các dịch vụ bất động sản để phục vụ cho thị trường bất động sản.
Hiện nay, các nội dung của sàn giao dịch được ghi nhận tại Điều 58 Luật
Kinh doanh bất động sản năm 2006 bao gồm: Giao dịch, mua bán, chuyển
nhượng, thuê, thuê mua bất động sản; Môi giới bất động sản; Định giá bất
động sản; Tư vấn bất động sản; Quảng cáo bất động sản; Đấu giá bất động
sản; Quản lý bất động sản.
Tuy nhiên, LKDBĐS năm 2014 đã được cơ cấu lại theo hướng SGDBĐS
là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại,
cho thuê mua bất động sản mà không thực hiện các dịch vụ môi giới khác.
Nếu LKDBĐS năm 2006 liệt kê các nội dung thuộc hoạt động kinh doanh
dịch vụ bất động sản thì LKDBĐS năm 2014 quy định theo hướng liệt kê các
hoạt động cụ thể mà SGDBĐS được tiến hành bao gồm: Một là, Thực hiện
việc giao dịch mua bán, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, cho thuê mua
bất động sản. Hai là, Tổ chức việc bán, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê
mua bất động sản; giới thiệu, niêm yết, cung cấp công khai thông tin về bất
động sản cho các bên tham gia có nhu cầu giao dịch; kiểm tra giấy tờ về bất
động sản bảo đảm đủ điều kiện được giao dịch; làm trung gian cho các bên
trao đổi, đàm phán và ký kết hợp đồng mua bán, chuyển nhượng, cho thuê,
cho thuê lại, cho thuê mua bất động sản.
Để phù hợp với pháp luật về giá và pháp luật về quảng cáo, cũng như
hạn chế tình trạng trùng lắp, chồng chéo giữa LKDBĐS năm 2014 và các văn
bản luật khác, LKDBĐS năm 2014 quy định kinh doanh dịch vụ bất động sản


15


không có dịch vụ đấu giá, định giá và quảng cáo bất động sản mà chỉ bao
gồm: Dịch vụ môi giới bất động sản, dịch vụ SGDBĐS, dịch vụ tư vấn bất
động sản và dịch vụ quản lý bất động sản. Nguyên nhân là do:
Dịch vụ định giá bất động sản đòi hỏi yêu cầu chuyên môn, khả năng
nhạy bén với thị trường nắm bắt được quy hoạch, nhu cầu, xu thế của thị
trường. Là hoạt động giúp chủ đầu tư, những người có tài sản xác định được
giá trị của bất động sản để phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau. Đây là
hoạt động kinh doanh đặc biệt, trước khi có LKDBĐS năm 2006 thì hoạt
động định giá bất động sản được gọi là hoạt động kinh doanh nói chung của
các công ty có chức năng định giá tài sản, nhưng không được coi là kinh
doanh dịch vụ bất động sản. Các doanh nghiệp tham gia lĩnh vực này phải
được Bộ Tài chính công nhận và các cá nhân hoạt động định giá phải có thẻ
thẩm định viên về giá do Bộ Tài chính cấp; việc định giá bất động sản cũng
được thực hiện giống như việc định giá tài sản nói chung. Để thực hiện dịch
vụ này thì các doanh nghiệp có thể đăng ký kinh doanh dịch vụ định giá bất
động sản độc lập hoặc thành lập SGDBĐS. Theo quy định, sàn giao dịch
muốn thực hiện dịch vụ định giá bất động sản thì phải có ít nhất 2 người có
chứng chỉ định giá do cơ quan có thẩm quyền cấp. Tuy nhiên, dịch vụ định
giá bất động sản thực chất là dịch vụ thẩm định giá quy định tại pháp luật về
giá mà đối tượng định giá là bất động sản, vì vậy nguyên tắc, các hoạt động
liên quan đến dịch vụ này phải được thực hiện theo quy định của pháp luật về
giá để đảm bảo tính chuyên ngành, thống nhất và đồng bộ với các văn bản
pháp luật có liên quan.
Đấu giá bất động sản được thực hiện giống như việc đấu giá các tài sản
khác, doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ đấu giá phải có người có Thẻ đấu giá
viên do Bộ Tư pháp cấp. Pháp luật hiện nay quy định, SGDBĐS được hoạt

động đấu giá và việc đấu giá phải tuân thủ quy định của pháp luật dân sự. Đấu

16


giá bất động sản được hiểu là việc bán, chuyển nhượng bất động sản công
khai để chọn người mua, người nhận chuyển nhượng bất động sản trả giá cao
nhất theo thủ tục đấu giá tài sản. Khác với các hình thức cung cấp dịch vụ bất
động sản khác, pháp luật không quy định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể
tham gia dịch vụ đấu giá, các bên tự thỏa thuận về hình thức, nội dung đấu
giá, quyền, nghĩa vụ và giá dịch vụ đấu giá trong hợp đồng dịch vụ. Tuy nhiên
do quy định của Nghị định 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 của Chính phủ về
bán đấu giá tài sản thì không có quy định đối với cá nhân kinh doanh dịch vụ
đấu giá bất động sản mà chỉ có tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp, nguyên
tắc, hoạt động về đấu giá bất động sản phải thực hiện theo pháp luật về giá.
Dịch vụ quảng cáo bất động sản được coi là dịch vụ kinh doanh bất
động sản, dịch vụ này có thể đăng ký độc lập hoặc do SGDBĐS thực
hiện [57, tr.168]. Theo đó, quảng cáo bất động sản được thực hiện thông qua
SGDBĐS, trên phương tiện thông tin đại chúng hoặc các phương tiện khác.
Sàn giao dịch chính là nơi các chủ thể kinh doanh quảng cáo sản phẩm bất
động sản của mình, là điểm đến cho cả khách hàng cung và cầu trên thị
trường bất động sản, là hình thức quảng bá riêng biệt các sản phẩm bất động
sản. Quảng cáo bất động sản được thực hiện dựa trên sự thỏa thuận của các
bên về hình thức, nội dung quảng cáo, quyền, nghĩa vụ của các bên và giá
dịch vụ quảng cáo. Tuy nhiên, quảng cáo bất động sản thực chất cũng là các
hoạt động dịch vụ quảng cáo được quy định tại pháp luật về quảng cáo.
Như vậy, theo quy định mới, sàn giao dịch không tiến hành các dịch vụ
đấu giá, định giá và quảng cáo bất động sản mà các dịch vụ này do các tổ
chức chuyên nghiệp tiến hành. Ngày 01/7/2015, LKDBĐS năm 2014 có hiệu
lực thì bên cạnh việc trực tiếp thực hiện giao dịch mua bán, chuyển nhượng,

cho thuê, cho thuê lại, cho thuê mua bất động sản, SGDBĐS tiếp tục thực
hiện nhiệm vụ là tổ chức trung gian đứng ra tổ chức việc mua bán, chuyển

17


nhượng; giới thiệu, niêm yết, cung cấp công khai thông tin về bất động sản
cho các bên tham gia có nhu cầu giao dịch; tiến hành kiểm tra giấy tờ về bất
động sản bảo đảm đủ điều kiện được giao dịch giúp các bên tham gia giao
dịch; làm trung gian cho các bên trao đổi, đàm phán và ký kết hợp đồng mua
bán, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, cho thuê mua bất động sản. Nói
cách khác, sàn được hoạt động môi giới trong các giao dịch bất động sản.
Trong khi LKDBĐS năm 2006 cho phép ngoài làm trung gian bán
hàng, cho thuê hàng hóa bất động sản, SGDBĐS cũng có quyền thực hiện môi
giới bất động sản như các trường hợp môi giới khác để hưởng thù lao. Tuy
nhiên, LKDBĐS năm 2014 không quy định điều này.
Với sự phát triển không ngừng của thị trường bất động sản, hoạt động
môi giới bất động sản ở Việt Nam đã hình thành như một tất yếu khách
quan. Tiềm năng và quy mô của thị trường bất động sản ở Việt Nam còn rất
lớn. Mục tiêu năm 2015, diện tích nhà ở bình quân toàn quốc đạt khoảng
22m2 sàn/ người, trong đó tại đô thị đạt 26m2 sàn/ người và tại nông thông
đạt 19m2 sàn/ người; phấn đấu đạt chỉ tiêu diện tích nhà ở tối thiểu 6m2
sàn/ người. Mục tiêu đến năm 2020, diện tích nhà ở bình quân đạt khoảng
25m2 sàn/ người, trong đó tại đô thị đạt 29m2 sàn/ người và tại nông thông
đạt 22m2 sàn/ người; phấn đấu đạt chỉ tiêu diện tích nhà ở tối thiểu 12,5m2
sàn/ người. Đến năm 2030, phấn đấu đạt chỉ tiêu diện tích nhà ở bình
quân toàn quốc khoảng 30m2 sàn/ người, diện tích nhà ở tối thiểu đạt
12m2 sàn/ người [15, Điều 1, Mục III]. Việc cho phép tổ chức, cá nhân môi
giới bất động sản với mô hình phù hợp, chiến lược phát triển hợp lý sẽ thúc
đẩy thị trường, kích thích nhu cầu, mở rộng kênh phân phối, gián tiếp hình

thành và làm tăng giá trị của bất động sản. Qua đó tạo điều kiện thuận lợi
cho các nhà đầu tư bất động sản rút ngắn thời gian thu hồi vốn, tái đầu tư,
bảo đảm hiệu quả kinh tế, tăng uy tín và tính hấp dẫn cho nhà đầu tư, người

18


×