Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

Thực hiện chính sách dân tộc trên địa bàn tỉnh đồng nai hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.87 MB, 118 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------

NGUYỄN THỊ CÚC

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐỒNG NAI HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

Hà Nội - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------

NGUYỄN THỊ CÚC

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐỒNG NAI HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60 31 02 01

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Lâm Bá Nam

Hà Nội - 2014



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Lâm Bá Nam. Các số liệu và
trích dẫn trong luận văn là trung thực. Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên
cứu của mình.
Học viên

Nguyễn Thị Cúc


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lâm
Bá Nam đã dành thời gian và tâm huyết hướng dẫn nghiên cứu và giúp tôi
hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn quý Thầy, Cô trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội và Trường Đại học Sài Gòn đã
nhiệt tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập cũng như hoàn chỉnh
luận văn tốt nghiệp; Đặt biệt là những Thầy Cô đã giảng dạy cho tôi suốt thời
gian học tập tại trường.
Đồng thời, tôi cũng xin cảm ơn quý anh, chị và lãnh đạo Ban Dân tộc,
Văn phòng UBND tỉnh Đồng Nai đã cung cấp cho tôi nhiều thông tin để hoàn
thành luận văn.
Mặc dù bản thân đã cố gắng hoàn thiện luận văn bằng sự nỗ lực và khả
năng của của mình, tuy nhiên sẽ không tránh khỏi những khiếm khuyết, thiếu
sót, rất mong nhận được sự đóng góp quý báu của quý Thầy Cô và các anh chị
học viên.
Một lần nữa, tôi xin chân thành cảm ơn!
Học viên


Nguyễn Thị Cúc


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................11
1. Tính cấp thiết của đề tài ...........................................................................11
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu...............................................................33
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................10
6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................10
7
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ...............................................10
7
6. Đóng góp của luận văn .............................................................................11
11
7. Kết cấu của luận văn.................................................................................11
11
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC, CHÍNH SÁCH
DÂN TỘC VÀ CÔNG TÁC DÂN TỘC Ở ĐỒNG NAI.....................

12

1.1. Các khái niệm chung....................................................................

12

1.1.1. Khái niệm dân tộc, chính sách, chính sách dân tộc, công tác
dân tộc....................................................................................................

12


1.1.2. Cách thức tiếp cận chính sách dân tộc.........................................

14

1.1.3. Vai trò của chính sách, chính sách dân tộc..................................

19

1.2. Những nguyên tắc và vấn đề cơ bản của chính sách dân tộc....

23

1.2.1. Những nguyên tắc cơ bản............................................................

23

1.2.2. Những vấn đề cơ bản...................................................................

25

1.3. Quá trình triển khai thực hiện....................................................

30

1.3.1. Cách thức tổ chức thực hiện chính sách dân tộc..........................

30

1.3.2. Quá trình triển khai thực hiện chính sách dân tộc.......................


34

Tiểu kết chương 1..................................................................................

37


Chương 2: THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH DÂN TỘC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐỒNG NAI
HIỆN NAY...........................................................................................

38

2.1. Các dân tộc ở Đồng Nai - Những nhân tố ảnh hưởng tới việc
thực hiện chính sách dân tộc...............................................................

38

2.2. Kết quả thực hiện chính sách dân tộc trên địa bàn tỉnh
Đồng Nai...............................................................................................

41

2.2.1. Những kết quả đạt được...............................................................

41

2.2.2. Những hạn chế và vấn đề đặt ra...................................................


60

Tiểu kết chương 2..................................................................................

66

Chương 3: NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
DÂN TỘC Ở ĐỒNG NAI HIỆN NAY................................................

67

3.1. Yêu cầu về công tác dân tộc trên địa bàn tỉnh...........................

67

3.2. Bài học kinh nghiệm - Một số kiến nghị và giải pháp...............

71

Tiểu kết chương 3..................................................................................

81

KẾT LUẬN..........................................................................................

84

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................

88


PHỤ LỤC ẢNH...................................................................................

97


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong suốt quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc và trong mỗi bước
đi của cách mạng Việt Nam, đồng bào các dân tộc thiểu số đã luôn cùng đồng
bào cả nước một lòng thủy chung, son sắt theo Đảng và Bác Hồ, cống hiến
công sức, xương máu cho sự nghiệp cách mạng và giành được nhiều thắng lợi
vĩ đại.
Đất nước Việt Nam có 54 dân tộc với dân số 85.846.997 người, trong
đó dân tộc Kinh có 73,594 triệu người (chiếm 85,7%) và các dân tộc còn lại
có 12,253 triệu người (chiếm 14,3%) [53]. Tiếng Việt là ngôn ngữ chính
thống, đồng thời là phương tiện gắn kết cộng đồng quốc gia dân tộc. Các dân
tộc thường cư trú đan xen, không có lãnh thổ riêng, không đồng đều về dân
cư và dân tộc đều có ngôn ngữ, bản sắc văn hóa riêng, cùng nhau tạo dựng
nên một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, phong phú và đậm đà bản
sắc dân tộc. Các dân tộc đều có truyền thống đoàn kết, gắn bó với nhau lâu
đời trong quá trình dựng nước và giữ nước, với truyền thống yêu nước nồng
nàn, ý chí kiên cường, bất khuất.
Ngày nay, trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, việc
thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta với nỗ lực của các cấp,
các ngành và đồng bào các dân tộc trong cả nước, đặc biệt là từ khi triển khai
thực hiện Nghị quyết Trung ương 7, Khóa IX về công tác dân tộc, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng thể hiện trên mọi
lĩnh vực của đời sống - xã hội. Tuy nhiên, trong bối cảnh quốc tế và trong
nước hiện nay, vấn đề dân tộc và đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, cơ

bản lâu dài, nhưng cũng là vấn đề cấp bách của cách mạng nước ta.

1


Nhận thức rõ vị trí và tầm quan trọng của vấn đề dân tộc đối với tiến
trình cách mạng của đất nước, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương,
chính sách nhằm phát triển mọi mặt của đời sống xã hội đối với đồng bào các
dân tộc thiểu số, khắc phục sự chênh lệch về các mặt giữa các vùng, các dân
tộc do nhiều nguyên nhân để lại với nguyên tắc “Cộng đồng các dân tộc Việt
Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng giúp nhau cùng phát triển” (Đại hội XI)
[16].
Xác định công tác dân tộc là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân, của cả hệ thống chính trị. Việc thực hiện công tác dân tộc trên địa bàn
tỉnh Đồng Nai đã được các cấp, các ngành quan tâm thực hiện. Đó là biểu
hiện tốt đẹp, thiết thực của tình cảm đồng bào, trách nhiệm của toàn dân đối
với đồng bào dân tộc thiểu số.
Đồng Nai là tỉnh thuộc khu vực miền Đông Nam Bộ với tổng diện tích
tự nhiên là 5.863 km2 gồm 11 đơn vị hành chính (09 huyện, 01 thị xã và 01
thành phố) với 171 xã, phường, thị trấn; Toàn tỉnh hiện có 04 huyện và 60 xã
miền núi, 02 ấp đặc biệt khó khăn khu vực I (ấp 3, ấp 7, xã Thanh Sơn). Đồng
Nai có 37 dân tộc cùng sinh sống với dân số trên 2,4 triệu người, trong đó dân
tộc Kinh hơn 2,3 triệu người chiếm 93% dân số, còn lại đồng bào dân tộc
thiểu số có 189.098 người, chiếm gần 7% dân số toàn tỉnh [11, tr4]. Có 04
dân tộc tại chỗ là Chơro, Mạ, Xtiêng và Cơho. Còn lại đa phần là đồng bào
các dân tộc thiểu số đến từ các tỉnh miền núi phía Bắc. Điểm khác biệt của
đồng bào các dân tộc thiểu số ở Đồng Nai là sống xen kẽ với đồng bào dân
tộc Kinh ở khắp các địa bàn, ít tập trung thành bản, làng riêng biệt. Phần lớn
địa bàn cư trú là vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng, điều kiện đi lại
còn gặp nhiều khó khăn. Các dân tộc thiểu số ở Đồng Nai có lịch sử đấu tranh

hào hùng, một lòng theo Đảng, theo Bác Hồ suốt trong các cuộc kháng chiến
của dân tộc đã góp phần làm cho Đồng Nai anh hùng trong kháng chiến và
năng động trong thời kỳ đổi mới. Vì vậy, việc thực hiện chính sách dân tộc là
2


một vấn đề được các cấp, các ngành quan tâm, để từng bước cải thiện và nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào các dân tộc thiểu số tỉnh Đồng
Nai, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, ổn định chính trị - xã hội
và phát triển bền vững vùng dân tộc thiểu số.
Trong những năm qua, việc chăm lo phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng
bào dân tộc thiểu số thông qua việc thực hiện chính sách dân tộc trên địa bàn
tỉnh Đồng Nai đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Nguồn lực Nhà nước đầu
tư trên các lĩnh vực tăng, nhiều chủ trương chính sách được thực hiện và đạt
được những kết quả đáng phấn khởi trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa xã
hội, an ninh quốc phòng, góp phần làm chuyển biến đời sống đồng bào các dân
tộc thiểu số. Tuy nhiên, so với mặt bằng chung của tỉnh, đời sống kinh tế - xã
hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn khoảng cách nhất định, còn gặp
nhiều khó khăn, trình độ dân trí còn thấp. Việc thực hiện chính sách dân tộc
trên địa bàn tỉnh vẫn còn một số hạn chế, điều này ảnh hưởng đến hiệu quả của
việc thực hiện chính sách dân tộc trên địa bàn tỉnh Đồng Nai nhằm đảm bảo
nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng giúp nhau cùng phát triển [34].
Vì vậy, tác giả chọn đề tài: “Thực hiện chính sách dân tộc trên địa bàn
tỉnh Đồng Nai hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sỹ chuyên ngành Chính trị
học, nhằm làm sáng tỏ những thành công, hạn chế, rút ra những bài học kinh
nghiệm trong việc thực hiện chính sách dân tộc ở Đồng Nai hiện nay, đề xuất
những giải pháp chủ yếu để tiếp tục việc thực hiện chính sách dân tộc tốt hơn
nữa trong thời gian tới.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu:
Vấn đề dân tộc, công tác dân tộc và đoàn kết các dân tộc luôn được

Đảng ta xác định có vị trí chiến lược quan trọng trong cách mạng nước ta.
Quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng ta trong lãnh đạo thực hiện công
tác dân tộc và chính sách dân tộc là: “các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam
bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển” [5, tr.70]. Do
3


vậy, việc tìm hiểu nghiên cứu vấn đề dân tộc và chính sách dân đã được các
học giả nghiên cứu một cách công phu, giải quyết về cả lý luận và thực tiễn.
Các công trình nghiên cứu này thể hiện dưới dạng sách chuyên khảo, bài đăng
tạp chí, luận văn, luận án của các tác giả. Trong phạm vi nghiên cứu của luận
văn, tác giả đã tiến hành khảo sát, phân loại các công trình nghiên cứu có liên
quan đến đề tài dưới các góc độ sau:
- Những công trình nghiên cứu các vấn đề về lý luận dân tộc, về quan hệ
dân tộc và công tác dân tộc:
+ Nguyễn Quốc Phẩm, Trịnh Quốc Tuấn (1999), “Mấy vấn đề lý luận
và thực tiễn về dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam”, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội. Các tác giả đưa ra sự lý giải về một số khái niệm liên quan đến
vấn đề dân tộc và trình bày thực tiễn vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc
Việt Nam hiện nay.
+ Ủy ban dân tộc và miền núi (2001), “Về vấn đề dân tộc và công tác
dân tộc ở nước ta” (Tài liệu bồi dưỡng cán bộ về công tác dân tộc), Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách trình bày hệ thống quan điểm lý luận
về công tác dân tộc và nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ làm công tác dân tộc
nhằm đáp ứng yêu cầu thực hiện thắng lợi nghị quyết Đại hội lần thứ IX của
Đảng.
+ Viện Nghiên cứu chính sách dân tộc và miền núi (2002), “Vấn đề
dân tộc và định hướng xây dựng chính sách dân tộc trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa”. Cuốn sách đã trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn về chính
sách dân tộc của Đảng ta và những định hướng cơ bản trong việc quy hoạch

dân cư, đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế hàng hóa phù hợp với đặc điểm
từng vùng nhằm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đặc biệt là công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong nông nghiệp, nông thôn, đồng thời kiến nghị
những giải pháp sớm ổn định và cải thiện đời sống đồng bào dân tộc.
4


+ Lê Ngọc Thắng (2005), “Hồ Chí Minh với vấn đề đoàn kết các dân
tộc”. Cuốn sách đã trình bày hệ thống tư tưởng đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, qua đó giúp người đọc nắm vững nguyên tắc cơ bản của Người về
trong thực hiện chính sách dân tộc đó là đại đoàn kết dân tộc, đồng thời vận
dụng một cách có hiệu quả về tư tưởng đoàn kết các dân tộc trong gia đoạn
hiện nay- thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
+ Phan Xuân Sơn, Lưu Văn Quảng (2006), Những vấn đề cơ bản về
chính sách dân tộc ở nước ta hiện nay”. Cuốn sách giúp người đọc nắm được
những vấn đề cơ bản về dân tộc và chính sách dân tộc; có cái nhìn hệ thống
về chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta qua các thời kỳ từ 1930 đến
nay; tổng kết, phân tích sâu sắc những vấn đề đang đặt ra cho việc thực hiện
chính sách dân tộc như sự tranh chấp nguồn lợi và sự xung đột dân tộc, vấn đề
nghèo đói, hoạt động của các thế lực thù địch… Đặc biệt là, từ những kiến
giải về thực tiễn, các tác giả đã bước đầu đưa ra những quan điểm, giải pháp
góp phần thực hiện tốt chính sách dân tộc ở nước ta.
+ Hoàng Chí Bảo (2009) Đảm bảo bình đẳng và tăng cường hợp tác
giữa các dân tộc. Nội dung cuốn sách nêu rõ những lý luận mới về dân tộc,
quan hệ dân tộc và chính sách dân tộc, qua đó đánh giá thực trạng tình hình
kinh tế - xã hội và các quan hệ dân tộc, đồng thời đề xuất giải pháp nhằm giải
quyết các vấn đề dân tộc, các quan hệ dân tộc, tạo sự công bằng, bình đẳng
trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi nước ta hiện nay.
+ Lê Đại Nghĩa, Dương Văn Lượng (2010), Dân tộc và chính sách dân
tộc ở Việt Nam, Cuốn sách cung cấp cho người đọc những thông tin: Khẳng

định quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề
dân tộc, cung cấp những lý luận cơ bản về dân tộc, quan hệ dân tộc; quan
điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề dân tộc, những thành
tựu cơ bản trong thực hiện chính sách dân tộc từ năm 1945 đến nay và đấu

5


tranh chống các âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc để chống phá Việt
Nam của các thế lực thù địch.
+ Đậu Tuấn Nam CB (2010), Vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt
Nam hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách gồm tập hợp các
bài viết của các nhà khoa học tập trung nghiên cứu về vấn đề dân tộc và quan
hệ dân tộc ở Việt Nam hiện nay.
+ Bế Trường Thành (2011), Vấn đề dân tộc và công tác dân tộc, Cuốn
sách gồm một số bài viết và công trình tiêu biểu của đồng chí Bế Trường
Thành, góp phần luận giải và làm sáng tỏ vấn đề dân tộc ở Việt Nam; đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với đồng bào các dân tộc và công
tác dân tộc hiện nay.
+ Trần Hữu Tiến (2012), Dân tộc trong lịch sử và trong thời đại ngày
nay. Cuốn sách nghiên cứu vấn đề dân tộc không chỉ được tiếp cận dưới góc
độ dân tộc học, xã hội học cụ thể mà đi sâu phân tích dưới góc độ chủ nghĩa
duy vật lịch sử và những vấn đề lý luận, thực tiễn của chủ nghĩa xã hội khoa
học. Vấn đề dân tộc, trọng tâm của cuốn sách, được đặt trong các vấn đề
chung của thời đại là hòa bình, dân chủ, phát triển, độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội.
- Những công trình nghiên cứu về thực hiện công tác dân tộc và chính
sách dân tộc trong thực tiễn:
+ Viện Dân tộc, Ủy ban Dân tộc (2006), Giải pháp cải thiện đời sống
cho đồng bào dân tộc thiểu số. NXB. Chính trị Quốc gia. Cuốn sách phân tích

thực trạng và đưa ra những giải pháp cơ bản nhằm cải thiện đời sống cho
đồng bào dân tộc thiểu số.
+ Vụ Chính sách dân tộc- Ủy ban Dân tộc (2009), Xây dựng và tổ chức
thực hiện chính sách dân tộc”, Cuốn tài liệu tham khảo cho cán bộ công tác
dân tộc. Tài liệu này rất hữu ích cho những cán bộ nghiên cứu, hoạch định và
quản lý thực hiện chính sách dân tộc và những người quan tâm đến công tác
6


dân tộc. Qua cuốn tài liệu, cung cấp cho người đọc những thông tin cập nhật
về xây dựng, tổ chức triển khai, theo dõi và đánh giá kết quả thực hiện chính
sách dân tộc được trình bày dưới dạng hệ thống theo quy trình.
+ Viện Dân tộc, Ủy ban Dân tộc (2010), Các chuyên đề nghiên cứu
khoa học năm 2007 - 2008 của Viện Dân tộc. Cuốn sách bao gồm các chuyên
đề nghiên cứu của các tác giả về các lĩnh vực khác nhau trong việc xây dựng,
thực hiện chính sách dân tộc, nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ, phát
triển bề vững và các vấn đề mới đang đặt ra ở vùng dân tộc thiểu số. Cuốn
sách là nguồn tài liệu tham khảo bổ ích trong lĩnh vực công tác dân tộc.
+ Bùi Minh Đạo (2012), Thực trạng phát triển các dân tộc ở Trung bộ
và một số vấn đề đặt ra. Tác giả trên cơ sở khảo sát thực địa từ năm 2007 2010 tại các tỉnh Trung Bộ làm sáng tỏ thực trạng phát triển các dân tộc của
vùng, từ đó đề xuất những giải pháp góp phần phát triển bền vũng các dân tộc
Trung bộ.
+ Nguyễn Văn Nam chủ biên (2010), Vấn đề giao đất, giao rừng và
định canh, định cư vùng đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên. Cuốn
sách góp phần phân tích, đánh giá những thuận lợi, khó khăn cũng như những
thành tựu và hạn chế trong quá trình thực hiện chính sách giao đất, giao rừng
và định canh, định cư đối với đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, từ
đó đề ra phương hướng và các giải pháp cụ thể, thiết thực nhằm tiếp tục thực
hiện có hiệu quả hơn chính sách giao đất, giao rừng và định canh, định cư
vùng đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên.

+ Lê Ngọc Thắng chủ biên (2011), Xây dựng và hoàn thiện hệ thống
chính sách ở Việt Nam. Cuốn sách trình bày có hệ thống những vấn đề cơ bản
về chính sách dân tộc ở Việt Nam; đồng thời đưa ra những phương hướng,
giải pháp xây dựng, đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính sách dân tộc ở Việt
Nam đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2020, nhấn mạnh giai đoạn 2011-

7


2015 và các nhóm giải pháp chủ yếu để xây dựng và hoàn thiện hệ thống
chính sách dân tộc thiểu số.
+ Nguyễn Thái Hòa chủ biên (2011) Xây dựng đội ngũ cán bộ người
dân tộc Khmer ở cơ sở xã, phường, thị trấn khu vực Tây Nam Bộ. Cuốn sách
tập trung phân tích, đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ người dân tộc Khmer
trong hệ thống chính trị ở cơ sở xã hiện nay, thấy được điểm mạnh, điểm yếu,
nguyên nhân và bài học từ thực tiễn; từ đó, xây dựng mô hình cán bộ người
dân tộc Khmer phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra; đề ra phương hướng và
giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ này theo tiêu chuẩn của từng chức danh,
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ đó ở Tây Nam Bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ chính trị ở từng địa phương trong giai đoạn mới.
+ Phan Văn Hùng (2010), Chuyển giao khoa học và công nghệ phát
triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số, NXB. Chính trị - hành chính.
+ Ủy ban Dân tộc (2011), Lịch sử Ủy ban Dân tộc (1946-2011), cuốn
sách đã tái hiện khá đầy đủ, toàn diện, chân thực và hệ thống quá trình hình
thành, phát triển về tổ chức và hoạt động của cơ quan công tác dân tộc.
+ Nguyễn Văn Nam (2010), Vài suy nghĩ về đưa chính sách vào cuộc
sống của đồng bào dân tộc thiểu sô, Tạp chí Dân tộc, số 120.
+ Mông Ký Slay (2011), Việt Nam thực hiện chính sách về giáo dục
cho đồng bào dân tộc thiểu số trong thời kỳ hội nhập, Thông tin Khoa học
Dân tộc, số 2, tr.31

+ Nguyễn Đăng Thành (2011), Một số vấn đề phát triển nguồn nhân
lực dân tộc thiểu số cho sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
+ Thanh Bình (2012), Thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Cao Bằng,
Tạp chí Dân tộc, số 143.
+ Nguyễn Quang Hải, Hoàng Phương Liên (2012), Một số đề xuất thực
hiện chính sách, pháp luật về đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu
số, Tạp chí Dân tộc, số 143.
8


- Những công trình nghiên cứu có liên quan đến Đồng Nai:
+ Huỳnh Văn Tới (1999), Bản sắc dân tộc và văn hóa Đồng Nai. NXB.
Đồng Nai. Cuốn sách là tập hợp các bài viết về các vấn đề liên quan đến việc
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở Đồng Nai, trong đó có đồng
bào dân tộc thiểu số.
+ Huỳnh Văn Tới, Phan Đình Dũng, Phan Xuân Biên (2005), Văn hóa
Đồng Nai (Sơ thảo), NXB. Đồng Nai.
+“35 năm cải thiện, nâng cao đời sống nhân dân Đồng Nai (1975 2010): Diện mạo mới trong các vùng đồng bào dân tộc thiểu số” của tác giả
Quỳnh Anh.
+“Phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc: Để Đồng
Nai phát triển bền vững” của tác giả Phương Hằng (Báo Đồng Nai).
+ “Mức sống dân cư những xã đặc biệt khó khăn tỉnh Đồng Nai năm
2004” NXB. Đồng Nai, 2005.
+ Địa chí Đồng Nai.
Ngoài các công trình, bài nghiên cứu của các nhà khoa học, nhà quản lý
về chính sách dân tộc của nước ta, còn có rất nhiều báo cáo về việc thực hiện
chính sách dân tộc của Tỉnh ủy, Ủy ban Nhân dân tỉnh Đồng Nai và của các
Sở, Ban ngành có liên quan. Tuy nhiên vẫn chưa có một công trình nào
nghiên cứu trực tiếp về Thực hiện chính sách dân tộc trên địa bàn tỉnh

Đồng Nai hiện nay.
Kế thừa kết quả của những công trình khoa học, những bài viết trước
đây về công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc, luận văn tiếp tục
nghiên cứu, tìm hiểu những vấn đề cơ bản của chính sách dân tộc, thực trạng
và đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm thực hiện tốt hơn chính sách dân
tộc trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.

9


3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục tiêu:
Từ việc tiếp cận, lý giải các vấn đề liên quan đến lý luận về chính sách,
chính sách dân tộc đến việc làm rõ thực tiễn về công tác dân tộc và triển khai
thực hiện chính sách dân tộc, từ đó rút ta các bài học kinh nghiệm, đề xuất các
giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách dân
tộc ở tỉnh Đồng Nai.
- Nhiệm vụ:
+ Làm rõ những khái niệm có liên quan đến chính sách, chính sách dân
tộc; Hệ thống quan điểm của Đảng và Nhà nước trong việc thực hiện chính
sách dân tộc
+ Đánh giá thực trạng việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và
Nhà nước trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
+ Đề xuất những giải pháp, kiến nghị trong việc nâng cao hiệu quả thực
hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Đồng Nai.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề
lý luận và thực tiễn liên quan đến việc triển khai thực hiện chính sách dân tộc
trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu việc thực hiện

chính sách dân tộc trên địa bàn tỉnh Đồng Nai từ năm 2003 đến nay (sau khi
có Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 12/3/2003 của Hội nghị lần thứ 7 Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về công tác dân tộc).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận: Quan điểm của Đảng, Nhà nước ta và Chủ tịch Hồ Chí
Minh về thực hiện chính sách dân tộc, những chủ trương chính sách của Đảng
bộ và UBND tỉnh Đồng Nai về thực hiện chính sách dân tộc trên địa bàn.

10


- Phương pháp nghiên cứu:
+ Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp chuyên ngành của
Chính trị học như phân tích hệ thống chính trị, phân tích cấu trúc, chức năng,
phân tích chính sách,… và các phương pháp liên ngành khác: tổng hợp, thống
kê, so sánh…
+ Đặc biệt là phương pháp phân tích hệ thống chính trị. Nghiên cứu
chính sách với tư cách là đầu ra của hệ thống chính trị, trong trường hợp một
chính sách có tính ưu tiên đối với một đối tượng đặc thù. Nghiên cứu việc
thực hiện chính sách dân tộc đối với các tộc người thiểu số là nghiên cứu một
quá trình chính trị, đánh giá tính hiệu quả, hiệu lực của các thể chế nhà nước
và thể chế chính trị, năng lực của các cơ quan công quyền trong việc thực
hiện chính sách dân tộc và năng lực thu hút sự tham gia của người dân và các
quá trình chính sách.
6. Những đóng góp của luận văn
- Đánh giá thực trạng, chỉ ra những thành công và hạn chế, các nguyên
nhân trong việc thực hiện chính sách dân tộc ở Đồng Nai, qua đó có đề xuất,
kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách dân tộc.
- Kết quả đạt được của luận văn có thể có ý nghĩa gợi ý cho việc nghiên
cứu các vấn đề liên quan đến công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc

trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.

11


Chương 1
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC, CHÍNH SÁCH DÂN TỘC VÀ
CÔNG TÁC DÂN TỘC Ở TỈNH ĐỒNG NAI
1.1. Các khái niệm chung
1.1.1. Khái niệm dân tộc, chính sách, chính sách dân tộc và công tác
dân tộc
- Khái niệm dân tộc:
Dân tộc là một trong những hình thái cộng đồng người, được hình
thành trong quá trình phát triển lâu dài của lịch sử xã hội loài người và đang
là một trong những vấn đề quan trọng, nổi lên trên thế giới. Trước khi đi vào
tìm hiểu chính sách dân tộc, cần làm rõ khái niệm dân tộc.
Khái niệm dân tộc được hiểu theo hai nghĩa chính: Thứ nhất, khái niệm
dân tộc theo nghĩa cộng đồng tộc người; thứ hai, khái niệm dân tộc theo nghĩa
quốc gia dân tộc.
Theo nghĩa thông thường, khái niệm dân tộc để chỉ một cộng đồng tộc
người (ethnie) có chung ngôn ngữ, đặc trưng văn hóa và ý thức tự giác dân
tộc. Theo nghĩa này, có dân tộc Kinh, dân tộc Tày, dân tộc Mường, dân tộc
HMông, dân tộc Dao, dân tộc Ê đê, dân tộc Khmer…Trong một dân tộc có
thể bao gồm nhiều nhóm địa phương, có những đặc trưng về văn hóa, về tiếng
nói…gần gũi nhau. Chẳng hạn như người Dao có Dao Đại bản, Dao Tiểu ban,
Dao quần trắng…
Với cách nói thông thường, từ dân tộc có thể được thay thế bằng từ

người, như người Thái hay dân tộc Thái, người Ê đê hay dân tộc Ê đê, người
Khmer hay dân tộc Khmer … Tuy nhiên, từ người còn có ý nghĩa rộng lớn
hơn, chỉ cư dân của một quốc gia dân tộc như người Việt Nam, người Pháp,
người Đức, người Nga…
12


Khái niệm dân tộc, theo nghĩa cộng đồng tộc người, không phân biệt
trình độ phát triển, đa số hay thiểu số, sống ở phạm vi quốc gia nào, bao gồm
các đặc điểm lớn nhất, đó là: chung ngôn ngữ, đặc trưng văn hóa và ý thức tự
giác tộc người. Với tộc người, không có vấn đề lãnh thổ tộc người nhưng lại
nổi lên vấn đề tâm lý, tính cách, ý thức tự giác tộc người, nó gắn liền bền chặt
với tính đặc thù của văn hóa tộc người [5, tr.51].
Theo nghĩa rộng, dân tộc chỉ cộng đồng người cùng sinh sống trong
một quốc gia, một nước, như dân tộc Việt Nam, dân tộc Pháp, dân tộc Đức,
dân tộc Nhật, dân tộc Nga… nhằm chỉ cộng đồng cư dân của một quốc gia
nhất định, bao gồm nhiều dân tộc, nhiều tộc người. Ngày nay, hầu như tất cả
các quốc gia trên thế giới đều là quốc gia đa dân tộc.
Như vậy khái niệm dân tộc cần được hiểu theo hai bình diện, dân tộc là
cộng đồng tộc người và dân tộc hiểu theo nghĩa rộng là cư dân của một quốc
gia. Thực chất hai vấn đề không giống nhau, nhưng có liên quan mật thiết hữu
cơ với nhau. Khi nói đến dân tộc Việt Nam không thể không nói đến 54 dân
tộc (tộc người) đang sinh sống ở nước ta hoặc ngược lại, khi nói đến các dân
tộc ở Việt Nam, không thể không nói đến cộng đồng dân tộc Việt Nam. Trong
phạm vi nhiên cứu của luận văn, khái niệm dân tộc được hiểu theo nghĩa thứ
nhất (tộc người) hay dân tộc thiểu số.
- Khái niệm chính sách:
Theo quan điểm phổ biến hiện nay, chính sách (chính sách công) là
quyết định của các chủ thể quyền lực nhà nước, nhằm quy định mục đích,
cách thức và chế định hành động của những đối tượng liên quan, để giải quyết

những vấn đề nhất định mà xã hội đặt ra. Đó là tổng thể các chuẩn mực, biện
pháp mà Nhà nước sử dụng để quản lý xã hội [27, tr.16]. Hay nói cách khác,
chính sách là thể hiện tập hợp các nội dung định hướng chính trị của cơ quan,
tổ chức, cá nhân có thẩm quyền bao gồm mục tiêu, biện pháp và công cụ thực

13


hiện mục tiêu [66, tr.3]. Chính sách của Nhà nước thể hiện các mục tiêu nhằm
thực hiện nhiệm vụ quản lý xã hội và được thể hiện ở các hình thức: Văn kiện
chính trị, Hiến pháp, luật, văn bản quy phạm pháp luật (Nghị quyết, Nghị
định, Quyết định, Chỉ thị, Thông tư hướng dẫn...).
- Chính sách dân tộc: Chính sách dân tộc ở nước ta là toàn bộ những
chủ trương, biện pháp của Đảng và Nhà nước tác động vào tất cả các lĩnh vực
đời sống của các dân tộc thiểu số, các vùng dân tộc và có thể đối với từng dân
tộc riêng biệt, nhằm thay đổi tình trạng lạc hậu, biệt lập, phân biệt, bất bình
đẳng giữa các dân tộc, hướng tới sự đoàn kết, bình đẳng và tương trợ lẫn nhau
cùng phát triển” [43, tr.52]
- Công tác dân tộc: là những hoạt động quản lý nhà nước về lĩnh vực
dân tộc nhằm tác động và tạo điều kiện để đồng bào các dân tộc thiểu số cùng
phát triển, đảm bảo sự tôn trọng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân [10, tr.1].
1.1.2. Cách thức tiếp cận chính sách dân tộc
Với thực tiễn của một cộng đồng đa tộc người là điểm xuất phát của
việc tìm hiểu chính sách dân tộc. Thực tiễn đó đòi hỏi phải xem xét vấn đề
dân tộc và chính sách dân tộc trên bình diện lịch sử và hiện tại của dân tộc
Việt Nam. Đó chính là quốc gia - dân tộc Việt Nam hình thành từ lâu đời, có
truyền thống hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, xây đắp nên
truyền thống yêu nước, cố kết cộng đồng, chinh phục tự nhiên để mở mang bờ
cõi và dân tộc Việt Nam có truyền thống bất khuất chống mọi kẻ thù xâm

lược từ bên ngòai để bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ và quyền sống của mình. Đó
là sự nghiệp chung, thành quả chung của tất cả các tộc người, các thế hệ tộc
người hợp thành dân tộc Việt Nam thống nhất trong đa dạng, với một lãnh thổ
thống nhất, một nhà nước thống nhất, một sự gắn bó đoàn kết giữa tộc người
Kinh (dân tộc đa số) với các tộc người thiểu số khác cùng có lợi ích chung, ý

14


chí và nguyện vọng chung, đó là tồn tại và phát triển trong độc lập, tự do,
trong bình đẳng và hợp tác.
Cộng đồng dân tộc Việt Nam ngày nay đang đổi mới để phát triển,
công cuộc đổi mới này đang có sự nhập cuộc, tham gia đóng góp của các tộc
người, tất cả mọi vùng, mọi miền trong cả nước. Thời cơ và thách thức đang
đặt ra với tất cả, từ dân tộc Kinh là dân tộc đa số đến 53 dân tộc thiểu số khác.
Mục tiêu của đổi mới “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
đã quy tụ mọi nỗ lực và khả năng sáng tạo của từng tộc người, lợi ích của
từng tộc người nằm chung trong lợi ích của cả quốc gia - dân tộc.
Do đó có thể thấy, chính sách dân tộc ở nước ta phải là chính sách có
đủ sức tạo ra sự tương tác xã hội để giải quyết có hiệu quả các mối quan hệ
dân tộc - quốc gia và dân tộc - tộc người, giữa cái chung và những cái riêng,
giữa tính chung - phổ biến với những cái riêng - đặc thù [5, tr.89]. Dân tộc
Việt Nam có phát triển mạnh mẽ, có chấn hưng mạnh mẽ thì mỗi tộc người
thiểu số mới có được triển vọng và môi trường cho sự phát triển của riêng
mình, không chỉ tồn tại mà còn sống và sáng tạo, nhất là bảo tồn và phát huy
bản sắc văn hóa tộc người. Cũng do đó, thực tiễn lịch sử và thực tiễn phát
triển dân tộc được lấy làm cơ sở cho tư duy về chính sách dân tộc đòi hỏi phải
thấu hiểu đặc điểm tộc người và giá trị truyền thống, đồng thời thấu hiểu
những đòi hỏi, những vấn đề đặt ra trong hiện tại, mà bức xúc hiện nay là đưa
đất nước sớm ra khỏi tình trạng kém phát triển, hỗ trợ phát triển, thúc đẩy sự

phát triển của các tộc người thiểu số, tìm được những con đường, phương
thức, cách thức phát triển phù hợp và có hiệu quả nhất đối với các dân tộc
thiểu số.
Một trong những điểm quan trọng, mấu chốt của chính sách dân tộc ở
nước ta đối với các dân tộc thiểu số là tạo cơ hội, tạo điều kiện cùng với hỗ
trợ các nguồn lực để các dân tộc đó chủ động tự phát triển, hòa nhập tự nhiên

15


nhất vào sự phát triển chung của cả cộng đồng quốc gia - dân tộc, đóng góp
vào sự phát triển chung của quốc gia - dân tộc bằng sự phát triển của chính
mình. Ở đây có vai trò chỉ đạo thuộc về dân tộc chủ thể chiếm đa số dân cư và
tính chủ động của từng dân tộc thiểu số trong khối thống nhất cộng đồng.
Những yêu cầu ấy được thực hiện trên nguyên tắc tự nguyện, ý thức rõ về
nghĩa vụ, trách nhiệm, các chuẩn mực bình đẳng, đòan kết, hợp tác trong các
quan hệ cộng đồng đa dân tộc. Chính sách dân tộc phải thể hiện rõ sự tác
động qua lại ấy, sao cho mỗi thành viên trong cộng đồng đều thấy rõ, trong sự
phát triển chung có những lợi ích của mình được đảm bảo và mọi lợi ích riêng
của tộc người lại được thực hiện nhờ kết quả, hiệu quả từ sự phát triển chung
của quốc gia - dân tộc. Khó khăn ở chỗ, ngay từ điểm xuất phát của chính
sách đã có sự chênh lệch phát triển giữa tộc Kinh - đa số với các tộc thiểu số,
giữa tộc thiểu số này với tộc thiểu số khác, do hoàn cảnh và điều kiện sống từ
trước đó tạo ra trong đời sống của từng tộc người. Bởi thế, một chính sách
đưa ra, từ chính sách chung cho đến những chính sách cụ thể, từng việc, từng
mặt như: cấp hay điều chỉnh đất đai, tạo việc làm, cải thiện dân sinh (nước
sạch, điện sinh hoạt, nhà ở, y tế cộng đồng) cho đến dân trí (mở trường, mở
lớp, đào tạo nghề, giáo dục ngôn ngữ, tiếng nói và chữ viết dân tộc...) phải
làm sao cho khi thực hiện có thể đem lại kết quả thiết thực, hợp lý. Đời sống
phải ổn định hơn, mức sống phải tăng tiến hơn, do đó từng bước một, người

dân cảm nhận được rõ hơn tính triển vọng trong phát triển, rằng chính sách vì
mình, làm lợi cho mình - đó là tính cần thiết phải đạt tới của chính sách, từ
khi cân nhắc, trù tính đến khi thực hiện và đánh giá.
Chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số chỉ có tác dụng khi người
dân thấy được kết quả của nó, mà lợi ích và nhu cầu của người dân được đáp
ứng. Một khi, qua cuộc sống thực tế với những sự kiện, hiện tượng có thể so
sánh được, nếu người dân cảm thấy mình và cộng đồng của mình bị thua thiệt

16


trong phát triển thì đó là đầu mối của những diễn biến tâm lý tự ti, mặc cảm,
thậm chí có thể phản ứng và xung đột ở những tộc người thiểu số. Từ cái nhìn
đa chiều, các vấn đề kinh tế - xã hội, chính trị - xã hội, tâm lý - ý thức, đạo
đức - văn hóa mà nội dung chính sách bao chứa, có thể thấy rõ, chính sách
dân tộc dường như là cả một tập hợp lớn các chính sách và giải pháp, các
nguyên tắc và chuẩn mực ứng xử, sự đan xen giữa cái bức xúc, cấp thiết với
cái cơ bản lâu dài, giữa quyền lợi và nghĩa vụ trong thụ hưởng lợi ích với sự
tham gia đóng góp vào hoạt động chung, công việc chung để cùng làm ra
những vật phẩm, sản phẩm, giá trị tạo thành lợi ích, nhờ đó mà từng thành
viên và cả cộng đồng tồn tại và phát triển [5, tr.92].
Có thể nói, vấn đề dân tộc là vấn đề chính trị lớn, đòi hỏi việc giải
quyết phải vừa chuẩn xác vừa tinh tế, bởi đây là vấn đề phức tạp và nhạy cảm,
nó liên quan tới quan hệ dân tộc - quốc gia và dân tộc - tộc người. Tùy thuộc
chính sách dân tộc đúng hay sai, việc thực hiện chính sách đó tốt hay xấy,
thuận lòng dân hay không thuận lòng dân mà vấn đề dân tộc được giải quyết
sẽ thúc đẩy ổn định và phát triển hay dẫn tới những hệ quả, tình huống xấu có
thể tiềm tàng hoặc bộc lộ ra.
Vậy thực chất của chính sách dân tộc là gì?
Chính sách dân tộc (politique nationale) thực chất là chính sách phát

triển quốc gia - dân tộc của từng thời kỳ lịch sử, nhằm lý giải tất cả những vấn
đề kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng ...thuộc về một quốc
gia - dân tộc [5, tr.92]. Có thể xem chính sách dân tộc là chính sách quốc gia
nhằm phát triển dân tộc, là tổng hợp mọi chủ trương , đường lối, luật pháp và
hệ thống các chính sách đối nội của nhà nước. Nó tạo thành cơ sở và định
hướng chiến lược cho chính sách đối ngoại để mở rộng và tăng cường các
quan hệ hợp tác, bang giao, hội nhập quốc tế của nhà nước dân tộc độc lập, có
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.

17


Chính sách dân tộc là chính sách đảm bảo công bằng, bình đẳng, đòan
kết, tương trợ giúp nhau cùng phát triển của các dân tộc - tộc người; đây là
những quan điểm, nguyên tắc chỉ đạo chính sách, đồng thời là nội dung và
mục tiêu của chính sách dân tộc; Với yêu cầu phải được thể hiện nhất quán và
thấm nhuần trong tất cả các chính sách, việc thực hiện chính sách dân tộc. Với
quan niệm chính sách dân tộc là một hệ thống, một tập hợp các chính sách có
liên quan đến dân tộc thì bao gồm: chính sách chính trị (đại đoàn kết, công
bằng, bình đẳng, xây dựng cơ sở chính trị xã hội, đổi mới tổ chức và hoạt
động của hệ thống chính trị cơ sở vùng dân tộc; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
người dân tộc thiểu số...); chính sách kinh tế (đất sản xuất, canh tác, xây dựng
cơ sở hạ tầng - kỹ thuật, chuyển đổi phương thức canh tác, tạo việc làm, đào
tạo nghề, phát triển kinh tế hàng hóa, chăn nuôi, ...); chính sách văn hóa (xóa
mù chữ, phổ cập giáo dục, xây dựng trường lớp, đào tạo giáo viên, dạy tiếng
dân tộc, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa tộc người...); chính sách xã hội
(nước, điện, nhà ở, vệ sinh môi trường, y tế, chăm sóc sức khỏe, giải quyết
các tệ nạn xã hội, phong tục tập quán lạc hậu...).
Như vậy, có thể nói chính sách dân tộc là một bộ phận hữu cơ nằm
trong chính sách công của Đảng và Nhà nước. Chính sách dân tộc là một

loại chính sách tổng hợp, bao quát trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại, an ninh, quốc phòng, bảo vệ
môi trường sinh thái. Chính sách dân tộc đúng đắn không những thúc đẩy
kinh tế phát triển, đáp ứng nhu cầu vật chất, văn hóa của đồng bào các dân
tộc thiểu số, mà còn là một phương hướng tích cực nhất, chủ động nhất, có
hiệu quả nhất đối với các âm mưu, hoạt động chống phá, chia rẽ khối đại
đoàn kết dân tộc, củng cố thế trận an ninh - quốc phòng, bảo vệ chủ quyền
và toàn vẹn lãnh thổ.

18


1.1.3. Vai trò của chính sách, chính sách dân tộc
- Vai trò của chính sách
Nhà nước thực thi chức năng quản lý không chỉ bằng pháp luật mà còn
bằng chính sách, cơ chế và các quy định thành văn mang tính thể chế và các
chế tài tương ứng khác nhằm đạt được những mục tiêu phát triển, vì lợi ích
chính đáng, hợp pháp của công dân và của cộng đồng xã hội nói chung. Do
đó, chính sách là một trong những công cụ, phương tiện cần thiết của quản lý
nhà nước. Việc hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách vừa phản ánh nội
dung hoạt động quản lý nhà nước, vừa nói lên trình độ, năng lực cũng như
hiệu lực thực tế của nhà nước.
Mặt khác, những mục tiêu chính sách đạt tới, kết quả thực hiện và hiệu
quả thụ hưởng chính sách của các đối tượng nhất là đối với dân chúng, đó là
những căn cứ quan trọng để để đánh giá một cách thực tế bản chất của nhà
nước, của chế độ xã hội nói chung. Thông qua chính sách và thực hiện chính
sách có thể đo lường được không chỉ trách nhiệm chính trị - xã hội của nhà
nước đối với các công dân và cộng đồng nhân dân, cộng đồng dân tộc của
mình mà còn thấy rõ trình độ phát triển của dân chủ, vị thế và năng lực làm
chủ của dân - đối tượng quan trọng bậc nhất mà nhà nước phục vụ.

Chính sách và việc thực hiện chính sách, từ Trung ương tới địa phương
và cơ sở, ở mọi cấp mọi ngành không chỉ là căn cứ thực tế để đánh giá năng
lực quản lý của nhà nước mà còn có thể xem xét và dự báo triển vọng, xu
hướng phát triển của nhà nước và xã hội, của cá nhân và cộng đồng. Ở nước
ta, chủ thể hoạch định đường lối chính sách là Đảng và Nhà nước. Nhân dân
không chỉ là đối tượng thụ hưởng các lợi ích do chính sách mang lại mà còn
có vị thế và vai trò ngày càng quan trọng trong việc hình thành chính sách,
đặc biệt trong đánh giá chính sách với tư cách chủ thể.

19


×