Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

đánh giá ảnh hưởng của mật độ và phân bón đến sinh trưởng, năng suất của giống lúa lai hai dòng thơm hq19 tại tiên du – bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.26 MB, 107 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

---------

---------

NGUYỄN VĂN KHÂM

ĐÁNH GIÁ ẢNH HƯỞNG CỦA MẬT ĐỘ VÀ PHÂN BÓN
ĐẾN SINH TRƯỞNG, NĂNG SUẤT
CỦA GIỐNG LÚA LAI HAI DÒNG THƠM HQ19
TẠI TIÊN DU – BẮC NINH

CHUYÊN NGÀNH

: KHOA HỌC CÂY TRỒNG

MÃ SỐ

: 60.62.01.10

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THANH TUẤN

HÀ NỘI – 2014



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng: số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn
này là trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cao đoan: mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã
được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được ghi rõ
nguồn gốc.

Hà Nội tháng năm 2014
Tác giả luận văn

NGUYỄN VĂN KHÂM

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page i


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Thanh Tuấn Giảng viên Bộ môn Di truyền và chọn Giống cây trồng - Học viện Nông
nghiệp Việt Nam đã tận tình hướng dẫn để tôi hoàn thành luận văn tốt
nghiệp này.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn TS. Trần Văn Quang – Trưởng bộ
môn Di truyền và chọn Giống cây trồng, các thầy cô giáo Khoa Nông học, bộ
môn Di truyền và chọn Giống cây trồng - Học viện Nông nghiệp Việt Nam
đã quan tâm giúp đỡ, đóng góp nhiều ý kiến quý báu trong suốt quá trình học
tập và thực hiện đề tài.
Luận văn này hoàn thành còn có sự giúp đỡ của nhiều đồng nghiệp, bạn
bè, cùng với sự động viên khuyến khích của gia đình trong suốt thời gian học
tập và nghiên cứu.

Hà Nội tháng năm 2014
Tác giả luận văn

NGUYỄN VĂN KHÂM

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page ii


MỤC LỤC
Lời cam đoan

i

Lời cảm ơn

ii

Mục lục

iii

Danh mục bảng

vi

MỞ ĐẦU

1


1

Tính cấp thiết của đề tài

1

2

Mục đích và yêu cầu của đề tài

3

3

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

3

Chương 1 TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU

4

1.1

Tình hình sản xuất lúa lai trên thế giới

4

1.2


Tình hình sản xuất lúa lai ở Việt Nam

5

1.2.1

Tình hình sản xuất lúa lai của tỉnh Bắc Ninh.

6

1.2.2

Tình hình sản xuất lúa lai của huyện Tiên Du

8

1.3

Cơ sở thực tiễn của đề tài

9

1.4

Tình hình nghiên cứu và phát triển lúa lai trong và ngoài nước

10

1.4.1


Nghiên cứu và phát triển lúa lai trên thế giới

10

1.4.2

Nghiên cứu và phát triển lúa lai trong nước

13

1.5

Nhu cầu dinh dưỡng đối với cây lúa

18

1.5.1

Nhu cầu dinh dưỡng đạm

20

1.5.2

Nhu cầu dinh dưỡng lân

22

1.5.3


Nhu cầu dinh dưỡng kali

23

1.6

Những kết quả nghiên cứu về mật độ cấy trên lúa

25

1.7

Một số kết quả nghiên cứu về việc sử dụng phân bón đối với lúa

29

Chương 2 VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

35

2.1

Vật liệu nghiên cứu

35

2.2

Địa điểm và thời gian nghiên cứu


35

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page iii


2.3

Nội dung nghiên cứu

35

2.4

Phương pháp nghiên cứu

35

2.5

Các chỉ tiêu theo dõi

40

2.5.1

Thời gian qua các giai đoạn sinh trưởng


40

2.5.2

Đặc điểm nông sinh học

41

2.5.3

Mức độ nhiễm sâu bệnh

41

2.5.4

Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất

43

2.6

Phương pháp xử lý số liệu

43

Chương 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1

44


Đặc điểm nông sinh học của giống lúa lai HQ19 trong vụ Mùa
2013 tại xã Cảnh Hưng.

44

3.1.1

Thời gian qua các giai đoạn sinh trưởng của giống HQ19

44

3.1.2

Ảnh hưởng của mật độ và liều lượng phân bón đến động thái
tăng trưởng chiều cao của giống HQ19

3.1.3

46

Ảnh hưởng của mật độ và liều lượng phân bón đến động thái đẻ
nhánh của giống lúa lai HQ19

3.1.4

47

Ảnh hưởng của mật độ và liều lượng phân bón đến động thái ra
lá của giống HQ19


3.1.5

49

Ảnh hưởng của mật độ và liều lượng phân bón đến một số đặc
điểm nông sinh học của giống HQ19

3.1.6

50

Ảnh hưởng của mật độ và liều lượng phân bón đến tình hình phát
sinh phát triển sâu, bệnh trên giống HQ19 tại xã Cảnh Hưng.

3.1.7

52

Ảnh hưởng của mật độ cấy và liều lượng phân bón đến các yếu tố
cấu thành năng suất và năng của giống HQ19

3.2
3.2.1

54

Đặc điểm nông sinh học của giống HQ19 trong vụ Mùa năm
2013 tại xã Phú Lâm.


60

Thời gian qua các giai đoạn sinh trưởng của giống HQ19

60

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page iv


3.2.2

Động thái tăng trưởng chiều cao cây của giống HQ19 trong vụ
Mùa 2013 tại xã Phú Lâm.

3.2.3

61

Động thái tăng trưởng số nhánh của giống HQ19 trong vụ Mùa
2013 tại xã Phú Lâm

63

3.2.4

Động thái ra lá của HQ19 trong vụ Mùa 2013 tại xã Phú Lâm.

64


3.2.5

Ảnh hưởng của mật độ và liều lượng phân bón đến một số đặc
điểm nông sinh học của giống HQ19 trong vụ Mùa 2013 tại xã
Phú Lâm.

3.2.6

66

Ảnh hưởng của mật độ cấy và liều lượng phân bón đến mức độ
nhiễm sâu bệnh hại của giống HQ19

3.2.7

68

Ảnh hưởng của mật độ cấy và liều lượng phân bón đến các yếu tố
cấu thành năng suất và năng suất của tổ hợp lai HQ19

3.3

70

Kết quả thí nghiệm khảo nghiệm sản xuất lúa lai hai dòng HQ19
tại một số địa phương

3.3.1


76

Một số đặc điểm của giống HQ19 trong vụ Mùa 2013 ở các vùng
sinh thái khác nhau.

3.3.2

76

Đánh giá hiệu quả kinh tế của giống HQ19 trong vụ Mùa 2013
tại huyện Tiên Du.

77

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ

79

1

Kết luận

79

2

Đề nghị

80


TÀI LIỆU THAM KHẢO

81

PHỤ LỤC

85

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page v


DANH MỤC BẢNG
STT

Tên bảng

Trang

1.2

Diễn biến diện tích canh tác lúa lai qua các năm của huyện Tiên Du

8

1.3

Cơ cấu mùa vụ và năng suất lúa lai qua các năm tại Tiên Du


9

1.4

Diện tích sản xuất lúa lai qua các năm (từ 2001 – 2012)

3.1

Ảnh hưởng của mật độ cấy và lượng phân bón đến các giai đoạn

17

sinh trưởng của giống HQ19 trong vụ Mùa 2013 tại Cảnh Hưng –
Tiên Du (ngày)
3.2

45

Ảnh hưởng của mật độ cấy và lượng phân bón đến động thái tăng
trưởng chiều cao cây của giống HQ19 trong vụ Mùa 2013 tại
Cảnh Hưng – Tiên Du.

3.3

47

Ảnh hưởng của mật độ và lượng phân bón đến động thái đẻ nhánh
của giống HQ19 trong vụ Mùa 2013 tại Cảnh Hưng – Tiên Du.

3.4


48

Ảnh hưởng của mật độ và lượng phân bón đến động thái ra lá của
giống HQ19 trong vụ Mùa 2013 tại Cảnh Hưng – Tiên Du.

3.5

50

Một số đặc điểm nông sinh học của giống HQ19 trong vụ Mùa
2013 tại Cảnh Hưng – Tiên Du

3.6

51

Ảnh hưởng của mật độ và lượng phân bón đến tình hình phát
sinh phát triển sâu, bệnh trên giống HQ19 trong vụ Mùa 2013 tại
Cảnh Hưng – Tiên Du.

3.7

53

Ảnh hưởng của lượng phân bón đến năng suất và các yếu tố cấu
thành năng suất của giống HQ19 tại Cảnh Hưng – Tiên Du.

3.8


55

Ảnh hưởng của mật độ đến năng suất và các yếu tố cấu thành
năng suất của giống HQ19 tại Cảnh Hưng – Tiên Du.

3.9

56

Ảnh hưởng của mật độ và lượng phân bón đến năng suất và các
yếu tố cấu thành năng suất của giống HQ19.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

58

Page vi


3.10

Ảnh hưởng của mật độ cấy và lượng phân bón đến các giai đoạn
sinh trưởng của giống HQ19 trong vụ Mùa tại Phú Lâm – Tiên
Du (ngày)

3.11

60

Ảnh hưởng của mật độ cấy và liều lượng phân bón đến động thái

tăng trưởng chiều cao cây của giống HQ19 trong vụ Mùa 2013
tại Phú Lâm – Tiên Du.

3.12

62

Ảnh hưởng của mật độ và lượng phân bón đến động thái đẻ nhánh
của giống HQ19 trong vụ Mùa 2013 tại Phú Lâm – Tiên Du.

3.13

64

Ảnh hưởng của mật độ và lượng phân bón đến động thái ra lá của
giống HQ19 trong vụ Mùa 2013 tại Phú Lâm – Tiên Du

3.14

65

Một số đặc điểm nông sinh học của giống HQ19 trong vụ Mùa
2013 tại Phú Lâm – Tiên Du

3.15

67

Ảnh hưởng của mật độ và lượng phân bón đến tình hình phát
sinh phát triển sâu, bệnh trên giống HQ19 trong vụ Mùa 2013 tại

Phú Lâm – Tiên Du

3.16

69

Ảnh hưởng của lượng phân bón đến năng suất và các yếu tố cấu
thành năng suất của giống HQ19 tại Phú Lâm – Tiên Du.

3.17

71

Ảnh hưởng của mật độ đến năng suất và các yếu tố cấu thành
năng suất của giống HQ19 tại Phú Lâm – Tiên Du.

3.18

73

Ảnh hưởng của mật độ và lượng phân bón đến năng suất và các yếu
tố cấu thành năng suất của giống HQ19 tại Phú Lâm – Tiên Du

3.19

75

Một số đặc điểm của giống HQ19 trong vụ Mùa 2013 ở các điểm
khảo nghiệm


3.20

77

Hiệu quả kinh tế của mô hình khảo nghiệm giống HQ19 trong vụ
Mùa 2013 tại xã Lạc Vệ

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

78

Page vii


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cây lúa (Oryza sativa L) là nguồn cung cấp lương thực thiết yếu đảm
bảo sự sống cho hơn một nửa dân số thế giới, đặc biệt là trên 90% dân số châu
Á. Cây lúa góp phần đảm bảo cung cấp lương thực và tạo việc làm cho người
dân nông thôn tại các quốc gia đang phát triển châu Á, châu Phi và châu Mỹ
La Tinh. Theo dự báo của FAO, thế giới đang có nguy cơ thiếu hụt lương
thực do dân số tăng nhanh (khoảng 9 tỷ vào năm 2050). Tiêu thụ lương thực,
thực phẩm tại nhiều nước tăng, trong khi biến đổi khí hậu toàn cầu gây thiên
tai bất thường: nước biển dâng, sa mạc hóa, khô hạn, bão lụt, quá trình đô thị
hóa làm giảm đất lúa, nhiều nước phải dành đất để trồng cây nhiên liệu sinh
học vì nguồn nhiên liệu hóa thạch ngày càng khan hiếm, cạn kiệt. Chính vì
vậy, giữ vững an ninh lương thực là nhu cầu cấp thiết hàng đầu của thế giới
hiện tại và tương lai
Việt Nam là một nước nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, có truyền
thống canh tác lúa nước từ lâu đời và được coi là cái nôi của nền văn minh lúa

nước, với diện tích lúa khá lớn 7,7 triệu ha, chiếm 90,3% tổng diện tích đất
trồng cây lương thực có hạt. Sản xuất lúa gạo đã, đang và sẽ tiếp tục là một
trong những trụ cột của an ninh lương thực. Hàng năm sản lượng của cả nước
đạt 43-44 triệu tấn thóc, trong đó chỉ sử dụng khoảng 7-8 triệu tấn cho xuất
khẩu, còn lại là tiêu thụ trong nước và bổ sung dự trữ quốc gia.
Tuy nhiên, ngành trồng lúa của nước ta đang phải đối mặt với nhiều
khó khăn, thách thức như: diện tích trồng lúa đang giảm nhanh chóng do nhu
cầu công nghiệp hóa, đô thị hóa và chuyển đổi cơ cấu sản xuất; giống cây
trồng, thiên tai, sâu bệnh hại, an ninh lương thực, gây ô nhiễm môi
trường….Để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, đồng thời
tăng thu nhập cho người sản xuất, thì vấn đề nghiên cứu cải tiến ra những

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 1


giống lúa có năng suất cao, chất lượng tốt và áp dụng các biện pháp canh tác
tổng hợp trong thâm canh lúa là rất cần thiết.
Tiên Du là một huyện nhỏ được tách ra từ huyện Tiên Sơn trước đây
của tỉnh Bắc Ninh. Nông nghiệp vẫn chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế
của huyện, nhất là sản xuất lúa. Những năm gần đây cùng với quá trình công
nghiệp hoá của tỉnh thì tốc độ công nghiệp hoá của huyện diễn ra nhanh
chóng, một phần diện tích canh tác lúa bị chuyển đổi sang cây trồng khác và
dành cho sản xuất công nghiệp, đô thị hóa, dịch vụ...vì vậy sản lượng bị giảm
sút đáng kể. Do đó để đảm bảo an ninh lương thực cho người dân trong huyện
thì tất yếu phải sử dụng các tổ hợp lúa lai có năng suất cao vào sản xuất.
HQ19 là giống lúa lai triển vọng, cho năng suất cao và thích ứng với
nhiều vùng sinh thái khác nhau. Để phát huy hết tiềm năng năng suất của
giống, việc nghiên cứu thử nghiệm các biện pháp kỹ thuật thâm canh là rất

cần thiết. Ngoài các biện pháp như bố trí thời vụ, tuổi mạ, kỹ thuật làm đất,
tưới nước, phòng trừ sâu bệnh...thì xác định mật độ cấy và lượng phân bón
cũng là những biện pháp kỹ thuật quan trọng. Việc bố trí mật độ cấy hợp lý
nhằm tạo ra mật độ quần thể thích hợp, từ đó nâng cao được hiệu suất quang
hợp thuần và làm tăng số bông trên một đơn vị diện tích, quyết định trực tiếp
đến năng suất. Trong khi đó, phân bón là cơ sở quyết định năng suất cây trồng
nói chung và năng suất cây lúa nói riêng.
Vì vậy việc nghiên cứu hoàn thiện qui trình thâm canh lúa lai thương
phẩm giống lúa lai mới có năng suất và chất lượng tốt phù hợp với vùng sinh
thái của Bắc Ninh là hướng đi hết sức đúng đắn và cần thiết.
Xuất phát từ thực tế nêu trên chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài “Đánh
giá ảnh hưởng của mật độ và phân bón đến sinh trưởng, năng suất giống
lúa lai hai dòng thơm HQ19 tại Tiên Du, Bắc Ninh”

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 2


2. Mục đích và yêu cầu của đề tài
2.1. Mục đích
Xác định lượng phân bón và mật độ cấy phù hợp để giống lúa lai hai dòng
thơm HQ19 đạt năng suất cao trong vụ Mùa tại huyện Tiên Du, Bắc Ninh.
2.2. Yêu cầu
- Đánh giá được một số đặc điểm nông sinh học, đặc điểm hình thái,
mức độ nhiễm sâu bệnh của giống lúa lai HQ19 trong vụ Mùa tại huyện Tiên
Du, tỉnh Bắc Ninh.
- Nghiên cứu lượng phân bón và mật độ ảnh hưởng đến năng suất và các
yếu tố cấu thành năng suất và hiệu quả kinh tế của giống lúa lai HQ19 trong
vụ Mùa tại huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.

3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
3.1. Ý nghĩa khoa học
Bổ sung các dẫn liệu cơ bản trong đánh giá về ảnh hưởng của mật độ và
phân bón hợp lý cho giống lúa lai hai dòng thơm HQ19.
Kết quả đánh giá của đề tài sẽ góp phần định hướng cho các nhà chọn
tạo giống tiến hành nghiên cứu, sản xuất giống lúa lai hai dòng thương phẩm
và rút ngắn thời gian trong việc xác định chế độ dinh dưỡng cho lúa lai hai
dòng phù hợp với đặc điểm của huyện Tiên Du – Bắc Ninh.
Sử dụng làm tài liệu trong nghiên cứu giảng dạy và trong chỉ đạo sản
xuất của huyện.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Xác định được mật độ và phân bón hợp lý của giống lúa lai hai dòng
thơm HQ19 trong sản xuất, góp phần hoàn thiện quy trình kỹ thuật chăm sóc
giống lúa lai cho nông dân sản xuất lúa, nhằm nâng cao năng suất tại địa
phương.
Góp phần mở rộng quy mô diện tích gieo cấy lúa lai hai dòng, tăng sản
lượng lương thực và thu nhập cho người dân trong phạm vi Bắc Ninh.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 3


Chương 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình sản xuất lúa lai trên thế giới
Lúa là cây lương thực quan trọng nhất đối với hầu hết người dân châu Á.
Tuy nhiên khoảng 20 năm nữa, khi dân số các nước tăng lên, đô thị phát triển,
nguồn tài nguyên nước sẽ ngày càng cạn kiệt, thì vấn đề lương thực luôn luôn
là mối quan tâm của nhiều quốc gia. Đặc biệt là gần đây, tốc độ tăng bình
quân năng suất lúa ở châu Á đã có xu hướng dần chậm lại. Trong những năm

từ 1962 đến 1970, tốc độ tăng là 2,4%, sang giai đoạn 1971-1980 là 1,76%;
1981-1990 là 2,34% nhưng đến năm 1991-1998 chỉ còn 0,98%, bằng khoảng
98% so với những năm 80 của thế kỷ trước (Nguyễn Văn Bộ và cs., 2003).
Hiện nay dân số thế giới gần 7 tỷ người, dự tính đến năm 2030 dân số thế
giới tăng 8 tỷ người trong đó diện tích đất nông nghiệp mất 15-35 triệu ha vì
vậy để nâng cao sản lượng lúa gạo thì nâng cao năng suất trên đơn vị diện tích
đất là con đường ngắn nhất giải quyết nhu cầu lương thực. Trong khi đó năng
suất lúa thuần gần như đã kịch trần, như vậy sử dụng lúa lai là con đường tốt
nhất đảm bảo an ninh lương thực.
Lúa lai có thể cho năng suất tăng hơn từ 20%-30% so với lúa thường và
đã được Trung Quốc là nước đầu tiên trên thế giới sử dụng ưu thế lai ở lúa
vào sản xuất đại trà. Nhờ mở rộng diện tích gieo cấy lúa lai nhanh chóng, nên
mặc dù diện tích lúa của Trung Quốc đã giảm đi một cách rõ rệt từ 36,5 triệu
ha năm 1975 xuống còn 30,5 triệu ha năm 2000 nhưng sản lượng lúa tăng lên
đáng kể theo các năm từ 128,726 triệu tấn (1975) lên 190,111 triệu tấn
(2000), trong đó đóng góp của lúa lai (tính đến năm 1990) đã làm tăng thêm
300 triệu tấn thóc, nhờ vậy mà Trung Quốc vẫn có thể nuôi hơn 1 tỷ người
(chiếm trên 22% dân số thế giới) và đạt được an ninh lương thực quốc gia
trong tình trạng diện tích đất trồng trọt ngày càng giảm (chiếm khoảng 7%

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 4


diện tích đất trồng thế giới). Chương trình lúa lai đã góp phần đẩy nhanh tốc
độ tăng năng suất từ 3,5 tấn/ha lên 6,2 tấn/ha trong khoảng thời gian 25 năm
(Nguyễn Văn Bộ và cs., 2003).
Theo FAO (2011), sản xuất lúa toàn cầu với diện tích 164,1 triệu ha và
được phân bố ở tất cả các châu lục gồm 121 quốc gia. Châu Âu có số nước

trồng lúa ít nhất là 11 nước, diện tích 725,3 nghìn ha tập trung lớn nhất ở Liên
bang Nga (207,2 nghìn ha). Những nước có sản lượng lúa gạo lớn là Trung
Quốc (202,6 triệu tấn), Ấn Độ (155,7 triệu tấn), Bangladesh (50,6 triệu tấn),
Việt Nam (42,3 triệu tấn), Thái Lan (34,5 triệu tấn) và Myanmar (32,8 triệu
tấn) đều là những nước châu Á.
1.2. Tình hình sản xuất lúa lai ở Việt Nam
Trong những năm gần đây các nước đang phát triển trong đó có Việt
Nam đã đạt được những thành tích đáng ghi nhận về sản xuất lương thực
trong điều kiện khí hậu thời tiết khắc nghiệt. Việt Nam đã đạt 39,9 triệu tấn
(2010), trong đó lúa lai là 3,5 triệu tấn, lúa thuần là 36,4 triệu tấn. Không
những đảm bảo nhu cầu lương thực trong nước, dự trữ Quốc gia mà còn đóng
góp cho nhu cầu quốc tế hơn 6,88 triệu tấn gạo (2010) và là nước về xuất
khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới sau Thái Lan.
Sản xuất lúa ở Việt Nam đã chuyển theo hướng giảm dần diện tích,
tăng năng suất và chất lượng gạo để phù hợp với thị trường trong nước và
xuất khẩu. Diện tích gieo cấy lúa lai năm 2010 là 605.642 ha tăng 170.134 ha
so với năm 2000. Năng suất bình quân trong cả nước đạt 65.0 đến 68.0
tạ/ha/vụ. Mặc dù diệt tích trồng lúa giảm, nhưng mục tiêu an ninh lương thực
vẫn được đảm bảo, một trong những giải pháp mà chính phủ Việt Nam lựa
chọn là phát triển và mở rộng diện tích gieo trồng lúa lai. Diện tích lúa lai
được phát triển khá nhanh, tăng từ 11.094 nghìn ha năm 1992 lên 605.642 ha
năm 2010. Ở một số tỉnh phía Bắc diện tích lúa lai tăng lên rất nhanh như:

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 5


Nam Định, Thanh Hoá, Nghệ An, Ninh Bình, Hà Nam và Phú Thọ. Ngoài ra,
diện tích gieo trồng lúa lai còn được mở rộng ra các tỉnh ở miền Trung và Tây

Nguyên như: Quảng Nam, Đak Lak. Ở một số vùng có trình độ thâm canh
cao, năng suất lúa lai đã đạt được 13 - 14 tấn/ha/vụ (Trương Đích, 2002;
Nguyễn Văn Hoan và Vũ Hồng Quảng, 2005).
Đặc biệt trong chiến lược tạo giống lúa lai có thời gian sinh trưởng
ngắn (90-100 ngày) không những giúp cho việc tăng vụ mà còn đảm bảo cho
việc trồng lúa trước và sau mưa lũ ở đồng bằng sông Cửu Long là một thành
công được nhiều nước trong khu vực quan tâm và đánh giá cao. Từ chỗ phải
nhập khẩu, đến nay Việt Nam đã tự sản xuất được một phần giống lúa lai và
trong những năm gần đây Việt Nam tự sản xuất khoảng 18% nhu cầu trong
năm 2009 và những năm tiếp theo phấn đấu sản xuất hạt lai nhiều hơn phục
vụ sản xuất.
Với những thành tựu đạt được trong phát triển sản xuất lúa lai thương
phẩm, Việt Nam được tổ chức FAO đánh giá rất cao coi là nước đứng thứ 3
sau thành công của Trung Quốc và Ấn Độ.
1.2.1 Tình hình sản xuất lúa lai của tỉnh Bắc Ninh.
Sản xuất lúa lai, lúa chất lượng luôn được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao
của các cấp, các ngành từ tỉnh đến cơ sở. Trong những năm qua, UBND tỉnh,
huyện luôn có chính sách hỗ trợ nhằm khuyến khích nông dân mở rộng sản
xuất lúa lai. Sau 5 năm thực hiện chủ trương cải tạo cơ cấu giống lúa của Tỉnh
ủy, từ năm 2008 đến năm 2012, sản xuất lúa lai đã có những bước tiến rõ rệt.
Diện tích lúa lai tăng từ 9.964,8ha năm 2008 - năm đầu tiên thực hiện chủ
trương cải tạo cơ cấu giống lúa lên 22.302,1ha năm 2012, tăng 12.337,3ha so
với năm 2008 với tốc độ tăng trưởng bình quân năm là 17,48%. Trong đó, lúa
lai được gieo cấy chủ yếu trong vụ xuân, tỷ lệ diện tích lúa lai trong vụ xuân
đã tăng từ 14,5% năm 2008 lên 47,5% năm 2012, tăng 33%. Giống chủ lực là:

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 6



Qưu số 1, Syn6, Bio 404, SL8H GS9... Diện tích lúa lai trong vụ mùa cũng
tăng từ 11,6% năm 2008 lên 13,6% (4.968,3ha) năm 2012, các giống chủ lực
là Bác ưu 903 KBL, B-TE1, Qưu số 1...
Diện tích và sản lượng lúa lai tăng mạnh ở giai đoạn 2008-2010, duy trì
tương đối ổn định ở giai đoạn 2011-2012 đã góp phần quan trọng trong việc
nâng cao năng suất, sản lượng lúa, đảm bảo an ninh lương thực trong điều
kiện diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp. Năm 2008 diện tích lúa
toàn tỉnh là 76.223ha, đến năm 2012 giảm xuống còn 73.021,5ha, giảm
3.201,5ha so với năm 2008, tốc độ giảm bình quân năm là 0,85%. Song năng
suất và sản lượng lúa vẫn tăng mạnh, năng suất lúa năm 2008 là 57 tạ/ha, đến
năm 2012 là 62,9 tạ/ha, tăng 5,9 tạ/ha so với năm 2008, tốc độ tăng trưởng
bình quân năm là 1,99%/năm. Sản lượng năm 2008 đạt 434.283,4 tấn, năm
2012 là 459.137,3 tấn, tăng 24.853,9 tấn so với năm 2008, tốc độ tăng trưởng
bình quân năm là 1,12%/năm.
Bảng 1.1. Diện tích, năng suất, sản lượng lúa lai của tỉnh Bắc Ninh
từ năm 2008 – 2012.
Lúa lai

Tổng
Năm

Diện tích Năng suất Sản lượng Diện tích Năng suất Sản lượng
(ha)

(tạ/ha)

(tấn)

(ha)


(tạ/ha)

(tấn)

2008

76.223,0

57,0

434.283,4

9.964,8

69,0

68.715,3

2009

74.821,0

59,5

444.820,7

15.004,8

73,6


110.503,3

2010

74.253,2

59,3

440.121,9

22.390,0

71,1

159.149,5

2011

73.727,2

63,5

467.941,4

22.631,0

74,5

168.519,5


2012

73.021,5

62,9

459,157,3

22.302,1

72,9

162.607,8

(Nguồn: Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Bắc Ninh, 2013)

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 7


Trong 5 năm qua, sản xuất lúa lai đã làm tăng 137.257 tấn lương thực
so với chỉ cấy lúa thuần, đưa sản lượng lương thực của tỉnh năm 2012 lên
459.157,3 tấn, tăng 38.747,6 tấn so với năm 2007 (tăng 9%) trong khi diện
tích lúa cả năm 2012 giảm 5.432,5 ha (giảm 7%) so với năm 2007.
1.2.2 Tình hình sản xuất lúa lai của huyện Tiên Du
Thông qua số liệu thống kê của Chi cục thống kê huyện Tiên Du cho
thấy: Nhìn chung trong 5 năm gần đây, từ 2009-2013, diện tích canh tác lúa
lai của huyện luôn đạt ở mức cao (đạt >30% tổng diện tích). Năm 2013,

huyện Tiên Du có diện tích trồng lúa khá lớn 8332ha trong đó lúa lai 3293ha
(chiếm 39,5%), năng suất lúa lai khá cao (đạt 72,4 tạ/ha trong vụ Xuân và
57,8 tạ/ha trong vụ Mùa).
Tiên Du cũng là một huyện có tốc độ công nghiệp hóa, đô thị hóa…diễn
ra rất nhanh do đó diện tích đất nông nghiệp, đặc biệt là đất canh tác lúa ngày
càng có xu hướng giảm. Việc đưa các giống lúa lai có năng suất cao, chất
lượng phù hợp vào vẫn là chủ trương ưu tiên hàng đầu của huyện.
Bảng 1.2. Diễn biến diện tích canh tác lúa lai qua các năm
của huyện Tiên Du
Năm

Tổng diện tích lúa

Diện tích lúa lai

% lúa lai so với

(ha)

(ha)

tổng DT

Năm 2009

8.422

2.554

30,3


Năm 2010

8.531

3.194

37,4

Năm 2011

8.489

3142

37,0

Năm 2012

8.425

3.649

43,3

Năm 2013

8.332

3.293


39,5

Nguồn: Chi cục thống kê huyện Tiên Du (2013)

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 8


Bảng 1.3. Cơ cấu mùa vụ và năng suất lúa lai qua các năm tại Tiên Du
Năm

Vụ Xuân
Diện tích

Vụ Mùa

Năng suất (tạ/ha)

Diện tích

Năng suất (tạ/ha)

(ha)

Lúa lai

Lúa thuần


(ha)

Lúa lai

Lúa thuần

Năm 2009

2.073

70,8

65,6

481

61,8

58,1

Năm 2010

2.284

69,2

64,4

910


57,9

53,3

Năm 2012

2.312

76,7

67

812

62,5

60,2

Năm 2012

2.608

73,1

66,6

1041

62,6


55,9

Năm 2013

2.579

72,4

67,5

714

57,8

52,1

Nguồn: Chi cục thống kê huyện Tiên Du (2013)

Như vậy, có thể khẳng định việc phát triển sản xuất lúa lai có vai trò và ý
nghĩa lớn trong việc nâng cao năng suất, sản lượng lúa, đảm bảo an ninh
lương thực, nhất là trong điều kiện diện tích đất canh tác ngày càng giảm như
hiện nay của tỉnh Bắc Ninh nói chung và của huyện Tiên Du nói riêng.
Tuy nhiên giống lúa lai phục vụ sản xuất hiện nay chủ yếu được nhập
khẩu, giá thóc giống cao, số lượng và chất lượng giống không ổn định. Do
đó việc nghiên cứu và hoàn thiện quy trình kỹ thuật sản xuất các giống lúa
lai trong nước nhằm nâng cao năng suất, sản lượng đồng thời giảm thiểu sự
phụ thuộc nước ngoài là vô cùng quan trọng nhất là trong điều kiện của tỉnh
Bắc Ninh.
1.3. Cơ sở thực tiễn của đề tài
Lúa lai không những cho năng suất cao và ổn định ở các vùng sinh thái

thuận lợi, mà ở những vùng có điều kiện bất thuận (hạn, úng, đất đai không
tốt...) vẫn thể hiện được tiềm năng năng suất một cách đáng kể. Thực tế ở một
số nước cho thấy gieo trồng lúa lai trong điều kiện tưới tiêu không chủ động
cho lợi nhuận cao hơn gieo trồng trong điều kiện có tưới. Ở các nước đông
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 9


dân, diện tích đất trồng trọt ít, lao động nhiều thì con đường phát triển lúa lai là
tất yếu để đảm bảo an ninh lương thực quốc gia (Bai Delang và cộng sự, 1996).
Trong kỹ thuật thâm canh lúa nói chung và lúa lai nói riêng thì việc bố
trí mật độ cấy và bón phân thích hợp là hai biện pháp vô cùng quan trọng
nhằm làm tăng năng suất, chất lượng lúa gạo. Khoảng cách cấy rộng (30x30
cm, 25x25 cm…) để kích thích cây lúa đẻ nhánh, bông to, số hạt trên bông
nhiều, tỷ lệ hạt chắc cao. Khoảng cách giữa các cây rộng nên ánh sáng có thể
chiếu vào mắt đốt của cây nên làm tăng khả năng đẻ nhánh của cây, bông to và
nhiều hạt hơn (Hoàng Văn Phụ, 2005). Trong một đơn vị diện tích, số lượng
cây ít làm giảm canh tranh dinh dưỡng giữa các cây, cây sẽ được cung cấp đầy
đủ dinh dưỡng trong thời kỳ đẻ nhánh tạo tiềm năng nhánh hữu hiệu cao. Bộ rễ
cây lúa chủ yếu tập trung ở 10 cm bề mặt nên khoảng cách rộng sẽ tạo điều
kiện để rễ phân bố nhiều trên bề mặt có nhiều oxy và dinh dưỡng giúp cây sinh
trưởng tốt, đẻ nhánh khoẻ. Điều này dẫn đến diện tích lá lớn do có nhiều nhánh
và lá to giúp cho cây tăng khả năng quang hợp, và tích luỹ chất khô.
1.4. Tình hình nghiên cứu và phát triển lúa lai trong và ngoài nước
1.4.1. Nghiên cứu và phát triển lúa lai trên thế giới
Lúa ưu thế lai (ƯTL), gọi tắt là lúa lai là các giống lúa được sản xuất
bằng hạt lai F1 do lai giữa một dòng làm mẹ (nhận phấn) và một dòng làm bố
(cho phấn) để tạo ra hạt lai. Hạt lai mang bản chất di truyền của hai dòng bố
và mẹ (kiểu gen 1/2 của dòng bố, 1/2 của dòng mẹ), nhưng kiểu hình biểu

hiện đồng nhất, có năng suất cao, chất lượng tốt, chống chịu sâu bệnh khoẻ,
thích ứng rộng. Do kiểu hình chỉ biểu hiện đồng nhất ở thế hệ F1 nên khác với
lúa thường, lúa lai chỉ sử dụng hạt giống một lần mới cho ƯTL cao, không thể
gieo lại lần thứ hai vì ở thế hệ này các cá thể phân ly đa dạng (Nguyễn Thị
Trâm, 2002).
Việc tìm ra lúa lai là một thành tựu rực rỡ của loài người. Nhà khoa học
người Mỹ J.W Jone là người đầu tiên đề cậpđến ưu thế lai của các tính trạng
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 10


số lượng và năng suất của lúa (vào năm 1926). Tiếp sau đó, nhiều công trình
nghiên cứu đi sâu đề cập đến bản chất của ưu thế lai, cách khai thác ưu thế lai
với mục tiêu chọn ra các giống có những giống có ưu thế về năng suất, chất
lượng và khả năng chống chịu.
Việc nghiên cứu và mở rộng sản xuất hạt lai F1 và lúa lai thương phẩm
được đề xuất từ rất sớm, nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học
các nước trồng lúa Sampath.S, Mohathy H.K, (1954); Kawano, (1960);
Jenning, (1969); Swaminathan và cộng sự, (1972), các nhà khoa học viện
nghiên cứu lúa quốc tế IRRI như: Athwal và Virmani, (1972), các nhà khoa
học Nhật Bản Shinjio và Umura, (1996) và nhiều nhà khoa học ở các nước
khác. Tuy nhiên, các nhà khoa học chưa tìm ra phương pháp thích hợp để sản
xuất hạt lai nên họ đã không thành công.
Năm 1964, Yuan Long Ping và cộng sự đánh dấu sự bắt đầu nghiên cứu
lúa lai ở Trung Quốc. Tại đảo Hải Nam họ đã phát hiện được cây lúa dại bất
dục trong loài lúa dại Oryzae fatuaspontanea, sau đó họ đã chuyển được tính
bất dục đực hoang dại này vào lúa trồng và tạo ra những vật liệu di truyền
hoàn toàn mới giúp cho việc khai thác ưu thế lai thương phẩm. Quy trình sản
xuất lúa lai ba dòng được bắt đầu thử nghiệm. Năm 1973 lô hạt giống F1 đầu

tiên được sản xuất ra với sự tham gia của 3 dòng là: Dòng bất dục đực di
truyền tế bào chất (Cytoplasmic Male Sterile- CMS), dòng duy trì bất dục
(Maintainer-B), dòng phục hồi hữu dục (Restorer-R). Từ đây khởi đầu cho sự
phát triển như vũ bão công nghệ lúa lai của Trung Quốc cũng như thế giới.
Năm 1974 Trung Quốc đưa ra một số tổ hợp lai cho ưu thế cao đồng thời quy
trình sản xuất hạt lai "ba dòng" cũng được hoàn thiện vào năm 1975. Các nhà
khoa học Trung Quốc đã mở ra một kỷ nguyên lúa lai trên thế giới. Những
năm 1970, Yuan L.P. và cộng sự tạo ra các tổ hợp năng suất cao, dạng hình lý
tưởng, dễ dàng sử dụng như: Nam ưu số 2, Uỷ ưu số 7 (Nguyễn Trí Hoàn và
Nguyễn Thị Gấm, 2003).
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 11


Trung Quốc là nước phát triển lúa lai nhất thế giới. Trong vòng 20 năm
Trung Quốc đã tạo được nhiều tổ hợp có năng suất cao, thích nghi tốt với các
điều kiện sinh thái bất thuận. Đến năm 2010, diện tích lúa lai Trung Quốc lên
20 triệu ha, chiếm 70% diện tích canh tác lúa của Trung Quốc, đã góp phần đưa
năng suất lúa từ 4,24 tấn/ha của năm 1979 lên 6,58 tấn/ha năm 2009, trong khi
năng suất lúa trung bình của thế giới chỉ có 4,32 tấn/ha (FAOSTAT, 2011).
Malaixia, năm 1984 đã bắt đầu nghiên cứu lúa lai và đã thu được năng
suất cao hơn giống truyền thống như IR5852025A/IR54791-19-2-3R đạt năng
suất 4,86 tấn/ha so với giống lúa MR84 là cao hơn 58,6%; IR62829A/IR46R
có năng suất cao hơn MR84 là 26,1%, đã chọn tạo được một số dòng CMS địa
phương như MH805A, MH1813A, MH1821A. Đến năm 1999, Malaixia đã
xác định được 131 dòng phục hồi để sản xuất hạt lai. Những khó khăn chính
trong việc nghiên cứu lúa lai ở Malaixia là độ bất dục hạt phấn không ổn định,
thiếu nguồn CMS, khả năng lai xa thấp và yêu cầu lượng hạt giống còn cao để
đáp ứng cho kỹ thuật gieo thẳng (Nguyễn Công Tạn và công sự, 2002).

Indonesia, theo Suprihetno B et al. (1994) nghiên cứu và phát triển lúa
lai bắt đầu từ năm 1983 và đánh giá sử dụng nhiều dòng CMS vào chương
trình chọn tạo lúa lai. Năm 1979, IRRI đã tiến hành nghiên cứu lúa lai một
cách hệ thống (Nguyễn Công Tạn và công sự, 2002).
Từ năm 1980-1985 đã có 17 quốc gia nghiên cứu và sản xuất lúa lai.
Diện tích gieo trồng lúa lai đạt tới 10% tổng diện tích lúa toàn thế giới chiếm
khoảng 20% tổng sản lượng.
Từ năm 1970-1980, Ấn Độ đã nghiên cứu về lúa lai và được tiến hành ở
các trường đại học, các viện nghiên cứu. Đến năm 1989, chương trình nghiên
cứu lúa lai mới được phát triển. Năm 1990-1997, Ấn Độ đã công nhận 16
giống lúa quốc gia và đưa vào sản xuất đại trà như các giống APHR1, MGR1
và KRH1. Trong các thí nghiệm đồng ruộng, các tổ hợp lai này cho năng suất
cao hơn các giống lúa thuần từ 16-40% (Nguyễn Công Tạn và công sự, 2002).
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 12


Bên cạnh việc phát triển lúa lai ba dòng, một số kết quả trong nghiên
cứu lúa lai hai dòng đã được công bố. Năm 1973, Shi Ming Song đã phát hiện
được dòng bất dục đực di truyền nhân mẫn cảm với quang chu kỳ (PGMS) từ
quần thể Nông Ken 58S (Virmani S.S., 1996; Zhou C.S., 2000).
Năng suất lúa lai hai dòng tại Trung quốc đã vượt lúa lai 3 dòng bình
quân 10%. Do vậy chiến lược phát triển lúa lai tại Trung quốc trong những
năm đầu thế kỷ XXI là phát triển hệ thống lúa lai hai dòng đặc biệt là lai giữa
các loài phụ.
Lúa lai hai dòng ở Trung quốc được đưa vào sản xuất đại trà từ năm
1995. Thời gian đầu tốc độ mở rộng diện tích còn chậm do chưa tìm được các
tổ hợp có ưu thế lai cao. Thành công của Trung tâm nghiên cứu và phát triển
lúa lai quốc gia Trung quốc trong việc tạo ra các tổ hợp siêu lúa lai đã giúp

cho việc mở rộng diện tích lúa lai hai dòng rất nhanh chóng. Theo báo cáo của
Yuan Long Ping tại hội nghị lúa lai quốc tế 5/2002 diện tích lúa lai hai dòng
năm 2000 ở Trung quốc là 0,24 triệu ha với năng suất bình quân là 9,6 tấn/ha.
Năm 2001 đã mở rộng tới 1,2 triệu ha với năng suất bình quân là 9,2 tấn/ha.
Nhiều tổ hợp siêu lúa lai hệ hai dòng được đưa vào sản suất trong đó có
những điển hình năng suất lên đến 19,5 tấn/ha/vụ (tổ hợp lai Peiai 64S/E32
năm 1999 đạt 17,1 tấn/ha/vụ, năm 2001 đạt 19,1 tấn/ha/vụ) (Katsura K. và
cộng sự, 2007; Yuan L.P., 2002).
1.4.2. Nghiên cứu và phát triển lúa lai trong nước
Phát triển lúa lai Việt Nam là chặng đường còn dài, còn nhiều thay đổi
nhưng vẫn cần thiết trong bối cảnh biến đổi khí hậu và đảm bảo an ninh lương
thực trong tương lai.
Việt Nam bắt đầu nghiên cứu lúa lai vào những năm đầu thập kỷ 80 tại
Viện Khoa học kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam, tiếp đó là ở Viện lúa Đồng
bằng sông Cửu Long (1983-1984). Nhưng cho đến tận năm 1992 chương
trình nghiên cứu lúa lai của quốc gia mới thực sự được hình thành (Quách
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 13


Ngọc Ân và Lê Hồng Nhu, 1995).
Giữa những năm 80, Viện Nghiên cứu lúa đồng bằng sông Cửu Long
đã công bố về việc xác định được 2 tổ hợp lúa lai có ƯTL cao về năng suất
trong điều kiện miền Nam Việt Nam là: ƯTL1 và ƯTL2. Hai tổ hợp lai này
được chọn ra từ vườn đánh giá năng suất lúa lai của IRRI. Lúc ấy Việt Nam
chưa có đủ các dòng bất dục, duy trì, phục hồi, chưa có công nghệ nhân dòng
và sản xuất hạt lai (Nguyễn Công Tạn và công sự, 2002).
Năm 1992, chương trình nghiên cứu lúa lai được tiến hành với sự tham
gia của các cơ quan nghiên cứu khác nhau như: Viện Di truyền Nông nghiệp,

Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, Viện Cây Lương thực và cây thực phẩm,
Viện Bảo vệ thực vật, Viện Nghiên cứu lúa Đồng bằng sông Cửu Long, Viện
Nông hoá thổ nhưỡng và Trung tâm Khảo kiểm nghiệm giống cây trồng Trung
ương. Đây cũng là năm đề tài cấp nhà nước về lúa lai được hình thành trong 3
năm 1992- 1995, tại Viện KHKTNN Việt Nam đã bước đầu đạt được những
kết quả trong công tác thu thập và tạo nguồn vật liệu cho chọn giống lúa lai.
Viện đã chọn lọc và duy trì 9 dòng CMS có độ bất dục ổn định, có đặc tính nở
hoa thuận lợi và có tiềm năng năng suất cao. Trong đó có 4 dòng được nhập nội
từ Trung Quốc (Z97A, BoA, TeA, Kim23A), đây là các dòng mẹ của các tổ
hợp lai Shan ưu 63 (Tạp giao 1), San ưu Quế 99 (tạp giao 5), Kim ưu Quế 99,
Bắc ưu 64 (tạp giao 4), Đặc ưu 63 (Nguyễn Công Tạn và công sự, 2002).
Năm 1994, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quyết định thành
lập Trung tâm Nghiên cứu lúa lai thuộc Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp
Việt Nam thì công tác nghiên cứu lúa lai được định hướng rõ ràng. Các dòng
bất dục đực tế bào chất, dòng duy trì và dòng phục hồi nhập nội từ Trung
Quốc và IRRI đã được đánh giá đầy đủ và nhiều thực nghiệm sản xuất hạt lai
F1 được triển khai ở các địa phương (Nguyễn Công Tạn và công sự, 2002,
Nguyễn Thị Gấm, 1996).
Đối với lúa lai ba dòng, các nhà nghiên cứu đã thu thập và đánh giá sự
thích ứng của 77 dòng mẹ bất dục đực CMS, 77 dòng duy trì tương ứng và rất
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 14


nhiều dòng phục hồi từ Viện nghiên cứu lúa quốc tế (IRRI), Trung Quốc, Ấn
Độ. Các Viện, trường đã nghiên cứu và duy trì được các nguồn này. Những
dòng CMS, dòng bố tốt được sử dụng lai tạo ra các tổ hợp lúa lai mới thực
hiện ở Việt Nam, được sử dụng ngoài sản xuất: IR58025A, IRR58025B.
Những dòng CMS có độ bất dục ổn định được sử dụng lai tạo giống mới:

Kim23A, IR68897A, IR68888A, IR70369A, Nhất A, BoA, BoII, IR58095A
(Nguyễn Trí Hoàn, 2007, Nguyễn Công Tạn và công sự, 2002).
Hiện nay các dòng CMS đang được sử dụng phổ biến ở Việt Nam là
BoA, II32A, 137A, IR58025A, IR68897A... và các dòng duy trì tương ứng,
đồng thời đã chọn được hàng 100 dòng bố phục hồi phấn phục vụ cho chương
trình lai tạo .Từ năm 2005 đã lai tạo được 3 dòng CMS thuần ổn định, bất dục
tốt như AMS71A, AMS72A và AMS73A. Các dòng này đang được lai thử để
tìm tổ hợp lai mới. Các dòng khác đang được tiếp tục lai lại ở thế hệ BC3,
BC7 để tạo các dòng CMS mới. Công việc lai lại cũng được tiến hành với 22
dòng B mới để tạo các dòng CMS mới (Nguyễn Trí Hoàn, 2007).
Hàng năm Viện Cây lương thực và cây thực phẩm lai tạo khoảng 2000 tổ
hợp lai, kết quả là đã chọn tạo được một số tổ hợp lai cho năng suất cao, chất
lượng tốt như HYT56, HYT57, HYT92, HYT102, HYT103 (công nhận cho
sản xuất thử); HYT83, HYT100 (công nhận giống Quốc gia) và một số tổ hợp
có triển vọng: HYT84, HYT101, HYT95… (Nguyễn Trí Hoàn, 2007).
Công ty CP Giống cây trồng Miền Nam cũng đã nghiên cứu chọn tạo thành
công và đưa ra sản xuất các tổ hợp lúa lai 3 dòng mới có năng suất cao, chất lượng
tốt như: Bác ưu 903 KBL, Nam ưu 1, PAC807 (công nhận giống Quốc gia).
Bên cạnh những thành tựu nghiên cứu lúa lai 3 dòng. Việt nam cũng
đạt được một số kết quả bước đầu về nghiên cứu lúa lai hai dòng. Năm 1998
một số tổ hợp lúa lai hai dòng có nguồn gốc từ Trung Quốc đã được nhập nội
và thử nghiệm tại Việt Nam như Bồi Tạp Sơn Thanh, Bồi Tạp 77, Bồi Tạp
49,… các tổ hợp này có thời gian sinh trưởng ngắn, năng suất trung bình 7,5Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 15


8,0 tấn/ha, gạo ngon, chống chịu sâu bệnh khá (Nguyễn Thị Gấm, 2003).
Trong giai đoạn 2001- 2005, Viện KHKTNN Việt Nam đã lai tạo được
3 dòng TGMS mới: AMS31S, AMS32S, AMS33S từ các tổ hợp lai:

CL64S/VN292, CL64S/BM9820, phục vụ cho công tác chọn tạo giống. Phân
lập từ vật liệu phân ly nhập nội chọn tạo ra các dòng TGMS: CL64S, P47S,
7S, AMS27S, 11S, 534S (AMS29S), 827S (AMS30S) đưa vào lai tạo giống
lúa lai 2 dòng (Nguyễn Trí Hoàn, 2007, Nguyễn Thị Trâm và công sự, 1996,
1998, Hà Văn Nhân, 2000).
Thông qua nuôi cây bao phấn, Viện cây lương thực và cây thực phẩm
đã chọn được các dòng TGMS như: CNSH1, CNSH2, TGMSH20, TGMSH7;
Viện Di truyền nông nghiệp chọn được 2 dòng TGMSCN1 và TGMSCN2. Từ
nguồn vật liệu phân ly nhập nội đã phân lập được các dòng TGMS: CL64S,
T47S, 7S, AMS27S, 11S, 534S, 827S để đưa vào lai tạo giống lúa lai hai
dòng (Nguyễn Công Tạn và cộng sự, 2002).
Trong kết quả lai tạo bố mẹ có gen tương hợp rộng. Dòng Peiai 64S có
gen tương hợp rộng WCG được lai với các dòng TGMS (T1S-96, 7S, 21S,
827S, 534S). Kết quả cũng lai tạo được 7 dòng bố tốt có gen tương hợp rộng.
Đây là những vật liệu rất cần thiết cho phát triển lúa lai Indica/Japonica hay
còn gọi là lúa lai siêu cao sản trong những năm sắp tới. Ở Viện Di truyền
Nông nghiệp trong giai đoạn 2001- 2005 đã lai tạo được 4 dòng TGMS mới là
D101S, D102S, D103S và TGMS 18-2 (Trần Duy Quý, 2002).
Bước đầu sử dụng dòng Peiai 64S có gen tương hợp rộng để lai với các
dòng TGMS hoặc giống lúa thường, chọn ra các dòng TGMS có gen tương
hợp rộng phục vụ công tác chọn tạo giống lúa lai siêu cao sản trong những
năm tới. Đồng thời với việc chọn tạo các dòng TGMS, các cơ quan nghiên cứu
cũng chọn được hơn 200 dòng R và dòng bố mới trong đó có 22 dòng kháng
được rầy nâu, bệnh bạc lá và đạo ôn (Nguyễn Trí Hoàn, 2007).
Hiện nay các nhà khoa học Việt Nam đã chọn tạo được khoảng 20 dòng
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 16



bất dục đực di truyền nhân mẫn cảm với nhiệt độ (TGMS) như: VN-TGMS1,
VN-TGMS 2, VN-TGMS 3, VN-TGMS 12, AMS31S, AMS32S, AMS33S
của Viện Cây lương thực và cây thực phẩm; 103S, T1S-96, T24S, T25S,
T26S, T27S, T29S, của Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội; TGMS-VN01,
TGMS-VN1, D101S, D102S, D103S, TGMS18-2 của Viện Di truyền Nông
nghiệp; TG1, TG2, TG4, TG22 của Trung tâm Khảo kiểm nghiệm giống, sản
phẩm cây trồng và phân bón Quốc gia (Phạm Đồng Quảng, 2006; Lê Duy
Thành, 2001; Đỗ Thị Thọ, 2004).
Bảng 1.4. Diện tích sản xuất lúa lai qua các năm (từ 2001 – 2012)
(DT: ha, NS: tạ/ha)
Năm

Cả năm

Vụ Xuân

Vụ Mùa

Diện tích

NS

Diện tích

NS

Diện tích

NS


2001

480.000

60,9

300.000

66,0

180.000

52,5

2002

500.000

60,6

300.000

65,0

200.000

53,9

2003


600.000

59,1

350.000

64,5

250.000

51,5

2004

577.000

60,6

350.000

64,5

227.000

54,6

2005

553.000


60,5

353.000

65,0

200.000

52,5

2006

572.700

62,3

342.700

67,1

230.000

55,2

2007

620.000

61,0


390.000

63,9

230.000

56,0

2008

560.000

61,7

305.000

66,0

255.000

56,6

2009

709.816

62,1

404.160


67,3

305.655

55,3

2010

605.642

64,1

374.342

68,5

231.200

56,9

2011

595.000

64,0

395.190

70,0


276.200

56,0

2012

613.117

64,6

387.967

69,0

225.150

58,7

TBNS

61,9

66,5

54,9
Nguồn: Cục trồng trọt

Hàng nghìn tổ hợp lai được lai tạo và đánh giá, một số tổ hợp lai có triển
vọng đang sản xuất đại trà như: VL20, VL24, TH3-3, TH3-4, HC1, HQ19 (công
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp


Page 17


×