Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

BẢO ĐẢM LỢI ÍCH CỦA VỢ, CHỒNG TRONG VIỆC PHÂN CHIA TÀISẢN CHUNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.21 KB, 12 trang )

A. LỜI MỞ ĐẦU
Gia đình là tế bào của xã hội. Sự ổn định và phát triển lành mạnh của gia
đình góp phần vào sự nghiệp phát triển chung của toàn xã hội. Mỗi gia đình
được xây giữ bởi ba sợi dây liên kết: hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng.
Trong đó, quan hệ hôn nhân có thể coi là nền tảng của mỗi gia đình. Trong
quan hệ hôn nhân, bên cạnh đời sống tình cảm vợ chồng, không thể không
nhắc tới đời sống vật chất. Người xưa có câu: “Một túp lều tranh hai trái tim
vàng”, cuộc sống gia đình chỉ cần dựa vào tình cảm, còn vật chất là thứ yếu,
không cần thiết. Tuy nhiên, thực tế đã chứng minh: tài sản chính là yếu tố
quan trọng, là bảo hiểm cuộc sống gia đình hạnh phúc. Mối quan hệ tài sản
nảy sinh kéo theo những ràng buộc về quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa vợ chồng. Không phải ngẫu nhiên mà phân chia tài sản lại trở thành một vấn đề
rất được quan tâm. Rõ ràng, trong bất kì mối quan hệ xã hội nào, quyền và lợi
ích của các bên cũng cần được bảo đảm. Quan hệ tài sản giữa vợ chồng không
là ngoại lệ. Phân chia tài sản chung của vợ chồng ngay trong thời kỳ hôn nhân
là một điểm mới của pháp luật Việt Nam. Điều này không phạm vào thuần
phong mỹ tục dân tộc mà còn đảm bảo sự bình đẳng của vợ, chồng; tính minh
bạch rõ ràng phần nào tạo cơ sở xây dựng hạnh phúc gia đình bền vững.
Vì những lẽ trên, trong bài tập số 2, nhóm 09 đã nghiên cứu về vấn đề:
BẢO ĐẢM LỢI ÍCH CỦA VỢ, CHỒNG TRONG VIỆC PHÂN CHIA TÀI
SẢN CHUNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN.


B. NỘI DUNG
I. Xác lập tài sản chung của vợ và chồng
Cuộc sống chung của vợ chồng khi quan hệ hôn nhân được xác lập đòi hỏi
phải có một khối lượng tài sản nhằm đảm bảo nhu cầu đời sống gia đình; thỏa
mãn nhu cầu về vật chất, tinh thần của vợ chồng; thực hiện nghĩa vụ chăm sóc
lẫn nhau và nuôi dưỡng các con. Kế thừa và phát huy quy định của luật Hôn
nhân và gia đình năm 1986 về tài sản chung và quyền của vợ chồng đối với
tài sản chung (điều 14, 15); luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã dự liệu
về căn cứ nguồn gốc và thành phần của các loại tài sản chung vủa vợ chồng.


Các quy định của luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 dễ vận dụng và cụ thể
hóa hơn nhiều so với luật năm 1986. Điều 27 luật Hôn nhân và gia đình
năm 2000 quy định:
1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ chồng tạo ra, thu nhập do
lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác
của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế
chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa
thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của
vợ chồng. Chỉ khi có sự thỏa thuận sát nhập thì quyền sử dụng đất mà vợ
chồng có trước khi kết hôn mới là tài sản chung.
2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất. Trong giấy
chứng nhận quyền sử dụng của tài sản, theo pháp luật quy định, phải ghi tên
hai người thì tài sản đó mới là của chung. Đây là một quy định mới khẳng
định sự bình đẳng vợ - chồng trong quan hệ tài sản, tạo cơ sở pháp lý vững
chắc cho việc bảo vệ quyền sở hữu của ngưòi vợ. Việc pháp luật quy định ghi
tên của cả vợ và chồng vào giấy chứng nhận quyền sở hữu với tài sản chung
của vợ chồng đã thể chế hóa điều 174 luật Dân sự năm 2005.


3. Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ chồng
đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung.
II/ Cơ sở để xác định việc chia tài sản chung của vợ chồng.
1. Tài sản chung của vợ chồng được xác lập trong “thời kỳ hôn nhân”.
Khoản 7 điều 8 luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, khi giải thích từ ngữ
được sử dụng trong văn bản, đã chỉ rõ: “Thời kỳ hôn nhân” là khoảng thời
gian tồn tại quan hệ vợ chồng, tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm
dứt hôn nhân.
Vậy sau khi kết hôn, vợ chồng cùng chung sống với nhau, cùng chung sức
lực, ý chí tạo dựng tài sản nhằm nuôi sống gia đình. Vì lợi ích chung của gia

đình trong thời kỳ này, những tài sản (bao gồm cả động sản và bất động sản)
do vợ chồng tạo ra (trừ tài sản riêng) đều thuộc khối tài sản chung của vợ
chồng. Ví dụ: tiền lượng của mỗi bên trước khi kết hôn là tài sản riêng của
người đó, nhưng sau khi kết hôn, theo điều 6 luật Hôn nhân và gia đình
năm 2000, lại thuộc khối tài sản chung của vợ chồng. Tính cộng đồng của
quan hệ hôn nhân và gia đình được xác lập, nhằm bảo đảm cuộc sống chung
gia đình. Bởi vậy đòi hỏi pháp luật phải quy định căn cứ quan trọng đầu tiên
để xác định tài sản chung của vợ chồng là “thời ký hôn nhân”
2. Tài sản chung của vợ chồng bao gồm những tài sản được hai bên thỏa
thuận là tài sản chung, những tài sản không đủ chứng cứ xác định là tài sản
riêng (khoản 3 điều 27 luật Hôn nhân và gia đình năm 2000). Trong cuộc
sống chung của vợ chồng, sau nhiều năm tháng chung sống, quan hệ vợ
chồng được xác lập dựa trên yếu tố tình nên vợ chồng thường không phân biệt
tài sản chung – riêng. Cả hai bên đều sử dụng tài sản của nhau nhằm đáp ứng
nhu cầu của gia đình và của chính bản thân mình. Tuy nhiên, khi tranh chấp
xảy ra, nảy sinh nhu cầu phân chia tài sản, rất khó phân định đâu là tài sản
chung, đâu là tài sản riêng. Bởi lẽ đó, khoản 3 điều 27 luật Hôn nhân và gia


đình năm 2000 đã dự liệu: “trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh
tài sản mà vợ chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản
đó là tài sản chung”. Để tránh rắc rối khi phân chia tài sản chung, riêng, pháp
luật quy định giấy đăng ký sử hữu phải ghi tên cả hai vợ chồng
3. Luật HN&GĐ và các văn bản hướng dẫn có liên quan chưa qui định cụ thể
nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân khi việc
chia tài sản chung đó thuộc thẩm quyền của Toà án. Do đó, trong thực tiễn áp
dụng, Toà án sẽ gặp khó khăn khi vận dụng căn cứ pháp lý để giải quyết các
tranh chấp phát sinh. Trước đây, Điều 18 Luật HN&GĐ năm 1986 đã qui
định: “Khi hôn nhân còn tồn tại, nếu một bên yêu cầu và có lý do chính đáng,
thì có thể chia tài sản chung của vợ chồng theo qui định ở Điều 42 (nguyên

tắc chia tài sản khi ly hôn) của Luật này”. Trên cơ sở kế thừa qui định trên
của Luật HN&GĐ năm 1986, theo chúng tôi cần thiết phải qui định một giải
pháp

như

sau:

Khi chia tài sản chung, Toà án căn cứ vào lý do, mục đích chia tài sản chung
để quyết định phạm vi tài sản chung được chia. Việc chia tài sản chung căn cứ
vào các nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn qui định tại Điều 95 của Luật
HN&GĐ; nếu tài sản là nhà ở và quyền sử dụng đất thì áp dụng các qui định
tại các điều 97, 98 và 99 của Luật HN&GĐ.
Chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là một khái niệm còn khá xa lạ
đối với đời sống hôn nhân ở Việt Nam. Nhưng nó lại là vấn đề cần thiết trong
xã hội ngày nay.
Điều 29 Luật Hôn nhân và Gia đình qui định về việc chia tài sản trong
thời kì hôn nhân bắt buộc phải có lí do chính đáng chứ không qui định là tài
sản để chia bắt buộc phải là tài sản đã thuộc sở hữu chung của vợ chồng về
mặt thực tế, điều đó có nghĩa là luật không hề cấm việc chia những tài sản
chắc chắn sẽ thuộc về vợ chồng trong tương lai. Điều đó cũng có nghĩa là
theo luật thì những tài sản chắc chắn sẽ thuộc sở hữu của vợ chồng trong
tương lai như thu nhập hợp pháp có thể được thỏa thuận chia. Việc chia với


những tài sản chắc chắn sẽ thuộc về vợ chồng trong tương lai không có gì là
trái luật. Qui định của khoản 2 điều 8 chỉ là nêu lên qui tắc chia (thu nhập
hợp pháp của ai thì thuộc sở hữu riêng của người đó) trong trường hợp vợ
chồng không thỏa thuận về những khoản thu nhập đó..
Cụ thể hơn,

Khoản 1 điều 29 luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định:
Khi hôn nhân tồn tại, trong trường hợp vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng,
thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lý do chính đáng khác thì vợ chồng
có thể thỏa thuận chia tài sản chung; việc chia tài sản chung phải lập thành
văn bản; nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.
Trong thực tế, các án kiện yêu cầu toàn án chia tài sản chung trong thời kỳ
hôn nhân không nhiều. Điều này xuất phát từ tính chất của quan hệ hôn nhân
Việt Nam là sự gắn kết về tình cảm giữa vợ chồng, cùng hướng tới mục đích
xây dựng gia đình hạnh phúc. Ngay cả việc xác định tài sản chung, tài sản
riêng của vợ chồng cũng là điều ít gặp. Bởi vậy có thể nói, phân chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân là một trường hợp hết sức đặc biệt.
Trong đời sống xã hội, có những trường hợp vì lý do nào đó mà việc phân
chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân sẽ đáp ứng nhu cầu
riêng của một bên, đồng thời bảo vệ quyền lợi của phía bên kia. Khoản 1
điều 29 đã quy định và lý giải những nguyên nhân cần thiết để phân chia tài
sản chung. Đó là “trong trường hợp vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng, thực
hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lý do chính đáng khác”
Các lý do đưa ra hoàn toàn phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường hiện
nay, tạo điều kiện cho mọi người, đặc biệt là phụ nữ, được tiếp cận với quyền
tự do kinh doanh, với các giao dịch lớn có giá trị.


Thông thường, trong gia đình, toàn bộ tài sản do một người nắm giữ, sự bảo
đảm dự trên lòng tin của hai bên. Và thường thì người đứng tên là chồng. Khi
mẫu thuẫn nảy sinh, khi có sự bất đồng về ý kiến, mong muốn tiếp tục duy trì
cuộc sống gia đình và không gây ảnh hưởng tới sự nghiệp mỗi bên, khi tài sản
riêng không đủ đáp ứng yêu cầu cá nhân, ví dụ như khi vợ hoặc chồng kinh
doanh nhưng không đủ vốn, thêm vào đó, rủi ro trong kinh doanh là điều khó
tránh khỏi, vợ chồng sẽ có yêu cầu phân chia tài sản chung. Việc này đáp ứng
nhu cầu cá nhân của vợ và chồng, cho phép họ tự bảo vệ quyền lợi chính đáng

của mình. Chia tài sản chung không có nghĩa là tồn tại rạn nứt trong cuộc đời
sống vợ chồng. Đây đơn thuần là sự tách biệt cần thiết để tạo điều kiện phát
triển của mỗi bên cũng như tiếp tục duy trì gia đình hạnh phúc, ấm no.
Ví dụ: Anh A và chị B kết hôn từ ngày 1.1.2003. Năm 2009, anh A muốn mở
công ty kinh doanh. Từ thời điểm hai người kết hôn đến khi anh A mở công
ty, tài sản chung của vợ chồng là 7 tỉ đồng. Để đảm bảo cuộc sống gia đình ổn
định, không bị xáo trộn, phòng khi công ty thua lỗ, hai anh chị quyết định
chia tài sản chung. Trên văn bản có chữ ký hai người ghi rõ: anh A nhận 5 tỉ
đồng và chị B nhân 2 tỉ đồng. Như vậy, giả sử sau này, công ty làm ăn không
thuận lợi dẫn đến phá sản thì 2 tỉ đồng của chị B không hề liên đới. Ngược lại,
nếu anh A làm ăn phát đạt thì toàn bộ lợi nhận phát sinh khi kinh doanh thuộc
tài sản riêng, trừ trường hợp thỏa thuận giữa vợ chồng.
Trong thực tế, vợ chồng là chủ thể của quan hệ pháp luật hôn nhân và gia
đình nhưng cũng đồng thời là chủ thể của các quan hệ pháp luật dân sự khác.
Có thể trước khi kết hôn hoặc trong thời kỳ hôn nhân, người vợ hoặc chồng
phải thực hện nghĩa vụ của mình, ví dụ như vay nợ để đáp ứng nhu cầu thiết
yếu của gia đình, cấp dưỡng cho con riêng, bồi thường thiệt hại do hành vi
trái pháp luật … Khi này, tài sản riêng của người đó không đủ đáp ứng và vợ
chồng có thỏa thuận sử dụng tài sản chung để thanh toán.


Ví dụ: Trước khi kết hôn, anh D vay ông E 100 triệu đồng. Anh D có nghĩa cụ
trả 100 triệu đồng cho ông E, nhưng anh D không có tài sản riêng để trả.
Trong trường hợp này, anh D có thể thỏa thuận với vợ hoặc yêu cầu toà án
chia tài sản chung của vợ chồng để xác định phần tài sản của mình trong khối
tài sản chung của vợ chồng giúp anh D trả nợ cho ông E.
Bên cạnh những lý do trên, khoản 1 điều 29 luật Hôn nhân và gia đình còn
quy định trường hợp cần phải chia tài sản chung xuất phát từ lý do chính đáng
như:
- Vợ hoặc chồng được xác định đã mất tích

- Một bên có hành vi phá tán tài sản mà bên kia không ngăn cản được
- Một trong hai người bị tịch thu tài sản do phạm tội
…..
Việc chia tài sản trong trường hợp trên là hoàn toàn phù hợp với lợi ích của
gia đình nói riêng và xã hội nói chung.
Nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của vợ, chồng trong việc phân chia tài sản
chung, pháp luật có quy định cách thức phân chia. Theo đó, tòa án phải tôn
trọng sự thỏa thuận của vợ chồng về việc chia tài sản chung như là một
nguyên tắc tiên quyết.
Việc tự thỏa thuận chia tài sản chung phải lập thành biên bản rõ ràng. Điều 6
nghị định số 70 /2001 chỉ rõ nội dung văn bản phân chia tài sản, qui định các
trường hợp chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân mà không có lý do
chính đáng thì bị Toà án tuyên bố là vô hiệu :
1. Lý do chia tài sản
2. Phần tài sản chia, trong đó cần mô tả rõ những tài sản được chia hoặc
giá trị phần tài sản được chia
3. Phần tài sản còn lại không phân chia, nếu có


4. Thời điểm có hiệu lực
5. Các nội dung khác, nếu có
Văn bản này có chữ ký của hai bên vợ - chồng, người làm chứng hoặc công
chứng. Nó trở thành cơ sở pháp lý quan trọng xác định phần tài sản được chia
của mỗi bên, tránh những tranh chấp sau này.
Nếu như hai bên không đi đến thống nhất thì tòa án sẽ căn cứ vào quy định
của pháp luật để giải quyết.
Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân theo qui định
của pháp luật không làm thay đổi quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng và
quan hệ giữa cha mẹ và con. Thực tế, việc vợ chồng áp dụng chế định này đã
phản ánh những mâu thuẫn tồn tại trong quan hệ giữa họ. Sự độc lập về tài

sản sau khi chia tài sản chung, có thể dẫn đến vợ chồng sống ly thân hoặc một
trong các bên lại lẩn tránh trách nhiệm đối với gia đình, từ đó có tranh chấp
về việc chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chưa thành niên hoặc con đã
thành niên mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động, không
có thu nhập, không có tài sản để tự nuôi mình. Để bảo vệ các quyền và lợi ích
hợp pháp của các con, theo chúng tôi, pháp luật cần qui định rõ: Trong trường
hợp sau khi chia tài sản chung, vợ chồng có tranh chấp về chăm sóc, nuôi
dưỡng và giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành
vi dân sự, không có khả năng lao động, không có thu nhập và không có tài sản
để tự nuôi mình, thì Toà án quyết định theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của
các cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Việc giải quyết tranh chấp liên
quan đến con áp dụng tương tự qui định về quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và
con khi ly hôn.
Với các quy định trên, quyền lợi của vợ chồng sẽ được bảo đảm trước pháp
luật. Sự thỏa thuận đi đến thống nhất giữa hai vợ chồng cho thấy một trong
những tiêu chí quan trọng của pháp luật Việt Nam đối với đời sống hôn nhân
là tinh thần tự nguyện của mỗi bên.


Tuy nhiên, khoản 1 điều 29 vẫn tồn tại khe hở pháp luật. Khi đề cập đến
nguyên do phân chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân,
khoản 1 kết lại bằng “lý do chính đáng khác”. Câu hỏi đặt ra ở đây là: thế nào
là “lý do chính đáng”? Trong các văn bản hướng dẫn thi hành luật Hôn nhân
và gia đình cũng không chỉ rõ các tiêu chí để đánh giá tính chính đáng của lý
do phân chia tài sản chung. Cuộc sống rất đa dạng, các hành vi dân sự của con
người bởi vậy vô cùng phức tạp. Đánh giá đúng hay sai không bao giờ là dễ.
Để tránh tài sản chung của gia đình bị sử dụng vào mục đích xấu hoặc không
mục đích, cần có văn bản hướng dẫn cụ thể, dự liệu rõ ràng các trường hợp.
Một điều nữa, đó là Việt Nam do điều kiện lịch sử và xã hội, tồn tại một số
trường hợp không đăng ký kết hôn nhưng được công nhận là vợ chồng. Trong

trường hợp này, để ghi tên hai người vào giấy sở hữu tài sản thì không có giấy
tờ gì chứng minh sự liên quan trong quan hệ hôn nhân.
Việc phân chia tài sản chung của vợ chồng đã xuất hiện từ Cổ luật Việt
Nam. Trong điều 374, 375, 376 Quốc triều Hình luật, khi chồng chết và hai
người có con chung thì vợ được quyền cai quản tài sản, thậm chí cả khi tái
giá. Trường hợp chồng chết mà hai người không có con thì vợ được nhận một
nửa tài sản chung. Hay trong điều 360 Dân luật Bắc kỳ và điều 369 Dân
luật Trung kỳ, sau khi chồng chết, vợ có quyền cai quản tài sản dưới sự giám
sát của hội đồng gia tộc bên chồng. Còn điều 359 Dân luật Nam kỳ thì quy
định khi chồng chết và có con chung giữa hai người, vợ được nhận một nửa
tài sản. Nếu tái giá, người vợ chỉ được cấp một ít tài sản chung. Rõ ràng, việc
chia tài sản trong thời kỳ này chỉ xảy ra khi người chồng mất. Và phần tài sản
trong khối tài sản chung của ngưòi vợ không thực sự được xem xét. Nó phụ
thuộc nhiều vào sự ràng buộc của người vợ với nhà chồng như: có con, tái giá



Đến luật Hôn nhân và gia đình năm 1959, vẫn chưa hình thành vấn
đề chia tài sản chung. Bởi lẽ: nhận thức của mọi ngưòi của thời bấy giờ là của
cá chân cũng chính là của chung, điều kiện kinh tế xã hội cũng không cho
phép: không tồn tại nhiều hình thức sinh hoạt, thành phần kinh tế giản đơn…
Điều này đã vô tình ngăn chặn kinh doanh tư nhân, kìm hãm sự phát triển
kinh tế - xã hội.
Luật Hôn nhân và gia đinh năm 1986 và sự phát triển tiếp của luật
Hôn nhân và gia đình năm 2000 với quy định về phân chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân mang đã khẳng định bước tiến xa của ngành làm luật
Việt Nam. Vị trị của người phụ nữ trong hoạt động kinh tế của gia đình đã
được coi trọng, nâng ngang tầm, bình đẳng với nam giới. Một lần nữa pháp
luật Việt Nam khẳng định quyền bình đẳng giới và bảo vệ quyền lợi của
người phụ nữ. Đây là một điểm thay đổi tích cực rõ rệt ở pháp luật Việt Nam,

cụ thể là luật Hôn nhân và gia đình, theo xu hướng chung pháp luật quốc tế.
Việc phân chia này không làm tổn hại đến quan hệ thân nhân giữa vợ
và chồng. Tình cảm yêu thương, nghĩa vụ chăm sóc, giúp đỡ nhau giữa vợ và
chồng vẫn tồn tại. Duy có quan hệ tài sản là thay đổi. Chế độ cộng đồng tài
sản dưới hình thức sở hữu chung chấm dứt, thay vào đó là hai chủ sở hữu
riêng biệt. Tuy nhiên mỗi quan hệ tài sản thay đổi hoàn toàn. Trong trường
hợp một người mất đi, thì người kia vẫn được hưởng thừa kế thuộc hàng thứ
nhất.


C. KẾT LUẬN
Vấn đề về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân nhận
được sự quan tâm của đông đảo mọi người nhất là các cặp vợ chồng. Chia tài
sản chung khi còn hôn nhân không làm cho sự đoàn kết giữa vợ chồng rạn nứt
về tình cảm chỉ vì vật chất mà nhằm để bảo đảm quyền lợi chính đáng của cả
hai bên vợ chồng, thể hiện sự độc lập của hai bên với nhau, hay quyền lợi mà
hai bên sẽ nhận được khi cùng chung sức tạo dựng gia đình phát triển.
Trên đây là những ý kiến của bọn em về vấn đề tài sản chung trong hôn
nhân, nhóm em xin chân thành cảm ơn cô!!


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam- trường Đại Học Luật
Hà Nội
2. Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam năm 2000
3. Luật Dân sự năm 2003
4. “Quyền sở hữu của vợ chồng theo Luật hôn nhân và gia đình năm
2000”, tạp chí luật học, số 6/2002 - Nguyễn Văn Cừ
5. “Chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân đang tồn tại”, Tạp chí
tòa án nhân dân, số 9/2000 – Nguyễn Văn Cừ

6. “Quyền bình đẳng của vợ chồng đối với tài sản thuộ sở hữu chung
thống nhất theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000”, Tạp chí nhà
nước và pháp luật số 5/2003 – Nguyễn Văn Cừ
7. Bình luận khoa học về Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, Nguyễn
Ngọc Điện



×