Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Quyền nhân thân đối với hình ảnh cá nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.71 KB, 17 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Hai năm trước, dư luận Việt Nam từng xôn xao về đoạn quay cảnh quan hệ
tình dục giữa một nữ diễn viên tuối học trò và bạn trai, thì thời gian gần đây cư dân
mạng lại rộ lên những clip quay lén nữ sinh cùng bạn trai vào nhà nghỉ. Bên cạnh vấn
đề về đạo đức, lối sổng của thanh niên hiện nay thì câu hỏi về quyền của cá nhân đối
với hình ảnh trong pháp luật Việt Nam cũng được đặt ra. Điều này càng đặc biệt có ý
nghĩa quan trọng trong bối cảnh các thiết bị quay phim, chụp ảnh ngày càng hiện đại
hơn: có khả năng ghi hình tù' xa, ghi hình trong bóng đêm, được thiết kế nhỏ gọn để
dễ ngụy trang, cất giấu. Hơn nữa, với sự trợ giúp của Internet thì những hình ảnh,
những đoạn clip đó được phát tán với một tốc độ nhanh chóng mặt. Vì vậy mà việc
ngăn chặn và tìm ra thủ phạm trở nên khó khăn hơn bao giờ hết. Có thế nói chưa bao
giờ nguy cơ bị xâm phạm hình ảnh cá nhân lại cao như hiện nay, bất cứ ai cũng có thể
trở thành nạn nhân bị xâm phạm quyền về hình ảnh.
Về vấn đề quyền của cá nhân đối với hình ảnh của mình, BLDS 2005 đã có
những quy định khá cụ thể. Tuy vậy, có vẻ những quy định đấy chưa đủ “mạnh” đế
buộc mọi người tù' bỏ thói quen sử dụng không xin phép hình ảnh của người khác.
Vậy đâu mới là giải pháp cho vấn đề này? Trước thực tế trên, bản thân em quyết định
lựa chọn đề tài: “Quyền nhân thân đối với hình ảnh cá nhân” làm nội dung nghiên
cún trong bài viết này. Mong rằng, với những khía cạnh mà bản thân hướng tới trong
bài viết này sẽ góp phần vào việc đưa ra giải pháp nhằm ngăn chặn thói quen sử dụng
trái phép hình ảnh của cá nhân như hiện nay.


NỘI DUNG
1. Khái niệm hình ành của cá nhân
Về khái niệm hình ảnh của cá nhân, cho đến nay vẫn chưa có văn bản nào quy
định rõ. Tuy nhiên dựa vào quy định về quyền đối với hình ảnh của cá nhân tại Điều
31 BLDS và thực tiễn thì có thế hiếu: “Hình ảnh của cả nhân bao gồm mọi hình thức
tác phâm nghệ thuật ghi lại hình dáng của con người cụ thế như ảnh chụp, ảnh vẽ,
ảnh họa chép và suy luận rộng ra có thế cả bức tượng của cá nhân đó nữa”. Hay có
thế hiếu hình ảnh cá nhân là những hình ảnh mang tính chất riêng tư, hạn chế, ở


những nơi riêng tư. Điều này trái ngược với hình ảnh ở những nơi sinh hoạt công
cộng, nơi đông người... Chang hạn như hình ảnh của một người đứng trên một bãi
biến, nếu chỉ có riêng người đó thì có thế xem là ảnh riêng tư, ảnh cá nhân. Nhưng
nếu là một tấm ảnh chụp quang cảnh chung trên bãi biển, có nhiều người trong tấm
ảnh thì có thể xem là ảnh sinh hoạt tập thể nơi công cộng, không phải là ảnh cá nhân,
riêng tư nữa.
Đứng về mặt “quyền sở hữu trí tuệ” thì bức ảnh, tấm hình, pho tượng đều là
loại hình tác phẩm nghệ thuật, người sử dụng tác phẩm trước hết phải xin phép người
chủ bản quyền (chủ sở hữu quyền tác giả) và trả cho họ một khoản lợi ích vật chất,
đồng thời phải trả thù lao, nhuận bút cho người sáng tác (người chụp ảnh, sao chép,
hoạ hình...). Nhưng đứng về mặt “quyền nhân thân của con người” thì theo quy định
tại Điều 31 BLDS thì ai muốn sử dụng hình ảnh của cá nhân đều phải được sự đồng ý
của người có hình ảnh đó (người thật trong bức ảnh).
1. Quy đinh của pháp luât về quyền đối với hình ánh của cá nhân
1.1. Quyền đối với hình ảnh của cá nhân trong BLDS 2005
Quyền đối với hình ảnh cá nhân là một nội dung quan trọng trong quyền nhân
thân của con người. Quyền đối với hình ảnh của cá nhân được quy định tại Điều 31
BLDS 2005 đã thể hiện sự tiến bộ của BLDS Việt Nam bởi lẽ không phải ở nước nào
quyền của cá nhân đối với hình ảnh cũng được quy định cụ thế trong BLDS như vậy.
Ngay như BLDS tiêu biếu nhất thế giới hiện nay là BLDS của Pháp cũng không có


điều nào quy định về quyền đối với hình ảnh của cá nhân mà quyền này chỉ được
pháp luật Pháp ghi nhận thông qua án lệ. Điều 31 BLDS 2005 quy định: “7. Cá nhân
có quyền đối với hình ảnh của mình; 2. Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được
người đó đồng ỷ; trong trường họp người đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự,
chưa đủ mười lăm tuối thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc
người đại diện của người đó đồng ỷ, trừ trường họp vì lợi ích của Nhà nước, lợi ích
công cộng hoặc pháp luật có quy định khác; 3. Nghiêm cấm việc sử dụng hình ảnh
của người khác mà xâm phạm danh dự, nhân phâm, uy tín của người có hình ảnh”.

Trong quy định này, BLDS 2005 đã bố sung thêm một số nội dung mới so với BLDS
1995. Đó là việc quy định rõ việc sử dụng hình ảnh của người dưới 15 tuổi phải được
cha, mẹ hoặc người đại diện của người đó đồng ý, nhằm điều chỉnh hiện tượng một sổ
lịch in hình trẻ em mà không xin phép. Như vậy, theo quy định về quyền đối với hình
ảnh của cá nhân tại Điều 31 BLDS 2005 thì về nguyên tắc cá nhân đều có quyền đối
với hình ảnh của mình. Mỗi người đều có quyền cho hay không cho người khác sử
dụng hình ảnh của mình. Neu chưa được sự đồng ý mà sử dụng đã là vi phạm quyền
của cá nhân đối với hình ảnh. Truông hợp người trong ảnh đã chết hoặc mất trí,
không chủ động quyết định được hoặc đối với hình ảnh của trẻ dưới 15 tuổi thì phải
được sự đồng ý của cha, mẹ, vợ, chồng, con (đã thành niên) hoặc người đại diện của
họ đồng ý. Ngoài ra, tại khoản 3 Điều 31 BLDS 2005, pháp luật còn nghiêm cấm việc
sử dụng hình ảnh của cá nhân mà xâm phạm đến nhân phẩm, danh dự và uy tín của
người có ảnh.
Thông qua quy định về quyền đối với hình ảnh của cá nhân tại Điều 31 BLDS
2005 có thế thấy pháp luật dân sự Việt Nam đã thực sự thế hiện sự quan tâm, tôn
trọng bảo vệ của pháp luật đối với hình ảnh của cá nhân.
1.2. Quyền đăng hình của báo chí
Theo Điều 4 Luật báo chí thì công dân có quyền đuợc thông tin qua báo về
tình hình mọi mặt của đất nước và thế giới. Tương ứng với quyền đó, báo chí có
nhiệm vụ thông tin trung thực, làm diễn đàn ngôn luận của nhân dân. Trong tác
nghiệp, báo chí có quyền đăng hình đế chuyển tải thông tin tới người dân. Theo


khoản 6 Điều 4 Nghị định 133/HĐBT ngày 20/4/1992 của Hội đồng bộ trưởng, thì
việc đăng, phát ảnh người thật phải được chủ nhân hoặc người được giao quyền sử
dụng đồng ý “trừ ảnh thông tin các buổi họp công khai, sinh hoạt tập thế, các buôi
lao động, biếu diễn văn nghệ, thế dục thể thao”. Có thể thấy quy định này theo xu
hướng bảo vệ quyền hình ảnh rất chặt chẽ trong pháp luật Pháp: việc đăng phát hình
ảnh không cần sự đồng ý của chủ nhân chỉ giới hạn trong các hoạt động chính thức và
các sinh hoạt tập thể. Tuy nhiên, việc liệt kê đóng kín các trường hợp này sẽ dẫn đến

sự hạn chế đáng kế trong hoạt động của báo chí, mâu thuẫn với quyền được thông tin
của công dân về mọi mặt của đời sống xã hội. Ví dụ như vụ sập cầu cần Thơ thu hút
sự quan tâm của nhân dân cả nước nhưng nếu theo đúng quy định tại nghị định này
thì báo chí không thế đưa hình ảnh về các nạn nhân đế phản ánh mức độ nghiêm
trọng của vụ tai nạn khi chưa được người đó hay người thân của người đó đồng ý.
Nhận thức được vấn đề này, Nghị định 21/2002/NĐCP ngày 26/4/2002 của
Chính phủ đã điều chỉnh vấn đề này theo hướng tạo thuận lợi cho cơ quan báo chí.
Khoản 3 Điều 5 của nghị định này quy định, báo chí “không được đăng, phát ảnh của
cả nhân mà không có chú thích rõ ràng hoặc làm ảnh hưởng đến uy tín danh dự của
cá nhân đó”, trù' một số trường hợp cụ thể 1. Theo quy định này thì báo chí có quyền
đăng ảnh của cá nhân mà không cần xin phép nhưng phải có ghi chú thích hợp và
không làm ảnh hưởng tới danh dự, nhân phẩm, uy tín của người đó. Việc đăng, phát
hình ảnh không hạn chế trong các sự kiện chính thức và hoạt động tập thể mà có thể
bao gồm cả sinh hoạt hàng ngày và đời sống riêng tư. Khoản 3 Điều 5 nghị định này
đã chủ động loại bỏ yêu cầu phải có được sự đồng ý của chủ nhân hoặc người được
giao quyền sử dụng hình ảnh.
=> Như vậy có thể thấy rằng, quy định trên tại khoản 3 Điều 5 Nghị định
21/2002/NĐ-CP dường như không phù hợp với tinh thần của BLDS 2005 về quyền
đổi với hình ảnh của cá nhân. Dù khoản 2 Điều 5 của nghị định này nghiêm cấm việc
đăng, phát hình ảnh khỏa thân có tính chất khiêu dâm hay hình ảnh không phù họp
với thuần phong mỹ tục Việt Nam nhưng điều này không đủ để bảo vệ quyền của cá
1 Ánh thông tin các buối họp công khai, sinh hoạt tập thêm các buối lao động, những người có lệnh truy nã,
các cuộc xét xứ công khai cúa tòa án, nhũng người phạm tội trong các vụ án đã bị tuyên án


nhân đối với hình ảnh. Việc pháp luật cho phép báo chí có quyền đăng phát hình ảnh
về đời sống riêng tư mà không cần có sự đồng ý của người đó là hoàn toàn không phù
hợp với tinh thần bảo vệ quyền đối với hình ảnh của cá nhân trong BLDS 2005.
Chính những quy định này sẽ dẫn đến thực trạng báo chí có thế lợi dụng quyền này
để xâm phạm bí mật đời tư, đăng phát những hình ảnh câu khách, chạy theo thị hiếu

tầm thường của một sổ độc giả.
1.3. Phương thức bảo vệ quyền đối với hình ảnh của cá nhân
Quyền đối với hình ảnh của cá nhân là một trong những quyền nhân thân quan
trọng. Khác các quyền dân sự khác, quyền nhân thân thế hiện trong nhiều lĩnh vục đời
sổng của cá nhân, đặc biệt có ý nghĩa rất lớn đối với đời sống tinh thần của cá nhân.
Mỗi hành vi xâm phạm đến quyền nhân thân của cá nhân ảnh hưởng sâu sắc đến đời
sống tinh thần của người bị xâm phạm. Vì vậy, việc bảo vệ quyền nhân thân của cá
nhân trong trường hợp bị xâm phạm có ý nghĩa rất quan trọng. Trước hết, bảo vệ
quyền nhân thân của cá nhân có tác dụng kịp thời ngăn chặn các hành vi trái pháp luật
xâm phạm đến quyền nhân thân của cá nhân, bảo đảm trật tự pháp lý xã hội và giáo
dục ý thức pháp luật làm cho mọi người tôn trọng quyền nhân thân của cá nhân. Mặt
khác, bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân tạo điều kiện thuận lợi cho các quyền nhân
thân của cá nhân được thực hiện trên thực tế, khắc phục những hậu quả của các hành
vi vi phạm pháp luật, đặc biệt góp phần bảo đảm đời sống tinh thần cho mỗi cá nhân,
tạo điều kiện cho cá nhân lao động và sáng tạo. Tuy vậy, quyền nhân thân của cá
nhân có những điểm khác các quyền dân sự khác như không thể trị giá được bằng
tiền, không thể chuyển giao cho người khác, trù’ những ngoại lệ do pháp luật quy
định... Vì vậy, việc bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân trong trường hợp bị xâm
phạm có một số khác biệt với việc bảo vệ các quyền dân sự khác như các biện pháp
bảo vệ được áp dụng đa dạng, việc khắc phục thiệt hại về quyền nhân thân bị xâm
phạm trong một số trường hợp phải do chính những người hành vi trái pháp luật xâm
phạm đến quyền nhân thân của cá nhân phải thực hiện, việc bồi thường thiệt hại khắc
phục thiệt hại về quyền nhân thân không thế tính toán cụ thế, chỉ là tương đối và
mang tính giáo dục là chủ yếu... Ngoài ra, hiệu quả bảo vệ quyền nhân thân của cá


nhân chịu sự ảnh hưởng rất lớn của cả các quy định pháp luật và những điều kiện xã
hội. Đe nâng cao được hiệu quả bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân ngoài góc độ
pháp lý thì vấn đề này cũng cần phải được quan tâm nghiên cứu, xem xét kỹ cả dưới
góc độ xã hội.

Đế đảm bảo cho quyền nhân thân nói chung và quyền đối với hình ảnh của cá
nhân nói riêng được tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh, thì pháp luật quy định:
“Khi quyển nhân thân của cá nhân bị xâm phạm thì người đó có quyền:
1. Tự cải chính;
2. Yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan, tố chức có thấm quyền buộc người
vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm, xin lôi, cải chỉnh công khai;
3. Yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan tô chức có thâm quyển buộc người
vi phạm bồi thường thiệt hại” (Điều 25 BLDS 2005).
Theo quy định tại điều luật này thì cá nhân có quyền đối với hình ảnh của cá nhân bị
xâm phạm được áp dụng các biện pháp dân sự sau đế bảo vệ quyền của mình như tự
cải chính; yêu cầu người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan, tố
chức có thấm quyền buộc người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm; yêu cầu người vi
phạm bồi thường thiệt hại hoặc yêu cầu cơ quan, tố chức có thấm quyền buộc người
vi phạm bồi thường thiệt hại.
“Tự mình cải chính” là biện pháp biện pháp cho phép người có quyền đối với
hình ảnh của cá nhân bị xâm phạm kịp thời bảo vệ quyền của mình, hạn chế được hậu
quả thiệt hại cả về vật chất và tinh thần do những tin tức không đúng ra gây ra.
“Yêu cầu người có vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm” là biện pháp bảo vệ
quyền của cá nhân có thế áp dụng trong mọi trường họp quyền đối với hình ảnh của
cá nhân bị xâm phạm. So với biện pháp tự cải chính thì biện pháp này được áp dụng
trong một phạm vi rộng hơn. Tuy nhiên, việc áp dụng biện pháp này thông thường chỉ
có hiệu quả trong trường hợp người có hành vi xâm phạm quyền đổi với hình ảnh của
cá nhân sớm nhận thức được hành vi trái pháp luật của họ. Neu người có hành vi xâm
phạm không nhận thức được hành vi trái pháp luật của họ thì người có quyền đổi với
hình ảnh của cá nhân bị xâm phạm phải áp dụng biện pháp bảo vệ khác mới bảo vệ


được quyền lợi của mình.
“ Yêu cầu cơ quan, tố chức có thâm quyền buộc người vi phạm chẩm dirt


hành vi vì phạm” cũng là biện pháp bảo vệ quyền đối với hình ảnh của cá nhân có
thế áp dụng. Đây là biện pháp bảo vệ quyền đối với hình ảnh của cá nhân có hiệu quả
cao vì sau khi nhận được yêu cầu thì cơ quan, tố chức có thẩm quyền sẽ áp dụng các
biện pháp đủ mạnh do pháp luật quy định buộc người có hành vi trái pháp luật xâm
phạm đến quyền đối với hình ảnh của cá nhân chấm dứt hành vi xâm phạm hình ảnh
của cá nhân đó. Trên thực tế, biện pháp này thường được người có hình ảnh cá nhân
bị xâm phạm áp dụng trong trường hợp đã yêu cầu chấm dứt hành vi trái pháp luật
nhưng không được đáp ứng. Trong các cơ quan Nhà nước áp dụng biện pháp dân sự
thì Tòa án được xem là cơ quan có nhiệm vụ, quyền hạn bảo vệ quyền đối với hình
ảnh của cá nhân có hiệu quả cao nhất. Tuy nhiên, bảo vệ quyền đối với hình ảnh của
cá nhân thông qua việc yêu cầu Tòa án bảo vệ được tiến hành theo trình tự, thủ tục
chặt chẽ và đòi hỏi người có quyền với hình ảnh bị xâm phạm yêu cầu Tòa án bảo vệ
phải chứng minh được quyền đối với hình ảnh của mình bị xâm phạm và hành vi xâm
phạm đó là trái pháp luật.
“ Yêu cầu người vi phạm bồi thường thiệt hại hoặc yêu cầu cơ quan, tổ

chức có thẩm quyền buộc người vi phạm bồi thường thiệt hạĩ’ là biện pháp bảo vệ
quyền đối với hình ảnh của cá nhân được thực hiện khi người có hành vi trái pháp
luật xâm phạm đến quyền này của cá nhân gây ra thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần
cho họ. Neu có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền đối với hình ảnh của cá
nhân gây ra thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần thì cá nhân đó có quyền yêu cầu người
có hành vi trái pháp luật bồi thường thiệt hại. Neu người có hành vi trái pháp luật đó
không chịu bồi thường thì người có quyền quyền đổi với hình ảnh cá nhân bị xâm
phạm có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan, tổ chức khác có thẩm quyền buộc
người vi phạm bồi thường thiệt hại.
Như vậy có thể nhận thấy rằng, bảo vệ quyền nhân thân nói chung và bảo vệ
quyền đối với hình ảnh của cá nhân nói riêng có thế được chia thành hai phương thức,
đó là: Tự bảo vệ và bảo vệ bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Khi quyền đối với



hình ảnh của cá nhân bị xâm phạm thì cá nhân đó có quyền lựa chọn biện pháp bảo vệ
phù họp đế giúp cho việc bảo vệ quyền của cá nhân đạt được hiệu quả.
2. Thưc tiễn thưc hiên các quy đinh của pháp luât về quyền đối với hình ành của cá
nhân
Hình ảnh của cá nhân thuộc lĩnh vục riêng tư của mỗi người. Tuy nó không có
gì bí mật, cần phải hạn chế sử dụng nhưng một khi muốn sử dụng những hình ảnh của
cá nhân ai đó, nhất là sử dụng khai thác vào mục đích kinh doanh (như in lịch, in bìa
sách, bao bì mẫu quảng cáo...) thì đều phải hỏi ý kiến “người chủ” hình ảnh đó (người
thật có hình đó). Bởi về nguyên tắc, mọi cá nhân đều có quyền đối với hình ảnh của
mình. Mỗi người đều có quyền cho hay không cho người khác sử dụng hình ảnh của
mình. Neu chưa được sự đồng ý mà sử dụng đã là vi phạm quyền của cá nhân đối với
hình ảnh. Tuy nhiên trên thực tế việc sử dụng “chùa” hình ảnh của người khác vào
mục đích kinh doanh lại khá phổ biến. Chúng ta không còn lạ gì với những biển
quảng cáo của các cửa hàng áo cưới, băng đĩa hay thậm chí là cắt tóc, gội đầu...với
hình ảnh của hoa hậu, diễn viên nổi tiếng tràn lan trên khắp các con phố. Và tất nhiên
“nhân vật chính” của những bức ảnh đó không những không có bất cứ một mối quan
hệ nào với việc kinh doanh đó mà thậm chí còn không hề được chủ kinh doanh hỏi
xin phép (?). Đơn cử một trường hợp được một tờ báo mạng đưa bài: “Ban đầu di
trên đường Tam Trinh, tôi dê ỷ thấy một cửa hàng trương biên cafẻ khá đặc biệt.
Trong khỉ nhiều cửa hàng dọc phổ này đều lấy hình một mỹ nữ bên Tây bên Tàu
trương lên biên hiệu, thì cửa hàng cafẻ này lại dũng một ảnh chân dung rất nền nã,
nhìn quen quen: Chiếc răng khênh ấy không thê khác được là đưong kim Hoa hậu
Việt Nam, Mai Phương Thúy. So với bức ảnh của Thủy được công chúng biết dến
rộng rãi thì y hệt, rõ ràng bức ảnh đã dược dùng làm “mâu ” đê vẽ biên hiệu quảng
cáo. Đoản giả đoán non mãi không hiếu Thúy mở cửa hàng cafẻ hay có "mối liên hệ"
nào đó với cái quán cafẻ bên con dường bụi bặm lắm xe tải này??? Hay là, họ đã
“mượn” bức hình dẹp của Thúy đê...quảng cảo? Chưa kịp hỏi Thúy, thì cửa hàng
cafẻ này đã đôi biến hiệu, kinh doanh thêm dịch vụ "gội đầu, tam quất" nữa nhung



van trương khuôn mặt thánh thiện của Mai Phương Thúy” . Hay như gần đây, trên
các trang báo mạng tràn lan một dịch vụ được cho là hot đối với các đấng mày râu khi
chỉ cần nhắn “M***” và gửi tới một đầu số dịch vụ thì bất kỳ chủ thuê bao di động
nào cũng có thế sở hữu bộ sưu tập những tấm hình “nóng” của các hoa hậu, diễn viên
nối tiếng hay các hotgirl...với giá 15.000 đồng (?). Và Mai Phương Thúy lại một lần
nữa trở thành nạn nhân của hành vi xâm phạm nghiêm trọng đến quyền đối với hình
ảnh của mình. Trao đối với Zing.vn, Hoa hậu Việt Nam 2006 Mai 2
Phương Thúy khắng định cô không hề hay biết gì về chuyện ảnh của mình được rao
bán qua tin nhắn và cũng không hề có bất kỳ ai liên hệ với cô đế xin phép kinh doanh
những tấm hình đó. Tuy khá bất bình, nhưng hoa hậu khẳng định sẽ không tự’ mình
đưa ra những giải pháp cho vụ việc, mà tở ý muốn những người có trách nhiệm sẽ
quan tâm hơn đến vấn đề sử dụng hình ảnh sai mục đích: “Thúy thực sự không có
thời gian đê theo đuôi hay kiện cáo, cũng không hề có ỷ định muốn đỏi chia lợi
nhuận hay đòi bồi thưòĩĩg từ phía công ty kia dù Thúy hoàn toàn có thế. Ban thân
Thúy cũng có nhiều việc phủi lo và công việc từ thiện xã hội vẫn còn dang dở. Thủy
chỉ muốn bài báo này khỉ đến được với bạn dọc thì mọi người sẽ thông cảm cho Thủy
hơn. Còn về phía công ty kia, Thúy nghĩ họ tự biết mình đã làm đúng hay sau đê
dìmg việc họ đang làm và bạn đọc sẽ có cái nhìn công tâm về van đề này, vì nó von
dĩ đã quá phố biến ở Việt Nam. Thủy mong muốn các các cơ quan chức năng sẽ có
những biện pháp không đê việc như thế này xảy ra nữa”3.
Trên đây chỉ là một số trong vô vàn những hành vi xâm phạm quyền đối với
hình ảnh của cá nhân. Việc xâm phạm này đang ngày càng trở nên phố biến và đối
tượng thường được nhắm tới là hình ảnh cá nhân của các nhân vật có tiếng tăm trong
làng giải trí. Tuy nhiên cũng qua thực trạng này cũng có thế nhận thấy rằng, có lẽ
người Việt Nam còn quá “e dè” trong việc yêu cầu pháp luật bảo vệ quyền lợi của
mình thông qua thủ tục kiện cáo. Phải chăng họ còn e ngại rằng chỉ tổ tốn thời gian,
tiền bạc đế rồi sự việc cũng chẳng đi đến đâu? Đây có lẽ là suy nghĩ phố biến của đại
đa số, tuy nhiên không phải là tất cả. Dù ít nhưng vẫn có những trường hợp sau khi
2Theo />3



quyền về hình ảnh của cá nhân mình bị xâm phạm, đã quyết định đòi lại công lý cho
mình! Đó là vụ việc:

năm 2004, gia đình bẻ Minh Khôi kiện Công ty

Biti’s, đòi bồi thường thiệt hại 154 triệu đồng vì Biti’s xài trái phép ảnh của bé Minh
Khôi in trẽn bìa lịch, tập quáng cáo. Tháng 9-2004, TAND quận 6 (TP.HCM) buộc
Biti’s phải xin lôi công khai gia đình bẻ Khôi, chấm dứt vô điều kiện việc sử dụng
trái phép hình ảnh của bẻ và bồi thường gần ba triệu đồng ” hay như vụ việc “
Thảng 12-2004, nhà nhiếp ảnh Nguyễn Văn Trí phát hiện bức ảnh in trên tờ vé số An
Giang chính là tấm ảnh có tên “Hoa scn ” mà ông chụp ở Đồng Tháp Mười. Ông Trí
đã hỏi Công ty Xo sổ kiến thiết An Giang và Công ty cô phần In An Giang, được các
nơi này cho biết lấy bông sen trên đĩa vi tính, không đề tên tác giả nên không biết và
“mong tác giả thông cảm”!”. Và một vụ việc khác: “Thảng 4-2006, luật sư Phạm
Thành Long khiếu nại sân bay Tân Sơn Nhất dùng bức ảnh “Ảo dài ” của ông lùm
pano ở đường vào sân bay. Bức ảnh này dược ông chụp nhân ngày khai giảng tại
công trường Trần Phủ (Hà Nội), sau dó được công bố lần dầu vào ngày 6- 9-2004
trên mạng. Ông đã đăng ký bảo hộ quyền tác giả đoi với bức ảnh tại Cục Bản quyền
(Bộ Vãn hoả - Thông tin). Trước đó, bức ảnh từng bị... “xài chùa” 14 lần khiến ông
phải khiếu nại nhiều tờ báo và doanh nghiệp. Kết quả, một doanh nghiệp của Nhật
đã phải bồi thưòng... ”.
Qua những trường hợp trên đây, có thể nhận thấy rằng, sử dụng “chùa” hình
ảnh của cá nhân đang ngày càng trở lên phô biến và dần trở thành thói quen của nhiều
người. Trên thực tế, khi sử dụng hình ảnh của cá nhân khác, cùng lắm người nào “biết
điều” cũng chỉ hỏi ý kiến của người sáng tác (chụp, vẽ ảnh) chứ ít khi chịu tìm đến
hỏi ý kiến của “nhân vật trong ảnh”. Bởi người ta vẫn thường đinh ninh rằng người có
hình ảnh được sử dụng đế “lăng - xê” mình trước xã hội đã là...“khoái” lắm rồi, cần gì
phải hỏi ý kiến! Nhưng một khi chuyện đã lỡ rồi, người có hình ảnh đó lại tìm cách
làm khó dễ, việc xin lỗi không thôi chưa đủ!!! Vậy đặt ra một thực tế là, nếu cá nhân

khởi kiện lên Tòa án yêu cầu buộc người xâm phạm hình ảnh phải bồi thường thì mức
bồi thường sẽ được xác định như thế nào? về vấn đề này, cho đến nay vẫn chưa có bất
cứ một văn bản nào hướng dẫn, cho nên mạnh ai người ấy đòi, đòi cho bằng thích,


đến khi vụ việc phải kéo nhau đến toà án thì toà cũng chỉ theo thông lệ là... “việc dân
sự muốn xử sao cũng được”! . Đây chính là nguyên nhân khiến cho việc xác định
mức bồi thường cho các hành vi xâm phạm của mỗi Tòa lại một khác. Các tòa án
thường căn cứ vào giá trị sử dụng hình ảnh trong việc kinh doanh mà buộc người sử
dụng hình ảnh của người khác trái phép phải thanh toán một khoản tiền có thể là vài
triệu đồng, vài chục triệu và cũng có thế lên đến hàng trăm triệu đồng.
Việc sử dụng “chùa” hình ảnh cá nhân của người khác đã trở thành một thói
quen “khó sửa” của một đại bộ phận thành viên trong xã hội. Sử dụng hình ảnh của cá
nhân mà chưa xin phép là vi phạm quyền đối với hình ảnh của cá nhân. Pháp luật
nghiêm cấm những hành vi xâm phạm quyền đổi với hình ảnh của cá nhân dù việc
xâm phạm đấy có gây ảnh hưởng đến người bị xâm phạm hình ảnh hay không. Có thế
thấy rằng, việc sử dụng hình ảnh của cá nhân như những trường họp vừa nêu thường
chỉ gây khó chịu cho người bị người khác sử dụng hình ảnh hoặc chỉ gây những hiếu
lầm nhỏ. Nhưng trên thực tế, có những trường hợp việc sử dụng hình ảnh cá nhân lại
có tác động xấu đến cá nhân, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến công việc, cuộc sổng
của không chỉ cá nhân mà còn là gia đình và người thân. Đó là việc chụp ảnh, đưa tin
khi cá nhân đó chang may phải “hầu tòa”. Trên thực tế, những người “ra tòa” dù với
vai trò bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hay nguyên đơn, bị đơn... đều
cảm thấy “không tiện” hoặc “không hay lắm” nếu xuất hiện hình ảnh của mình trên
báo chí. Ớ nhiều phiên tòa, thường các đương sự luôn quay sang hướng khác hoặc cúi
đầu, lấy tay che mặt mỗi khi có người cầm máy ảnh chĩa về phía mình. Đôi khi ánh
mắt họ như năn nỉ người phó nháy hãy “bở qua” cho họ. Nhiều người cho rằng bài
báo tường thuật phiên tòa mà thiếu hình ảnh của bị cáo rõ ràng thiếu đi sự sinh động,
hấp dẫn. Bởi hình ảnh là một phần không thế thiếu trong bất cứ vụ việc “có thật” và
“đang diễn ra” nào. Thực tế này xảy ra khá phổ biến ở Việt Nam, bởi tuy BLDS 2005

quy định: “Cd nhân có quyền đối với hình ảnh của mình” và “Việc sử dụng hình ảnh
của cá nhân phải được người đó đồng ý”. Nhưng Luật báo chí lại thừa nhận quyền
được tự do quay phim, chụp hình trong các phiên tòa được tố chức công khai. Chính
bởi sự mâu thuẫn này của pháp luật, đã dẫn đến tình trạng, hình ảnh của cá nhân khi


họ không may phải “hầu tòa” cũng được sử dụng tràn lan trên các mặt báo, trên
truyền hình. Vậy chang nhẽ khi chang may phải “hầu tòa” (dù với vai trò là bị cáo,
nhân chứng, nguyên đơn...) thì cá nhân đó không còn có quyền đối với hình ảnh của
cá nhân(?) Thực tế cho thấy rằng, việc sử dụng hình ảnh của cá nhân trong những
trường hợp này không những gây khó chịu cho những người bị xâm phạm hình ảnh
cá nhân mà việc đăng hình ảnh của họ chang khác nào đóng thêm “dấu đen” lên cuộc
đời của họ, khiến con đường hoàn lương đôi lúc gặp gập ghềnh. Một thân nhân của bị
cáo than thở: “Chồng tôi có chút sai lầm, giờ báo chỉ đăng hết lên. Cả dòng họ tôi
biết, chòm xóm nhìn gia đình tôi với ánh mắt khác. Mai mốt chắc phải... bỏ xứ mà
đr4. Hay như mấy ngày qua, cư dân mạng xôn xao trước sự xuất hiện của clip dài 1,5
phút ghi lại cảnh hai phụ nữ và một thanh niên xăm trổ ở ngực trong tình trạng không
mảnh vải che thân đang ngồi trên giường. So với nhiều clip tùng được tung lên các
diễn đàn thì những hình ảnh trong clip này không có gì quá đặc biệt, nhưng nó lại trở
thành đề tài gây xôn xao, phẫn nộ trong dư luận, bởi được cho là clip được quay lại
trong quá trình thực hiện bắt quả tang một vụ mua bán dâm do một công an tỉnh
Quảng Ninh ghi hình lại. Và nó cũng được phát tán trên internet với tốc độ chóng
mặt. Hành vi phát tán clip này đã xâm phạm quyền đối với hình ảnh của cá nhân, gây
ảnh hưởng nghiêm trọng đến nhân phấm, danh dự của những người có mặt trong
đoạn clip, đặc biệt là hai cô gái. Quyền về hình ảnh cá nhân đã được ghi nhận tại Bộ
luật Dân sự. Điều 31 BLDS quy định “Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải dược
người dó dồng ỹ\ Luật cũng “Nghiêm cẩm việc sử dụng hình ảnh của người khác mà
xâm phạm danh dự, nhân phâm, uy tín của người có hình ảnh”. Trong trường hợp
clip bắt gái mại dâm, hai cô gái nạn nhân hoàn toàn có quyền yêu cầu những cán bộ
công an đã quay phim chụp ảnh mình dừng ngay hành vi vi phạm sau đó có thế yêu

cầu tòa án buộc người vi phạm phải bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh thần. Như
chúng ta đã biết trong những trường hợp vi phạm pháp luật hình sự, bị toà án kết án
bằng một bản án có hiệu lực pháp luật thì các bị can, bị cáo, bị án, thậm chí là bị án tử
hình chỉ bị tước một số quyền, họ vẫn được pháp luật của Nhà nước bảo đảm để
4Theo báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh


không bị xúc phạm về thân thể cũng như nhân phẩm, danh dự. Trong khi đó hành vi
mua bán dâm chỉ là hành vi vi phạm hành chính thì lẽ nào quyền về hình ảnh cá nhân
của họ lại không được tôn trọng và bảo vệ. Như vậy, theo quy định của pháp luật thì
không ai có quyền sử dụng hình ảnh cá nhân của họ khi chưa được sự đồng ý của họ.
Mà thậm chí ngay cả khi clip này không được tung lên mạng thì việc quay phim,
chụp ảnh lại mà không cho các cô gái được mặc quần áo đã là hành vi xúc phạm
nghiêm trọng danh dự, nhân phấm cần phải bị xử lý.
Qua đây có thể nhận thấy, việc sử dụng trái phép hình ảnh của cá nhân trong
trường hợp này đã gây ra một hậu quả vô cùng to lớn. Nó không những ảnh hưởng
đến nhân phấm, danh dự, công việc, cuộc sống của bản thân người có hình ảnh bị
xâm phạm mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của những người thân của
họ. Phải chăng qua thực tế này, pháp luật cũng cần nhanh chóng có những quy định
phù hợp, khắc phục những mâu thuẫn trong quy định của pháp luật này đế quyền của
cá nhân đối với hình ảnh của mình được tôn trọng và bảo vệ. 5
về quy định về quyền đối với hình ảnh của cá nhân tại Điều 31 BLDS: Cá
nhân có quyền đối với hình ảnh của mình; 2. Việc sử dụng hình ảnh của củ nhân phải
được người đó đồng ỷ; trong trường họp người đó đã chết, mất năng lực hành vi dân
sự, chưa đủ mười lăm tuổi thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con dã thành niên hoặc
người dại diện của người dó dồng ỷ, trừ trường hợp vì lợi ích của Nhà nước, lợi ích
công cộng hoặc pháp luật có quy định khác; 3. Nghiêm cấm việc sử dụng hình ảnh
của người khác mà xâm phạm danh dự, nhân phâm, uy tín của người có hình ảnh”,

5Hướng khắc phuc thưc trang xâm pham quyền đối với hình ành của cá nhân

“Mọi người được làm những gì mà pháp luật không cấm”. Đây được xem là
nguyên tắc cơ bản, chỉ đạo việc thực hiện pháp luật của nước ta. Những quy định cần
rõ ràng, chặt chẽ, có tính răn đe cao đế các chủ thế hình thành “thói quen tôn trọng”
quyền đối với hình ảnh của cá nhân chủ thể khác. Vì vậy mà để khắc phục được tình
trạng xâm phạm quyền đối với hình ảnh của cá nhân thì cần nhanh chóng sửa đối, bổ
sung đế những quy định về vấn đề này được chặt chẽ và có tính khả thi cao.


thì có thế nhận thấy rằng tuy quy định này của BLDS khá cụ thế nhưng vẫn còn
không ít hạn chế:
Thứ nhất, Điều 31 BLDS không miễn trừ việc xin phép khi sử dụng ảnh chụp
phong cảnh hay các buổi tụ tập đông người (biểu tình, tuần hành, hội họp) vì vậy thực
tiễn đặt ra một vấn đề là nếu muốn công bố một bức ảnh có bao nhiêu khuôn mặt
người khác trong đó thì phải đi hỏi ý kiến của tùng ấy người cho phép mới được hay
sao. Neu ảnh chụp chung cả Quốc hội thì phải xin phép bao nhiêu người(?). Hay giả
sử khi sử dụng ảnh cụ Phan Thanh Giản đi sứ qua Pháp chụp cuối thế kỷ XIX thì
kiếm đâu ra hậu duệ của cụ đế xin phép (?)...Theo quan điểm của Nguyên Bộ trưởng
Bộ Tư pháp Nguyễn Đình Lộc cho rằng: “Quy định như thế là chặt chẽ. Nhung theo
tôi, đủng là phải tính đến tính khả thỉ. Hình ảnh trong sinh hoạt bình thường, chăng
hạn tường thuật về một hội thảo nào đó, mình lên phát biếu, người ta chụp đưa lên
báo thì cũng phải xin phép à? Hoặc trong sinh hoạt nào đay có hình ảnh cá nhân
như lê hội, mít tinh... thì như thế nào? Thật ra chỉ nên quy định là can phải xin phép
đổi với việc sử dụng hình ảnh thuộc về dời tư của người ta. Bộ luật Dân sự hiện hành
cũng đã quy định rồi nhưng chưa nghiêmCho nên thiết nghĩ đế những quy định về
quyền đối với hình ảnh của cá nhân được mọi chủ thế tôn trọng và nghiêm chỉnh thực
hiện thì luật nên có quy định rõ ràng hơn về những trường hợp nào sử dụng hình ảnh
cá nhân cần phải xin phép (như sử dụng hình ảnh vào mục đích thương mại hay việc
sử dụng hình ảnh làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến cá nhân có hình ảnh bị xâm
phạm...) và cũng nên quy định thời hiệu đối với việc phải xin phép khi sử dụng hình
ảnh của cá nhân.

Thứ hai, Điều 31 BLDS chỉ điều chỉnh hành vi “sử dụng” hình ảnh của người
khác mà không điều chỉnh hành vi “ghi hình”. Đây là một khoảng trống đáng lo ngại
của pháp luật Việt Nam, bởi ngay khi bị ghi hình thì cá nhân đã mất đi một phần
quyền định đoạt đổi với hình ảnh của mình. Hơn nữa, trong điều kiện các trang thiết
bị ghi hình ngày càng phổ biến ở Việt Nam thì nguy cơ bị chụp trộm, quay phim trộm
ở những nơi nhạy cảm như nhà nghỉ, nhà tắm hày buồng thử quần áo cao hơn bao giờ
hết. Nhưng do pháp luật dân sự không quy định hành vi “ghi hình” hình ảnh cá nhân


của người khác là vi phạm pháp luật nên nếu không thế chứng minh được người “ghi
hình” những hình ảnh đó đâ phát tán các hình ảnh này thì không thế truy cứu trách
nhiệm dân sự theo Điều 31 BLDS hay trách nhiệm hình sự theo Điều 121 và 226
BLHS.
Thứ ba, Quy định về quyền về hình ảnh của cá nhân tại Điều 31 BLDS có
quy định: “...sử dụng hình ảnh của cả nhân phải được người đó đồng ý...”, tuy nhiên
trong trong thực tế chúng ta vẫn dễ dàng bắt gặp việc báo chí tụ’ do đưa tin có kèm
hình ảnh của bị cáo tại phiên tòa. Việc đăng bài có kèm hình ảnh của bị cáo mô hình
chung sẽ trở thành “vết đen” trong cuộc đời của bị cáo, sẽ ảnh hưởng lớn đến công
việc làm ăn, uy tín, danh dự của bản thân, gia đình và dòng họ (dù sau đó họ có trắng
án). Theo quy định tại Điều 28, 36, 37, 38 và 39 Bộ luật hình sự thì chỉ hạn chế hoặc
tước bỏ một số quyền dân dự của bị can, bị cáo như: cấm đảm nhiệm chức vụ, làm
những nghề hoặc công việc nhất định, cấm đi khỏi nơi cư trú... Không có quy định
nào tước bỏ quyền đối với hình ảnh của một người, dù người đó là kẻ phạm tội.
Những điều kế trên lại mâu thuẫn với quy định về quyền hạn của nhà báo được quy
định trong nghị định số 51/NĐCP/2002 của chính phủ: Nhà báo “Được hoạt động
nghiệp vụ lấy tin, chụp ảnh, quay phim, ghi âm tại các phiên tòa xét xử công khai,
được dành chô ngồi riêng, được liên lạc trực tiếp với các thâm phản, luật sư đê lấy
tin, phỏng vấn theo quy định của pháp” (khoản 3 điều 8 nghị định số 5 l/NĐCP/2002
của Chính phủ về việc quy định chi tiết thi hành Luật báo chí, luật sửa đối bố sung
một số điều của Luật báo chí). Phải chăng theo những quy định này của pháp luật thì

những bị cáo khi ra tòa không có quyền đổi với hình ảnh của cá nhân (?). Theo quan
điểm của bản thân thì đây là một quy định còn thiếu tính chặt chẽ và mâu thuẫn của
pháp luật Việt Nam. Nên chăng, về vấn đề quyền đối với hình ảnh của cá nhân nên
được pháp luật quan tâm hon và có những sửa đối phù họp đế việc bảo đảm thực hiện
quyền này của cá nhân được thực hiện nghiêm chỉnh và bảo đảm.
về quy định về phương thức bảo vệ quyền đối với hình ảnh của cá nhân, Điều
25 BLDS quy định: “Khi quyền nhân thản của cả nhân bị xâm phạm thì người đó có
quyền:


1. Tự cải chính;
2. Yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan, tô chức có thâm quyền buộc người
vỉ phạm chấm dứt hành vi vi phạm, xin lôi, cải chỉnh công khai;
3. Yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan tô chức có thâm quyền buộc người
vi phạm bồi thường thiệt hại”. Tuy nhiên quy định này lại bộc lộ một hạn chế, đó là
trong trường hợp cá nhân có hình ảnh bị xâm phạm đã chết mà việc xâm phạm đến
hình ảnh của cá nhân đó lại ảnh hưởng nghiêm trọng đến những người thân còn sống
của cá nhân đó. Vậy khi đó, ai sẽ có thế thay cá nhân đó thực hiện những phương
thức để bảo vệ quyền đối với hình ảnh khi mà luật chỉ quy định quyền đó cho cá nhân
có hình ảnh bị xâm phạm? Nên chăng cần sửa đối đôi theo chiều hướng không chỉ có
cá nhân có quyền đối với hình ảnh bị xâm phạm mà ngay cả những người thân thích
của cá nhân đó cũng có các quyền theo quy định của Điều 25 BLDS trong trường họp
cá nhân có hình ảnh bị xâm phạm chết.
Khi có hành vi xâm phạm quyền đối với hình ảnh của cá nhân xảy ra, thì theo
quy định của pháp luật, thì cá nhân có hành ảnh bị xâm phạm có quyền yêu cầu nguời
xâm phạm phải xin lồi, cải chính và bồi thường...Tuy nhiên về vấn đề mức bồi
thuờng thì cho đến nay vẫn chưa có bất cứ một văn bản nào hướng dẫn, cho nên
mạnh ai người ấy đòi, đòi cho bằng thích, đến khi vụ việc phải kéo nhau đến toà án
thì toà cũng chỉ theo thông lệ là...“việc dân sự muốn xử sao cũng được”!!! . .Các tòa
án thường căn cứ vào giá trị sử dụng hình ảnh trong việc kinh doanh mà buộc người

sử dụng hình ảnh của người khác trái phép phải thanh toán một khoản tiền có thế là
vài triệu đồng, vài chục triệu và cũng có thế lên đến hàng trăm triệu đồng. Thiết nghĩ,
đế quyền của mỗi cá nhân đối với hình ảnh của mình được tôn trọng và không bị xâm
phạm thì pháp luật cũng nên đề ra những chế tài phù hợp với mức độ xâm phạm
nhưng cũng phải đủ sức răn đe. Nên nhanh chóng có một văn bản quy định về các
mức phạt trong từng trường hợp vi phạm cụ thể (mức hình phạt nên căn cứ vào mục
đích sử dụng hình ảnh, mức độ gây ảnh hưởng đến chủ thế có hình ảnh bị xâm
phạm...).


KẾT LUẬN


Quyền của cá nhân đối với hình ảnh là một quyền quan trọng trong nhóm các
quyền nhân thân. Các quy định của BLDS 2005 về vấn đề này đã khá đầy đủ, tuy
nhiên còn nhiều điểm còn hạn chế và tính khả thi chưa cao. Vì vậy, bên cạnh việc
nâng cao ý thức của người dân về việc tôn trọng, bảo vệ quyền về hình ảnh của cá
nhân khác thì việc sửa đối, bố sung những quy định của pháp luật đã nêu trên đế hoàn
thiện hơn là vô cùng cần thiết. Bởi nó sẽ tạo tiền đề để tất cả các thành viên trong xã
hội có ý thức tôn trọng và nghiêm chỉnh thực hiện các quy định của pháp luật về
quyền đối với hình ảnh của cá nhân khác. Có như vậy thì mới giải quyết được triệt đế
việc sử dụng tùy tiện hình ảnh của người khác như hiện nay.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam (tập

1), NXB Công an nhân dân, 2006.
2.


TS. Lê Đình Nghị (chủ biên), Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam (tập

1). NXB Giáo dục Việt Nam, 2010.
3.

Bộ luật Dân sự 2005.

4.

Nghị định số 51/NĐCP/2002 của Chính phủ về việc quy định chi tiết

thi hành Luật báo chí, luật sửa đối bố sung một sổ điều của Luật báo chí.
5.

Chu Tuấn Vũ, Quyền của cá nhân đối với hình ảnh trong pháp luật

một sổ nước phương Tây - đối chiếu với pháp luật Việt Nam, Tạp chí Nhà
nước và pháp luật, số 04/2008, trang 50 - 60.
6.

Trang web: />
7.

Trang web: http://thongtinphaplưatdansư.wordpress.com

8.

Trang web: />
9.


Trang web:

10.

Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh.



×