Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Hoàn thiện khung pháp lý về quản trị công ty đại chúng ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (815.86 KB, 100 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
---------------------

NGUYỄN QUANG HUY

HOÀN THIỆN KHUNG PHÁP LÝ VỀ
QUẢN TRỊ CÔNG TY ĐẠI CHÚNG
Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG

Hà Nội – 2015

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
---------------------

NGUYỄN QUANG HUY

HOÀN THIỆN KHUNG PHÁP LÝ
VỀ QUẢN TRỊ CÔNG TY ĐẠI CHÚNG Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành : Tài chính Ngân hàng
Mã số : 60 34 02 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN SƠN

Hà Nội – 2015

2


MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU, MÔ HÌNH
PHẦN MỞ ĐẦU

Chương 1. Tổng quan nghiên cứu và cơ sở lý luận

1

Tổng quan nghiên cứu ………………………………………………..
Tình hình nghiên cứu trên thế giới………………………………….......
Tình hình nghiên cứu tại Việt Nam…………………………………….
Cơ sở lý luận khung pháp lý về quản trị công ty đại chúng..……….
Khái quát về công ty đại chúng……………………………………….
Khái quát quản trị công ty đối với công ty đại chúng……………….
Cơ sở pháp lý về quản trị công ty đại chúng ..………………………….

1
1
2
3
3
12

20

Chương 2. Phương pháp nghiên cứu ………………………………………..

24

2.1
2.1.1
2.1.2
2.2

24
24
24
26

1.1
1.1.1
1.1.2
1.2
1.2.1
1.2.2
1.2.3

Phương pháp thu thập thông tin..……………………………………
Dữ liệu nghiên cứu ……………………………………………………..
Phương pháp phân tích..………………………………………………..
Phương pháp chấm điểm ……………………………………………..

Chương 3. Đánh giá thực thi khung pháp lý về quản trị công ty đối với

công ty đại chúng ở Việt Nam ………………………………….………….
3.1
3.2
3.2.1
3.2.2
3.3
3.3.1
3.3.2
3.4
3.4.1
3.4.2
3.4.3

Khái quát về khung pháp lý quản trị công ty đại chúng tại TTCK
Việt Nam ………………………………………………………………
Luật Doanh nghiệp 2005 và Thông tư 121/BTC về quản trị công ty
áp dụng cho công tyđại chúng ………………………………………..
Luật Doanh nghiệp 2005 ……………………………………………….
Thông tư 121/2012/TT-BTC ……………………………………….....
Những kết quả đạt được ……………………………………………..
Tạo lập khung pháp lý cao, đồng bộ và thống nhất về quản trị công ty.
Tăng cường sự minh bạch của TTCK Việt Nam ………………………
Những điểm hạn chế ………………………………………………….
Hoạt động của HĐQT chưa thực sự hiệu quả ………………………….
Hoạt động của Ban Kiểm soát còn mang tính hình thức và kém hiệu
quả
Các thông tin công bố còn chưa được đánh giá đúng kèm theo các

3


29
29
32
32
39
49
49
51
52
53
54


3.4.4
3.4.5
3.5
3.5.1
3.5.2

công ty đại chúng chưa thực sự tuân thủ chế độ CBTT theo quy định ...
Quyền lợi cổ đông nhỏ chưa thực sự được quan tâm ………………….
Cổ đông nội bộ và người có liên quan còn ảnh hưởng đến tình hình
hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty ……………………………
Nguyên nhân của những hạn chế khi thực thi khung pháp lý về
quản trị công ty đại chúng ……………………………………………
Nguyên nhân khách quan ………………………………………………
Nguyên nhân chủ quan …………………………………………………

56
56

57
58
58
60

Chương 4. Hoàn thiện khung pháp lý về quản trị công ty đại chúng ở
Việt Nam ………………………………………………………………………
4.1
4.1.1
4.1.2
4.1.3
4.2
4.2.1
4.2.2
4.2.3

Định hướng về hoàn thiện khung pháp lý về quản trị công ty đại
chúng ở Việt Nam ……………………………………………………..
Định hướng chung ……………………………………………………..
Luật Doanh nghiệp 2014 ……………………………………………….
Sửa đổi Thông tư 52/BTC/2012 về công bố thông tin công ty đại
chúng……………………………………………………………………
Giải pháp hoàn thiện khung pháp lý về quản trị công ty đại chúng
trên TTCK Việt Nam …………………………………………………
Đối với công ty đại chúng………………………………………………
Đối với Sở Giao dịch Chứng khoán…………………………………….
Đối với Chính phủ, Bộ Tài chính và Ủy ban Chứng khoán Nhà nước…

61
61

61
63
68
69
69
74
76

KẾT LUẬN ………………………………………………………………………

79

TÀI LIỆU THAM KHẢO ………………………………………………………

80

PHỤ LỤC

4


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CTĐC

:

Công ty đại chúng

CTCP


:

Công ty cổ phần

QTCT

:

Quản trị công ty

TTCK

:

Thị trường chứng khoán

IFC

:

Tổ chức Tài chính Quốctế

OECD

:

Tổ chức hợp tác phát triển kinh tế

WTO


:

Tổ chức thương mại thế giới

SGDCK

:

Sở Giao dịch chứng khoán

UBCKNN :

Ủy ban Chứng khoán Nhà nước

ĐHĐCĐ

:

Đại hội đồng cổ đông

HĐQT

:

Hội đồng quản trị



:


Giám đốc

TGĐ

:

Tổng Giám đốc

BKS

:

Ban kiểm soát

5


DANH MỤC BẢNG BIỂU
STT

Bảng

Nội dung

Trang

1

Bảng 1.1


So sánh công ty đại chúng và công ty cổ phần

11

2

Bảng 2.1

Xác định trọng số cho các lĩnh vực quản trị công

26

ty
3

Bảng 3.1

Khung pháp lý về QTCT đối với công ty đại

31

chúng

DANH MỤC HÌNH
STT

Hình

Nội dung


1

Hình 3.1

Mô hình (phải) có Ban kiểm soát

33

2

Hình 3.2

Mô hình không có (không bắt buộc) Ban kiểm

33

soát

6

Trang


PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với yêu cầu phát triển của nền kinh tế, các công ty cổ phần đại chúng

(CTĐC) ngày càng đóng góp vai trò lớn trong cộng đồng doanh nghiệp và trên thị

trường vốn. Cùng với sự ra đời và phát triển của TTCK, vấn đề quản trị công ty
(QTCT) đối với công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam
đã cải thiện đáng kể so với những năm đầu nhưng nếu so với tình hình QTCT các
nước trong khu vực và trên thế giới chưa thực sự có bước tiến đáng kể.
Về khung pháp lý, có thể coi là thành công bước đầu trong QTCT ở Việt
Nam khi Luật Doanh nghiệp 2005 là một bước tiến lớn tạo ra thay đổi căn bản trong
quá trình hoàn thiện khung quản trị, cũng như quy định khá đầy đủ và cụ thể các nội
dung hay yếu tố cấu thành của khung quản trị. Ngoài ra, Thông tư 121/2012/TTBTC của Bộ Tài chính hướng dẫn về quản trị công ty đối với công ty đại chúng
cũng đã tạo một hàng lang pháp lý đầy đủ cho các công ty đại chúng trên TTCK.
Tuy nhiên, việc triển khai trên thực tế khung pháp lý quản trị các công ty đại
chúng nói chung hiện nay ở nước ta phần nhiều còn nhiều vấn đề bất cập, chưa thật
sự bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của cổ đông và hệ quả là sự phân hoá sâu
sắc các nhóm cổ đông trong công ty làm nguồn cho các cuộc thâu tóm, sáp nhập có
nguy cơ diễn ra trên diện rộng. Điều này do nhiều nguyên nhân mà một trong số
những nguyên nhân chính lại nằm trong khung quản trị của các công ty đại chúng
trong việc ngăn ngừa các xung đột lợi ích một cách hiệu quả.
Hàng loạt các bất cập liên quan đến cơ cấu tổ chức, đảm bảo quyền và lợi ích
của cổ đông, công khai hoá thông tin và các lợi ích có liên quan, các quy định về kế
toán và kiểm toán đã nảy sinh làm ảnh hưởng đến hoạt động của nhiều công ty; các
nhóm cổ đông bị phân hoá quyền và lợi ích rất sâu sắc; quyền của cổ đông thiểu số
bị lạm dụng... Điều này do nhiều nguyên nhân khác nhau, mà một trong các nguyên
nhân chính là khung pháp lý về quản trị được ban hành và tuân thủ chưa đầy đủ làm
cơ sở để bảo vệ quyền lợi cho các cổ đông và nhà đầu tư.

7


Năm 2014, Luật Doanh nghiệp mới (thay thế cho Luật Doanh nghiệp 2005)
đã được Quốc hội thông qua và sẽ có hiệu lực thi hành từ tháng 7.2015. So với Luật
Doanh nghiệp trước đây, các quy định mới tại luật này từng bước đã tiếp cận với

các chuẩn mực và thông lệ quốc tế trong vấn đề quản lý công ty. Tuy nhiên, việc
hướng dẫn thi hành vẫn chưa được triển khai cụ thể (Nghị định của Chính phủ và
Thông tư của Bộ Tài chính), một số nội dung bất cập trước đây đã được điều chỉnh
cần phải thể chế hóa vào các văn bản cụ thể, trong đó quan trọng nhất là việc sửa
Thông tư 121/BTC theo tinh thần sửa đổi của Luật Doanh nghiệp mới.
Chính vì vậy tôi đã quyết định chọn đề tài cho bản Luận văn của mình là :
"Hoàn thiện khung pháp lý về quản trị công ty đại chúng ở Việt Nam" nhằm
đánh giá những bất cập của khung pháp lý quản trị công ty trước đây và khuyến
nghị một số nội dung cần điều chỉnh, nhằm nâng cao hiệu quả quy định pháp luật về
quản trị công ty đại chúng ở Việt Nam.
2.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu khung pháp lý về quản trị công ty đối với công ty đại chúng trên

TTCK Việt Nam nhằm:
-

Làm rõ cơ sở lý luận về khung pháp lý QTCT đại chúng: các nguyên tắc, mô

hình và nội dung quản trị công ty đại chúng.
-

Làm rõ khung pháp lý và đặc trưng QTCT đối với công ty đại chúng tại Việt

Nam.
-

Chỉ ra những mặt được và hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế của


khung pháp lý về quản trị công ty đối với công ty đại chúng tại Việt Nam;
-

Kiến nghị hướng để hoàn thiện khung pháp lý về quản trị công ty đối với

công ty đại chúng tại Việt Nam theo tinh thần của Luật Doanh nghiệp 2014;
3.

Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

-

Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Hệ thống pháp lý về quản trị công ty đối

với công ty cổ phần đại chúng trên TTCK Việt Nam hiện nay.
-

Phạm vi nghiên cứu:

8


 Về nội dung: Đề tài nghiên cứu thực quản trị công ty của 100 công ty đại
chúng niêm yết có vốn hóa thị trường lớn nhất trên thị trường chứng khoán Việt
Nam năm 2014.
 Về không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu, đề xuất các giải pháp để
nhằm hoàn thiện khung pháp lý về quản trị công ty đại chúng tại Việt Nam.
-

Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2010 đến năm 2014.


4.

Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch

sử của chủ nghĩa Mác Lê Nin, luận văn sử dụng phương pháp chính là thu thập
thông tin và xử lý thông tin để tiến hành khảo sát, phân tích, đánh giá các đặc điểm
nổi bật và chất lượng quản trị công ty của các công ty đại chúng tại Việt Nam và đề
xuất giải pháp tính pháp lý nhằm nâng cao chất lượng quản trị công ty đại chúng tại
Việt Nam.
5.

Kết cấu Luận văn
Kết cấu của Luận văn bao gồm 4 phần:
-

Chương 1: Tổng quan nghiên cứu và cơ sở lý luận

-

Chương 2: Phương pháp nghiên cứu

-

Chương 3: Đánh giá thực thi khung pháp lý về quản trị công ty đối với
công ty đại chúng ở Việt Nam

-


Chương 4: Hoàn thiện khung pháp lý về quản trị công ty đại chúng ở Việt
Nam.

6.

Những đóng góp của luận văn
- Hệ thống hóa những vấn đề cơ bản về quản trị công ty đại chúng theo

chuẩn mực và thông lệ quốc tế;
- Đánh giá hiện trạng khung pháp lý về quản trị công ty tại Việt nam và thực
trạng áp dụng quản trị công ty đối với các công ty cổ phần niêm yết trên TTCK.
- Đề xuất, kiến nghị một số giải pháp để hoàn thiện khung pháp lý về quản trị
công ty tại Việt Nam.

9


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1

Tổng quan nghiên cứu khung pháp lý về quản trị công ty đại chúng

1.1.1 Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Việt Nam vẫn là một quốc gia ít được nghiên cứu trong các công trình về
quản trị công ty đại chúng.
Trong giai đoạn từ đầu những năm 2000 trở về trước, sự thiếu vắng các
nghiên cứu về Việt Nam là có thể hiểu được, bởi lẽ thời gian đó Việt Nam mới bắt
đầu tiến trình hội nhập quốc tế, chưa chịu ảnh hưởng mạnh từ những “sự kiện quản

trị công ty” quốc tế, bản thân hệ thống công ty cổ phần trong nước đang hình thành
nên chưa tr ở thành mối quan tâm trong của các nhà nghiên cứu.
Trong các nghiên cứu và báo cáo các năm sau này của Tổ chức hợp tác phát
triển kinh tế (OECD) như “Policy Brief on Corporate Governance of Banks in Asia”
(2006);“Implementing the White Paper on Corporate Governance in Asia” (2006);
“Asia: Overview of Corporate Governance Frameworks” (2007); “Enforcement of
Corporate Governance in Asia” (2007); and “Guide on Fighting Abusive Related
Party Transactions in Asia” (2009) và “Corporate Governance in Asia 2011:
Progress and Challenges” (OECD 2011 ), cái tên Việt Nam được nhắc tới thường
xuyên hơn với tư cách là một trong những quốc gia tham gia khảo sát. Đây là các
khảo sát tình hình tiến bộ của các quốc gia dựa trên 6 nhóm yếu tố QTCT được
OECD khuyến nghị (đảm bảo cơ sở cho một khuôn khổ QTCT hiệu quả; quyền của
cổ đông và các chức năng sở hữu cơ bản; đối xử bình đẳng đối với cổ đông; vai trò
của các bên có quyền lợi liên quan trong quản trị công ty; công bố thông tin và tính
minh bạch; trách nhiệm của HĐQT). Tuy nhiên, đó không phải là những nghiên cứu
được thiết kế riêng cho Việt Nam.
Vì sao lại có hiện tượng này? Hầu hết các nghiên cứu quốc tế đều dựa trên
các nghiên cứu trước đó, được công bố trong những tạp chí, hội thảo hay những

10


cuốn sách và báo cáo có ảnh hưởng và được công nhận rộng rãi. Nhưng những
những bài báo khoa học như vậy về Việt Nam hiện hay còn quá ít.
Tuy nhiên, vẫn có những nghiên cứu của các tác giả Việt Nam được công bố
trên một số tạp chí quốc tế ít có ảnh hưởng hơn. Các nghiên cứu này đa phần về
khía cạnh pháp lý của QTCT tại Việt Nam, một bài về mức độ công bố thông tin và
một bài mối kiểm định mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và QTCT sử dụng dữ
liệu của các công ty Việt Nam.
Nhìn lại những phân tích trên, có thể nói rằng chưa có một nghiên cứu toàn

diện nào về QTCT tại Việt Nam được công bố trên các tạp chí khoa học bằng tiếng
Anh.

1.1.2 Tình hình nghiên cứu tại Việt Nam
Tại Việt Nam, các nghiên cứu về khung pháp lý về quản trị công ty đại
chúng ở cấp độ doanh nghiệp cũng đang trong giai đoạn phát triển. Nghiên cứu nổi
bật nhất phải kể đến Báo cáo thẻ điểm QTCT của Công ty tài chính Quốc tế (IFC)
được thực hiện hàng năm kể từ năm 2010; cho đến này đã có báo cáo 2010, 2011 và
2012. Dựa vào hệ thống 6 nguyên tắc QTCT mà OECD khuyến cáo, IFC đã tiến
hành đánh giá tình hình thực thi các nguyên tắc này ở 100 công ty niêm yết lớn nhất
trên hai sở giao dịch HSX và HNX. Kết quả ba năm đều cho thấy mức điểm QTCT
của các công ty đại chúng lớn nhất Việt Nam chưa vượt qua mức 50% (Tổ chức Tài
chính Quốc tế (IFC) 2011, 2012).
Nghiên cứu của tác giả Nhâm Phong Tuân và Nguyễn Anh Tuấn đăng trên
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh, Tập 29, Số 1 (2013) 1-10 về
Vấn đề đại diện của các công ty đại chúng ở Việt Nam đã cho thấy sự suy giảm
trong kết quả áp dụng những nguyên tắc quản trị công ty hiệu quả, sự hạn chế hoạt
động giám sát thực thi của các cơ quan quản lý, Ủy ban chứng khoán Nhà nước và
Sở giao dịch chứng khoán đối với các công ty đại chúng. Qua đó, kết luận bản thân

11


các công ty đại chúng chưa làm tròn các trách nhiệm của mình trong việc xây dựng
môi trường đầu tư có chất lượng ở Việt Nam.
Trong năm 2011, một số thành viên nhóm nghiên cứu đã tiến hành đánh giá
chất lượng QTCT của các CTĐC niêm yết tại Sở giao dịch Hà Nội. Kết quả đánh
giá được đưa ra sau một khảo sát gồm hai bước cho thấy chất lượng QTCT của
doanh nghiệp HNX đang ở mức trung bình (25,73/51), đáp ứng ở mức tối thiểu yêu
cầu của các quy định QTCT hiện hành, tuy nhiên đã xuất hiện một số sự thực thi

tiến bộ nhỏ ở vài doanh nghiệp. Dựa vào phân tích đó, các tác giả đề xuất hai nhóm
giải pháp chính để cải thiện chất lượng QTCT đó là sử dụng cải cách khung khổ làm
đòn bẩy và tăng cường đào tạo kiến thức QTCT cho các nhóm liên quan.
Kết quả nghiên cứu này vừa có sự thống nhất, vừa có những điểm khác biệt
so với kết quả của IFC do hai hệ thống chỉ tiêu khác nhau. Điểm thống nhất là cả
hai nghiên cứu đều chỉ ra chất lượng QTCT ở mức trung bình của các công ty niêm
yết tại Việt Nam; còn điểm khác biệt là mỗi nghiên cứu có những phân tích bên lề
riêng biệt. Tuy nhiên cả hai nghiên cứu này đều mới chỉ dừng lại ở đánh giá và giải
thích thực trạng khung pháp lý quản trị công ty đại chúng thông qua những diễn
biến kinh tế vĩ mô đương thời.
Một phân tích đầy đủ hơn về khung pháp lý về quản trị công ty đại chúng tại
Việt Nam bên cạnh chất lượng hiện tại còn đang bị bỏ ngỏ, và đó chính là mục tiêu
nghiên cứu hướng tới khi thực hiện đề tài nghiên cứu này.

1.2 Cơ sở lý luận khung pháp lý về quản trị công ty đại chúng
1.2.1 Khái quát về công ty đại chúng
1.2.1.1Nguồn gốc hình thành công ty đại chúng
Dưới ống kính lịch sử, các nhà nghiên cứu trên Thế giới đã cho rằng cách
đây 3.000 năm trước Công nguyên, từ người Assyria, Phoenecia rồi người Hy Lạp,
đến những societas, corpora của người La Mã chính là mầm mống hình thành nên

12


những ý tưởng như: Một nhóm có thể người hợp lại với nhau tạo nên một thực thể
tách rời khỏi họ để hội họp làm ăn, sau này gọi là pháp nhân để phân biệt cá
nhân.Từ cá nhân và chịu hoàn toàn trách nhiệm đến hùm hạp với giới hạn trách
nhiệm… tương ứng với những ý tưởng độc đáo hình thành các loại hình doanh
nghiệp ngày nay. Và công ty cổ phần (CTCP) không phải là ngoại lệ.
Dưới góc độ kinh tế, quan sát từ vị trí của người bỏ vốn đầu tư, khi khởi

nghiệp vẫn dựa vào mô hình doanh nghiệp gia đình, do một vài cá nhân hoặc gia
đình làm chủ, tự bỏ vốn, tự điều hành công việc kinh doanh. Qua thời gian công ty
cổ phần được coi là sản phẩm của một chuỗi quá trình đầu tư, nó đi từ nhu cầu, tâm
lí nhà đầu tư muốn mở rộng việc kinh doanh, hùm hạp làm ăn đến việc gọi vốn từ
các chủ thể khác mà không cần mối quan hệ thân hữu gắn bó như trước kia. Sự phát
triển mạnh mẽ của Chủ nghĩa Tư bản đòi hỏi sản xuất kinh doanh phải có quy mô
ngày càng to lớn, cạnh tranh và độc quyền có mức độ ngày càng gay gắt. Các chủ tư
bản đi đến thoả hiệp với nhau nhằm thu được lợi nhuận tối đa và bành trướng hơn
nữa thế lực kinh tế của mình. CTCP là hình thức kinh doanh thoả mãn được những
nhu cầu này, nó tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút và tập trung tư bản, như
nhận định của Các Mác “Qua các công ty cổ phần, sự tập trung đã thực hiện được
việc đó trong nháy mắt”
Dưới sự quản lý cơ quan hành chính. CTCP ra đời sau các loại hình công ty
đối nhân nhưng là hình thức đầu tiên của loại hình công ty đối vốn. Khác với sự ra
đời của hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn – là sản phẩm của các nhà lập pháp
xuất phát từ nhu cầu của thực tiễn kinh doanh, CTCP được hình thành trong hoạt
động kinh doanh và do nhu cầu của các nhà kinh doanh rồi sau đó mới được pháp
luật thừa nhận và được hoàn thiện thành một chế định pháp lý.
Kể từ sau Luật doanh nghiệp 1999, bên cạnh cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà
nước cùng việc thay đổi cơ chế cấp phép sang cơ chế đăng ký kinh doanh và hậu
kiểm đã tạo ra làn sóng thành lập doanh nghiệp của nhà đầu tư tư nhân. Năm 2003,
với định hướng xây dựng pháp luật doanh nghiệp thống nhất cho các nhà đầu tư
thuộc các thành phần kinh tế, cùng mục tiêu nỗ lực tham gia Tổ chức thương mại

13


thế giới (WTO) thực hiện các cam kết quốc tế trong quá trình hội nhập Luật Doanh
nghiệp 2005 được thông qua tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa 9 (11/2005) đưa ra
những quy định đầy đủ chi tiết về loại hình CTCP (53 điều) và tiếp tục được ghi

nhận theo hướng tiếp cận dần đến các chuẩn mực quốc tế về quản trị công ty cũng
như tạo sân chơi bình đẳng cho tất cả nhà đầu tư tư nhân.
Cùng trong thời gian này, sự ra đời thị trường chứng khoán tại Việt Nam đã
góp phần gia tăng lợi thế so sánh giữa công ty cổ phần so các loại hình doanh
nghiệp khác với đặc điểm đại chúng hóa công ty cổ phần thu hút vốn đầu tư bên
ngoài. Luật chứng khoán 2006 ban hành và lần đầu tiên văn bản quy phạm pháp luật
ghi nhận loại hình công ty cổ phần với tên gọi “công ty đại chúng”.
1.2.1.2Khái niệm về công ty đại chúng
a. Tại các nước phương Tây
Thuật ngữ “công ty đại chúng” có nguồn gốc sâu xa từ triết lý pháp luật
phương Tây, họ lấy cá nhân (người) làm chủ thể pháp luật trong các giao dịch để
quy nạp mọi tổ chức kinh doanh dưới tiêu chí “pháp nhân”. Tùy theo pháp luật từng
quốc gia mà các tổ chức kinh doanh định hình ba loại chính: công ty, hợp danh và
cá nhân kinh doanh. Sau đó, các học giả phương Tây tiếp tục chia công ty thành hai
hình thức công ty nội bộ và công ty đại chúng:


Theo Điều 112 đạo luật công ty của Úc, hướng dẫn các nhà đầu tư có

thể lựa chọn hình thức công ty nội bộ gồm: Công ty trách nhiệm hữu hạn (bởi) cổ
phiếu và công ty trách nhiệm vô hạn (hoặc công ty công cộng). Điểm khác biệt cơ
bản giữa hai loại hình này chính là bộ máy quản lý điều hành, nếu như công ty nội
bộ chỉ cần phải có ít nhất một giám đốc và không bắt buộc phải có thư ký công ty,
thì các công ty công cộng phải có ít nhất ba giám đốc và ít nhất một thư ký công ty.
Hơn nữa, chỉ có công ty công cộng mới có quyền huy động vốn bằng việc phát hành
cổ phiếu ra công chúng. Tuy nhiên, một công ty công cộng ở Úc muốn phát hành cổ
phiếu huy động vốn hoặc niêm yết trên thị trường chứng khoán phải tuân thủ thêm
một số điều kiện nhất định qui định của pháp luật chứng khoán nhằm mục đích bảo

14



vệ các cổ đông công chúng cũng như hoạt động lành mạnh của thị trường chứng
khoán. Tương tự như pháp luật Anh, Úc, theo pháp luật Mỹ công ty đại chúng có
tên gọi C Corporation nhằm phân biệt S Corporation là hình thứccông ty chỉ phát
hành loại cổ phần duy nhất, số cổ đông không vượt quá 100, cổ đông phải là cá
nhân và mang quốc tịch Mỹ.
Điểm chung từ thuật ngữ “công ty chứng khoán” trong pháp luật Anh, Mỹ và
Úc đều quy định trong Luật Công ty. Tuy nhiên, đối với những nước mà Luật Công
ty không đề cập thì Luật Chứng khoán đương nhiên quy định cụ thể:


Điều 110 Luật Chứng khoán Bugari quy định: “Công ty đại chúng là

công ty: đã phát hành cổ phần của công ty theo các điều kiện của việc phát hành ra
công chúng lần đầu, hoặc đã đăng ký với Ủy ban chứng khoán về việc phát hành
chứng khoán với mục đích tham gia giao dịch tại thị trường chứng khoán được quản
lý”.


Theo Luật Chứng khoán Ba Lan (Khoản 4 Điều 4): “Công ty đại

chúng là công ty có cổ phiếu của ít nhất một lần phát hành được chấp thuận cho
giao dịch nơi công chúng”.
Qua các quy định trên, người viết cho rằng, thuật ngữ “công ty đại chúng” là
thuật ngữ mang tính ước lệ, là tình trạng pháp lý mà doanh nghiệp chạm đến hay rơi
vào, sau khi tiến hành bước “chuyển mình về quy mô vốn và cách thức quản trị”,
ngoài ra, một công ty cũng có thể tổ chức với tình trạng công ty đại chúng ngay từ
khi mới thành lập. Mặt khác, pháp luật các nước đã mở đường “bước chuyển” này
chính những quy định loại hình công ty nội bộ được xem giai đoạn để tích lũy dọn

đường bước qua sân chơi đại chúng. “Bước chuyển” này trong hoạt động thị trường
chứng khoán là thủ tục IPO (initial public offering).
b. Tại Việt Nam
Trước khi Luật Chứng khoán 2006 được ban hành, tại Việt Nam, pháp luật
về chứng khoán và thị trường chứng khoán chưa đặt ra cơ sở pháp lý (định nghĩa)

15


về thuật ngữ “công ty đại chúng”. Tuy nhiên thực tế đã xuất hiện mô hình công ty
đại chúng dưới dạng:
-

Các công ty niêm yết phát hành chứng khoán số lượng lớn ra công chúng, từ
trước khi Luật Chứng khoán 2006 có hiệu lực (Quyết định 07/2002/QĐVPCP về việc ban hành Điều lệ Mẫu áp dụng công ty niêm yết).

-

Công ty cổ phần phát hành riêng lẻ nhiều lần có số lượng cổ đông lớn, theo
Luật Doanh Nghiệp 1990, 1999.

-

Doanh nghiệp Nhà nước thực hiện cổ phần hóa.
Điều bất cập giữa cả 3 mô hình trên chính là nghĩa vụ minh bạch, công khai

hóa thông tin, đây là quy định bắt buộc đối các công ty niêm yết trong thời kỳ đó.
Về vốn lẫn quy mô thì cả ba mô hình trên đều tương đồng, trong khi đó các công ty
niêm yết phải thực hiện nghĩa vụ trên một cách chặt chẽ và đó chính là một trở ngại
chủ yếu khiến các mô hình Công ty cổ phần và Doanh nghiệp Nhà nước ngại đưa

chứng khoán ra niêm yết.
Chính vì vậy pháp luật Việt Nam đã du nhập và tiếp nhận quy định pháp
luật tiến bộ của các nước đi trước, Luật Chứng khoán 2006 đã xây dựng một
chương riêng về công ty đại chúng. Theo điều 25 Luật Chứng khoán 2006 và Luật
sửa đổi bổ sung một số điều Luật chứng khoán 2010 quy định công ty đại chúng là
công ty cổ phần thuộc ba loại hình sau đây:


Công ty đã thực hiện chào bán cổ phiếu ra công chúng; đây là hoạt

động phát hành cổ phiếu ra công chúng và được thực hiện theo một trong ba
cách thức: Thông qua phương tiện thông tin đại chúng, kể cả Internet; Chào
bán chứng khoán cho từ một trăm nhà đầu tư trở lên, không kể nhà đầu tư
chứng khoán chuyên nghiệp; Chào bán cho một số lượng nhà đầu tư không
xác định.


Công ty có cổ phần được niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán; tức

công ty đưa chứng khoán có đủ điều kiện vào giao dịch tại Sở giao dịch
chứng khoán.

16




Công ty có cổ phiếu được ít nhất một trăm nhà đầu tư sở hữu, không

kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và vốn đều lệ đã góp từ mười tỷ

đồng Việt Nam trở lên.
1.2.1.3Đặc điểm công ty đại chúng
a. Là công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp 2005

Đây là đặc điểm đầu tiên được ghi nhận tại điều 25 Luật chứng khoán sửa
đổi bổ sung 2010. Theo đó, công ty đại chúng mang đầy đủ các đặc điểm cơ bản
công ty cổ phần, gồm:


Về vốn điều lệ

Vốn điều lệ của CTCP được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần
và được thể hiện dưới hình thức cổ phiếu. Các cổ phần có giá trị bằng nhau và một
cổ đông có thể sở hữu nhiều cổ phần. Pháp luật không hạn chế số lượng tối đa cổ
phần mà một cổ đông sở hữu. Mặt khác, Luật doanh nghiệp 2005 không quy định
vốn điều lệ phải chia thành bao nhiêu phần, mỗi phần có giá trị bao nhiêu. Tuy
nhiên, theo Luật chứng khoán sửa đổi bổ sung 2011 quy định mệnh giá cổ phiếu
chào bán lần đầu ra công chúng là 10.000 đồng. Chính vì vậy, một CTCP muốn
chào bán cổ phiếu ra công chúng thì trước đó phải thực hiện việc quy mệnh giá cổ
phiếu về 10.000 đồng, việc chia vốn điều lệ của công ty cổ phần thành các phần nhỏ
như ý tứ các nhà lập pháp đã làm hoạt động của CTCP mang tính xã hội hóa cao.
Bất kỳ cá nhân, tổ chức nếu không thuộc trường hợp cấm sở hữu cổ phần (mua cổ
phiếu) đều có thể đầu tư vào CTCP.
Luật doanh nghiệp 2005 không quy định mức vốn điều lệ tối thiểu (vốn pháp
định). Tuy nhiên, CTCP kinh doanh một số nghành nghề nhất định mà pháp luật
quy định vốn pháp định, thì vốn điều lệ không được thấp hơn vốn pháp định.
Khái niệm “cổ phần” trong vốn điều lệ chỉ tồn tại ở công ty cổ phần mà
không tồn tại ở bất kỳ một loại hình doanh nghiệp nào khác, đây là đặc điểm chính
để phân biệt CTCP và công ty trách nhiệm hữu hạn từ 2 thành viên trở lên, theo đó


17


vốn điều lệ được các thành viên góp hoặc cam kết và không bắt buộc chia thành các
phần bằng nhau, phần góp vốn được biểu hiện Giấy chứng nhận góp vốn. Tuy nhiên
khác hoàn toàn cổ phiếu của cổ đông, Giấy chứng nhận này không được xem loại
giấy tờ và không được chuyển nhượng trên thị trường chứng khoán như cổ phiếu
của các cổ đông CTCP.


Về chủ sở hữu công ty và trách nhiệm hữu hạn của chủ sở hữu.

Chủ sở hữu CTCP là các cổ đông – người sở hữu ít nhất một cổ phần của
công ty. Số lượng cổ đông tối thiểu 3 và không hạn chế số lượng tối đa. Cổ đông
công ty có thể là cá nhân không thuộc phạm vi điều 39 luật doanh nghiệp 2005. Đối
với tổ chức phải có tư cách chủ thể của pháp luật sở hữu mới có thể trở thành cổ
đông, vì cổ đông là đồng chủ sở hữu công ty. Như vậy, công ty trách nhiệm hữu
hạn, công ty hợp danh, hợp tác xã và công ty cổ phần đều có thể trở thành cổ đông
CTCP. Tuy nhiên, doanh nghiệp tư nhân không thể trở thành cổ đông công ty vì chủ
doanh nghiệp tư nhân sở hữu tài sản đầu tư vào doanh nghiệp tư nhân và tài sản có
được từ hoạt động kinh doanh, còn bản thân doanh nghiệp tư nhân không sở hữu tài
sản này.
Các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác
của công ty trong phạm vi số vốn cổ phần đã góp vào công ty – tính chịu trách
nhiệm hữu hạn cổ đông theo người viết được lý giải bởi CTCP là một pháp nhân
độc lập chính cổ đông thể hiện: CTCP là một chủ thể kinh doanh có sự tách bạch
về tài sản, hoàn toàn độc lập tài sản cổ đông và có cơ cấu tổ chức độc lập được sự
thừa nhận pháp luật qua Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, CTCP phải tự
chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của mình trong phạm vi
số tài sản quyền sở hữu tài sản công ty, là nguyên đơn, bị đơn trong các quan hệ tố

tụng mà công ty là một bên trong tranh chấp. Như vậy, các cổ đông chỉ có quyền
“sở hữu kinh tế” đối với phần vốn mà họ đã góp vào công ty bằng việc mua cổ phần
thông qua quy chế cổ đông, được quyền chia lợi nhuận và phần tài sản còn lại khi
công ty giải thể, quyền ưu tiên mua cổ phần khi công ty phát hành thêm cổ phần.
Với đặc trưng tính chịu trách nhiệm hữu hạn của cổ đông, pháp luật gián tiếp

18


khuyến khích nhà đầu tư với tâm lý an toàn nhất định về vốn, đầu tư vào những lĩnh
vực có độ rủi ro cao đi đôi với nguyên tắc phân tán rủi ro trong kinh doanh.


Cấu trúc vốn và tài chính linh hoạt.

Các qui luật kinh tế thị trường chỉ ra rằng cùng với sự lưu thông hàng hóa là
sự lưu thông tiền tệ, tức là sự chu chuyển các nguồn vốn. Sự phát triển của công ty
cổ phần tỷ lệ thuận với sự luân chuyển các nguồn vốn trong nền kinh tế. Sự vận
động của vốn trong công ty cổ phần vừa chịu sự chi phối khách quan của các qui
luật kinh tế, vừa bị ảnh hưởng bởi ý chí chủ quan của con người. So sánh các đặc
điểm khác, vốn trong CTCP mang yếu tố năng động nhất, bởi lẻ:
-

Theo qui định của Luật Doanh nghiệp thì công ty cổ phần ở Việt Nam

có thể qui định và phát hành nhiều loại cổ phiếu khác nhau như: cổ phiếu phổ
thông, cổ phiếu ưu đãi (trong cổ phiếu ưu đãi có: cổ phiếu ưu đãi biểu quyết, cổ
phiếu ưu đãi cổ tức, cổ phiếu ưu đãi hoàn lại và các loại cổ phiếu ưu đãi khác…) và
các loại trái phiếu. Đây sẽ là những loại chứng khoán được phát hành rộng rãi ra
công chúng nhằm tăng khả năng thu hút vốn đầu tư cho kinh doanh của công ty.

-

Cổ động công ty có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần, trừ hai ngoại

lệ. Khả năng tự do chuyển nhượng cổ phần giúp các nhà đầu tư dễ dàng tham gia
vào và rút vốn ra khỏi công ty bằng cách mua hay chuyển nhượng cổ phần, đồng
thời giúp công ty thu hút vốn đầu tư một cách thuận lợi so các loại hình doanh
nghiệp khác.
b. Là tổ chức kinh tế cơ chế quản lý tập trung cao
Với tư cách là một pháp nhân độc lập, trong công ty đại chúng có sự tách
biệt giữa quyền sở hữu và cơ chế quản lý. Sự tách biệt triệt để này chính điểm khác
biệt giữa công ty đại chúng và công ty cổ phần theo luật doanh nghiệp 2005. Theo
đó, cơ cấu tổ chức nội bộ của công ty đại chúng theo quy định pháp luật như chủ
tịch hội đồng quản trị không được kiêm nhiệm chức danh Tổng giám đốc điều hành,
trừ khi được phê chuẩn tại Đại hội đồng cổ đông thường niên hoặc công ty đại
chúng niêm yết trên Sở giao dịch chứng khóan (Trung tâm giao dịch chức khoán)

19


bắt buộc quy định chức danh Thư ký công ty. Rõ ràng việc quy định pháp luật như
vậy nhằm tạo sự giám sát trong mối quan hệ nội bộ công ty cũng sự tạo sự kiểm
soát thuận tiện từ phía cơ quan Nhà nước. Để có thể phân biệt cụ thể hơn, mình
trích bản so sánh công ty đại chúng và công ty cổ phần, dưới đây:
Bảng 1.1: So sánh công ty đại chúng và công ty cổ phần tư nhân
TIÊU CHÍ

Đặc trưng

CÔNG TY ĐẠI CHÚNG


CÔNG TY CỔ PHẦN TƯ NHÂN

+ Chào bán cổ phần ra công chúng

+ Không

+ Niêm yết cổ phiếu trên SGDCK

+ Không

- Có ít nhất một trăm cổ đông và có

+ Có ít nhất ba cổ đông.

vốn điều lệ đã góp từ 10 tỷ động Việt
Nam trở lên
Phát hành

+ 10 tỷ đồng

+Không bắt buộc, trừ những công ty
hoạt động một số lĩnh vực cụ thể nào đó

cổ phiếu

Chuyển
nhượng cổ
phần


+Phát hành công khai

+ Phát hành nội bộ ( chỉ giới hạn trong

+Phát hành nội bộ phải được

các cổ đông sáng lập và những nhóm

UBCKNN phê chuẩn

người được xác định trước). Không

+Không hạn chế (trừ cổ phần ưu đãi

được phát hành cổ phiếu một cách công

biểu quyết. Không cần phải có sự

khai.

đồng ý của các cổ đông khác hoặc

+ Khả năng chuyển nhượng cổ phần là

của công ty

không hạn chế, ngoại trừ cổ phần ưu đãi
biểu quyết, cổ phần của các cổ đông
sáng lập và một vài hạn chế cụ thể khác
được thể hiện trong Điều lệ công ty


Thư ký

+ Bắt buộc phải có đối với các công

công ty

ty niêm yết

Công bố
thông tin

+ Không bắt buộc

+ Công ty phải công bố những thông

+ Không bắt buộc phải công bố thông

tin liên quan đến tình hình tài chính,

tin ra công chúng

hoạt động và quản trị

20


c. Có lượng cổ đông nhiều.
Bản thân tên gọi “đại chúng” đã cho thấy số lượng cổ đông công ty, cổ đông
công ty đại chúng không giới hạn và có khả năng thay đổi thường xuyên. Đây được

xem là ưu điểm và cũng là nhược điểm của loại hình này.
Ưu điểm là do tính đại chúng, công ty được đặt dưới sự kiểm soát của xã hội
thông qua việc công khai các thông tin về hoạt động kinh doanh, trách nhiệm Hội
đồng quản trị và Ban điều hành và người quản lý phải chăm lo cho sự phát triển
công ty. Từ ưu điểm này, cổ đông đặt ra vấn đề nghĩa vụ minh bạch thông tin và
bảo vệ cổ đông thiểu số trong công ty đại chúng (vấn đề này chúng tôi sẽ đề cập
phần quản trị công ty). Ngược lại, do quá nhiều cổ đông cũng như số lượng cổ đông
thường xuyên thay đổi dẫn đến tình trạng khó quản lý cổ đông cũng như mất tính ổn
định trong quản trị công ty khi có sự thay đổi các cổ đông lớn.
d. Mối liên hệ chặt chẽ thị trường chứng khoán.

Công ty đại chúng là loại hình công ty được thiết kế phù hợp để huy động
vốn từ công chúng đầu tư thì thị trường chứng khoán chính là phương tiện để loại
hình công ty này thực hiện điều đó. Ngoài sự điều chỉnh Luật doanh nghiệp 2005,
công ty đại chúng còn chịu sự điều chỉnh của Luật chứng khoán 2006 và các văn
bản hướng dẫn thi hành, với tư cách luật chuyên nghành. Ngoài ra trong một số lĩnh
vực đặc biệt như ngân hàng, bảo hiểm… còn phải chịu sự điều chỉnh luật chuyên
nghành đó.
Tóm lại, hiểu nắm bắt thuật ngữ “công ty đại chúng” chính là tiền đề quan
trọng để chúng ta có thể thực thi quản trị công ty hiệu quả.
1.2.2 Khái quát quản trị công ty đối với công ty đại chúng
1.2.2.1Đặc điểm của QTCT tại các công ty đại chúng
Khái niệm về quản trị công ty
Thế nào là QTCT là một vấn đề được nhìn nhận từ nhiều phía. Từ góc độ cá
nhân công ty, QTCT là phương thức tối đa hóa mọi giá trị của công ty nhằm đáp

21


ứng những nghĩa vụ pháp lý, trách nhiệm tài chính và trách nhiệm hợp đồng của

công ty. Định nghĩa này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc HĐQT cần phải cần
cân đối được lợi ích của các cổ đông với những người có lợi ích liên quan khác với
công ty nhưu là các nhân viên, các khách hàng, người cung cấp, nhà đầu tư và cộng
đồng nhằm đạt được những giá trị bền vững lâu dài. Xét trên phương diện chính
sách vĩ mô, QTCT là việc thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp và đảm bảo
tính trách nhiệm trong việc thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp và đảm bảo
tính trách nhiệm trong việc thực thi các quyền lực của họ. Vai trò các chính sách
của nhà nước là tạo ra cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp và thực thi một kỷ
luật nhằm giảm thiểu sự xung đột giữa lợi ích xã hội và lợi tích tư nhân, đông thời
bảo vệ được lợi ích của những người có quyền lợi liên quan với doanh nghiệp.
Mô hình quản trị công ty đại chúng
Có thể nói mô hình QTCT trong CTĐC phụ thuộc chủ yếu vào cơ cấu tổ
chức và hoạt động của mỗi công ty. Hệ thống QTCT bao gồm một hệ thống các luật
lệ quy định mối quan hệ giữa các cổ đông, ban quản lý công ty, các chủ nợ, chính
phủ và những người khác có quyền lợi tài chính trong công ty. Nó cũng bao gồm
một hệ thống các cơ chế trực tiếp hoặc gián tiếp cưỡng chế thi hành các quy định
này. Các quy định cũng như các cơ chế thực thi các quy định này ở các nước thì
khác nhau, thậm chí đối lập với nhau. Đó là do ảnh hưởng của các yếu tố như chính
trị, kinh tế, pháp luật, văn hóa và lịch sử. Vì lý do này nên các nước khác nhau sẽ có
những mô hình QTCT đối với các CTĐC khác nhau.
Việc lựa chọn mô hình QTCT của các CTĐC phụ thuộc vào ba nhân tố: cơ
cấu sở hữu, hình thức huy động vốn và cơ cấu quản lý điều hành của công ty.
Tuy nhiên, trong đó hai nhân tố chiếm vai trò chủ đạo là cơ cấu sở hữu và hình thức
huy động vốn của công ty.
Cơ cấu sở hữu
Đây là nhân tố quan trọng nhất trong việc hình thành một mô hình QTCT ở
bất cứ quốc gia nào. Cơ cấu sở hữu của một CTĐC là mấu chốt để quyết định bản
chất của hệ thống QTCT. Việc “ai là người sở hữu của công ty” quyết định những

22



vấn đề căn bản của một hệ thống QTCT như ai là người là ra quyết định trong công
ty, các biện pháp nào được áp dụng để điều chỉnh quyền lợi giữa những người có
quyền lợi tài chính trong công ty và cơ chế giám sát mà cổ động thự chiện đối với
ban lãnh đạo ccông ty. Cơ cấu sở hữu bao gồm hai khía cạnh chủ yêu là Mức độ tập
trung quyền sở hữu và thành phần sở hữu.
Mức độ tập trung quyền sở hữu
Mức độ tập trung quyền sở hữu trong công ty quyết định sự phân chia quyền
lực giữa các nhà quản lý và các cổ đông. Việc tập trung hay phân tán sở hữu quyết
định công ty được kiểm soát chặt chẽ bởi một nhóm những cổ đông chính hay bởi
những cổ đông nhỏ lẻ. Mức độ tập trung quyền sở hữu cũng quyết định cơ chế phân
bổ quyền lực và lợi ích giữa những người có quyền lợi tài chính trong công ty và cơ
chế giám sát của các cổ đông.
Sở hữu phân tán trong CTĐC: Khi quyền sở hữu được phân bổ cho một số
lượng lớn các cổ đông nhỏ lẻ thì có nghĩa công ty có một cơ cấu sở hữu phân tán.
CTĐC như đã phân tích ở tren có đặc điểm là sở hữu phân tán. Trong cơ cấu sở hữu
mang tính chất phân tán, việc giám sát của các cổ đông đối với ban lãnh đạo công ty
có khuynh hướng yếu đi. Những cổ đông nhỏ lẻ thường có xu hướng gánh chi phí
quan tấm đến việc giám sát hoạt động của ban lãnh đạo công ty do họ phải gánh chi
phí giám sát rất lớn trong khi phần lợi nhuận được chia sẻ lại nhỏ. Các công ty của
Anh và Mỹ thường có cơ cấu sở hữu phân tán, việc thực thi các quyền của cổ đông
và của các chủ nợ, ngoài việc thông qua các công cụ pháp luật còn được thực hiện
thông qua các thị trường điều hành công ty như thị trường thâu tóm và thị trường sát
nhập.
Trong cơ cấu sở hữu này, vai trò của QTCT đặc biệt quan trọng đối với việc
bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của các cổ đông nhỏ lẻ. Đối với một cơ cấu sở
hữu magn tính chất phân tán, có chế chủ yếu để bảo vệ các cổ đông là hành lang
pháp lý. Các công ty có cơ cấu sở hữu phân tán được quản trị bằng HĐQT. Các
thành viên của HĐQT được bổ nhiệm thông qua Đại hội cổ đông và nắm toàn

quyền liên quan đến hoạt động kinh doanh của công ty. Các chức năng của HĐQT

23


là giữ vai trò của người giám sát các hoạt động của công ty vì quyền lợi của các cổ
đông. Các cổ đông có thể tham dự vào việc thảo luận, quyết định thành phần của
HĐQT và việc trả thù lao cho các nhà quản lý thông qua việc bỏ phiếu tại Đại hội
cổ đông. Nói một cách khác, việc QTCT được thực hiện thông qua sự thực thi các
quyền đề nghị và bỏ phiểu của các cổ đông.
Sở hữu tập trung: Khi một nhóm các cổ đông nắm trong tay phần lớn cổ
phần của công ty thì có nghĩa việc sở hữu mang tính tập trung. Khi mức độ tập
trung quyền sở hữu cao, các cổ đông lớn đóng một vai trò quan trọng trong việc
giám sát hoạt động của ban lãnh đạo công ty. Do đó, vấn đề lớn đặt ra đối với
QTCT khi cơ cấu sở hữu mang tính chất tập trung là làm thế nào để bảo vệ quyền
lợi của các cổ đông thiểu số, tránh việc các cổ đông lớn nắm quyền kiểm soát lạm
dùng quyền để hành động vì lợi ích của bản thân mình. Sự lạm dụng này có thể diễn
ra dưới hình thức đặt ra một số khoản chi trả cổ tức đặc biệt, buộc công ty phải thiết
lập những mối quan hệ giao dịch bất lợi với những công ty khác nhau mà họ điều
hành hoặc có quyền lợi lớn hơn, hay tham gia vào những dự án đầy rủi ro mà họ có
thể kiếm lợi trong khi các nhà đầu tư khác, có thể bao gồm cả các chủ nợ, phải gánh
chịu phần thua lỗ.
Thành phần sở hữu
Khía cạnh thứ hai rất đáng lưu tâm trong cơ cấu quyền sở hữu là thành phần
sở hữu, nghĩa là những cổ đông của CTĐC là ai và những ai trong số họ tạo thành
nhóm cổ đông nắm quyền kiểm soát. Một cổ đông có thể là một cá nhân, một gia
đình hoặc một nhóm gia đình, một công ty mẹ, một ngân hàng hoặc một nhà đầu tư
tổ chức (như là công ty tài chính, công ty bảo hiểm, công ty đầu tư hay quỹ đầu tư),
hoặc là một công ty phi tài chính. Mỗi một thành phần sở hữu khác nhau sẽ tạo ra
những vấn đề liên quan đến QTCT khác nhau. Một gia đình hoặc một nhóm gia

đình nếu có phần đầu tư đáng kể vào công ty thì chắc chắn sẽ có mối quan tâm lớn
đến việc đồng thời nắm quyền kiểm soát và sở hữu công ty. Một nhà đầu tư tổ chức
thì lại chỉ thường quan tâm đến lợi nhuận của công ty hơn là quyền kiểm soát. Một
ngân hàng khi đóng vai trò là cổ đông lớn của một công ty cũng dễ rơi vào tình

24


huống đưa ra những ưu đãi khi cung cấp các khoản vay., không có được những
quyết định dứt khoát trong việc chấm dứt những dự án không sinh lời và thanh lý
công ty. Tình trạng này xuất phát từ sự xung đột quyền lợi sẽ phát sinh khi ngân
hàng vừa là người sở hữu vừa là chủ nợ của công ty.
Các hình thức huy động vốn
Một nhân tố quan trọng nữa ảnh hưởng đến mô hình QTCT là hính thức huy
động vốn của CTĐC. Công ty có thể có nhiều cách để huy động vốn, và đối với mỗi
cách thức huy động vốn, mô hình quản trị của công ty phải có những cơ chế phù
hợp nhằm đảm bảo việc kiểm soát của người cấp vốn đối với các khoản đầu tư cũng
như thực hiện tốt các quyền của mình. Hình thức huy động vốn của công ty chủ yếu
tập trung vào hai dạng chính là huy động vốn từ ngân hàng và từ TTCK là vô vùng
quan trọng và có ý nghĩa sống còn. Việc huy động vốn từ TTCK được thực hiện
dưới hai hình thức là phát hành trái phiếu công ty và phát hành cổ phiếu. Trái phiếu
công ty là những thỏa thuận cho vay có thu nhập cố định giữa một công ty phát
hành và những người nắm giữ trái phiếu (trái chủ). Giống như hình thức huy động
vốn từ ngân hàng, những ngượi phát hành trái phiếu có những nghĩa vụ nhất định
theo hợp đồng như cam kết thanh toán một khoản tiền được xác định trước cho
người cho vay. Đối với những công ty áp dụng hình thức huy động vốn từ thị
trường vốn, vấn đề mấu chốt của QTCT là giải quyết những rắc tối phát sinh giữa
ban điều hành và các cổ đông cũng như trái chủ của công ty. QTCT được thực hiện
bởi các nhà đầu tư theo danh mục thông qua việc cướng chế thực thi các quyền của
cổ đông và trái chủ, và thông qua thị trường thâu tóm và sát nhập công ty.

Trong các CTĐC có mô hình tài chính dựa vào thị trường vốn, QTCT đòi hỏi
sự công khai hơn đối với các hoạt động của công ty, thực hiện đầy đủ việc công bố
thông tin, giải thích quá trình và kết quả của sự quản lý điều hành sao cho các nhà
đầu tư có đầy đủ thông tin để đánh giá đúng về công ty trên thị trường vốn. Mô hình
QTCT này đặt thị trường vào vị trí quan trọng vì công ty được điều chỉnh bởi các cơ
chế thị trường nhiều hơn là các luật lệ và do đó việc công khai hóa thông tin được
coi trọng. QTCT tập trung vào những vấn đề cơ bản nhất là cơ chế ra quyết định,

25


×