Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Giải pháp phát triển nhân lực nhóm ngành kiến trúc – xây dựng trên địa bàn TP HCM trong giai đoạn hội nhập ASEAN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (301.31 KB, 26 trang )

1
LỜI NÓI ĐẦU
Nhân lực luôn luôn là một trong những vấn đề cốt lõi được mọi doanh nghiệp
thuộc mọi lĩnh vực quan tâm hàng đầu. Theo Sở Lao động - Thương binh và Xã hội
TP.HCM, căn cứ chỉ tiêu tăng trưởng GDP của Thành phố và qua khảo sát nhu cầu nhân
lực của các doanh nghiệp, trong 6 tháng cuối năm, Thành phố sẽ cần 150.000 vị trí việc
làm. Theo đó, Quý III/2014, nhu cầu nhân lực khoảng 55.000 chỗ làm việc và Quý
IV/2014, khoảng 95.000 chỗ làm việc (trong đó 60.000 vị trí việc làm ổn định và 35.000
lao động thời vụ). Nhu cầu tuyển dụng tiếp tục tập trung nhiều vào những ngành nghề
Kinh doanh, Dịch vụ-phục vụ, Dệt may-giày da, Du lịch, Tư vấn-bảo hiểm, Cơ khí, Công
nghệ thông tin, Điện tử, Điện-điện công nghiệp-điện lạnh, Bất động sản, Kiến trúc – xây
dựng… với nhu cầu khoảng 40.000 lao động thời vụ.
Xu hướng dịch chuyển lao động cuối năm 2014 sẽ không cao, người lao động đa
phần muốn làm việc ổn định. Nhiều DN tiếp tục hoàn thiện bộ máy nhân sự để hoàn thiện
kế hoạch sản xuất kinh doanh và chăm lo tốt tiền lương-phúc lợi cho người lao động năm
2014, đồng thời chuẩn bị phát triển sản xuất-kinh doanh năm 2015. Theo ông Trần Anh
Tuấn, Phó Giám đốc Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và Thông tin thị trường lao động
TPHCM, trong 6 tháng cuối năm 2014, thị trường lao động Thành phố sẽ ổn định, phát
triển. Các nhà tuyển dụng ưu tiên tuyển dụng lao động chất lượng cao; tình trạng nhảy
việc, dịch chuyển lao động giảm do sự ổn định sản xuất, kinh doanh của các ngành nghề
của nền kinh tế.
Đóng vai trò quan trọng trong xây dựng và phát triển thành phố trở thành trung tâm
kinh tế - chính trị phía Nam của đất nước, nhân lực thuộc nhóm ngành kiến trúc – xây
dựng cần phải được quan tâm và phát triển đúng mức. Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài
“Giải pháp phát triển nhân lực nhóm ngành kiến trúc – xây dựng trên địa bàn TP HCM
trong giai đoạn hội nhập ASEAN” để nghiên cứu và hoàn thành bài tiểu luận của mình.


2
1. MỤC TIÊU - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:


+ Phân tính, đánh giá tình trạng nguồn nhân lực ngành kiến trúc, xây dựng trên địa
bàn TP HCM trong giai đoạn hội nhập ASEAN.
+ Đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành kiến
trúc, xây dựng trên địa bàn TP HCM trong giai đoạn hội nhập ASEAN.
 Phương pháp nghiên cứu: thu thập số liệu thứ cấp, mô tả thống tế, so sánh số
liệu thống kê
2. THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO NHÂN LỰC NGÀNH KIẾN TRÚC XÂY DỰNG
Dựa trên các số liệu phân tích từ dân số, ước tính GDP và ngân sách công, các
chuyên gia của tổ chức Global Construction Perspectives (GCP) và Trung tâm Kinh tế
Oxford (Đại học Oxford, Anh) đã dự báo đến năm 2020, ngành công nghiệp xây dựng
Việt Nam sẽ đạt mức tăng trưởng rất cao, bên cạnh các thị trường xây dựng khác như Ấn
độ, Trung Quốc…. Điều này cũng phù hợp với định hướng phát triển kinh tế - xã hội của
quốc gia nói chung và các tỉnh thành nói riêng.
Theo ước tính đến năm 2015, nhân lực ngành xây dựng cần có phải qua đào tạo
phải đạt trên 3 triệu người và đến năm 2020, con số này là 5 triệu người. Mục tiêu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải gắn liền với đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao,
trong đó ngành xây dựng luôn là một ngành học nhộn nhịp, thu hút nhiều học sinh theo
học, bởi tính thời đại của nó.
Thực tế cho thấy, nhân lực ngành xây dựng – kiến trúc được coi là những người có
thu nhập cao trong xã hội (từ những người làm công tác tư vấn thiết kế, thi công, giám sát,
quản lý dự án đến những người làm công tác thợ xây có tay nghề cao…) bởi tính chất đòi
hỏi kiến thức và kỹ năng lành nghề. Chọn một cơ sở đào tạo uy tín theo học để đảm bảo
chất lượng tay nghề khi ra trường là điều vô cùng quan trọng.
Không chỉ tại Việt Nam, ở các nước phát triển cũng rất thiếu nhân lực tay nghề cao
trong lĩnh vực xây dựng. Các tập đoàn Đức, Nhật bản, Singapore… gần đây cũng tập trung
nhiều vào việc tuyển dụng nhân sự khối ngành xây dựng – kiến trúc có tay nghề với mức


3
lương cao và nhiều chế độ ưu đãi. Điều cốt lõi là người lao động phải qua đào tạo để được

trang bị kiến thức, kỹ năng lẫn thái độ làm việc chuyên nghiệp.
Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những trung tâm đào tạo nhân lực lớn của
Việt Nam. Hàng năm tại thành phố có 55.000 sinh viên các trường Đại học, cao đẳng tốt
nghiệp ra trường kể cả số học viên trung cấp, công nhân kỹ thuật, đào tạo nghề ngắn hạn
có khoảng 180.000 người có nghề có nhu cầu việc làm, trong đó các ngành nghề chuyên
môn kỹ thuật chiếm 40%, các ngành nghề chuyên môn quản lý nghiệp vụ chiếm 60% tổng
số ngành nghề được đào tạo.
Lực lượng lao động đang làm việc có trên 4 triệu người chiếm tỷ lệ 72,89% so tổng
nguồn lao động. Trong tổng số lao động đang làm việc chuyên môn kỹ thuật bậc cao
chiếm 11,40%; chuyên môn kỹ thuật bậc trung chiếm 6,44%; các nghề giản đơn và thợ
chiếm 49,28% và các loại công việc khác chiếm 32,88%.
Chỉ số lao động chất lượng cao có nhu cầu tìm việc làm liên tục tăng trung bình
khoảng 5.61% qua các năm 2010-2012. Thể hiện khá rõ nét về nhu cầu tìm việc làm của
người lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật, có tay nghề và có kinh nghiệm là trên
50% người tìm việc làm có kinh nghiệm từ 1 năm trở lên và mức lương trên 6 triệu đồng/
tháng, tạo ra sự cạnh tranh gay gắt giữa những nhân lực chất lượng cao.
Bảng 1: Chỉ số cơ cấu cung nhân lực theo trình độ nghề
Chỉ số năm

STT

Trình độ

Chỉ số năm 2010

Chỉ số năm 2011

1

Trên đại học


0.74

1.35

2.66

2

Đại học

53.20

57.33

52.23

3

Cao đẳng

20.21

20.21

27.81

4

Trung cấp


19.41

15.31

13.31

5

Công nhân kỹ

2.82

4.02

0.98

thuật

2012


4
6

Sơ cấp nghề

7

Lao động phổ

thông

1.63

0.76

1.38

0.55

1.02

1.63

100%

100%

100%

Tổng số nhu cầu về trình
độ nghề bình quân hàng
năm

Nguồn: www.dubaonhanluchcmc.gov.vn
Các chuyên ngành Xây dựng, Thiết kế kiến trúc, Thiết kế nội thất, Họa viên kiến
trúc luôn thu hút hàng ngàn sinh viên theo học hàng năm bởi tính thời đại của các ngành
học này. Thực tế cho thấy nhu cầu về trường học, bệnh viện, nhà máy, xí nghiệp, cầu
đường, nhà ở… luôn phát triển theo nhu cầu phát triển của nền kinh tế - xã hội của một
quốc gia.

Riêng trong lĩnh vực nhà ở, nhìn vào diện tích sàn xây dựng nhà ở xây mới các
năm qua ở các tỉnh thành trên cả nước đều tăng rất nhanh (Thành phố Hồ Chí Minh trung
bình khoảng 8 triệu m2 mỗi năm, các tỉnh thành khác tăng trung bình từ 2 đến 4 triệu m2/
năm). Có thể thấy nhu cầu đầu tư xây dựng nhà ở luôn có thật và có xu hướng phát triển
ngày càng nhanh hơn, bởi các lí do sau:
 Tốc độ đô thị hóa ảnh hưởng đến nhu cầu đầu tư xây dựng tăng (nhà ở cho nhân dân, các
công trình hạ tầng kỹ thuật (đường xá, cầu, hệ thống ngầm..) lẫn hạ tầng xã hội (bệnh viện,
trường học), nhà máy, xí nghiệp, nhà xưởng… đáp ứng yêu cầu đô thị hóa).
 Tăng dân số tác động tới nhu cầu về nhà ở.
 Chỗ ở của con người giờ đây không chỉ ở đủ. Nhà cửa không chỉ đầy đủ chức năng mà
còn phải đẹp, phù hợp với phong cách, cá tính của chủ sở hữu.
Nhu cầu thực tế rất lớn, song nguồn nhân lực có trình độ, có tay nghề ở lĩnh vực
xây dựng, kiến trúc hiện thiếu hụt trầm trọng. Đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng luôn
là việc quan trọng hàng đầu của các cơ sở giáo dục.


5
2.1.

Nhân lực ngành kiến trúc, xây dựng trong cơ cấu lao động trên địa bàn TP
HCM
Dưới đây là nhân lực ngành kiến trúc, xây dựng trong cơ cấu lao động trên địa bàn
TP HCM:
Biểu đồ 1.1: Cơ cấu lao động trên địa bàn TP HCM

Nguồn: www.dubaonhanluchcmc.gov.vn
Nhìn vào biểu đồ trên ta thấy, ngành cơ khí – xây dựng – kiến trúc chỉ chiếm
6,73% trong tổng số nhân lực thuộc các ngành nghề trên địa bàn TP HCM. Trong khi đó,
ngành Tài chính ngân hàng chiếm tới 33,52%; ngành Điện – điện tử - công nghệ thông tin
chiếm 16,92%; ngành Marketing – kinh doanh là 13,32%,… Qua đó, ngành Kiến trúc –

xây dựng vẫn chưa thực sự phát huy hết khả năng và vai trò của mình bằng sự hiện diện
của một đội ngũ đông đảo về số lượng và vượt trội về chất lượng.
2.2.

Thực trạng cơ cấu nhân lực ngành kiến trúc, xây dựng trên địa bàn TP HCM
phân theo trình độ
Năm 2013, Dân số trong độ tuổi lao động tại thành phố Hồ Chí Minh có 06 triệu
người chiếm 75,32% tổng dân số, số lao động đang làm việc trên 4.2 triệu người chiếm


6
68,97% dân số trong độ tuổi lao động. Theo số liệu điều tra thị trường lao động thành phố
Hồ Chí Minh 2012, tỷ lệ lực lượng lao động đã qua đào tạo chiếm 59% tổng lực lượng lao
động, trong đó lực lượng lao động có trình độ cao đẳng trở lên chiếm 23,58% tổng lực
lượng lao động Trong tổng số lao động đang làm việc chuyên môn kỹ thuật bậc cao chiếm
11,40%; chuyên môn kỹ thuật bậc trung chiếm 6,44%; các nghề giản đơn và thợ chiếm
49,28% và các loại công việc khác chiếm 32,88%.
Chỉ số lao động chất lượng cao có nhu cầu tìm việc làm liên tục tăng trung bình
khoảng 22% qua các năm 2010 - 2013.
Hàng năm tại thành phố có 55.000 sinh viên các trường Đại học, cao đẳng tốt
nghiệp ra trường kể cả số học viên trung cấp, công nhân kỹ thuật, đào tạo nghề ngắn hạn
có khoảng 180.000 người có nghề có nhu cầu việc làm, trong đó các ngành nghề chuyên
môn kỹ thuật chiếm 40%, các ngành nghề chuyên môn quản lý nghiệp vụ chiếm 60% tổng
số ngành nghề được đào tạo.
Hiện nay và những năm tới, thị trường lao động thành phố Hồ Chí Minh (về nhu
cầu việc làm) tiếp tục phát triển theo chiều hướng đổi mới công nghệ, nâng cao quản lý;
phát triển quy mô sản xuất kinh doanh, quy mô doanh nghiệp tạo nhiều chỗ làm mới thu
hút lao động với nhiều ngành nghề đa dạng, đặc biệt nhu cầu việc làm chất lượng cao.
Thực tế cho thấy, thị trường lao động TP.HCM trong thời gian qua luôn thiếu lao động qua
đào tạo có trình độ tay nghề giỏi số lao động đã qua đào tạo nghề vẫn còn thấp, chiếm

khoảng 59% tổng số lao động. Trong khi đó, nhiều ngành nghề có nhu cầu tuyển dụng lớn
là công nghệ hàn, công nghệ kỹ thuật cơ điện tử, công nghệ kỹ thuật điện – điện tử, mỹ
thuật công nghiệp, kiến trúc – xây dựng, công nghệ thực phẩm…
Hiện nay các doanh nghiệp chú trọng đào tạo sau tuyển dụng chủ yếu là vì tự đào
tạo sẽ đảm bảo lao động có những kỹ năng mà doanh nghiệp cần. Phần lớn những người
sử dụng lao động không đánh giá cao các kỹ năng được dạy và cấp bằng trong hệ thống
giáo dục đào tạo công lập và các cơ sở đào tạo trong nước.
Đánh giá thị trường lao động thành phố Hồ Chí Minh:


7
 Những tích cực:
• Kinh tế thành phố có tốc độ tăng trưởng kinh tế liên tục, vai trò chủ lực đối với sự phát triển
chung của khu vực và cả nước, cơ cấu kinh tế thành phố và một phần cơ cấu nguồn nhân
lực đã và đang chuyển dịch phù hợp định hướng quá trình đô thị hóa.
• Thành phố đặc biệt quan tâm và định hướng cụ thể việc phát triển nguồn nhân lực mọi ngành
nghề, đặc biệt là Kiến trúc – xây dựng; với thế mạnh về giáo dục – đào tạo, khoa học kỹ
thuật để phát triển các ngành kỹ thuật cao và dịch vụ hiện đại.
• Các doanh nghiệp luôn tích cực phát triển năng động, quan tâm các chính sách thu hút nguồn
nhân lực đặc biệt nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn kỹ thuật. Đặc biệt sự đa dạng
ngành nghề và phát triển nhanh quy mô của các doanh nghiệp vừa và nhỏ là môi trường
phù hợp thu hút lao động là sinh viên, học sinh còn thiếu kinh nghiệm và kỹ năng nghề.
• Hệ thống dạy nghề của thành phố phát triển khá nhanh, quy mô đa ngành nghề, nhân lực
luôn được đào tạo bổ sung, đào tạo lại để thay thế các vị trí không còn phù hợp hoặc chỗ
làm việc mới theo yêu cầu trình độ, chất lượng lao động, ngành nghề chuyên môn với các
tiêu chuẩn quốc tế và khu vực.
• Sự thay đổi tích cực về nhận thức và các giải pháp đầu tư nâng cao đào tạo gắn với sử dụng
lao động, cân đối theo trình độ nghề; nhu cầu ngành nghề để thực hiện việc chuyển dịch cơ
cấu kinh tế đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa; thúc đẩy nguồn nhân lực đặc
biệt đối với thanh niên về tự học tập, nâng cao trình độ nghề và các kỹ năng nghề.

 Những hạn chế:
• Thực trạng thị trường lao động tại TPHCM luôn trong tình trạng mất cân đối trong cơ cấu
ngành nghề và trình độ chuyên môn lành nghề và nhân lực. Điều đó cho thấy, tình trạng
vừa thừa, vừa thiếu lao động chất lượng cao trong các ngành kỹ thuật, quản lý sản xuất kinh doanh, đặc biệt là ngành Kiến trúc – xây dựng đã xảy ra khá thuơngs xuyên. Nghịch
lý thiếu - thừa như trên một phần đẩy người lao động vào tình trạng thất nghiệp. Nguyên
nhân lao động thất nghiệp còn ở chỗ người học ra trường vẫn chưa định hướng đúng mức
về nghề nghiệp và việc làm; một số sinh viên chọn ngành học chưa phù hợp năng lực, sở
trường và xu hướng phát triển thị trường lao động.
• Mặc dù tỷ lệ lao động đã qua đào tạo và đang làm việc trên địa bàn TP. HCM là 59% lao
động, cao so với cả nước, nhưng lại rất thấp (đặc biệt nhu cầu về số lượng và chất lượng
nguồn nhân lực chất lượng cao các ngành nghề, trong đó có Kiến trúc – xây dựng) so với


8
yêu cầu chung của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của thành phố trong giai đoạn
2012 - 2015 và giai đoạn tiếp theo đến năm 2020 - 2025.
• Hoạt động thông tin thị trường lao động, đã tích cực thực hiện tuy nhiên chưa đồng bộ, chưa
đầy đủ, chưa chính xác, còn phân tán thông tin. Nhu cầu thông tin của nhiều người lao
động và các doanh nghiệp có nhu cầu tuyển dụng lao động chưa được đáp ứng đầy đủ,
thông tin về Cung – Cầu, giá cả lao động, luật pháp về lao động còn hạn chế, thông tin
không kịp thời và đầy đủ.
• Tình trạng phân bố nhân lực không đồng đều giữa các khu vực kinh tế, ngành kinh tế, cụ thể
là trong ngành Kiến trúc – xây dựng đã tạo ra sự mất cân đối nhu cầu nhân lực và nhu cầu
việc làm. Điều quan tâm là khu vực kinh tế phi kết cấu chiếm tỷ lệ 45% và đang có xu
hướng tăng với đa dạng ngành nghề, nhiều chỗ làm việc mới thu hút ngược lại khu vực
kinh tế chính thức.
• Những hạn chế về công tác quản lý nhà nước về nguồn nhân lực đặc biệt chưa tổ chức hệ
thống dự báo nhu cầu nhân lực, thông tin thị trường lao động, dịch vụ giao dịch thị trường
lao động (tư vấn, giới thiệu việc làm, cung ứng lao động) có hiệu quả cao.


Biểu đồ 1.2: Cơ cấu nguồn nhân lực theo ngành nghề đào tạo trên địa bàn TP HCM

Nguồn: Thống kê của Trung tâm dự báo nhu cầu nhân lực và thông tin thị
trường lao động TP HCM


9
Qua biểu đồ trên, nhân lực ngành Kiến trúc – xây dựng vẫn chiếm một tỷ lệ nhỏ
trong tổng cơ cấu nguồn nhân lực theo ngành nghề đào tạo trên địa bàn TP HCM, chỉ là
5,25%. Trong khi đó, ngành chiếm tỷ lệ cao nhất là Kế toán – kiểm toán với 25,08% do
ngành này là một trong những ngành được đào tạo rất phổ biến ở hầu hết các trường Đại
học, Cao đẳng trên địa bàn thành phố. Các ngành chiếm tỷ lệ thấp là Điện tử - viễn thông
(1,65%); Bán hàng (2,4%); Tài chính ngân hàng (2,72%);…
Cùng với sự khó khăn của nền kinh tế, thị trường bất động sản cũng không mấy
sáng sủa, hàng loạt doanh nghiệp trong ngành kiến trúc - xây dựng tạm ngưng hoặc ngưng
hoạt động, đặc biệt những doanh nghiệp vừa và nhỏ. Vì vậy, trong năm 2012 nhu cầu
tuyển dụng giảm gần 50% so năm 2011, tỷ lệ người lao động trong ngành kiến trúc - xây
dựng thất nghiệp cũng khá cao. Số chỗ làm việc trống chỉ đáp ứng được 50% nhu cầu tìm
việc làm ở các trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học.
Sự chênh lệch giữa Cung – cầu vẫn diễn ra khi mà chất lượng, số lượng, cơ cấu đào
tạo chưa cân đối và số lượng nguồn cung lao động chưa đáp ứng được với nhu cầu tuyển
dụng lao động. Mặt khác; các doanh nghiệp tái cơ cấu sản xuất cũng như tái cơ cấu bộ máy
nhân sự nên đưa ra những yêu cầu cao hơn đối với nguồn Cung lao động trên địa bàn
TP.HCM. Thực trạng thị trường lao động những năm gần đây tại thành phố luôn diễn biến
tình trạng mất cân đối trong cơ cấu ngành nghề và trình độ nghề chuyên môn lành nghề và
nhân lực; cho thấy tình trạng vừa thừa, vừa thiếu lao động chất lượng cao trong các ngành
kỹ thuật, quản lý sản xuất – kinh doanh. Vì vậy, việc tham gia đồng bộ của các ngành, các
cấp, các đoàn thể xã hội, các cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp, trường đào tạo và
xã hội là điều cấp thiết hiện nay để từng bước nâng cao nguồn nhân lực có chất lượng và
hạn chế sự nghịch lý.

2.3.

Thực trạng chất lượng nguồn nhân lực ngành kiến trúc, xây dựng trên địa bàn
TP HCM hiện nay
Tình trạng thiếu hụt trầm trọng lao động có trình độ cao trong thị trường lao động
hiện nay, trong đó thiếu hụt trầm trọng nhất là trong lĩnh vực công nghiệp khi 67% doanh


10
nghiệp công nghiệp cho rằng họ không được đáp ứng nhu cầu về cán bộ quản lý, 68% cho
rằng họ không được đáp ứng nhu cầu về số lượng và chất lượng của cán bộ kỹ thuật.
Trong khi đó, trong lĩnh vực dịch vụ tỉ lệ này chỉ có 51% - 52%.
Không chỉ thiếu hụt lao động bậc cao, nhiều doanh nghiệp cũng cho rằng nguồn
cung lao động không được đáp ứng nhu cầu đối với công nhân kỹ thuật bậc thấp, nhân
viên văn phòng, bán hàng và lao động chân tay.
Xây dựng là một trong những ngành có chỉ số nhân lực tăng trưởng liên tục. Nếu
như năm 2005, lao động ngành xây dựng có gần hai triệu người, chiếm 4,63% lực lượng
lao động trong nền kinh tế thì đến năm 2010, con số này đã là 3,1 triệu người, chiếm
6,34%, tăng 1,57 lần về số lượng. Cùng với tiến trình cải cách hành chính và cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước, nhân lực khu vực công (các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp,
doanh nghiệp nhà nước) ngành xây dựng cũng giảm dần, đến năm 2010 chỉ chiếm 14,09%
tổng số lao động làm việc trong ngành xây dựng.
Thực trạng phát triển nguồn nhân lực ngành xây dựng hiện nay còn bộc lộ nhiều
bất cập. Theo thống kê của Bộ Xây dựng, đội ngũ công chức cơ quan Bộ Xây dựng tuy có
những bước trưởng thành, nhưng vẫn còn tình trạng "nợ tiêu chuẩn" công chức (chuyên
viên, chuyên viên chính, chuyên viên cao cấp...), trong khi một bộ phận không nhỏ công
chức cơ quan Bộ không được đào tạo đúng ngành, đúng nghề. Đội ngũ cán bộ tại các viện
nghiên cứu có trình độ cao nhưng độ tuổi trung bình cũng cao, trong khi tại các cơ sở đào
tạo, viên chức có trình độ đại học các chuyên ngành xây dựng đạt thấp, nhất là lĩnh vực
kiến trúc - quy hoạch, xây dựng. Bên cạnh đó, đội ngũ doanh nghiệp ngành xây dựng được

đào tạo, bồi dưỡng về quản lý doanh nghiệp còn chiếm tỷ lệ rất thấp (3,90%) và nhìn
chung ít được đào tạo bài bản, nhất là kiến thức về quản lý kinh tế trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa... Có thể nói, thực trạng này đã ảnh hưởng không nhỏ
đến hiệu quả quản lý, nhất là trong lĩnh vực quản lý đô thị và sự phát triển chung của ngành
xây dựng.


11
Tổng số công nhân lao động ngành xây dựng là 204.097 người, trong đó công nhân
xây dựng chiếm tỷ lệ 40,54%, công nhân lắp máy: 13,64%, công nhân sản xuất vật liệu
xây dựng: 20,27%, công nhân cơ khí: 11,72% và lao động phổ thông: 13,82%. Tuy nhiên,
số lượng công nhân có trình độ cao đẳng nghề chiếm tỷ lệ rất thấp, công nhân có tay nghề
bậc cao (bậc 5, 6, 7 và vượt khung) chỉ chiếm 16,84% còn lại thợ bậc 1, 2 và lao động phổ
thông còn chiếm tỷ lệ cao. Mặt khác, do điều kiện kinh tế còn khó khăn, điều kiện sống của
người lao động còn nhiều thiếu thốn đã ảnh hưởng đến cường độ và năng suất lao động.
Đội ngũ công nhân ngành xây dựng còn thiếu về số lượng, yếu về chất lượng. Số lượng lao
động có trình độ trung cấp nghề và công nhân kỹ thuật được đào tạo có xu hướng giảm,
trong khi đội ngũ thợ bậc cao, lành nghề, chuyên biệt tuổi đời ngày càng cao chậm được bổ
sung. Tỷ lệ lao động thủ công, lao động nông nhàn chưa qua đào tạo còn nhiều. Mức độ
thành thạo, tính chuyên nghiệp, kỹ năng nghề nghiệp chưa cao. Do đó, nhiều nơi, nhiều lúc
một bộ phận lao động ngành xây dựng chưa đáp ứng với yêu cầu trình độ công nghệ và tốc
độ phát triển sản xuất của ngành.
2.4.

Thực trạng công tác đào tạo nguồn nhân lực ngành kiến trúc, xây dựng trên địa
bàn TP HCM hiện nay
“Đội ngũ công nhân ngành Kiến trúc - Xây dựng – những người trực tiếp lao động
tạo ra thực thể công trình còn thiếu về số lượng, ít về chất lượng. Tỷ lệ lao động thủ công,
lao động nông nhàn chưa qua đào tạo còn khá cao”. Đó là đánh giá của Học viện Cán bộ
quản lý xây dựng và Đô thị (Bộ Xây dựng).

Hiện toàn ngành có hơn 204 nghìn công nhân lao động, trong khi đó lại có tới gần
91 nghìn người là cán bộ, viên chức trong các doanh nghiệp. Như vậy số lượng công nhân
chỉ gấp hơn 2 lần số lượng cán bộ, viên chức.
Năng lực, tính chuyên nghiệp của đội ngũ Công nhân lao động cũng là một hạn
chế:
+ Số lao động có trình độ cao đẳng, trung cấp nghề chỉ chiếm tỷ lệ 11,8%


12
+ Số thợ bậc cao (bậc 6,7) chỉ chiếm khoảng 7% nhân lực ngành.
Theo số liệu của Bộ xây dựng, cơ cấu nguồn nhân lực của ngành (tỷ lệ cơ cấu kỹ
sư, trung cấp chuyên nghiệp, công nhân học nghề) là 1:1, 3:3; trong khi đó, với các nước
trên thế giới, tỷ lệ này là 1:4:10.
Với tỷ lệ này, ngành xây dựng đang tồn tại tình trạng thừa thầy thiếu thợ. Vì thế, tại
nhiều công trình lớn đang tồn tại cảnh lao động là người chưa qua đào tạo, lao động nông
nhàn làm việc thay cho công nhân kỹ thuật.
Hiện cả nước có 29 trường đại học, 21 trường cao đẳng và cao đẳng nghề, 19
trường trung cấp và 1 Học viện đào tạo nhân lực ngành Xây dựng. Hàng năm, hệ đại học
tuyển sinh khoảng 7 nghìn người; cao đẳng trên 3 nghìn người; hệ thống trường trung học
chuyên nghiệp 5 nghìn người và các trường đào tạo nghề khoảng 18 nghìn người.

Số lượng người được đào tạo nghề có tăng nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu phát
triển của ngành và không cân đối giữa các trình độ đào tạo. Đào tạo ở bậc cao đẳng, đại
học tăng quá nhanh trong khi đào tạo nghề và trung học tăng chậm hơn, làm cho cơ cấu
nguồn nhân lực theo trình độ càng thêm bất hợp lý.
Theo đánh giá, việc tổ chức đào tạo ở các cấp học, bậc học còn nặng về lý thuyết, ít
thời gian thực hành, chưa thực sự gắn bó với nhu cầu sử dụng, với tiến bộ khoa học công
nghệ và công việc thực tế mà người học khi ra trường phải đảm nhận. Hệ quả là khi ra
trường người học phải mất khá nhiều thời gian để làm quen với công việc, không ít trường
hợp đơn vị sử dụng tiến hành bổ túc hay đào tạo bổ sung, đào tạo lại.

Ngành Xây dựng là bộ phận quan trọng của nền kinh tế, có nhiệm vụ đi trước mở
đường trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước, hướng tới mục tiêu đưa nước ta cơ
bản trở thành nước công nghiệp hóa vào năm 2020. Để hoàn thành trọng trách đó, ngành
cần được quan tâm phát triển về mọi mặt, đặc biệt là yêu tố nguồn nhân lực. Vì vậy, cần


13
sớm đưa ra những giải pháp, các chính sách về đãi ngộ, thu hút nhân lực cũng như rà soát
lại chương trình đào tạo, đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị, nâng cao trình độ giáo viên.
Bộ trưởng Xây dựng Trịnh Đình Dũng cho biết, thực hiện Nghị quyết của Đảng và
chỉ đạo của Chính phủ, ngành xây dựng đã chủ động xây dựng, triển khai các chiến lược
và quy hoạch phát triển nhân lực giai đoạn 2011 - 2020 gắn với việc thực hiện các nhiệm
vụ trước mắt và lâu dài của ngành. Quy hoạch này tập trung nâng cao chất lượng đào tạo
các bậc đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, đồng thời tập trung mở rộng quy mô
đào tạo nghề cùng với đào tạo lao động kỹ thuật chất lượng cao, đào tạo nghề chuyên biệt,
nghề đặc thù, nghề có lợi thế so sánh,... Quy hoạch này là khâu đột phá, là cơ sở để xây
dựng các cơ chế chính sách, kế hoạch, chương trình phát triển nhân lực của ngành và từng
đơn vị, góp phần thực hiện chiến lược và quy hoạch phát triển nhân lực quốc gia đến năm
2020.
Để triển khai quy hoạch, Bộ Xây dựng sẽ tập trung thực hiện đồng bộ nhiều công
việc quan trọng như: quy hoạch mạng lưới các trường đào tạo thuộc ngành, đầu tư xây
dựng cơ sở vật chất phục vụ đào tạo. Tập trung phát triển đào tạo nghề, nhất là đào tạo
nghề ngắn hạn, nâng cao năng lực quản lý xây dựng và phát triển đô thị đối với công chức
lãnh đạo, chuyên môn đô thị các cấp, xây dựng đội ngũ giáo viên, đội ngũ cán bộ khoa học
có trình độ cao trong các lĩnh vực.. Bên cạnh đó, các trường nghề sẽ mở rộng quy mô, đa
dạng hóa loại hình và cơ cấu đào tạo nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu nhân lực của ngành.
Các nghề cơ bản thông dụng sẽ mở tại địa phương với nhiều loại hình và thời gian phù
hợp. Các nghề chất lượng cao, nghề chuyên biệt, đặc thù, công nghệ xây dựng mới sẽ do
các cơ sở đào tạo của Bộ Xây dựng, các bộ, ngành, doanh nghiệp nhà nước chủ trì hoặc
liên kết với các đơn vị có uy tín trong và ngoài nước để thực hiện...

Ngoài ra, Bộ cũng đang xây dựng chính sách hỗ trợ, khuyến khích học nghề ở trình
độ sơ cấp nghề, khuyến khích người học lựa chọn danh mục nghề có điều kiện lao động
nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, đồng thời có chế tài bắt buộc các doanh nghiệp phải sử
dụng đã qua đào tạo. Mục tiêu là tăng nhanh tỷ lệ nhân lực qua đào tạo, phấn đấu đưa tỷ lệ
lao động qua đào tạo lên 52% và tiến tới tỷ lệ khoảng 65% vào năm 2020, trong đó mục


14
tiêu cụ thể là khoảng hơn năm nghìn người có trình độ sau đại học, 200 nghìn người có
trình độ đại học, 124 nghìn người có trình độ cao đẳng, hơn 1,32 triệu người có trình độ
trung cấp chuyên nghiệp và 3,32 triệu người được đào tạo nghề... Đặc biệt, khoảng 50 60% số cán bộ, công chức, viên chức, lao động đã qua đào tạo cơ bản được đào tạo lại, bồi
dưỡng nâng cao trình độ và kỹ năng làm việc, bảo đảm sự cân đối, hài hòa giữa cấp học,
ngành học và địa phương.
3. Nhu cầu nhân lực ngành Kiến trúc – xây dựng tại TP HCM
3.1.
Dự báo số lượng nhu cầu nhân lực ngành kiến trúc, xây dựng trên địa bàn TP
HCM trong những năm tiếp theo
Kinh doanh, tư vấn - bảo hiểm, cơ khí, xây dựng, công nghệ thông tin, điện tử...
được tuyển dụng nhiều nhất vào năm sau. Theo dự báo của Trung tâm Dự báo nhu cầu
nhân lực và thông tin thị trường lao động TP HCM, trong 4 ngành công nghiệp trọng yếu
trên địa bàn năm 2014 thì điện tử - công nghệ thông tin khát nhân sự nhất, kế đến là cơ khí,
chế biến lương thực thực phẩm, hóa chất - nhựa cao su.
Riêng lĩnh vực kinh tế dịch vụ, nhu cầu lao động ngành thương mại đứng đầu bảng
(tới 35%), trong khi tài chính - tín dụng - ngân hàng - bảo hiểm đứng thứ 2 cũng chỉ đạt tỷ
lệ gần 6%. Dịch vụ tư vấn - khoa học công nghệ, nghiên cứu và triển khai chỉ định tuyển
gần 4%. Xét ở nhóm ngành nghề khác thì dịch vụ - phục vụ cần nhiều lao động hơn cả.
Dệt may - giày da - thủ công mỹ nghệ, xây dựng - kiến trúc - môi trường, khoa học xã hội
nhân văn... đứng ở những vị trí tiếp theo.
Tình trạng thừa thầy thiếu thợ tiếp tục tái diễn nên sang năm, TP HCM cần lao
động chưa qua đào tạo nhiều nhất (trên 37%), kế đến là trung cấp, trong khi trình độ cao

đẳng, đại học đều không cần quá 14%. Nhu cầu nhân lực trên đại học chiếm tỷ lệ thấp
nhất, với 0,64%.
Quý I năm 2014, TP HCM có 55.000 chỗ làm việc trống, khoảng 15% trong số
này dành cho lao động thời vụ, 40% nhu cầu lao động phổ thông. Hai quý tiếp theo có
khoảng 75.000 chỗ làm việc trống mỗi quý, tập trung ở một số ngành cơ khí, công nghệ


15
thông tin, quản lý nhân sự, hóa - hóa chất, marketing - nhân viên kinh doanh, bán hàng,
dịch vụ - phục vụ, xây dựng - kiến trúc, dệt may – giày da, điện - điện tử… Tới quý IV, sẽ
có thêm 60.000 chỗ làm việc trống cho người lao động.
Ông Trần Anh Tuấn, Phó giám đốc Trung tâm dự báo nhu cầu nhân lực và thông
tin thị trường lao động TP HCM nhận định, tái cơ cấu bộ máy nhân sự theo hướng chú
trọng chất lượng, trình độ là xu hướng chính của năm 2014. Người lao động chuyên môn
giỏi có nhiều cơ hội tìm kiếm công việc thu nhập cao và phù hợp hơn.
Theo ông Tuấn, doanh nghiệp cần nhiều ứng viên thuộc ngành kỹ thuật và việc tái
cấu trúc cũng diễn ra trong lĩnh vực kinh doanh - dịch vụ vào năm tới. Ngoài ra, xu hướng
tuyển dụng và sử dụng lao động thời vụ trong các ngành sẽ phổ biến để đáp ứng phát triển
sản xuất kinh doanh có nhiều dấu hiệu phục hồi.
Dưới đây là bảng dự báo nhu cầu lao động của một số ngành nghề giai đoạn 2013
– 2015, xu hướng đến năm 2020 ở TP HCM:
Bảng 1.3: Dự báo nhu cầu các ngành nghề thu hút lao động tại TP. HCM giai đoạn 2013 –
2015, xu hướng đến năm 2020.
TỈ LỆ NGÀNH NGHỀ

SỐ CHỖ LÀM

SO VỚI TỔNG SỐ

VIỆC


VIỆC LÀM MỚI (%)

(NGƯỜI/NĂM)

STT

NGÀNH NGHỀ

1

Marketing

8%

21.600

2

Dịch vụ - Phục vụ

8%

21.600

3

Dệt may – Giày da – Thủ công

10%


mỹ nghệ
4

Quản lý hành chính

6%

5

Xây dựng – Kiến trúc – Môi

4%

trường
6

Công nghệ Nông - Lâm

3%

27.000
16.200
10.800
8.100


16

7


Khoa học – Xã hội – Nhân văn

3%

8.100

8

Ngành nghề khác

5%

13.500

100%

270.000

47%

126.900

Tổng số nhu cầu nhân lực bình quân
hàng năm
Tổng nhu cầu nhân lực ngành nghề thu
hút nhiều lao động

Nguồn: Thống kê của Trung tâm dự báo nhu cầu nhân lực và thông tin thị trường lao động
TP HCM

Có thể thấy, Kiến trúc – Xây dựng cũng là một trong những ngành thu hút nhiều
nhân lực trong tương lai gần (4%). Vì vậy, công tác đào tạo nguồn nhân lực ngành này
đóng vai trò rất quan trọng trong việc phát triển và nâng cao chất lượng nghề.
Tiếp theo là bảng dự báo nhu cầu trình độ nghề tại TP HCM giai đoạn 2013 –
2015, xu hướng đến năm 2020:
Bảng 1.4: Dự báo nhu cầu trình độ ngành Kiến trúc – Xây dựng tại TP HCM giai
đoạn 2013 – 2015, xu hướng đến năm 2020
TỈ LỆ NGÀNH NGHỀ SO

SỐ CHỖ LÀM

VỚI TỔNG SỐ VIỆC LÀM

VIỆC

MỚI (%)

(NGƯỜI/NĂM)

STT

NGÀNH NGHỀ

1

Trên đại học

5%

13.500


2

Đại học

15%

40.500

3

Cao đẳng

13%

35.100

4

Trung cấp

17%

45.900

5

Công nhân kỹ thuật

15%


40.500


17
6

Sơ cấp nghề

10%

27.000

7

Lao động phổ thông

25%

67.500

100%

270.000

Tổng số nhu cầu về trình độ nghề
bình quân hàng năm

Nguồn: Khảo sát của Trung tâm dự báo nhu cầu nhân lực và thông tin thị trường lao động
TP HCM

3.2.

Dự báo cơ cấu nguồn nhân lực ngành kiến trúc, xây dựng trên địa bàn TP
HCM
Theo số liệu của Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và Thông tin thị trường lao
động thành phố Hồ Chí Minh thì giai đoạn 2012 – 2020, dự báo nhu cầu nhân lực sẽ tập
trung nhiều vào các nhóm ngành mỗi ngành nghề chiếm tỷ lệ từ 6% - 8% trong tổng hợp
nhu cầu nhân lực hàng năm tại thành phố giai đoạn 2012 - 2015 và xu hướng đến 2020 là:
- Hóa- Hóa chất – Y, Dược, Mỹ phẩm;
- Cơ khí – Luyện kim – Công nghệ ô tô xe máy;
- Công nghệ thông tin – Điện – Điện tử - Viễn thông;
- Xây dựng – Kiến trúc – Giao thông vận tải;
- Chế biến thực phẩm;
- Dịch vụ - Phục vụ - Du lịch – Giải trí – Nhà hàng – Khách sạn;
- Markerting – Nhân viên kinh doanh – Bán hàng;
- Tài chính – Ngân hàng – Kế toán – Bảo hiểm;
-

Quản lý – Hành chính văn phòng;

- Dệt – May – Giày da – Thủ công mỹ nghệ.


18
Như vậy, Kiến trúc – Xây dựng trên địa bàn TP HCM cũng là một ngành có nhu
cầu nhân lực cao trong giai đoạn tới.
3.3.

Phân theo trình độ nhân lực
Trong giai đoạn 2013 – 2015, xu hướng đến năm 2020, TP.HCM ưu tiên phát triển

nhân lực cho những ngành có hàm lượng công nghệ cao, giá trị gia tăng cao, đảm bảo nhu
cầu lao động chất lượng cao cho 09 ngành dịch vụ, 04 ngành công nghiệp chủ lực (Cơ khí
chế tạo chính xác và tự động hóa. Điện tử và Công nghệ thông tin. Chế biến thực phẩm
theo hướng tinh chế. Hóa chất – Hóa dược và mỹ phẩm). Dự kiến nhu cầu nhân lực 1 năm
khoảng 270.000 chỗ việc làm trống (trong đó: lao động có trình độ cao đẳng, đại học trở
lên chiếm 31% với 89.100 chỗ việc trống.)
Quý I/2014, nhu cầu nhân lực thời vụ cho hoạt động Dịch vụ - Phục vụ, Bán hàng
sẽ tăng cao trong tháng 1/2014. Tháng 2 và tháng 3 xu hướng nhu cầu tuyển dụng lao động
phổ thông cho các ngành sản xuất, chế biến như Dệt may – Giày da, Chế biến thực phẩm,
Nhựa – Bao bì, Xây dựng, … tăng cao so tháng 1/2014 và các tháng cuối năm 2013, trong
quý I/2014 nhu cầu khoảng 55.000 chỗ làm việc trống, trong đó có khoảng 15% nhu cầu
tuyển dụng lao động thời vụ, 40% nhu cầu lao động phổ thông. Sự thiếu hụt lao động phổ
thông sau Tết Nguyên đán 2014 sẽ không diễn ra ở mức độ cao như năm trước. Dự kiến
mức thiếu hụt bình quân khoảng dưới 5%, đối với các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ
mức thiếu hụt khoảng 6 – 10%.
Quý II/2014 và quý III/2014, dự báo tình hình kinh tế thành phố tăng trưởng so quý
I/2014 và cuối năm 2013, thị trường bất động sản có nhiều dấu hiệu phục hồi, thị trường
lao động dự báo tăng trưởng ổn định so với quý I/2014. Nhu cầu tuyển dụng của các doanh
nghiệp tăng, dự kiến nhu cầu tuyển dụng của quý II và quý III/2014 khoảng 75.000 chỗ
làm việc trống mỗi quý, tập trung thu hút lao động ở một số ngành nghề như : Cơ khí,
Công nghệ thông tin, Quản lý nhân sự, Hóa – Hóa chất, Marketing – Nhân viên kinh
doanh, Bán hàng, Dịch vụ - Phục vụ, Y tế - Chăm sóc sức khỏe, Xây dựng – Kiến trúc, Dệt
may – Giày da, Điện – Điện tử, …


19
Quý IV/2014, nhu cầu khoảng 60.000 chỗ làm việc trống, việc tái cơ cấu bộ máy
nhân sự chú trọng chất lượng, trình độ tiếp tục là xu hướng của năm 2014 và sẽ diễn ra
mạnh hơn, đây cũng là cơ hội cho các doanh nghiệp cơ cấu lại bộ máy nhân sự với những
nhân sự có chất lượng cao hơn, người lao động có trình độ chuyên môn giỏi sẽ có nhiều cơ

hội tìm kiếm công việc thu nhập cao và phù hợp hơn. Nhu cầu tuyển dụng nhân lực khối
ngành kỹ thuật chiếm tỷ lệ ngày càng cao hơn trong nhu cầu tuyển dụng đây cũng là xu
hướng của 2014. Việc tái cấu trúc của các doanh nghiệp tiếp tục diễn ra nhiều trong lĩnh
vực Kinh doanh - Dịch vụ.
Năm 2014, xu hướng tuyển dụng và sử dụng lao động thời vụ của các doanh
nghiệp trong các ngành sẽ phổ biến để đáp ứng phát triển sản xuất - kinh doanh vừa là yêu
cầu để các doanh nghiệp đánh giá, chọn lọc chất lượng làm việc của người lao động.
4. Một số giải pháp
4.1.
Một số giải pháp khắc phục tình trạng mất cân đối trong cơ cấu lao động
 Tăng cường quy mô hoạt động và chất lượng cung cấp các thông tin về cơ hội việc làm,
chỗ làm việc trống trong các doanh nghiệp, nhu cầu người tìm việc, khả năng bố trí giới
thiệu việc làm trên thị trường lao động thông qua các Trung tâm Giới thiệu việc làm, các
trường - cơ sở đào tạo, các Đoàn thể, các cơ quan thông tin truyền thông...
 Tăng cường hoạt động và mở rộng quy mô kết nối giữa người lao động, sinh viên với
doanh nghiệp; giữa hệ thống đào tạo với hệ thống các doanh nghiệp thông qua các hoạt
động dự báo nhu cầu nhân lực, thông tin thị trường lao động và các hoạt động dịch vụ việc
làm, sàn giao dịch - ngày hội việc làm với mục đích giúp người lao động, sinh viên tiếp
xúc trực tiếp với doanh nghiệp; và qua đó cũng giúp cho các trường nâng cao hiệu quả đào
tạo sinh viên, học viên những kiến thức, kỹ năng mà doanh nghiệp cần thiết, tuyển dụng sử
dụng nguồn nhân lực.
 Duy trì hiệu quả công tác thống kê cập nhật tình trạng lao động thất nghiệp, mất việc làm,
di chuyển chỗ làm việc trên địa bàn thành phố và các quận, huyện.
 Hỗ trợ và khuyến khích các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh luôn chú trọng cải
thiện tiền lương, tiền thưởng, quan tâm thu nhập - đời sống của người lao động nhất là thời
điểm Tết Dương lịch và Tết cổ truyền năm 2014.


20
 Nâng cao hiệu quả tổ chức hướng nghiệp cho học sinh THPT định hướng ngành nghề,

nghề nghiệp phù hợp điều kiện phát triển thị trường lao động năm 2014 và các năm sắp tới.
 Tổ chức khảo sát các doanh nghiêp về nhu cầu tuyển dụng nhân lực năm 2014 và 2014
đến 2020, dự báo xu hướng nhu cầu lao động của từng lĩnh vực ngành nghề về số lượng và
chất lượng về nhu cầu đào tạo nghề ngắn hạn, trung hạn, dài hạn phù hợp với nhu cầu xã
hội và các doanh nghiệp, góp phần điều chỉnh sự mất cân đối cung - cầu lao động, hạn chế
việc đào tạo tự phát không đảm bảo chất lượng gây tình trạng thừa thiếu lao động và gia
tăng thất nghiệp.
 Quản lý thị trường lao động (cung - cầu ), quản lý nguồn nhân lực về đào tạo và việc
làm ,hệ thống cập nhật di chuyển, biến động lao động.
 Chính sách đột phá về tiền lương, trả lương cao xứng đáng với trình độ chuyên môn
nghiệp vụ của lao động chất lượng cao, phù hợp với giá cả sức lao động.
 Tạo dựng môi trường làm việc an toàn, xây dựng các quy định, văn hóa của doanh nghiệp
 Đào tạo nguồn nhân lực của các trường Đại học, Cao đẳng, kết nối cung cầu giữa hệ thống
giáo dục và đào tạo nghề và người sử dụng lao động.Công tác đào tạo nguồn nhân lực cần
phải gắn kết chặt chẽ với nhu cầu của doanh nghiệp. Nhà trường và các doanh nghiệp cần
hỗ trợ chặt chẽ với nhau trong việc định hướng đào tạo, tìm hiểu nhu cầu, đảm bảo chất
lượng và hiệu quả nguồn nhân lực xã hội.
 Hoàn thiện hệ thống Dự báo nhu cầu nhân lực và thông tin thị trường lao động của Quốc
gia và các Tỉnh, Thành phố có khoa học, có hệ thống tổ chức và phối hợp giữa cơ quan
quản lý đào tạo – việc làm với các đơn vị dịch vụ việc làm, cơ sở đào tạo nghề, các doanh
nghiệp theo hệ thống tiêu chuẩn và định kỳ thường xuyên.. Dự báo xu hướng biến động về
nhu cầu của từng lĩnh vực ngành nghề.
 Cân đối nguồn nhân lực hiện nay và các năm tới.Việc thống kê khả năng đáp ứng của các
lĩnh vực, cân đối thừa, thiếu như thế nào là một yếu tố quan trọng giúp các cơ sở giáo dục
rà soát lại quá trình cung ứng lao động.
 Tổ chức hoạt động hướng nghiệp, định hướng đúng mức về nghề nghiệp và việc
làm,nhằm mục đích tác động thay đổi sự lựa chọn nghề nghiệp của giới trẻ tạo ra sự cân
đối nguồn nhân lực giữa các ngành; điều quan tâm của hoạt động thông tin trong đó tư vấn
hướng nghiệp là một công đoạn quan trọng, giúp cho học sinh - sinh viên - người lao động
có điều kiện xác định nghề nghiệp (định hướng hoặc tìm chọn chuyển nghề) trên cơ sở



21
đánh giá năng lực bản thân và nắm được định hướng phát triển kinh tế xã hội cũng như
nhu cầu nhân lực của địa phương, đất nước trong từng thời kỳ.
 Hoàn thiện và phát triển kỹ năng nghề nghiệp của người lao đông theo yêu cầu doanh
nghiệp.,nâng cao năng lực, tư duy khoa học, độc lập, lao động sáng tạo, phát huy sáng
4.2.

kiến, áp dụng công nghệ mới để không ngừng phát triển kỹ năng nghề nghiệp.
Một số giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Ðể thực hiện thành công các chương trình này, giải pháp đầu tiên là tập trung phát
triển cơ sở vật chất, trang thiết bị đáp ứng yêu cầu dạy và học theo hướng hiện đại, đón đầu
sự phát triển của xã hội, hội nhập với khu vực và thế giới, phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn,
yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực của thành phố. Ðối với các trường đào tạo các ngành nghề
trọng điểm và các chương trình 'đào tạo có địa chỉ', cần đầu tư theo chuẩn các nước tiên
tiến. Mặt khác, bằng cách tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa, huy động vốn đầu tư trong nước
và ngoài nước để xây dựng các trường dạy nghề chất lượng cao, đổi mới trang thiết bị dạy
học, thí nghiệm, thực hành, xưởng trường, xây dựng ký túc xá... Ðến năm 2015 sẽ phát
triển thêm 22 cơ sở dạy nghề mới, trong đó có ba trường cao đẳng nghề, ba trường trung
cấp nghề, ba trung tâm dạy nghề.
Giải pháp quan trọng thứ hai là phải xây dựng được đội ngũ giáo viên, cán bộ quản
lý giáo dục và dạy nghề có trình độ chuyên môn cao được huy động từ nhiều nguồn khác
nhau. Cần đổi mới nội dung chương trình và phương pháp đào tạo, gắn nội dung đào tạo
trong nhà trường với hoạt động thực tiễn của các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất và các lĩnh
vực khác.
Một giải pháp quan trọng trong công tác đào tạo nhân lực là phải tăng cường hợp
tác, liên kết giữa các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp và các trung tâm
dạy nghề với các đơn vị sản xuất, tổ chức, doanh nghiệp trên địa bàn thành phố nhằm nâng
dần tính tương thích giữa đào tạo và sử dụng lao động. Trên cơ sở này, thành phố sẽ đưa ra

dự báo về nhu cầu nhân lực cho từng giai đoạn và thậm chí cho từng năm. Thực tế cho
thấy trong nhiều năm qua, một số trường đại học và cao đẳng đã chú trọng việc liên kết này
và kết quả mang lại khá khả quan. Các trường: Ðại học Bách khoa, Ðại học Sư phạm Kỹ


22
thuật, Cao đẳng Kỹ thuật Lý Tự Trọng, Cao đẳng Tôn Ðức Thắng... đã hợp tác, liên kết
với hàng trăm doanh nghiệp, tập đoàn trong nước và ngoài nước về nhu cầu lao động trong
từng ngành nghề và cung cấp cơ sở vật chất đào tạo cho các trường để sinh viên có điều
kiện thực tập.
Ngoài ra, còn có các biện pháp cụ thể sau đây:
 Tăng cường công tác quản lý nhà nước về thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực, đẩy mạnh
sự liên kết, hợp tác đồng bộ các hoạt động hướng nghiệp, tuyển sinh, đào tạo, thực hành
gắn kết nhu cầu sử dụng lao động.
• Tăng cường các giải pháp quản lý hiệu quả nguồn lao động, cập nhật tình trạng lao động thất
nghiệp, mất việc làm, di chuyển chỗ làm việc, nhu cầu học nghề, nhu cầu việc làm.
• Các cơ quan thẩm quyền thực hiện nhanh lộ trình sắp xếp hệ thống trường chuyên về từng
cấp đào tạo Đại học, Cao đẳng và Trung cấp; phát triển đào tạo liên thông theo loại hình
vừa học vừa làm, thống nhất không phân biệt bằng cấp theo loại hình đào tạo.
 Tăng cường sự phối hợp các cơ quan, tổ chức, xã hội về phát triển nguồn nhân lực có kế
hoạch, theo định hướng chuyên môn, chất lượng cao.
• Tạo chuyển biến mạnh với các cơ quan, tổ chức, xã hội về phát triển nguồn nhân lực có kế
hoạch, theo định hướng chuyên môn, chất lượng cao. Nâng cao nhận thức các yếu tố cạnh
tranh trong quá trình tham gia thị trường lao động của các doanh nghiệp, cơ sở đào tạo và
người lao động về chất lượng nguồn nhân lực.
• Tăng cường thông tin định hướng xã hội, không nên chú trọng học nghề theo giá trị bằng
cấp; tham gia vào thị trường lao động là năng lực hành nghề, chọn nghề học theo năng lực,
điều kiện và xu hướng nhận diện thị trường lao động.
 Xác định và cân đối chỉ tiêu đào tạo tổng thể và chỉ tiêu đào đạo của từng trường đào tạo
nghề, gắn kết với nhu cầu thực tế của xã hội theo ngành nghề và cấp trình độ đào tạo.

• Cần xác định được khung chương trình đào tạo phù hợp, có chất lượng phù hợp với nhu cầu
công việc xã hội và các doanh nghiệp. Hạn chế việc đào tạo tự phát không đảm bảo chất
lượng gây tình trạng thừa

thiếu

lao động và

gia

tăng thất nghiệp.

Chất lượng đào tạo bậc trình độ đại học, cao đẳng rất quan trọng trong việc cung cấp
nguồn nhân lực chất lượng cao cho xã hội. Tuy vậy, việc đào tạo cần phải có chiến lược cụ
thể để tránh lãng phí nguồn lực đào tạo của nhà nước, cá nhân, gia đình và toàn xã hội. Bên


23
cạnh việc định hướng đầu vào, các trường Đại học, Cao đẳng là yêu cầu rất cần thiết về cân
đối nguồn nhân lực hiện nay và các năm tới.
• Quy hoạch tổng thể đào tạo nghề, sắp xếp lại hệ thống dạy nghề trên cơ sở dự báo nhu cầu
thị trường lao động và khả năng đào tạo của các trường nghề, phát triển một số trường đạt
tiêu chuẩn khu vực và quốc tế, nâng cao hiệu quả đào tạo thu hút nhiều học viên.
 Hoàn thiện và phát triển hệ thống Dự báo nhu cầu nhân lực và Thông tin thị trường lao
động. Đầu tư phát triển các hoạt động tư vấn quan hệ doanh nghiệp, thông tin nghề nghiệp
– việc làm, tư vấn, giới thiệu việc làm tại các trường, cơ sở đào tạo.
• Công tác đào tạo nguồn nhân lực của các trường Đại học, Cao đẳng cần phải gắn kết chặt
chẽ với nhu cầu của doanh nghiệp. Nhà trường và các doanh nghiệp cần hỗ trợ chặt chẽ
với nhau trong việc định hướng đào tạo, tìm hiểu nhu cầu, đảm bảo chất lượng và hiệu quả
nguồn nhân lực xã hội.

 Tăng cường giám sát trách nhiệm các doanh nghiệp về thực hiện chế độ thông tin, báo cáo
với các cơ quan chức năng quản lý nhà nước và phối hợp với tổ chức dự báo nhu cầu nhân
lực, nhu cầu tuyển dụng lao động, theo số lượng và cơ cấu ngành nghề sử dụng lao động
ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
• Tình trạng “thừa - thiếu, thiếu - thừa” giữa các ngành, nghề vẫn diễn biến trên thị trường lao
động. Việc thống kê khả năng đáp ứng của các lĩnh vực, cân đối thừa, thiếu như thế nào là
một yếu tố quan trọng giúp các cơ sở giáo dục rà soát lại quá trình đào tạo và cung ứng lao
động.
 Để tạo nguồn đào tạo nhân lực đáp ứng nhu cầu xã hội phải làm tốt công tác hướng nghiệp
phải định hướng sự chú ý, kích thích sự hứng thú của học sinh, sinh viên vào những ngành
nghề kinh tế - xã hội của địa phương và cả nước cần phát triển; giúp học sinh, sinh viên tự
đánh giá và kiểm nghiệm năng lực bản thân, sở trường, điều kiện để học nghề và tham gia
thị trường lao động một cách tích cực phù hợp.
• Có 5 vấn đề trọng tâm, học sinh mong muốn được hướng nghiệp: ngành nghề, xu hướng
việc làm của thị trường lao động; định hướng về sở thích, sở trường nghề nghiệp; các quy
định thi tuyển, xét tuyển đại học, cao đẳng, trung cấp, dạy nghề; chọn ngành, chọn trường
phù hợp năng lực học và điều kiện kinh tế gia đình; giới thiệu về các trường và ngành đào
tạo, chuẩn đầu ra và khả năng việc làm sau khi tốt nghiệp.
• Kinh nghiệm cho thấy để công tác hướng nghiệp đạt hiệu quả cao, phải có sự kết hợp đồng
bộ của 8 nhóm đối tượng: cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục - đào tạo và lao động -


24
việc làm; các hiệp hội ngành nghề, hiệp hội doanh nghiệp, các đoàn thể; các trường đại
học, cao đẳng, trung cấp, dạy nghề; các doanh nghiệp, tổ chức sử dụng lao động; các cơ
quan nghiên cứu nhân lực dự báo nhu cầu, thông tin thị trường lao động, cung ứng việc
làm; các trường trung học phổ thông, trung học cơ sở; cơ quan truyền thông; phụ huynh,
học sinh, lực lượng lao động.
• Công tác hướng nghiệp cần được xác định đối với học sinh đang học các lớp trung học phổ
thông và cần mở rộng đối với học sinh trung học cơ sở vì nhiều em sẽ không chuyển tiếp

cấp 3 mà chuyển sang học nghề Sơ cấp hoặc Trung cấp.
 Tiếp tục hoàn thiện “Quy hoạch phát triển nhân lực TP. Hồ Chí Minh giai đoạn 20112020”. Nghiên cứu xây dựng chính sách ưu đãi về đào tạo và thu hút nguồn nhân lực đối
với những ngành nghề chủ lực của thành phố và các ngành khoa học xã hội
• Thực hiện có hiệu quả chính sách hỗ trợ học nghề cho thanh niên tại thành phố Hồ Chí Minh
(theo Quyết định số 4140/QĐ-UBND ngày 14/8/2012 của Ủy ban nhân dân thành phố phê
duyệt đề án hỗ trợ thanh niên học nghề) và chương trình đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng
nâng cao tay nghề công nhân, người lao động trong doanh nghiệp (theo Quyết định số
2675/QĐ-UBND ngày 24/5/2012 của Ủy ban nhân dân thành phố).
• Đa dạng các hình thức và mở rộng quy mô đào tạo thực hiện chương trình đào tạo nghề cho
lao động nông thôn đặc biệt chú trọng đối với lao động nữ nông thôn lớn tuổi, thiếu việc
làm hoặc làm việc không ổn định.
• Tạo điều kiện cho Hội Dạy Nghề Thành phố phát triển các học bổng khuyến nghệ và tôn
vinh người công nhân, thợ kỹ thuật.
 Để được các doanh nghiệp tuyển dụng theo nghề đã học và làm việc có hiệu quả, phát triển
nghề nghiệp luôn là vấn đề được người lao động nhất là sinh viên, học sinh và người sử
dụng lao động hết sức quan tâm. Muốn làm việc được hiệu quả thì một trong những yếu tố
tạo nên đó là kỹ năng nghề, chất lượng làm việc của người lao động được nâng cao. Từ đó,
để phát triển nghề nghiệp, phải có ý thức mở rộng kiến thức nghề nghiệp, nâng cao năng
lực, tư duy khoa học, độc lập, lao động sáng tạo, phát huy sáng kiến, áp dụng công nghệ
mới để không ngừng phát triển kỹ năng nghề nghiệp.
Vì vậy vấn đề đào tạo kỹ năng mềm cho người học nghề ở các cấp bậc Đại học –
Cao đẳng – Trung cấp – Sơ cấp rất quan trọng, cần đa dạng phương pháp đào tạo, huấn


25
luyện gắn kết người học với doanh nghiệp, với hoạt động xã hội và thúc đẩy tinh thần tự
rèn luyện theo nhu cầu việc làm của thị trường lao động.

KẾT LUẬN
Thị trường lao động thành phố HCM kể từ sau khi gia nhập ASEAN đã có nhiều

khởi sắc do có nhiều doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vốn, sản xuất công nghiệp phục
hồi. Tuy nhiên, tình hình tái cấu trúc doanh nghiệp diễn ra mạnh, đặc biệt doanh nghiệp
hoạt động trong lĩnh vực kiến trúc – xây dựng dẫn đến thị trường lao động thành phố của
ngành này chưa thật sự ổn định, tồn tại mất cân đối giữa nhu cầu nhân lực và nhu cầu việc
làm. Nhu cầu nhân lực trong ngành Kiến trúc – Xây dựng đang có xu hướng tăng dần lên
do nhu cầu về nhà ở của người dân tăng cao bởi quá trình đô thị hoá và dân số tăng cao. Do
đó, ngành Kiến trúc – Xây dựng rất cần được Đảng, Chính phủ và các trường Đại học, Cao
đẳng trên địa bàn thành phố dành sự quan tâm đúng mức.
Trên thực tế, thị trường lao động ngành Kiến trúc – Xây dựng phát triển theo xu
hướng hạn chế về số lượng, tăng yêu cầu chất lượng trình độ, tay nghề, kỹ năng. Nhu cầu
tuyển dụng lao động và nhu cầu tìm việc làm thường xuyên là nhân lực có trình độ nghề
chuyên môn, các doanh nghiệp chú trọng tuyển dụng lao động có kỹ năng; am hiểu chuyên


×