Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

Tích hợp văn, tiếng Việt, làm văn trong dạy học môn Ngữ văn 8 ở trường Trung học cơ sở quận 12, thành phố Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (362.71 KB, 66 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

PHẠM THỊ MỸ DUNG

TÍCH HỢP VĂN, TIẾNG VIỆT, LÀM VĂN
TRONG DẠY HỌC MÔN NGỮ VĂN 8
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ QUẬN 12,
TP HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Chuyên ngành: Lí luận và Phương pháp dạy học
bộ môn Văn và Tiếng việt
Mã số: 60.14.10
Người hướng dẫn khoa học: PGS – TS ĐINH TRÍ DŨNG

NGHỆ AN - 2012


2

MỤC LỤC


3

Tran
g
MỞ ĐẦU


1
1. Lý do chọn đề tài
……………………………………………....
2. Lịch sử vấn đề
……………………………………………….....

3
7
7

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
……………………………..
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
…………………………….

7
8

5. Phương pháp nghiên cứu
……………………………………....
6. Cấu trúc luận văn
…………………………………………........

9
9

Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ DẠY HỌC TÍCH
HỢP TRONG MÔN NGỮ VĂN Ở TRUNG HỌC CƠ
SỞ ………….


9
9
10

1.1. Một số khái niệm
………………………………………......
1.1.1. Môn Ngữ văn
………………………………………............
1.1.2. Trung học cơ sở

13
13


4

……………………………………………

14

1.1.3. Tích hợp và nguyên tắc tích hợp trong dạy Ngữ
văn……...
16
1.2. Cơ sở lý luận của vấn đề dạy học tích hợp trong
môn
Ngữ văn ở bậc trung học cơ sở
………………………….....
1.2.1. Mối quan hệ giữa các khoa học liên ngành
………………..

1.2.2. Mối quan hệ giữa văn học và ngôn ngữ
……………………
1.2.3. Mối quan hệ giữa ba phân môn Văn – Tiếng Việt

Tập làm văn
………………………………………………..
1.2.4. Quan điểm tích hợp trong biên soạn chương
trình,

16

19

19
20

21
23

sách giáo khoa Ngữ văn hiện nay
………………………….
1.3.

Cơ sở thực tiễn của vấn đề dạy học tích hợp

trong môn Ngữ văn ở bậc trung học cơ sở
………………..
1.3.1. Về vấn đề dạy văn ở trường trung học cơ sở
của giáo viên hiện nay


24


5

……………………………………..
1.3.2. Về vấn đề học văn của học sinh trung học cơ sở
…………..

24
24

1.3.3. Về vấn đề học văn của học sinh trung học cơ sở
25
ở địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
…………………………
Tiểu kết
…………………………………………………….

27
27
28

Chương 2
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TÍCH HỢP VĂN – TIẾNG VIỆT


31

LÀM VĂN TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 8 Ở


32

TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ QUẬN 12, THÀNH
PHỐ

32

HỒ CHÍ MINH
………………………………………………….
2.1. Một vài nét về tình hình kinh tế - xã hội quận 12,
thành phố
Hồ Chí Minh
……………………………………………….
2.1.1. Tình hình kinh tế
…………………………………………...

34
35
36
36
38
40
43


6

2.1.2. Đời sống xã hội – văn
hóa………………………………….

2.2. Nội dung cơ bản của việc tích hợp Văn – Tiếng
Việt – Làm văn
…………………………………………………………
……..
2.2.1. Dùng Văn để phục vụ cho việc học Tiếng Việt
……………
2.2.2. Dùng Tiếng Việt để mở rộng các tri thức Văn
học ………..

44
44
44
51
56

2.2.3. Dùng tri thức Văn và Tiếng Việt để dạy Tập làm
văn và dùng Tập làm văn để củng cố kiến thức Văn
và Tiếng Việt ………

56

2.3. Các nguyên tắc thực hiện dạy học tích hợp
………………..

57

2.3.1. Nguyên tắc bám sát nội dung, chương trình
……………….
2.3.2. Nguyên tắc kế thừa và phát
triển…………………………...

2.3.3. Nguyên tắc bám sát đối tượng đảm bảo tính khả
thi……….
2.4. Các biện pháp thực hiện dạy học tích hợp
…………………
2.4.1. Lựa chọn các kiến thức để đưa vào bài dạy tích
hợp ………
2.4.2. Tổ chức bài dạy theo hướng tích hợp

57

62
63
65


7

……………………...
2.4.3. Kiểm tra đánh giá
…………………………………………..
Tiểu kết
…………………………………………………………
...

Chương 3
THIẾT KẾ BÀI GIẢNG VÀ THỰC NGHIỆM KHOA
HỌC ...
3.1. Thiết kế bài giảng
………………………………………….
3.1.1. Bài giảng tích hợp Văn – Tiếng Việt

………………………
3.1.2. Bài giảng tích hợp Văn – Tiếng Việt – Làm văn
…………..
3.2. Thực nghiệm khoa học
……………………………………..
3.2.1. Mục đích thực nghiệm
……………………………………..
3.2.2. Địa bàn và đối tượng thực
nghiệm…………………………
3.2.3. Nội dung và phương pháp thực nghiệm
…………………...


8

Tiểu kết
…………………………………………………….
KẾT LUẬN
………………………………………………..
TÀI LIỆU THAM
KHẢO…………………………………

BẢNG DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT

Từ viết tắt

Từ , ngữ đầy đủ

1


ĐC

Đối chứng

2

GV

Giáo viên

3

HS

Học sinh

4

HTKH

Hội thảo khoa học

5

PPCT

Phân phối chương trình

6


SGK

Sách giáo khoa

7

THCS

Trung học cơ sở


9

8

THPT

Trung học phổ thông

9

TN

Thực nghiệm

10

TV


Tiếng Việt

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Nguyên tắc tích hợp là một trong ba nguyên tắc dạy học đang được áp
dụng rộng rãi trong giáo dục ở bậc học phổ thông, rõ nét nhất là ở bộ môn Ngữ
văn. Nguyên tắc này đáp ứng được những đòi hỏi của thời đại công nghệ thông tin,
toàn cầu hóa. Trong bối cảnh bùng nổ thông tin, kho kiến thức của nhân loại là vô
cùng lớn, những kiến thức đưa vào nhà trường phải là những kiến thức hệ thống,
chọn lọc, tinh giản, hiệu quả, theo tinh thần tích hợp.
1.2. Nguyên tắc tích hợp cũng phù hợp với tinh thần triển khai tích cực việc
giảm tải chương trình dạy – học ở bậc trung học cơ sở và trung học phổ thông.
Bàn về vấn đề đổi mới chương trình giáo dục phổ thông, nghị quyết
40/2000/QH 10, ngày 9 tháng 12 năm 2000 của Quốc hội khóa X đã khẳng định
mục tiêu của việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông lần này là “xây dựng
nội dung chương trình, phương pháp của giáo dục, sách phổ thông mới nhằm nâng
cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn
nhân lực phục vụ công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, phù hợp với thực tiễn
và truyền thống Việt Nam, tiếp cận trình độ giáo dục phổ thông ở các nước phát
triển trong khu vực và trên thế giới” và “việc đổi mới chương trình giáo dục phổ
thông phải quán triệt mục tiêu, yêu cầu về nội dung phương pháp giáo dục của các
bậc học, cấp học quy định trong luật giáo dục; khắc phục những hạn chế của
chương trình, sách giáo khoa, tăng cường tính thực tiễn kĩ năng thực hành, năng


10

lực tự học; coi trọng kiến thức khoa học xã hội và nhân văn; bổ sung những thành
tựu khoa học và công nghệ hiện đại phù hợp với khả năng tiếp thu của học sinh.
Đảm bảo sự thống nhất, kế thừa và phát triển của chương trình giáo dục, tăng

cường tính liên thông giữa giáo dục phổ thông với giáo dục nghề nghiệp, giáo dục
đại học; thực hiện phân luồng trong hệ thống giáo dục quốc dân để tạo sự cân đối
về cơ cấu nguồn nhân lực; đảm bảo sự thống nhất về chuẩn kiến thức và kĩ năng,
có phương án vận dụng chương trình sách giáo khoa phù hợp với hoàn cảnh và điều
kiện của các địa bàn khác nhau. Đổi mới nội dung chương trình, sách giáo khoa,
phương pháp dạy và học, thực hiện đồng bộ với việc nâng cấp và đổi mới trang
thiết bị dạy học, tổ chức đánh giá, thi cử, chuẩn hóa trường, sở, đào tạo, bồi dưỡng
của giáo viên và công tác quản lí giáo dục” [5, tr.16].
1.3. Việc vận dụng nguyên tắc này vào dạy học bộ môn Ngữ văn sẽ đem lại
hiệu quả thiết thực, giúp các em học sinh tiếp cận kiến thức một cách hệ thống,
toàn diện, trong mối quan hệ tương liên, hỗ trợ lẫn nhau, vừa củng cố kiến thức cũ,
vừa tiếp nhận các kiến thức mới. Với bậc THCS, yêu cầu này lại càng cần thiết.
Trong các phương pháp hiện nay, phương pháp dạy học tích hợp góp phần
khắc phục những hạn chế của việc dạy học nghiêng về truyền thụ, nhồi nhét kiến
thức. Tích hợp làm cho việc dạy và học tiết kiệm được thời gian, lồng ghép được
nhiều nội dung dạy học mà vẫn mang lại hiệu quả cao. Nguyên tắc tích hợp sẽ góp
phần đổi mới phương pháp dạy.
Dạy học ba phân môn Văn - Tiếng Việt - Tập làm văn theo phương pháp tích
hợp trong chương trình Ngữ văn 8, chúng ta cần định hướng cho HS thấy được mối
quan hệ mật thiết giữa ba phân môn. Sự kết hợp hài hòa giữa ba phân môn này sẽ tạo
được hiệu quả cao trong quá trình tổ chức dạy học.
Việc dạy học môn Ngữ văn 8 theo hướng tích hợp tuy đã có những kết quả
khả quan nhưng không tránh khỏi những khó khăn, vướng mắc, nhất là đối với GV.
Vì thế mà việc nghiên cứu phương pháp dạy học theo hướng tích cực được xem là
những vấn đề cần đặt ra và yêu cầu tiếp tục giải quyết.


11

Từ những lí do cơ bản trên, chúng tôi quyết định chọn đề tài “Tích hợp

Văn - Tiếng Việt - Làm văn trong dạy học môn Ngữ văn 8 ở trường THCS
Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh” để thực hiện luận văn này với mong muốn
được góp phần vào việc tìm hiểu phương pháp tích hợp nói riêng và việc đổi mới
phương pháp dạy học môn Ngữ văn ở THCS nói chung.
2. Lịch sử vấn đề
Một số công trình bàn về phương pháp dạy học của Lê A, Phan Trọng Luận,
Nguyễn Thanh Hùng, Nguyễn Quang Ninh, Bùi Minh Toán, Lê Phương Nga, Đỗ
Ngọc Thống...đã có đề cập đến nguyên tắc dạy Ngữ văn theo tinh thần tích hợp.
Chúng tôi chú ý đến các công trình sau:
- Nguyễn Thanh Hùng (2007), Phương pháp dạy học Ngữ Văn Trung học
phổ thông: những vấn đề cập nhật, Nxb Đại học Sư phạm.
- Đỗ Ngọc Thống (2006), Tìm hiểu chương trình và sách giáo khoa Ngữ
vănTHPT, Nxb Giáo dục.
- Nhiều tác giả (2007), Dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông theo chương
trình và sách giáo khoa mới, Nxb Nghệ An.
- Đỗ Ngọc Thống, Đổi mới việc dạy và học môn Ngữ văn ở THCS, Nxb Giáo
dục.
SGK THCS bắt đầu viết năm 1985 và mãi đến năm 1995 mới chỉnh lí lại.
Như vậy trong vòng hàng chục năm SGK môn Văn chỉ in tái bản chứ không phải
viết lại hoặc bổ sung, chỉnh lí. Nghĩa là hầu như không có gì thay đổi trừ hai bài ở
chương trình Văn 12 [67,tr.7].
Mãi đến năm 2000 chương trình Ngữ văn THCS mới thực sự có những thay
đổi lớn. Nhưng sự thay đổi này là hoàn toàn cần thiết. Trong tờ trình Chính phủ tại
kì họp thứ 8, Quốc hội khóa X, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã nêu ra ba lí do cơ bản
của sự cần thiết phải soạn thảo chương trình và SGK mới của giáo dục phổ thông:
+ Thứ nhất, giai đoạn phát triển mới của đất nước đòi hỏi đổi mới chương
trình giáo dục phổ thông để chuẩn bị cho xã hội một lớp người mới, có những năng


12


lực, phẩm chất phù hợp với yêu cầu của đất nước trong thời kì mới. [67, tr.7].
+ Thứ hai, xu thế phát triển chương trình và đổi mới quan niệm về SGK
phổ thông của các nước trong khu vực và trên thế giới buộc Việt Nam phải đổi
mới. Xu thế giáo dục ấy đã được UNESCO đề xướng với bốn trụ cột: học để
biết, học để làm, học để cùng chung sống, học để tự khẳng định mình .
+ Thứ ba, chương trình SGK hiện hành đã hoàn thành nhiêm vụ của giai
đoạn thống nhất hệ thống giáo dục phổ thông, song đến nay đã bộc lộ rõ những bất
cập trước những yêu cầu mới về mục tiêu, nội dung và phương pháp. [67, tr.8].
Trong các tài liệu bàn về tích hợp trong giảng dạy môn Ngữ văn đầu tiên ở
Việt Nam thì SGK Ngữ văn 6 do Nguyễn Khắc Phi chủ biên đã trình bày những nội
dung cơ bản nhất chương trình, thiết kế nội dung môn học, cấu trúc SGK, định
hướng phương pháp và hình thành tổ chức dạy học.
Trong cái nhìn đối sánh với chương trình SGK trước đây, Đỗ Ngọc Thống
trong Tìm hiểu chương trình và SGK Ngữ văn trung học phổ thông đã trình bày vấn
đề dạy đọc - hiểu văn bản trong nhà trường phổ thông. Và theo ông, muốn dạy đọc
- hiểu văn ngày càng tốt hơn thì GV “không chỉ dựa vào các kiến thức lịch sử và lí
luận văn học mà còn phải trang bị cho HS các kiến thức Việt ngữ với tất cả các đơn
vị và cấp độ ngôn ngữ như: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, đoạn văn, văn bản….Chính
những đơn vị ngôn ngữ này tạo nên thế giới hình tượng của tác phẩm văn học”.
[67, tr.136]. Cũng trong công trình nghiên cứu này, tác giả còn đặt ra vấn đề là cần
phải tích hợp giữa Tiếng Việt, Làm văn và Văn như thế nào.
“Thứ nhất, khi lựa chọn kiểu văn bản để tổ chức nội dung dạy học cho phân
môn Tiếng Việt và lấy loại thể (gồm nhiều thể loại) để xây dựng chương trình cho
phân môn Văn thì đã thể hiện bước đầu nguyên tắc tích hợp”. [67, tr. 140, tr141].
“Thứ hai, nguyên tắc tích hợp cần thể hiện trong quá trình tổ chức dạy học và
biên soạn SGK”. [67, tr. 141].
Theo tinh thần này, GV khi dạy một văn bản văn học cần hướng dẫn HS khai



13

thác tối đa các yếu tố ngôn ngữ, thấy được ý nghĩa vai trò của chúng trong việc
biểu hiện nội dung của văn bản. Còn trong giờ Tiếng Việt, khi cung cấp tri thức về
một đơn vị ngôn ngữ nào đó thì GV cần hướng HS đến một tác phẩm đã học, đặt
yếu tố Tiếng Việt đó vào ngữ cảnh. Và đối với phân môn Làm văn thì văn bản đã
học được xem là một văn bản “mẫu” cho HS học tập và rèn luyện về kiểu văn bản
ấy.
“Dựa vào chương trình để tổ chức các cụm bài học và bài học theo thể loại.
Mỗi bài thường cố gắng khai thác tối đa cả ba nội dung: Văn, Tiếng Việt, Làm văn.
Ba nội dung này liên quan đến nhau, làm sáng tỏ cho nhau”. [67, tr.143].
Trong công trình Phương pháp dạy học Ngữ văn Trung học phổ thông,
những vấn đề cần cập nhật, Nxb Đại học Sư phạm của tác giả Nguyễn Thanh Hùng
(chủ biên) - Lê Thị Diệu Hoa, các tác giả đã khẳng định: vấn đề tích hợp có nội
dung khá rộng, xuất phát từ các ngành khoa học khác nhau có nhiều cách hiểu về
nó. Các môn khoa học được dạy trong nhà trường đều gắn với quá trình sư phạm
của nền giáo dục hiện đại. “Vì vậy dạy Ngữ văn theo hướng tích hợp là đúng đắn”.
[29, tr.104].
“Tích hợp chỉ thực hiện được với hai điều kiện trong một đối tượng: Một
là đối tượng ấy có những mối liên hệ trực tiếp, nội tại. Hai là giữa các thành
phần đối tượng phải có tính chất trung gian. Môn học Ngữ văn thể hiện rất rõ
tính liên hệ trực tiếp Văn với Tiếng Việt và với Làm văn ”. [29, tr.104].
Xét về mặt phương pháp, tư tưởng tích hợp bao gồm: việc giảng dạy và
hướng dẫn sử dụng một cách tường minh các cách thức học đồng thời với cách thức
dạy. Cách thức học được dạy không nên xem là nội dung bổ sung mà là một thành
tố tích hợp của chương trình, nội dung kiến thức và phương pháp học tập.
Trong Kỷ yếu hội thảo khoa học: Dạy học Ngữ văn ở trường Phổ thông theo
chương trình và SGK mới, (2007), Nxb Nghệ An, Phan Mậu Cảnh đã đưa ra nhận
định trong bài viết Dạy học Ngữ văn theo hướng tích hợp và tích cực trong trường
THPT phân ban: “Tích hợp trở thành một nguyên lí, nhưng cũng cần phải nhấn



14

mạnh đến nguyên tắc: tích hợp phải thích hợp. Thích hợp ở đây là phải chú trọng
đến cơ sở và liều lượng trong nội dung tích hợp, đồng thời sử dụng các phương
pháp triển khai hợp lí”. [17, tr.11]. Ngoài ra, tác giả còn nhấn mạnh cần coi trọng
mức độ liều lượng của sự tích hợp, việc dẫn dắt cần phải tuân theo lô - gic tự
nhiên, gắn bó với nhau, liên quan mật thiết với nhau tránh sự khiên cưỡng gò ép để
cho “tích hợp”.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nguyên tắc tích hợp và việc vận dụng nguyên tắc đó vào dạy học môn Ngữ
văn lớp 8 THCS
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu các vấn đề lý luận về dạy học tích hợp; Các ngữ liệu, kiến thức
và kỹ năng tích hợp Văn - Tiếng Việt - Làm văn trong chương trình Ngữ văn 8.
Các kết quả nghiên cứu được thực nghiệm ở chương trình Ngữ văn 8 tại một
số trường THCS trên địa bàn quận 12, thành phố Hồ Chí Minh.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn, làm rõ hơn quan điểm
tích hợp trong dạy học ngữ văn, cụ thể vận dụng trong việc dạy học Ngữ văn 8, đề
xuất các nội dung cụ thể, các giải pháp nâng cao chất lượng dạy học Ngữ văn 8
theo quan điểm tích hợp.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn của dạy học tích hợp Văn - Tiếng
Việt - Làm văn trong sách Ngữ văn 8.
- Đề xuất hướng khai thác nội dung tích hợp và vận dụng phương pháp tích
hợp vào dạy học Ngữ văn 8.



15

- Thiết kế một số bài giảng dạy thể nghiệm theo nguyên tắc tích hợp.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lí thuyết: Chúng tôi nghiên cứu lí thuyết về thể
loại, về đọc – hiểu văn bản tác phẩm (chủ yếu là các các tác giả, tác phẩm có trong
chương trình Ngữ văn 8).
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn : bao gồm quan sát, điều tra, thực
nghiệm....
+ Quan sát, điều tra: Chúng tôi tiến hành quan sát, điều tra trên đối tượng cụ
thể đó chính là các lớp: 8A1và 8A7 ở trường THCS Nguyễn An Ninh, 8A1và 8A2
ở trường THCS Phan Bội Châu, 8A3 và 8A6 ở trường THCS Trần Quang Khải, đây
chính là các lớp được dùng để tiến hành thể nghiệm, dùng để kiểm tra, đánh giá kết
quả thực nghiệm.
+ Thực nghiệm Sư phạm: Chúng tôi tiến hành dạy thể nghiệm, theo dõi việc
dạy – học của GV và HS. Sau đó, kiểm tra mức độ khả thi và tính hiệu quả của việc
dạy học theo hướng tích hợp bằng bài kiểm tra tổng hợp các kiến thức Văn, Tiếng
Việt, Làm văn.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Sau khi tiến hành điều tra ở các lớp ĐC
và TN, chúng tôi tiến hành phân tích, tổng hợp các kết quả thu được.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của
Luận văn được triển khai trong ba chương:
Chương 1: Cơ sở khoa học của vấn đề dạy học tích hợp trong môn Ngữ văn ở
trung học cơ sở.
Chương 2: Một số vấn đề về nội dung, phương pháp tích hợp Văn -Tiếng
Việt - Làm văn trong chương trình Ngữ văn 8.
Chương 3: Thiết kế bài giảng và thực nghiệm sư phạm.



16

Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ DẠY HỌC TÍCH HỢP
TRONG MÔN NGỮ VĂN Ở TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Môn Ngữ văn
Từ năm 2001 - 2002 Bộ Giáo dục và Đào tạo nước ta đã xây dựng chương
trình bộ môn Văn (Văn học - Tiếng Việt - Tập làm văn) ở cấp THCS theo quan
điểm tích hợp. Vì thế mà ba phân môn này được thống nhất thành một môn học có
tên gọi là Ngữ văn.
Môn Ngữ văn là một môn học quan trọng trong chương trình giáo dục
phổ thông, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục, hình thành nhân cách,
cung cấp tri thức, rèn luyện kĩ năng cho người học.
Dạy học môn Ngữ văn hiện nay đang điều chỉnh lại quan niệm cũ, hình thành
quan niệm mới: giúp HS cách thức tiếp nhận và tạo lập các văn bản; coi trọng
không chỉ văn chương hình tượng mà còn các loại văn bản khác đa dạng và gần gũi
hơn với cuộc sống đời thường.
1.1.2. Trung học cơ sở
Trung học cơ sở là một bậc học trong hệ thống giáo dục ở Việt Nam hiện
nay, trên Tiểu học và dưới Trung học phổ thông. Trung học cơ sở kéo dài 4 năm
(từ lớp 6 đến lớp 9). Thông thường, độ tuổi học sinh ở trường Trung học cơ sở là từ
11 đến 15. Trước đây, để tốt nghiệp Trung học cơ sở, học sinh phải vượt qua một
kì thi tốt nghiệp vào cuối lớp 9 nhưng kể từ năm 2006 kì thi đã chính thức bị bãi
bỏ.


17


Trường Trung học cơ sở được bố trí tại từng xã, phường, thị trấn. Tuy nhiên,
trong thực tế vẫn có một số xã không có trường Trung học cơ sở. Đó thường là các
xã ở vùng sâu, vùng xa hoặc hải đảo. Theo qui định trong Luật ngân sách nhà nước,
đầu tư xây dựng trường THCS cũng như trường Tiểu học thuộc trách nhiệm của
chính quyền cấp quận, huyện.
1.1.3. Tích hợp và nguyên tắc tích hợp trong dạy Ngữ văn
- Tích hợp (integration) có nghĩa là sự hợp nhất, sự hoà nhập, sự kết hợp.
Nội hàm khoa học khái niệm tích hợp có thể hiểu một cách khái quát là sự hợp nhất
hay là sự nhất thể hoá đưa tới một đối tượng mới như là một thể thống nhất trên
những nét bản chất nhất của các thành phần đối tượng, chứ không phải là một phép
cộng giản đơn những thuộc tính của các thành phần ấy. Hiểu như vậy, tích hợp có
hai tính chất cơ bản, liên hệ mật thiết với nhau, quy định lẫn nhau, là tính liên kết
và tính toàn vẹn. Liên kết phải tạo thành một thực thể toàn vẹn, không còn sự phân
chia giữa các thành phần kết hợp. Tính toàn vẹn dựa trên sự thống nhất nội tại các
thành phần liên kết, chứ không phải sự sắp đặt các thành phần bên cạnh nhau.
Không thể gọi là tích hợp nếu các tri thức, kĩ năng chỉ được thụ đắc, tác động một
cách riêng rẽ, không có sự liên kết, phối hợp với nhau trong lĩnh hội nội dung hay
giải quyết một vấn đề, tình huống.
Trong lí luận dạy học, tích hợp được hiểu là sự kết hợp một cách hữu cơ, có
hệ thống, ở những mức độ khác nhau, các kiến thức, kĩ năng thuộc các môn học
khác nhau hoặc các hợp phần của bộ môn thành một nội dung thống nhất, dựa trên
cơ sở các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được đề cập đến trong các môn học
hoặc các hợp phần của bộ môn đó. Trong Chương trình THPT, môn Ngữ văn, năm
2002 của Bộ GD&ĐT, khái niệm tích hợp cũng được hiểu là “sự phối hợp các tri
thức gần gũi, có quan hệ mật thiết với nhau trong thực tiễn, để chúng hỗ trợ và tác
động vào nhau, phối hợp với nhau nhằm tạo nên kết quả tổng hợp nhanh chóng và
vững chắc”. [tr.27].
Trong Chương trình THPT, môn Ngữ văn, năm 2002 do Bộ GD&ĐT dự thảo



18

đã ghi rõ: “Lấy quan điểm tích hợp làm nguyên tắc chỉ đạo để tổ chức nội dung
chương trình, biên soạn SGK và lựa chọn các phương pháp giảng dạy”. [tr. 27]
“Nguyên tắc tích hợp phải được quán triệt trong toàn bộ môn học, từ Đọc văn,
Tiếng Việt đến Làm văn; quán triệt trong mọi khâu của quá trình dạy học; quán
triệt trong mọi yếu tố của hoạt động học tập; tích hợp trong chương trình; tích hợp
trong SGK; tích hợp trong phương pháp dạy học của GV và tích hợp trong hoạt
động học tập của HS; tích hợp trong các sách đọc thêm, tham khảo”. [tr.40].
Hiểu một cách chung nhất, tích hợp là tạo mối quan hệ liên thông giữa các
phân môn bằng cách lựa chọn các đơn vị tri thức, có thể phối hợp, tương tác lẫn
nhau một cách có hiệu quả. Tích hợp thực hiện theo hai dạng: đó là tích hợp theo
chiều ngang và tích hợp theo chiều dọc.
Khi đã quán triệt quan điểm biên soạn của SGK, GV phải có ý thức về việc
vận dụng nguyên tắc tích hợp trong dạy học đối với môn Ngữ văn. Theo nguyên tắc
này, văn bản và kiểu văn bản là những vấn đề hết sức quan trọng. Một khi SGK đã
lấy thể loại làm trục tích hợp chính thì người dạy cần phải xem mọi yếu tố làm nên
đặc trưng thể loại là những đơn vị tri thức cơ bản.
Đối với việc dạy đọc - hiểu, GV cần nắm vững những mục đích, yêu cầu gắn
với thể loại, nội dung cụ thể của văn bản. Có những văn bản thiên về các vấn đề
triết học, lịch sử, chính trị, văn hóa, đạo đức, xã hội…Lại có rất nhiều văn bản
thuộc văn chương, nghệ thuật. Việc hướng dẫn HS lĩnh hội các nội dung trọng yếu
của từng văn bản theo đúng kiểu loại của nó chính là đảm bảo tính độc lập tương
đối của phân môn, của bài học. Tuy nhiên phải thấy rằng mọi nội dung của một văn
bản phải được chuyển tải bằng phương tiện ngôn ngữ. Vì thế, trong giờ đọc - hiểu
văn bản, việc hướng dẫn để HS khai thác tối đa các yếu tố, các cấp độ ngôn ngữ và
giá trị bểu đạt của chúng trong văn bản là một đòi hỏi tất yếu.
Trong việc dạy học Tiếng Việt, trước hết GV phải hướng HS vào những nội
dung khoa học đặc thù của phân môn, gắn với các phạm trù, những vấn đề về ngôn

ngữ, ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, tu từ và phong cách. Ở phần Tiếng Việt trong


19

SGK Ngữ văn hiện nay, những bài thuộc lí thuyết chung về ngôn ngữ và Tiếng Việt
và các bài về phong cách học là hoàn toàn mới (chưa có ở chương trình THCS).
Bên cạnh đó, những bài thuộc phần từ ngữ ngữ pháp hầu như đều đặt yêu cầu rèn
luyện lên hàng đầu do ở bậcTHCS các em đã học về lí thuyết của các nội dung này
khá kĩ.
Tìm hiểu cách biên soạn đối với các bài Tiếng Việt trong SGK Ngữ văn
THPT chúng ta thấy đại bộ phận bài học được tổ chức theo hướng qui nạp. Ngữ
liệu được sử dụng trong bài Tiếng Việt phải được chọn chủ yếu từ các văn bản đọc
- hiểu. Chẳng hạn bài Luyện tập về nghĩa của từ [Ngữ văn 10, tập 1, nâng cao], cả
bốn nội dung: từ đa nghĩa, từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa, từ đồng âm đều có các bài
tập yêu cầu xử lí ngữ liệu lấy từ truyện Tấm Cám, Khóc Dương Khuê của Nguyễn
Khuyến, các bài ca dao…
Ở phân môn Làm văn, chương trình Ngữ văn mới đưa ra các kiểu bài : Tóm
tắt văn bản tự sự, Văn tự sự và miêu tả, Viết văn bản thuyết minh, Tóm tắt văn bản
thuyết minh, Nghị luận xã hội, Nghị luận văn học, Viết văn bản điều hành, Phỏng
vấn và trả lời phỏng vấn, Thảo luận, tranh luận, Phát biểu theo chủ đề và phát
biểu tự do, Xây dựng đề cương diễn thuyết. Các kiểu bài Làm văn được đặt ở
những vị trí có sự liên hệ khá rõ với kiểu văn bản đọc - hiểu. Ví dụ: Kiểu bài nghị
luận ở bên cạnh một số văn bản nghị luận: Về luân lí xã hội nước ta (Phan Châu
Trinh). Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác, Ăng-ghen…
Sự liên thông giữa phần Làm văn và Tiếng Việt cũng thể hiện rất rõ. Kiến
thức về các cấp độ Tiếng Việt của HS (cách phát âm vốn từ, tạo câu, dựng đoạn…)
vững vàng thì sản phẩm ngôn ngữ do các em tạo ra mới đạt yêu cầu.
1.2. Cơ sở lý luận của vấn đề dạy học tích hợp trong môn Ngữ văn ở bậc
THCS

1.2.1. Mối quan hệ giữa các khoa học liên ngành
Môn Văn là môn học thuộc nhóm khoa học xã hội do đó nó có tầm quan
trọng đặc biệt trong việc giáo dục quan điểm tư tưởng và tình cảm cho HS, góp


20

phần hình thành nhân cách, phẩm chất đạo đức cho HS.
Môn Ngữ văn có mối quan hệ chặt chẽ và tác động đến các môn học khác và
ngược lại các môn học khác cũng được dùng để củng cố thêm, góp phần giúp cho
HS có thể học tốt hơn môn Ngữ văn. Hơn nữa, môn Văn còn có mối quan hệ khá
mật thiết với các môn học thuộc nhóm nghệ thuật như: Âm nhạc, Mỹ thuật (thi
trung hữu họa; thi trung hữu nhạc), kịch…Các môn Văn, Lịch sử, Địa lí, Giáo dục
công dân được xếp vào nhóm khoa học xã hội nhân văn, các môn này thuộc nhóm
khoa học liên ngành và được trình bày riêng, biên soạn riêng trong bộ SGK. Nhưng
giữa các môn học này bao giờ cũng có mối quan hệ khăng khít hỗ trợ cho nhau.
Chẳng hạn khi ta dạy các tác phẩm văn học ta có thể ứng dụng các kiến thức môn
Lịch sử, Địa lí để phục vụ cho việc dạy Văn. Cụ thể như khi dạy các văn bản Bình
Ngô đại cáo, Hịch tướng sĩ, Nhật kí trong tù, Việt Bắc... thì chúng ta phải biết sử
dụng kiến thức ở môn Lịch sử, Địa lí để phục vụ cho việc giảng dạy đồng thời qua
đó góp phần củng cố kiến thức hai môn học này cho HS, giúp cho các em khắc sâu
thêm kiến thức đã học. Cũng thông qua việc dạy tác phẩm văn học, người thầy
đồng thời kết hợp giáo dục bài học đạo đức, đạo lí làm người cho HS (liên quan
đến bộ môn Giáo dục công dân). Ngược lại, các bộ môn ấy cũng phải vận dụng
những kiến thức có trong bộ môn văn để có thể dạy và học tốt phân môn của mình.
1.2.2. Mối quan hệ giữa văn học và ngôn ngữ
Có nhiều cách diễn đạt về mối quan hệ giữa Văn học và ngôn ngữ:
- Văn học là nghệ thuật của ngôn từ.
- Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của Văn học. (Macxim Goorki)
- Ngôn ngữ là phương tiện của Văn học.

- Ngôn ngữ là chất liệu của Văn học.
Tác phẩm Văn học là một chỉnh thể bao gồm nhiều yếu tố tạo thành: chủ đề,
tư tưởng, kết cấu, cốt truyện, ngôn ngữ, hình tượng nhân vật, hệ thống nhân vật…
Trong đó, ngôn ngữ mang tính vật chất, được sử dụng như là chất liệu của Văn học.
Có thể xem mối quan hệ giữa Văn học và ngôn ngữ là mối quan hệ gắn bó,
khắng khít nhau và giả định lẫn nhau: ngôn ngữ là cần thiết để có thể hiểu được


21

văn học, đưa Văn học đến với mọi người và Văn học cũng rất cần thiết để cho ngôn
ngữ được xác lập. Nếu không có phương tiện ngôn ngữ thì cũng không thể có một
nội dung Văn học hấp dẫn. Cụ thể: với tác phẩm Truyện Kiều, Nguyễn Du đã làm
say mê biết bao thế hệ độc giả bởi tài năng sử dụng ngôn từ của ông. Mỗi dòng thơ
của ông như một dòng suối vừa mượt mà vừa trong làng cũng vừa giàu âm thanh,
hình ảnh, màu sắc… Khi đọc Truyện Kiều ta có thể cảm nhận được sự dụng tâm
của tác giả trong cách dùng từ ngữ từ ngôn ngữ bác học đến ngôn ngữ bình dân…
Mối quan hệ giữa Văn học (nội dung) và ngôn ngữ (phương tiện) không phải
là sự kết hợp bề ngoài mà là sự thâm nhập, xuyên thấm vào nhau là phương thức
tồn tại của Văn học. Ngôn ngữ là tổng thể tất cả các đơn vị, phương tiện mà Văn
học sử dụng như: ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng, các phương thức tu từ… Tác giả Hà
Minh Đức trong Lí luận văn học đã khẳng định: “Ngôn ngữ, đó chính là chất liệu,
là phương tiện biểu hiện mang tính đặc trưng của Văn học. Không có ngôn ngữ thì
không thể có tác phẩm Văn học, bởi chính ngôn ngữ chứ không phải là cái gì khác
đã cụ thể hóa và vật chất hóa sự biểu hiện của chủ đề và tư tưởng, tính cách và cốt
truyện… Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên mà nhà văn sử dụng trong quá trình chuẩn
bị và sáng tạo tác phẩm, nó cũng là yếu tố xuất hiện đầu tiên trong sự tiếp xúc của
người đọc với tác phẩm, có lẽ vì thế M.Gorki đã viết: “Yếu tố đầu tiên của Văn
học là ngôn ngữ, công cụ chủ yếu của nó và cùng với các sự kiện, các hiện tượng
của cuộc sống là chất liệu của Văn học”. [11, tr.148].

Từ những kinh nghiệm bao nhiêu năm qua trong quá trình dạy Văn, chúng ta
thấy rõ mối quan hệ giữa Văn học và ngôn ngữ là mối quan hệ hữu cơ, không thể
tách rời, “tuy hai mà một, tuy một mà hai”. Tiếng Việt là công cụ còn Văn là mục
đích, là nội dung, dùng tiếng để tạo thành văn.
Lấy ngôn ngữ làm chất liệu, phương tiện sáng tác, Văn học đã đạt được tính
vạn năng trong việc phản ánh đời sống, không có phương tiện ngôn ngữ thì không
thể có một nội dung Văn học đặc sắc. Vì vậy, việc lấy ngôn ngữ làm phương tiện
giao tiếp (trao đổi, tiếp xúc) của mọi người làm chất liệu cũng mang lại cho Văn
học một tính chất phổ thông trên các mặt sáng tác, truyền bá và tiếp nhận. So với


22

các ngành nghệ thuật khác như: kiến trúc, hội họa, sân khấu…thì Văn học là một
loại hình nghệ thuật chịu sự tác động, ảnh hưởng từ ngôn ngữ hơn cả.

1.2.3. Mối quan hệ giữa ba phân môn Văn - Tiếng Việt - Tập làm văn
Ở chương trình SGK cũ, ta có các phân môn: Văn học, Tiếng Việt, Tập
làm văn. Mỗi phân môn được trình bày bằng một quyển sách riêng. Tuy nhiên
các phân môn vừa có phần chung vừa có phần riêng của chúng .
Từ lâu, Tiếng Việt và Văn là hai bộ phận nhưng thực tế ở THCS đã hình
thành và đang được sử dụng gọi là ba phân môn. Tập làm văn thường được ghép
vào Tiếng Việt “song từ lâu đã là vùng tranh chấp” giữa Văn và Tiếng Việt [78,
tr.821].
Chất liệu của Văn là ngôn ngữ do đó qua Văn có thể rèn luyện các kĩ năng
ngôn ngữ như: từ vựng, câu, tu từ, cách tạo lập văn bản. Nếu không am hiểu ngôn
ngữ thì việc học Văn sẽ phiến diện, dễ sa vào phân tích tư tưởng một cách chung
chung.
Phân môn Tập làm văn được dùng để rèn luyện tư duy, lập luận, cách tạo lập
văn bản giúp nâng cao kiến thức Văn, ngôn ngữ.

1.2.4. Quan điểm tích hợp trong biên soạn chương trình, sách giáo khoa
Ngữ văn hiện nay
Bộ SGK Ngữ văn (thí điểm) ở bậc THCS bắt đầu được triển khai theo
chương trình (thí điểm), ban hành kèm theo quyết định số 2434/QĐ ngày 8/7/1999
của Bộ Giáo dục và đào tạo tất cả chương trình (thí điểm), lần này đều được cải
tiến mạnh theo hướng tích hợp, giảm tải, tăng thực hành gắn với đời sống.
Ở môn Ngữ văn, trước đây cấu trúc gồm có ba phân môn: Văn, Tiếng Việt,
Tập làm văn, do một GV đảm nhiệm dạy cả ba phân môn trong một lớp học. Do đó
chương trình và SGK Ngữ văn tích hợp mới ra đời. Và đây là một sự quyết định
đúng đắn và sáng suốt của Bộ Giáo dục và đào tạo. Qua nhiều lần cải cách, chỉnh
lí, đến năm 2000, chương trình và SGK môn Ngữ văn mới thực sự thay đổi một


23

cách toàn diện.
Tiếp xúc với chương trình SGK Ngữ Văn hiện nay, ta dễ dàng nhận ra rằng
thông qua việc dạy đọc - hiểu tác phẩm văn học, chương trình đã hình thành cho
HS kĩ năng vận dụng tổng hợp các tri thức không chỉ của môn Văn mà còn của các
bộ môn khác như Tiếng Việt, Làm văn, Lịch sử, Văn hóa, Địa lí và các môn nghệ
thuật khác… Nguyên tắc tích hợp được thể hiện rõ trong việc sắp xếp các đơn vị
bài học. Chúng thường được tổ chức để bổ sung và hỗ trợ nhau. Phần đọc - hiểu
văn bản được xếp đầu tiên. Sau đó là phần tiếng Việt và Làm văn. Nhưng các phần
Tiếng Việt và Làm văn được biên soạn sao cho phải có sự gắn kết, liên quan với
kiến thức phần đọc - hiểu văn bản. Mỗi bài thường được cố gắng khai thác tối đa cả
ba nội dung Văn - Tiếng Việt - Làm văn. Ba nội dung này liên quan đến nhau, làm
sáng tỏ nhau. Cụ thể, trong chương trình Ngữ văn 8, tập 1, bài 2, sau bài đọc - hiểu
văn bản: “Trong lòng mẹ” của Nguyên Hồng, là phần Tiếng Việt về “Trường từ
vựng” và phần Làm văn về văn tự sự (cả phần Làm văn ở học kì I lớp 8 chủ yếu là
kiểu văn tự sự có kết hợp miêu tả và biểu cảm). Chính các ngữ liệu có trong phần

đọc - hiểu văn bản là ví dụ cụ thể minh họa cho phần Tiếng Việt và đặc trưng của
văn tự sự có kết hợp với miêu tả và biểu cảm ở phần Làm văn.
Quan điểm biên soạn chương trình Ngữ văn hiện nay theo hướng tích hợp đi
liền với nguyên tắc tích cực nhằm mục đích khơi gợi tính chủ thể sáng tạo vốn có
tiềm ẩn ở HS. Chủ thể hoạt động dạy học gồm giáo viên và HS nhưng trong đó GV
chỉ là người tổ chức quá trình tìm hiểu kiến thức và khơi gợi những năng lực còn
tiềm ẩn của HS. Và HS mới chính là chủ thể quan trọng trong hoạt động này. Chính
vì thế trong quá trình học đòi hỏi người giáo viên phải biết khơi gợi, giúp HS định
hướng trong quá trình cảm thụ và tiếp nhận kiến thức, phải tôn trọng, khuyến khích
HS nên có những suy nghĩ, những cảm nhận riêng, đúng đắn mà không phải “rập
khuôn” theo người thầy. Bên cạnh đó, HS phải tích cực trong giờ học, phải biết chủ
động tìm hiểu, tư duy, đào sâu kiến thức cho bản thân, không nên chỉ biết nghe,
chép, chấp nhận cảm thụ của người khác (người thầy) và mặc nhiên chấp nhận là
của mình.


24

Tích hợp là tạo mối quan hệ liên thông giữa các phân môn bằng cách lựa
chọn các đơn vị tri thức, có thể phối hợp, tương tác lẫn nhau một cách có hiệu quả.
Tích hợp thực hiện theo hai dạng: đó là tích hợp theo chiều ngang và tích hợp theo
chiều dọc.
+ Tích hợp theo chiều ngang: là sự tích hợp thể hiện mối quan hệ, sự liên
thông giữa các tri thức ở bộ môn này với tri thức ở bộ môn khác. Theo quan điểm
này ta thấy, với chương trình cũ, môn học có tên là: Văn học - Tiếng Việt - Làm
văn tương ứng với tên gọi của ba bộ sách Văn học - Tiếng Việt - Làm văn được
biên sọan một cách độc lập, tách rời. Trong khi đó, hiện nay, theo chương trình
mới, môn học có tên là Ngữ văn và SGK cũng chỉ có một cuốn chung cho ba phân
môn. Có thể thấy rằng sự thay đổi này đảm bảo sự đồng thuận, nhất quán với
chương trình Ngữ văn THCS. Mặt khác, sự thay đổi tên gọi bộ môn cho thấy hiện

tượng “ba trong một” trong biên soạn SGK. Đây là sự phối hợp nhuần nhuyễn theo
nguyên tắc tích hợp chứ không phải là sự lắp ghép cứng nhắc, máy móc ba bộ sách
lại với nhau.
+ Tích hợp theo chiều dọc là sự tích hợp ở một đơn vị kiến thức và kĩ năng
mới với những kiến thức đã được học trước đó theo nguyên tắc đồng tâm. Kiến
thức và kĩ năng của lớp trên sẽ bao hàm kiến thức và kĩ năng của lớp dưới nhưng
nó được nâng cao hơn và đào sâu hơn. Đây là giải pháp củng cố và nâng cao dần
kiến thức và kĩ năng cho HS giúp các em tự hoàn thiện mình về kĩ năng sống và
nhân cách.
Để phát huy tính tích cực và chủ động của HS trong giờ học Ngữ văn,
chương trình Ngữ Văn được biên soạn khác hẳn so với chương trình cũ - chương
trình Văn học chỉnh lí hợp nhất. Đó là hệ thống câu hỏi ở phần hướng dẫn mang
tính gợi mở cao buộc HS không chỉ tái hiện kiến thức mà còn phải tự tìm ra con
đường để giải quyết vấn đề của bài học. Bên cạnh đó, sau phần tìm hiểu lí thuyết
luôn có phần luyện tập kèm theo để HS có thể củng cố, khắc sâu hơn kiến thức vừa
học.


25

Trong chương trình Ngữ văn hiện nay (cụ thể là chương trình Ngữ Văn 8),
tác giả SGK còn bổ sung thêm phần văn bản nhật dụng (phần đọc – hiểu văn bản),
nghị luận xã hội và văn thuyết minh (phần Làm văn). Đây là những kiểu văn bản
rất quen thuộc trong đời sống.
Chính sự đổi mới này đã làm cho chương trình Ngữ văn hiện nay mang tính
thiết thực cao. Nó trang bị cho HS những kĩ năng, những kiến thức thiết yếu có thể
ứng dụng vào cuộc sống.
1.3. Cơ sở thực tiễn của vấn đề dạy học tích hợp trong môn Ngữ văn ở
bậc THCS
1.3.1. Về vấn đề dạy văn ở trường THCS của giáo viên hiện nay

Hiện nay, chương trình và SGK ở bậc THCS nói chung và sách Ngữ văn 8 nói
riêng đã rõ ràng về mục đích, nội dung và phương pháp dạy học theo hướng tích
hợp. Về thời lượng cho từng bài cần phải bàn luận thêm và cân đối lại cho phù hợp
với nội dung của từng bài và phù hợp với hoàn cảnh hiện tại của HS .
Về đội ngũ GV giảng dạy vẫn còn tồn tại một thực trạng không đồng đều
nhau về số lượng và chất lượng. Trong một nhà trường THCS nhưng lại tồn tại
song song GV ở nhiều hệ đào tạo khác nhau. Đây cũng là một vấn đề ảnh hưởng
lớn đến chất lượng giảng dạy và học tập của HS cũng như chất lượng của bộ môn.
Mặt khác, do nhiều lí do khác nhau nên biên chế giáo viên ở thành thị và
vùng ven ngoại thành còn chênh lệch nhau về số lượng lẫn chất lượng. Ở thành thị,
số lượng GV có chất lượng cao luôn nhiều hơn GV ở ngoại thành, đồng thời cũng
hơn hẳn về số lượng. Vì vậy đôi khi đã tạo ra một sự chênh lệch. Nhưng tất cả đều
phải theo qui chế chuyên môn, mỗi GV phải thực hiện khoảng 19 tiết/ tuần.
Đội ngũ GV không đồng đều nhau về trình độ, chuyên môn nghiệp vụ mặc dù
đã được bồi dưỡng tập huấn. Một số GV có chuyên môn tốt, có tâm huyết với nghề
luôn đi sâu nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm, không ngại thay đổi phương pháp dạy
học mới, phù hợp và thực hiện tốt cách dạy học tích hợp, mang lại kết quả khả
quan. Bên cạnh đó, vẫn còn một số GV ít đi sâu nghiên cứu, ít đầu tư công sức vào
bài giảng, phương pháp dạy học vẫn theo lối cũ, truyền thụ kiến thức theo kiểu


×