ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------
LÊ THỊ HOÀI AN
VAI TRÒ CỦA BÁO CHÍ VIỆT NAM TRONG
GIÁM SÁT QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ THỜI KỲ ĐỔI MỚI
LUẬN VĂN THẠC SỸ CHÍNH TRỊ HỌC
Hà Nội - 2009
Đại học Quốc gia Hà Nội
Tr-ờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
---------------------------
Lê Thị Hoài An
Vai trò của báo chí Việt Nam trong
giám sát quyền lực chính trị thời kỳ đổi mới
Chuyên ngành : Chính trị học
Mã số
: 60 31 20
Luận văn thạc sỹ Chính trị học
Ng-ời h-ớng dẫn: GS.TS Phùng Hữu Phú
Hà Nội - 2009
MỤC LỤC
Phần mở đầu ....................................................................................................4
1. Tính cấp thiết của đề tài .................................................................................4
1.1.Ý nghĩa khoa học .........................................................................................4
1.2.Ý nghĩa thực tiễn ..........................................................................................5
2. Tình hình nghiên cứu .....................................................................................6
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................8
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................9
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu .....................................................9
6. Đóng góp của luận văn................................................................................. 10
7. Cấu trúc của luận văn ................................................................................... 11
Chƣơng I: Vai trò chính trị của báo chí - Một số vấn đề chung .................. 12
1. Báo chí trong hệ thống chính trị ................................................................... 12
1.1. Một số khái niệm cơ bản ........................................................................... 12
1.2. Vị trí của báo chí trong hệ thống chính trị ................................................. 21
1.3. Vai trò của báo chí đối với giám sát chính trị ............................................ 25
2. Những luận điểm cơ bản của Đảng cộng sản Việt Nam và Nhà nƣớc cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về sứ mệnh, vai trò và nhiệm vụ của báo chí
Việt Nam ......................................................................................................... 27
2.1. Tổng quan lịch sử báo chí và báo chí cách mạng Việt Nam ...................... 27
2.2. Tổng quan về đƣờng lối lãnh đạo báo chí của Đảng, tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh về báo chí ............................................................................................... 29
2.2.1. Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với báo chí.............................................. 29
2.2.2. Quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về lãnh đạo, quản lý báo chí ....... 30
2.2.3. Đƣờng lối lãnh đạo báo chí của Đảng trong thời kỳ Đổi mới ................. 31
2.2.4. Nhà nƣớc quản lý báo chí ....................................................................... 32
Chƣơng II: Tình hình thực hiện nhiệm vụ giám sát quyền lực chính trị
của báo chí Việt Nam thời kỳ Đổi mới .......................................................... 36
1. Tổng quan về báo chí Việt Nam trong thời kỳ Đổi mới ................................ 36
1
1.1. Vài nét về tình hình phát triển của báo chí trong thời kỳ Đổi mới ............. 36
1.2. Về quản lý và phát triển báo chí trong thời kỳ đổi mới .............................. 41
1.3. Những tác động của nền kinh tế thị trƣờng đến hoạt động báo chí thời kỳ
Đổi mới............................................................................................................ 43
1.3.1. Những thuận lợi ..................................................................................... 43
1.3.2. Những tác động tiêu cực của kinh tế thị trƣờng đối với báo chí .............. 47
2. Tình hình thực hiện vai trò giám sát quyền lực chính trị của báo chí Việt
Nam trong thời kỳ Đổi mới .............................................................................. 50
2.1. Sự thể hiện vai trò giám sát quyền lực chính trị của báo chí Việt Nam
trong thời kỳ đổi mới ....................................................................................... 50
2.1.1. Nhận định chung .................................................................................... 50
2.1.2. Tình hình báo chí Việt Nam tham gia giám sát quyền lực chính trị
trong thời kỳ Đổi mới ...................................................................................... 53
2.2. Những hạn chế của báo chí Việt Nam trong việc giám sát quyền lực chính
trị và nguyên nhân ........................................................................................... 75
2.2.1. Hạn chế .................................................................................................. 75
2.2.2. Nguyên nhân .......................................................................................... 82
Chƣơng III: Một số giải pháp cơ bản nhằm tăng cƣờng vai trò giám sát
quyền lực chính trị của báo chí ..................................................................... 86
1. Những yêu cầu cơ bản về sự phát triển của báo chí ...................................... 86
1.1. Phƣơng hƣớng của Đảng và Nhà nƣớc đặt ra đối với báo chí .................... 86
1.2. Phƣơng hƣớng phát triển của báo chí trong giai đoạn tới .......................... 88
2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giám sát quyền lực chính trị của
báo chí ............................................................................................................. 89
2.1. Về hệ thống báo chí .................................................................................. 89
2.1.1. Nâng cao chất lƣợng chuyên môn nghiệp vụ .......................................... 89
2.1.2. Trau dồi đạo đức nghề nghiệp ................................................................ 90
2.1.3. Ngƣời thủ trƣởng cơ quan báo chí .......................................................... 92
2.1.4. Hội nghề nghiệp ..................................................................................... 93
2
2.2. Về hệ thống chính trị ................................................................................. 93
2.3. Về cơ quan quản lý báo chí ....................................................................... 95
2.4. Các đối tƣợng khác trong xã hội................................................................ 96
Nhận xét và kết luận ...................................................................................... 98
Danh mục tài liệu tham khảo ...................................................................... 103
3
PHẦN MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
1.1.Ý nghĩa khoa học
Trong các hệ thống xã hội - chính trị hiện đại, truyền thông đại chúng
(mass media) nói chung và báo chí nói riêng có vai trò đặc biệt quan trọng về
nhiều phƣơng diện, nhất là chính trị. Báo chí chính là cầu nối giữa môi trƣờng
chính trị và hệ thống chính trị, là một trong những phƣơng tiện quan trọng
nhất cung cấp thông tin cho các công dân, thông qua đó góp phần quan trọng
trong xã hội hóa chính trị (political socialization), thông qua đó mà góp phần
làm tăng cƣờng hay giảm thiểu ảnh hƣởng của hệ thống chính trị, góp phần
tác động tới thái độ, định hƣớng và hành vi chính trị của công dân và là một
trong những yếu tố quan trọng của nền văn hóa chính trị hiện đại. Chính vì
vậy, trong các nền chính trị hiện đại, truyền thông đại chúng đƣợc coi là một
thiết chế, một bộ phận hợp thành của hệ thống chính trị, có vai trò tham gia
giám sát quyền lực và phản biện xã hội.
Trong chế độ ta, khi Hiến pháp nƣớc CHXHVN đã trang trọng khẳng
định rằng “tất cả quyền lực Nhà nƣớc thuộc về nhân dân” (Điều 2, Hiến pháp
năm 1992) thì ngƣời dân phải thực sự có đủ năng lực và phƣơng tiện để thực
hiện quyền lực đó của mình trong thực tiễn.
Theo luật pháp hiện hành của nƣớc ta, báo chí và truyền thông có những
chức năng và vai trò rất quan trọng. Trƣớc hết, báo chí và các phƣơng tiện
truyền thông đại chúng có vai trò cung cấp thông tin mọi mặt cho công dân và
cho toàn xã hội (chức năng cung cấp thông tin). Thứ hai, báo chí và các
phƣơng tiện truyền thông đại chúng có chức năng tuyên truyền chủ trƣơng,
đƣờng lối của Đảng, pháp luật và các chính sách của Nhà nƣớc. Chức năng
thứ ba của báo chí và các phƣơng tiện truyền thông khác là phản ánh mọi mặt
tình hình của đất nƣớc và phản ánh nguyện vọng của tất cả các tầng lớp nhân
4
dân (chức năng cung cấp thông tin cho đầu vào của quá trình chính trị). Và
cuối cùng, báo chí và truyền thông có chức năng giáo dục, định hƣớng dƣ
luận, hành vi của công dân, thông qua việc tôn vinh những giá trị tốt đẹp, nêu
gƣơng những ngƣời tốt, việc tốt, phê bình những hiện tƣợng, việc làm và
những hành vi không tốt, phƣơng hại tới lợi ích của xã hội, cộng đồng và của
công dân. Nhìn nhận dƣới góc độ khoa học chính trị, bốn chức năng cơ bản
của báo chí và truyền thông nói trên đều tập trung vào hai vai trò chủ đạo là xã
hội hóa chính trị và giám sát quyền lực. Hai vai trò này có quan hệ mật thiết
với nhau thống nhất trong hoạt động thực tiễn của báo chí và các phƣơng tiện
truyền thông khác.
Theo phân tích của Anthony Downs thì một trong những yếu tố căn bản
nhất để đảm bảo ngƣời dân trong xã hội hiện đại có năng lực và điều kiện
tham gia/tham dự vào quá trình chính trị chính là sự phát triển của truyền
thông đại chúng trong một xã hội thông tin hiện đại và lành mạnh, trong đó
không chỉ quyền tự do ngôn luận đƣợc đảm bảo mà cả quyền đƣợc thông tin
đầy đủ và xác thực của công dân cũng phải đƣợc đảm bảo. Chỉ khi nào dân
chúng đƣợc tự do và có điều kiện để tiếp xúc với các nguồn thông tin, đƣợc
thông tin đầy đủ thì họ mới tự phát triển đƣợc năng lực và nhu cầu tham dự
vào tất cả các khâu đoạn của quá trình chính trị, từ input (đầu vào) đến
process (quá trình), output (đầu ra) và feedback (phản hồi). Thiếu thông tin
hoặc không đƣợc thông tin xác thực chính là rào cản lớn nhất đối với quá trình
tham dự chính trị của dân chúng [56, 76-77].
Với ý nghĩa nhƣ vậy, báo chí và truyền thông đại chúng có một vai trò rất
quan trọng trong việc đảm bảo quyền đƣợc nắm thông tin về đƣờng lối chính
trị và tham gia giám sát hệ thống chính trị của ngƣời dân.
1.2.Ý nghĩa thực tiễn
Nghiên cứu về vai trò chính trị của báo chí Việt Nam trong thời kỳ Đổi
mới cũng góp phần làm rõ hơn lịch sử của công cuộc Đổi mới ở nƣớc ta trong
hơn 20 năm qua, trên cơ sở đó góp phần cung cấp cơ sở khoa học cho định
5
hƣớng tăng cƣờng vai trò của báo chí Việt Nam trong thời gian tới. Làm rõ
hơn những kết quả đạt đƣợc của báo chí Việt Nam trong giai đoạn đổi mới
vừa qua và mục tiêu nhiệm vụ giai đoạn tới. Nêu những giải pháp nhằm góp
phần tăng cƣờng chức năng quản lý của Nhà nƣớc đối với hoạt động báo chí,
phát huy hơn nữa vai trò chính trị của báo chí Việt Nam.
Trong điều kiện thông tin bùng nổ hiện nay, khi đất nƣớc đang chủ động
hội nhập vào môi trƣờng kinh tế, văn hóa và chính trị quốc tế, nghiên cứu này
góp phần làm rõ những đặc điểm và vai trò chính trị của báo chí Việt Nam,
làm cơ sở thực tiễn cho công tác lãnh đạo, quản lý và tác nghiệp báo chí.
Bản thân học viên đang là một cán bộ hoạt động trong lĩnh vực báo chí,
vì vậy nghiên cứu này trƣớc hết nhằm phục vụ tốt hơn công tác của học viên
và đơn vị công tác là Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Đồng thời đƣa ra
những giải pháp nhằm giúp các cơ quan báo chí, các nhà báo có sự chủ động,
tích cực nâng cao vai trò trách nhiệm của mình trong việc tham gia vào quá
trình chính trị mà quan trọng hơn hết là giám sát chính trị, góp phần xây dựng
nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu về báo chí và đặc biệt là báo chí cách mạng là một trong
những đề tài lớn mà các nhà nghiên cứu về lịch sử cũng nhƣ lý luận báo chí đã
dành nhiều công sức để tổng kết và đánh giá trong rất nhiều công trình khoa
học khác nhau từ trƣớc đến nay. Dƣới góc độ báo chí học đã có những công
trình tiếp cận vấn đề dƣới góc độ lịch sử báo chí, ví dụ các công trình của
Nguyễn Thành (Báo chí cách mạng Việt Nam (1925 - 1945), do Nhà xuất bản
Khoa học Xã hội xuất bản năm 1984).
Một công trình khác nghiên cứu về lịch sử báo chí Việt Nam nhƣng ở
giai đoạn trƣớc cách mạng, đó là cuốn “Lịch Sử Báo Chí Việt Nam” của
Huỳnh Văn Tòng, giới thiệu quá trình ra đời và phát triển của báo chí Việt
Nam từ tờ báo đầu tiên cho đến năm 1930, đƣợc Trí Đăng xuất bản năm 1973.
6
Công trình “Lịch sử báo chí Việt Nam (1865 – 1945)” do Đỗ Quang
Hƣng chủ biên, đƣợc Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội xuất bản năm
2000, trình bày về lƣợc đồ báo chí Việt Nam giai đoạn thuộc địa, chủ yếu đề
cập đến các dòng báo, các khuynh hƣớng báo chí, mối quan hệ của sự phát
triển báo chí với cuộc đấu tranh dân tộc, giai cấp; sự đụng độ và tiếp xúc văn
hóa Đông Tây trên địa hạt báo chí; những giá trị xã hội, chính trị và văn hóa
của báo chí giai đoạn này.
Cùng với đó là một số cuốn giáo trình lịch sử báo chí của Đỗ Quang
Hƣng và Phạm Đình Lân - Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, và
một số công trình của các tác giả Học viện báo chí tuyên truyền. Nhìn chung
các công trình nói trên đều tiếp cận báo chí ở góc độ lịch sử từ khi báo chí
Việt Nam ra đời, hòa nhập trong dòng chảy chung của lịch sử ở những giai
đoạn khác nhau. Tất cả đều phản ánh một cách tổng quan về lịch sử báo chí
nƣớc nhà, qua đó cho thấy dù trong thời kỳ phát triển nào thì báo chí, đặc biệt
là báo chí cách mạng Việt Nam đã thể hiện vai trò chính trị của mình, chủ yếu
là vai trò xã hội hóa chính trị, là công cụ tuyên truyền cho Đảng và Nhà nƣớc,
động viên tập hợp quần chúng cách mạng… Những tài liệu này đã gián tiếp
đánh giá và nêu lên những bài học kinh nghiệm của báo chí thời kỳ trƣớc đổi
mới, trên cơ sở đó cung cấp những tƣ liệu và những vấn đề có ý nghĩa phƣơng
pháp luận cho việc nghiên cứu đề tài này. Ngoài ra, các tài liệu của Đỗ Quang
Hƣng, Huỳnh Văn Tòng là những công trình nghiên cứu về báo chí một cách
bài bản, công phu, do vậy là chỗ dựa cả về tƣ liệu và cơ sở lý luận để nghiên
cứu đề tài này.
Về lý luận báo chí và thực tiễn hoạt động báo chí, gần đây còn có những
công trình nghiên cứu đánh giá về công tác phát triển của báo chí trong thời
kỳ đổi mới. Trong nƣớc có một số bài nghiên cứu của Dƣơng Xuân Sơn, Đinh
Văn Hƣờng (Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn). Trong số các
công trình của các nhà khoa học nƣớc ngoài đáng lƣu ý nhất có công trình của
Shawn McHalle “Printing, Power, and the Transformation of Vietnamese
7
Culture, 1925-45” (Cornell University, 1995), và công trình nghiên cứu do
David G. Marr chủ biên “Mass Media in Vietnam” (Canberra, 1998). Trong
khi công trình thứ nhất chủ yếu đề cập tới vai trò chính trị của báo chí Việt
Nam thời cận đại thì công trình thứ hai trực tiếp khảo sát ở mức độ nhất định
vai trò của báo chí Việt Nam trong thời kỳ Đổi mới. Hai công trình này đều là
tài liệu tham khảo có giá trị cho luận văn.
Nhìn chung các công trình kể trên bƣớc đầu đã đánh giá vai trò chính trị
của báo chí, trong đó có cả vai trò xã hội hóa chính trị và giám sát quyền lực
chính trị của báo chí. Nhƣng chủ yếu nhấn mạnh phƣơng diện xã hội hóa chứ
chƣa có công trình nào trực tiếp bàn về vai trò của báo chí dƣới góc độ giám
sát quyền lực chính trị
Dƣới góc độ nghiên cứu lịch sử Đảng, đáng chú ý là một số nghiên cứu
tổng kết những thành tựu của Đảng sau 20 năm đổi mới, nghiên cứu vai trò
lãnh đạo của Đảng trên mặt trận văn hóa tƣ tƣởng nói chung và báo chí, văn
học nghệ thuật nói riêng, trong đó có “Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với báo
chí trong thời kỳ đổi mới” của Nguyễn Vũ Tiến (Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia năm 2005). Ở góc độ khoa học chính trị và luật pháp thì gần đây có những
bài đăng trên báo hàng ngày phản ánh việc báo chí đƣa tin không chính xác,
hiện tƣợng một số nhà báo vi phạm đạo đức nghề nghiệp, vi phạm pháp
luật.v.v… đã góp phần hâm nóng bầu không khí công luận quan tâm đến vai
trò chính trị của báo chí. Tất cả những công trình trên dù trực tiếp hay gián
tiếp liên quan đến đề tài này ở góc độ khác nhau đều có giá trị tham khảo đối
với nghiên cứu này. Nhƣng qua góc nhìn một cách hệ thống nhƣ trên có thể
thấy chƣa có một đề tài nào trực tiếp đề cập đến đề tài này, và có thể khẳng
định luận văn này không trùng lặp với bất cứ đề tài nào trƣớc đó.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Mục đích của Luận văn là bƣớc đầu làm rõ vai trò chính trị của báo chí
Việt Nam trên các phƣơng diện chính:
8
+ Vai trò góp phần giám sát quyền lực chính trị, trong đó chủ yếu là phản
ánh, phê bình các hiện tựơng tiêu cực, lạm quyền của các cơ quan công quyền,
các thiết chế chính trị-xã hội hoặc cá nhân hoặc tình trạng chồng chéo trong
cơ chế, tệ quan liêu hoặc những bất cập mang tính hệ thống của cơ chế chính
trị, hành chính.
+ Thực trạng vai trò giám sát quyền lực chính trị của báo chí trong thời
kỳ đổi mới, những han chế và bài học kinh nghiệm, phƣơng hƣớng và giải
pháp nhằm đổi mới hoạt động của báo chí nƣớc nhà, đặc biệt là nâng cao vai
trò giám sát quyền lực chính trị của báo chí.
4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Về phạm vi, trong khuôn khổ có hạn của Luận văn, công trình này chỉ
giới hạn xem xét vai trò của báo chí (chứ không phải của tất cả các phƣơng
tiện truyền thông đại chúng) trên hai phƣơng diện nói trên. Luận văn cũng chủ
yếu tập trung khảo sát thể loại báo viết, báo điện tử, bên cạnh đó cũng khảo
sát thể loại báo hình ở một mức độ nhất định. Về thời gian, phạm vi đƣợc giới
hạn của nghiên cứu là từ năm 1986 đến hết tháng 6 năm 2009.
- Về nguồn tƣ liệu: chủ yếu là một số công trình nghiên cứu khoa học,
các bài báo đăng trên các phƣơng tiện truyền thông nhƣ báo viết, báo điện tử;
bên cạnh đó có một số tƣ liệu khai thác từ báo hình trong nƣớc thời kỳ Đổi
mới. Trong khuôn khổ cho phép, tác giả sẽ cố gắng tiến hành một số cuộc
phỏng vấn sâu một số chuyên gia và các đồng chí lãnh đạo báo chí ở Hà Nội
và một số nhà báo lớn.
5. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Luận văn lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin, Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và đƣờng
lối lãnh đạo báo chí của Đảng và Pháp luật của Nhà nƣớc làm cơ sở lý luận.
Bên cạnh đó, đề tài còn đƣợc xây dựng trên cơ sở hệ thống lý luận của
một số môn khoa học: Chính trị học, Lý luận về báo chí, tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh về báo chí… và hệ thống các tài liệu, văn bản pháp luật, bài viết… liên
9
quan đến chính trị và báo chí, quản lý Nhà nƣớc về báo chí, thực tiễn hoạt
động của báo chí và những ngƣời làm báo.
Về phƣơng pháp: các phƣơng pháp chủ yếu đƣợc áp dụng là phƣơng
pháp lịch sử, logic, phỏng vấn, khảo tả, so sánh, thống kê, tổng hợp, hệ
thống… trong hƣớng tiếp cận căn bản là nghiên cứu văn hóa chính trị.
Do đối tƣợng nghiên cứu ở đây có tính đặc thù rất cao là báo chí và các
loại hình báo chí cho nên bên cạnh những phƣơng pháp nói trên thì tác giả rất
quan tâm đến phƣơng pháp nghiên cứu đặc thù áp dụng cho báo chí đó là
nghiên cứu so sánh; nghĩa là luôn luôn xem xét vai trò của báo chí trong góc
độ so sánh với mối tƣơng quan gắn bó với những thiết chế chính trị khác.
6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
- Về phƣơng diện học thuật, trƣớc hết luận văn này hy vọng đƣa lại
những đóng góp ở mức độ nhất định trong việc làm sáng tỏ những khái niệm
công cụ và những nguyên tắc của việc báo chí tham gia giám sát quyền lực
chính trị thông qua vai trò tác nghiệp và hoạt động chuyên môn của mình. Thứ
hai, luận văn bƣớc đầu khôi phục diện mạo và làm sáng tỏ vấn đề: Báo chí
Việt Nam thông qua việc thực hiện tốt cũng nhƣ chƣa tốt chức năng nhiệm vụ
của mình đã tham gia giám sát quyền lực chính trị nhƣ thế nào trong thực tiễn
công cuộc Đổi mới ở Việt Nam hơn 20 năm qua. Thông qua đó phân tích, làm
rõ sự đóng góp của báo chí Việt Nam trong thắng lợi chung mang tính chất
lịch sử của công cuộc đổi mới dƣới sự lãnh đạo của Đảng.
- Về phƣơng diện thực tiễn: Thông qua kết quả nghiên cứu bƣớc đầu
của luận văn này, tác giả mong muốn trƣớc hết thu hoạch đƣợc những kiến
thức cũng nhƣ kinh nghiệm thực tiễn cho hoạt động nghiệp vụ của báo chí nói
chung, cũng nhƣ của bản thân tác giả với tƣ cách là một ngƣời hoạt động trên
lĩnh vực báo chí. Thứ hai, thông qua việc nghiên cứu, công trình này hy vọng
cung cấp một nguồn tƣ liệu nhất định cho công tác quản lý báo chí cũng nhƣ
công tác nghiên cứu, đào tạo về vai trò chính trị của báo chí trong thời kỳ đổi
mới.
10
7. CẤU TRÖC CỦA LUẬN VĂN
Luận văn ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo gồm có 3
chƣơng, 13 tiết, 30 tiểu tiết.
Chƣơng 1: Vai trò chính trị của báo chí – Một số vấn đề chung
Chƣơng 2: Tình hình thực hiện nhiệm vụ giám sát quyền lực chính trị của
báo chí Việt Nam thời kỳ đổi mới
Chƣơng 3: Một số giải pháp cơ bản nhằm tăng cƣờng vai trò giám sát
quyền lực chính trị của báo chí
11
CHƢƠNG I
VAI TRÒ CHÍNH TRỊ CỦA BÁO CHÍ
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1. BÁO CHÍ TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
1.1. Một số khái niệm cơ bản
+ Chính trị
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, chính trị về thực chất bắt
nguồn từ quan hệ về lợi ích giữa các giai cấp, các nhóm xã hội, các quốc gia
dân tộc. Trong đó trƣớc hết và cơ bản nhất là lợi ích kinh tế. Cái chi phối trực
tiếp chính trị chính là quan hệ giai cấp và vấn đề trung tâm then chốt nhất
trong chính trị là vấn đề quyền lực Nhà nƣớc. Quyền lực nhà nƣớc là công cụ
cơ bản để thực hiện quan hệ với các giai cấp, các nhóm xã hội theo hƣớng có
lợi cho lực lƣợng nắm quyền.
Trong cuộc đấu tranh giai cấp ngày càng khốc liệt, những ngƣời có sức
mạnh kinh tế - những ngƣời thuộc giai cấp thống trị dần dần liên kết, gắn bó
lại với nhau để bảo vệ địa vị của họ, chống lại những ngƣời bị thống trị trong
xã hội. Do nhu cầu nội tại của nó (mà trƣớc hết và cơ bản là bảo vệ, tăng
cƣờng lợi ích kinh tế), giai cấp thống trị buộc phải tìm cách duy trì sự ổn định
của xã hội, ép buộc giai cấp đối kháng và toàn xã hội phải chấp nhận sống
trong vòng trật tự có lợi cho giai cấp thống trị, phù hợp với lợi ích của giai cấp
thống trị. Để thực hiện đƣợc mục tiêu này, giai cấp thống trị đã lập ra bộ máy
bạo lực và sử dụng nó cho việc tổ chức lại xã hội trong một khuôn khổ, theo
một trật tự có lợi cho bản thân họ. Xã hội đƣợc tổ chức lại theo cách thức tổ
chức nhƣ thế đƣợc gọi là Nhà nƣớc.
Vì vậy, nói đến chính trị không thể không nói đến nhà nƣớc. Theo Lênin,
chính trị là sự tham gia vào những công việc nhà nƣớc, là việc vạch hƣớng đi
cho nhà nƣớc, là việc xác định những hình thức, nhiệm vụ, nội dung cho hoạt
động của nhà nƣớc.
12
Từ sự phân tích trên có thể định nghĩa: “Chính trị là quan hệ giữa các
giai cấp, các quốc gia, các dân tộc, các lực lượng xã hội trong việc giành, giữ
và thực thi quyền lực nhà nước” [58, 8].
Tuy nhiên, nói đến chính trị nếu chỉ nói đến giai cấp và nhà nƣớc là chƣa
đủ, mặc dù vấn đề giai cấp và vấn đề nhà nƣớc là hai vấn đề cơ bản nhất của
chính trị, nhất là trong thời đại ngày nay khi mà hoà bình, độc lập, dân tộc,
dân chủ, tự do, bình đẳng đã trở thành mệnh lệnh sống của nhân loại.
Gần đây, sự phát triển của khoa học chính trị phƣơng Tây đã bổ sung và
làm cho khái niệm về chính trị trở nên phong phú hơn. Theo đó, chính trị
đƣợc hiểu là “tất cả các hoạt động của con người nhằm xác lập những chế
định bắt buộc chung đối với nhóm hoặc giữa các nhóm người” [56, 58].
Chúng tôi xem đây là một cách hiểu có giá trị tham khảo đối với nghiên cứu
này.
+ Hệ thống chính trị, hiểu theo cách chung nhất theo quan niệm chính trị
học phƣơng Tây hiện đại là “một tiểu hệ thống của xã hội đảm nhiệm chức
năng tạo ra các chế định bắt buộc cho xã hội đó. Về nguyên tắc hệ thống
chính trị bao gồm hệ thống chính quyền, nghị viện, các Đảng phái, các nhóm
lợi ích, truyền thông đại chúng và các thiết chế quản lý hành chính” [56, 64].
Hiểu theo cách cụ thể hơn phù hợp đặc điểm tình hình nƣớc ta thì hệ
thống chính trị là tổ hợp có tính chỉnh thể các thể chế chính trị (các cơ quan
quyền lực nhà nước, các Đảng chính trị các tổ chức và các phong trào xã
hội…) được xây dựng trên các quyền và các chuẩn mực xã hội, phân bố theo
một kết cấu chức năng nhất định, vận hành theo những nguyên tắc, cơ chế và
quan hệ cụ thể, nhằm thực thi quyền lực chính trị [58, 262].
Hệ thống chính trị của các quốc gia trên thế giới rất khác nhau, phần lớn
các quốc gia tồn tại nhiều Đảng chính trị, nhƣng có những quốc gia chỉ có một
Đảng chính trị duy nhất, ví dụ nhƣ ở Việt Nam. Hệ thống chính trị ở nƣớc ta,
về mặt thể chế bao gồm: Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nƣớc cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên
13
(gồm Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí
Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Hội cựu chiến
binh Việt Nam) là cơ sở của chính quyền nhân dân. Mỗi bộ phận trong hệ
thống chính trị có vị trí, vai trò nhất định.
Đảng cộng sản Việt Nam là lực lƣợng lãnh đạo hệ thống chính trị nƣớc
ta. Hiến pháp 1992 tại Điều 4 quy định “Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên
phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa
Mác Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã
hội”.
Nhƣ vậy, Đảng cộng sản Việt Nam là lực lƣợng lãnh đạo, hƣớng dẫn xã
hội, là hạt nhân của hệ thống chính trị, các cơ quan và tổ chức xã hội ở nƣớc
ta.
+ Quyền lực chính trị hiểu theo nghĩa khoa học chính trị hiện đại là cơ
hội mà ngƣời ta xác lập đƣợc những chế định bắt buộc cho xã hội bất chấp sự
phản kháng của ngƣời khác.
Hiểu theo nghĩa hẹp hơn thì đó là quyền lực của một giai cấp hay liên
minh giai cấp để thực hiện sự thống trị chính trị trên cơ sở thực hiện chức
năng công quyền, cơ bản bằng quyền lực nhà nước, là năng lực áp đặt và
thực thi các giải pháp phân bổ giá trị xã hội có lợi cho giai cấp mình và đảm
bảo mức độ nhất định sự công bằng xã hội [58, 219]. Trên thực tế quyền lực
chính trị hiểu một cách cụ thể nhất, đƣợc thể hiện ở ba loại quyền gắn với
những bộ phận cốt lõi của hệ thống chính trị đó là quyền lập pháp, tƣ pháp và
hành pháp. Trong các hệ thống chính trị phƣơng Tây, báo chí đƣợc coi là
quyền lực thứ tƣ - quyền giám sát ba quyền trên. Trong điều kiện Việt Nam,
ba quyền đó không phân biệt rạch ròi mà đƣợc tích hợp vào nhau dƣới một sự
lãnh đạo cao nhất đó là vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Do vậy
quyền lực chính trị trong hệ thống chính trị Việt Nam phải đƣợc hiểu là quyền
lực của nhân dân, nói nhƣ Hồ Chí Minh thì “tất cả mọi quyền lực thuộc về
14
nhân dân”. Quyền lực chính trị của nhân dân đƣợc thể chế hóa thông qua vai
trò lãnh đạo của Đảng, các cơ quan dân cử, hệ thống chính quyền và các bộ
phận khác của hệ thống chính trị.
Trong hệ thống chính trị nƣớc ta, các quan hệ chính trị đƣợc xác lập do
một cơ chế chủ đạo (và cũng là quan hệ chủ đạo): Đảng lãnh đạo, nhân dân
làm chủ, Nhà nƣớc quản lý.
Đảng lãnh đạo bằng các cƣơng lĩnh, đƣờng lối, chủ trƣơng, thông qua các
nghị quyết của các tổ chức Đảng, từ nghị quyết đại hội Đảng đến nghị quyết
chi bộ cơ sở. Đƣờng lối cƣơng lĩnh của Đảng đƣợc thể chế hóa trong hiến
pháp và pháp luật, trong hệ thống văn bản pháp quy của nhà nƣớc. Lãnh đạo
bằng giáo dục, tuyên truyền, vận động, nêu gƣơng, bằng công tác tổ chức và
cán bộ, bằng công tác kiểm tra.
Nhân dân làm chủ, trƣớc hết đƣợc xác định ở địa vị chủ thể quyền lực
Nhà nƣớc. Chỉ nhân dân mới có chủ quyền đối với quyền lực Nhà nƣớc,
nhƣng nhân dân ủy quyền ấy cho các đại biểu của mình và giám sát đại biểu
đó trong quá trình thực thi quyền lực nhà nƣớc. Nhân dân cũng còn làm chủ
bằng các hình thức trực tiếp và gián tiếp thông qua các đại biểu, các cơ quan
dân cử và các đoàn thể của dân. Quyền làm chủ của nhân dân ở nƣớc ta không
chỉ đƣợc đảm bảo bằng Hiến pháp, pháp luật, mà còn bằng hệ thống truyền
thông, các phƣơng tiện thông tin đại chúng, các cuộc vận động, thông qua
thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, thực hiện dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra.
Nhà nƣớc quản lý xã hội trƣớc hết bằng hệ thống quy phạm pháp luật,
bằng hệ thống các cơ quan quản lý nhà nƣớc từ các Bộ đến các cơ sở, trong đó
không loại trừ các biện pháp cƣỡng chế để đảm bảo thực hiện sự nghiêm minh
của pháp luật. Nhà nƣớc thực hiện quản lý trên tất cả các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, xã hội, quản lý theo ngành hoặc lãnh thổ theo cấp vĩ mô hoặc vi mô.
Nhà nƣớc thực hiện sự quản lý bằng cả chính sách, các công cụ đòn bẩy
khác… Mục tiêu là phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân, phát huy
15
quyền làm chủ của nhân dân, đảm bảo cho nhân dân đƣợc làm tất cả những gì
mà pháp luật không cấm.
+ Xã hội hóa chính trị: Trong khoa học chính trị hiện đại nói chung thì
xã hội hóa chính trị là một khái niệm rất quan trọng. Nó đƣợc hiểu theo hai
nghĩa:
Nghĩa thứ nhất, về tâm lý học và xã hội học: Một con ngƣời sinh ra lúc
đầu là trẻ con, chƣa tham gia nhiều vào quá trình tƣơng tác xã hội, thì xã hội
hóa chính trị là quá trình làm cho con ngƣời xã hội của nó ngày càng lớn lên
trong mối tƣơng tác với xã hội, làm quen với các chế định bắt buộc - đó là quá
trình xã hội hóa của một cá nhân.
Nghĩa thứ hai, về góc độ chính trị thì xã hội hóa chính trị là làm cho các
chế định bắt buộc bao gồm các quy ƣớc, quy định, tiêu chí ứng xử chính trị,
đƣờng lối lãnh đạo của Đảng, pháp luật của nhà nƣớc.v.v… đƣợc ngƣời dân,
xã hội nhận thức, hiểu đúng và làm theo. Thực ra đó là quá trình tuyên truyền,
phổ biến nhận thức của hệ thống chính trị đối với xã hội, giải thích vì sao
ngƣời ta phải tuân theo cái này mà không tuân theo cái kia. Do vậy cái cốt lõi
của xã hội hóa chính trị hiện đại chính là quá trình tuyên truyền, cổ động hay
vận động và cƣỡng chế xã hội… đó là chiều xuôi từ phía hệ thống chính trị.
Còn ở chiều ngƣợc, ngƣời dân có nhu cầu nắm đƣợc thông tin, sau đó
bày tỏ ý nguyện để xã hội biết họ muốn gì ở hệ thống chính trị, tìm cách tác
động vào quá trình chính trị để ý nguyện cuả họ đƣợc thể hiện ở đầu ra của
quá trình chính trị. Trên thực tế, từ khi có xã hội loài ngƣời đƣợc tổ chức
thành nhà nƣớc dƣới bất kỳ hình thức nào thì đã xuất hiện xã hội hóa chính
trị. Quá trình này đƣợc thể hiện một cách giản đơn ở trong xã hội nguyên
thủy. Ví dụ thời vua Hùng, truyền thuyết cho thấy mỗi khi có giặc đến vua sai
sứ giả đi loan truyền trong khắp thiên hạ để tìm ngƣời giúp nƣớc. Hoặc trong
mỗi bộ lạc đều định ra một số quy ƣớc nhất định nào đó mà những ngƣời
trong bộ lạc bắt buộc phải tuân theo. Phƣơng pháp xã hội hóa chính trị ấy có
16
thể xem là thô sơ, đơn giản nhất, chủ yếu thông qua hình thức truyền miệng,
truyền tín hiệu.v.v…
Khi xã hội phát triển, nhu cầu của con ngƣời về thông tin ngày càng
tăng, lƣợng thông tin cũng ngày càng phong phú và đồ sộ hơn. Ngƣời ta
không thể trông đợi vào những hình thức thông tin thô sơ đơn giản nhƣ trƣớc
nữa, mà cần đƣợc cung cấp thông tin nhanh nhạy, đầy đủ, kịp thời hơn. Do
vậy, phải có báo chí và truyền thông. Trong xã hội hiện đại, phƣơng tiện
truyền thông đại chúng lại trở thành công cụ của hệ thống chính trị và của
ngƣời dân. Trƣớc hết là ở chiều xuôi, báo chí truyền thông đƣợc hệ thống
chính trị sử dụng vào mục đích tuyên truyền nhằm làm cho ngƣời dân biết
đƣợc đƣờng lối chính sách của mình, lý lịch của các nhà chính trị .v.v… để
làm cho ngƣời dân tin theo ngƣời này hay không tin ngƣời khác... Quá trình
đó đƣợc kết hợp bằng cách tuyên truyền, cổ động, vận động, áp đặt cƣỡng
bức, từ chỗ dẫn dắt, động viên đến ép buộc ngƣời dân phải làm theo các
đƣờng lối chính sách của hệ thống chính trị.
Ở chiều ngƣợc lại, kể cả ngƣời dân sống trong xã hội nguyên thủy trƣớc
đây vốn rất nghèo nàn về thông tin, và hiện nay trong xã hội hiện đại, sống
giữa một “rừng” những chế định bắt buộc, họ cũng càng có nhu cầu nắm đƣợc
thông tin để biết đƣợc mình nên làm gì và không nên làm gì. Sau khi đã nắm
đƣợc thông tin rồi, ngƣời dân trong xã hội dân chủ cũng phải biết cách xây
dựng ý nguyện và bày tỏ ý nguyện của mình cho ngƣời khác biết, tức là họ
cung cấp thông tin đầu vào (input) của quá trình chính trị, và không chỉ cung
cấp thông tin đầu vào, họ còn tìm cách tác động vào quá trình chính trị bằng
cách thành lập những diễn đàn, gửi thƣ, kêu gọi biểu tình… và phản hồi chính
sách, bình luận về chính sách đó… để cho hệ thống chính trị hiểu đƣợc chính
sách của mình là sai hay đúng.
Nhƣ vậy trong xã hội hiện đại vai trò quan trọng của truyền thông đại
chúng, trong đó có báo chí đã đƣợc khẳng định, là cầu nối giữa hệ thống chính
trị và ngƣời dân. Chính từ vai trò xã hội hóa chính trị sẽ dẫn đến vai trò phản
17
biện, giám sát chính trị mà sự tham gia của báo chí đóng vai trò quan trọng
hơn cả.
+ Quá trình chính trị: Hiểu theo định nghĩa phổ biến nhất của khoa học
chính trị phƣơng Tây hiện đại là một khái niệm tập hợp dùng để chỉ tất cả
những bước đi, và quá trình của sự hình thành ý chí chính trị, ra các quyết
định chính trị, thực hiện những quyết định đó và xác lập tính hợp pháp chính
trị [56, 81].
Một cách giản dị hơn, quá trình chính trị là quá trình mà hệ thống chính
trị thực hiện các chức năng nhiệm vụ của mình. Là quá trình các cơ quan lập
pháp, hành pháp, tƣ pháp thực hiện các chức năng nhiệm vụ của mình trên cơ
sở vừa độc lập tƣơng đối vừa có quan hệ biện chứng với nhau …Hoặc có thể
nói “Qúa trình chính trị là tất cả những quá trình hành động, được dẫn dắt
hay thúc đẩy bởi bất kỳ động cơ hay lợi ích nào, để thông qua đó xác lập nên
những chế định bắt buộc cho xã hội”.[56, 81-82]
Trong mỗi chế độ chính trị và với mỗi hệ thống chính trị, các quá trình
này diễn ra theo những phƣơng thức khác nhau. Điều này không những phụ
thuộc vào bản chất của chế độ và hệ thống chính trị mà còn phụ thuộc vào cấu
trúc của hệ thống chính trị. Ví dụ trong chế độ chuyên chế, độc tài thì hệ
thống chính trị tự cho rằng nó có quyền áp đặt các chế định bắt buộc cho xã
hội. Do đó, thủ lĩnh độc tài và hệ thống chính trị hoàn toàn chế ngự quá trình
hình thành ý chí chính trị, và ngƣời dân bị gạt ra khỏi quá trình đó, ý nguyện
của họ không đƣợc hệ thống chính trị đếm xỉa tới nên kết quả là thậm chí
ngƣời dân trở nên thờ ơ với chính trị.
Còn trong chế độ dân chủ, các quá trình hình thành ý chí chính trị đƣợc
diễn ra theo những quy trình pháp định. Tại đó, việc trƣng cầu dân ý, thu thập
ý nguyện dân chúng cho các quyết sách đƣợc luật pháp quy định chặt chẽ và
buộc tất cả các đảng phái cầm quyền phải tuân theo. Ngoài các quy trình pháp
định đó, còn có nhiều quy trình và các “kênh” để ngƣời dân có thể tham dự
trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình hình thành ý chí chính trị. Họ có thể trực
18
tiếp bày tỏ quan điểm của mình bằng cách sử dụng những quyền hợp pháp
nhƣ quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp, biểu tình… hoặc tìm cách chuyển
tải ý nguyện của mình tới các thiết chế đầu vào thông qua truyền thông đại
chúng…
+Văn hóa chính trị chính là cái “hồn” của toàn bộ môi trƣờng chính trị.
là tổng hợp những giá trị vật chất, tinh thần đƣợc hình thành trong thực tiễn
chính trị. Nó là cái góp phần chi phối hoạt động của các cá nhân, các nhà
chính trị, góp phần định hƣớng hoạt động của họ trong việc tham gia vào đời
sống chính trị để phục vụ lợi ích căn bản của một giai cấp nhất định. Văn hóa
chính trị góp phần định hƣớng mục tiêu hoạt động của các tổ chức chính trị,
đặc biệt là Đảng và nhà nƣớc, cho các phong trào chính trị trong một xã hội
nhất định.
Theo quan điểm chính trị học hiện đại, “Văn hóa chính trị là một khái
niệm tập hợp dùng để chỉ những giá trị chính trị quan trọng, tri thức, quan
niệm và thái độ trong một xã hội; những dạng thức được bộc lộ ra thông qua
hoạt động chính trị và tham dự chính; những quy tắc công khai hay mặc nhiên
được thừa nhận của quá trình chính trị, và những cơ sở thường nhật của của
các hệ thống chính trị” [56, 21-22].
Văn hóa chính trị rất cần thiết và có ảnh hƣởng to lớn đến hoạt động
chính trị của mỗi cá nhân, chủ thể cầm quyền cũng nhƣ của đông đảo quần
chúng trong xã hội.
Trong cuộc đấu tranh giành, giữ và thực thi quyền lực ở nƣớc ta, giai cấp
cách mạng phải đặc biệt chú trọng công tác tƣ tƣởng và lý luận, giáo dục và
tuyên truyền chính trị nhằm đƣa ảnh hƣởng của văn hóa chính trị vào quần
chúng. Trong công cuộc Đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay,
muốn cho văn hóa thực sự phát huy vai trò là động lực và mục tiêu của sự
phát triển xã hội thì văn hóa chính trị phải trở thành một bộ phận trọng yếu
trong chiến lƣợc văn hóa, trong nội dung xây dựng và phát triển nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
19
+ Vai trò giám sát quyền lực chính trị: Nhìn ở góc độ thực tiễn, ngay
việc chuyển tải thông tin đã thể hiện vai trò này của báo chí. Ví dụ: việc báo
chí đƣa thông tin về một chủ trƣơng nào đó của hệ thống chính trị thì đã tạo
điều kiện để ngƣời dân hiểu rõ về chủ trƣơng đó. Và không chỉ là cung cấp
thông tin mà qua đó, báo chí còn giúp ngƣời dân giám sát việc thực thi chủ
trƣơng đƣờng lối lãnh đạo của hệ thống chính trị. Chẳng hạn một Đảng chính
trị lên cầm quyền, nếu không thực hiện đúng những lời hứa với dân trƣớc đó
hoặc làm sai với cƣơng lĩnh mà Đảng đó đặt ra thì sẽ bị mất uy tín chính trị.
Chính báo chí truyền thông sẽ giúp cho ngƣời dân nắm đƣợc những thông tin
mà họ quan tâm. Báo chí cung cấp cho ngƣời dân công cụ quan trọng nhất để
họ thể hiện quyền tự do dân chủ của mình, đó chính là quyền đƣợc nắm thông
tin. Nếu không có thông tin họ sẽ không thể biết đƣợc hệ thống chính trị thực
thi đƣờng lối đúng hay sai, cũng nhƣ bản thân họ có nắm đƣợc và thực hiện
đúng pháp luật và các chế định bắt buộc của xã hội đó hay không.
Hơn nữa, trong xã hội hiện đại ngày nay, khi nhu cầu thông tin ngày càng
phát triển, vai trò làm chủ của ngƣời dân trong xã hội đƣợc đề cao, báo chí
còn là diễn đàn ngôn luận của ngƣời dân, để họ có thể nói lên tiếng nói và
nguyện vọng của mình đối với hệ thống chính trị. Thông qua việc đấu tranh
chống tiêu cực, tham nhũng, chống những thói hƣ tật xấu trong xã hội, báo chí
đã thể hiện vai trò giám sát quyền lực của mình, phản ánh tiếng nói và nguyện
vọng của ngƣời dân để góp phần lên án những cái xấu, cái bất cập còn tồn tại
trong hệ thống chính trị. Không phải cứ phê phán những biểu hiện lạm quyền,
tiêu cực của hệ thống chính trị hay một bộ phận cán bộ trong hệ thống chính
trị đó mới là thể hiện sự giám sát quyền lực, ngay cả việc thông tin những vấn
đề thoạt nhìn tƣởng không liên quan đến chính trị mà liên quan đến các vấn đề
xã hội, ví dụ nhƣ những biểu hiện sa đọa của thế hệ trẻ, của học sinh sinh viên
trong xã hội… cũng là thể hiện vai trò giám sát quyền lực chính trị. Qua hiện
tƣợng bề nổi đơn thuần ấy, báo chí sẽ đề cập và phân tích ở góc độ xã hội
quản lý thế hệ trẻ nhƣ thế nào, nhà trƣờng và gia đình có trách nhiệm với con
20
em mình ra sao, các quy định của luật pháp đối với việc giáo dục thanh thiếu
niên đã đƣợc thực thi một cách hiệu quả hay không… Hay những vấn đề liên
quan đến thị trƣờng đƣợc nhiều ngƣời quan tâm nhƣ giá xăng dầu, thuế ô tô
tăng… cũng liên quan đến chính sách nhà nƣớc mà trực tiếp là chính sách về
quản lý kinh tế. Có thể thấy bất kỳ dạng thông tin nào mà báo chí đăng tải, dù
trực tiếp hay gián tiếp phản ánh các vấn đề trong xã hội thì cũng liên quan đến
chính trị, đến chính sách nhà nƣớc, và thông qua việc đƣa tin sẽ góp phần điều
chỉnh nhận thức và hành vi chính trị của ngƣời dân cũng nhƣ của hệ thống
chính trị.
Tuy nhiên trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi muốn hiểu vấn đề
giám sát quyền lực chính trị ở nghĩa hẹp hơn, đó là những hoạt động thông tin
của báo chí trực tiếp liên quan đến việc sử dụng quyền lực chính trị theo luật
định của các cơ quan, thiết chế trong hệ thống chính trị và của công dân, mà
chủ yếu trong khía cạnh tuyên truyền giáo dục chính trị hay còn gọi là xã hội
hóa chính trị, cung cấp thông tin cho ngƣời dân và thứ hai là đấu tranh chống
các hiện tƣợng lạm quyền, tham nhũng và các vấn đề tiêu cực trong xã hội mà
thôi.
1.2. Vị trí của báo chí trong hệ thống chính trị
Báo chí hay các loại hình báo chí Việt Nam, theo Điều 3 Luật Báo chí
bao gồm “Báo in (báo, tạp chí, bản tin thời sự, bản tin thông tấn), báo nói
(chương trình phát thanh), báo hình (chương trình truyền hình, chương trình
nghe - nhìn thời sự được thực hiện bằng các phương tiện kỹ thuật khác nhau),
báo điện tử (được thực hiện trên mạng thông tin máy tính) bằng Tiếng Việt,
tiếng dân tộc thiểu số Việt Nam, tiếng nước ngoài” [45, 6].
Ở các nƣớc tƣ bản, báo chí đƣợc một số nhà nghiên cứu gọi là “quyền lực
thứ tƣ”, nghĩa là công nhận báo chí có một vị trí đặc biệt trong hệ thống chính
trị (sau quyền lực nhà nƣớc), đôi khi và đôi chỗ có thể làm ảnh hƣởng đến sự
thành bại của đƣờng lối chính trị của một tổ chức hay cá nhân, đảng phái
21
chính trị nào đó, hoặc góp phần làm thay đổi diện mạo đời sống chính trị, kinh
tế, xã hội của quốc gia, hay vùng lãnh thổ, khu vực…
Với đặc điểm chính trị “đa nguyên, đa đảng”, ở các nƣớc phƣơng Tây,
báo chí ngày càng theo xu thế độc quyền. Ví dụ ở Anh, một trong những quốc
gia có truyền thống báo chí vào loại lâu đời nhất ở Châu Âu, có tới 4 công ty
độc quyền thông tin đại chúng kiểm soát 80% toàn bộ thông tin báo chí nƣớc
Anh. Và tình trạng này cũng diễn ra ở một số nƣớc phát triển nhƣ Mỹ, Pháp,
Italia.v.v…Ở các nƣớc này, tuyệt đại bộ phận thông tin, báo chí nằm trong tay
những công ty độc quyền có quan hệ chặt chẽ hoặc bị chi phối bởi thế lực tƣ
bản tài chính - thế lực cầm quyền thực tế dƣới danh nghĩa của các đảng phái
chính trị. Và theo quy luật của chủ nghĩa tƣ bản, ai nắm tiền và nắm quyền, kẻ
ấy sẽ chi phối báo chí. Chính bởi vậy, các ông chủ tƣ bản đỡ đầu cho những
đảng chính trị đều muốn bỏ tiền ra mua những tờ báo, đài phát thanh truyền
hình lớn để uy tín chính trị của họ đƣợc củng cố, ảnh hƣởng lớn hơn đến các
tầng lớp nhân dân. Báo chí của các đảng này có quyền tự do dân chủ, tuyên
truyền phản ánh những gì có lợi cho đƣờng lối chính sách mà đảng đó đại
diện. Các giai cấp, các chính đảng ở các nƣớc này luôn tìm cách nắm báo chí
để thực hiện đƣờng lối chính trị của mình. Quyền lực của báo chí đƣợc các
Đảng chính trị “đỡ đầu”, do vậy nó có ảnh hƣởng rất lớn đến nền chính trị xã
hội của quốc gia và có thể phần nào đó can thiệp trực tiếp đến đƣờng lối chính
trị, kinh tế, xã hội của Đảng cầm quyền.
Khác với Phƣơng Tây, chế độ chính trị ở Việt Nam là chế độ một Đảng
cầm quyền. Do vậy quyền lãnh đạo báo chí đƣơng nhiên thuộc về Đảng Cộng
sản Việt Nam. Tất nhiên ở Việt Nam báo chí không phải không có những
quyền nhất định. Điều 6 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật báo chí
đƣợc Quốc hội nƣớc CHXH chủ nghĩa Việt Nam thông qua tại kỳ họp thứ 5
Quốc hội khóa X nêu rõ: “Báo chí có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1. Thông tin trung thực về tình hình trong nước và thế giới phù hợp với
lợi ích của đất nước và của nhân dân;
22
2. Tuyên truyền, phổ biến, góp phần xây dựng và bảo vệ đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, thành tựu của đất
nước và thế giới theo tôn chỉ mục đích của cơ quan báo chí; góp phần ổn định
chính trị, nâng cao dân trí, đáp ứng nhu cầu văn hóa lành mạnh của nhân
dân, bảo vệ và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, xây dựng và phát
huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
3. Phản ánh và hướng dẫn dư luận xã hội; làm diễn đàn thực hiện quyền
tự do ngôn luận của nhân dân”. [45, 9]
Trên bình diện chung, báo chí có các chức năng, nhiệm vụ sau:
1. Thông tin: Phản ánh, cung cấp những thông tin của đời sống chính trị,
kinh tế, xã hội đất nƣớc, các đƣờng lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nƣớc tới các tầng lớp nhân dân và ngƣợc lại, thông tin phản hồi ý kiến,
mong muốn, nguyện vọng của nhân dân tới Đảng Nhà nƣớc, bộ máy lãnh đạo.
2. Phục vụ phát triển kinh tế, quản lý xã hội: Phản ánh và hƣớng dẫn dƣ
luận xã hội, làm diễn đàn thực hiện quyền tự do ngôn luận của nhân dân. Góp
phần hiện thực hóa các chủ trƣơng chính sách của Đảng Nhà nƣớc nhằm xây
dựng và phát triển đất nƣớc, phát triển kinh tế, ổn định xã hội. Tham gia vào
cuộc đấu tranh chống các tệ nạn xã hội, đặc biệt là tham nhũng, lãng phí, buôn
lậu, chống mê tín dị đoan, nêu những gƣơng tốt để định hƣớng dƣ luận và
nhận thức xã hội…
3. Góp phần bảo tồn và phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc: Nghị quyết Trung ƣơng khóa VIII đã nhấn mạnh đến nhiệm vụ xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc theo định hƣớng
xã hội chủ nghĩa, trong đó vấn đề trung tâm là xây dựng con ngƣời Việt Nam
xã hội chủ nghĩa. Trong nhiệm vụ này, tiếng nói của báo chí trên các phƣơng
tiện thông tin đại chúng và của công luận đã góp phần sinh động phản ánh,
xây dựng nền văn hóa và con ngƣời Việt Nam trong công cuộc đổi mới đất
nƣớc, rút ra những ƣu và nhƣợc điểm của văn hóa và con ngƣời Việt Nam,
23