Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

Hoàn thiện quy chế dân chủ cơ sở ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (768.53 KB, 57 trang )

Hoàn thiện quy chế dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ

KHOA LUẬT
--------------

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
KHÓA 32 (2006-2010)
Đề Tài:

HOÀN THIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY

Giáo viên hướng dẫn:
TRẦN THỤY QUỐC THÁI
Bộ Môn Luật Hành Chính

Sinh viên thực hiện:
TRƯƠNG THANH TÌNH
MSSV:5062364
Lớp: Tư Pháp 2- K32

MỞ ĐẦU
1. Tính
của đề tài

Cần Thơ, tháng 4 năm 2010

GVHD: Trần Thụy Quốc Thái


1

cấp thiết

SVTH: Trương Thanh Tình


Hoàn thiện quy chế dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay

Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng
hoà ra đời đánh dấu một bước chuyển biến vô cùng trọng đại của dân tộc ta. Nó đập
tan ách thống trị thực dân tàn bạo, xoá bỏ chế độ phong kiến lỗi thời đưa dân tộc ta
bước vào kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nhân dân được
làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng
sản Việt Nam luôn coi dân chủ là một nội dung quan trọng. Phát huy quyền làm chủ
của nhân dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực để nhân dân ta vượt qua khó khăn,
thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ cách mạng, vừa là bản chất và đặc trưng của chế
độ mới. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986) đã khẳng định:
"Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, đó nền nếp hàng ngày của xã hội mới,
thể hiện chế độ nhân dân lao động tự quản lý nhà nước của mình".
Trong quá trình xây dựng đất nước, quyền dân chủ của nhân dân ngày càng
được mở rộng, nhân dân thực hiện quyền làm chủ đất nước trước hết và chủ yếu
thông qua các cơ quan dân cử. Trong những năm 80 - 90 của thế kỷ XX tình hình vi
phạm quyền dân chủ, tệ quan liêu tham nhũng diễn ra trầm trọng dẫn đến tình trạng
khiếu kiện tập thể, sự phản ứng mạnh mẽ của nhân dân, làm mất lòng tin của nhân
dân đối với Đảng và chính quyền.
Ngày 18/02/1998, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 30/CT-TƯ về
xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Cụ thể hoá một bước Chỉ thị này,
ngày 15/5/1998, Chính phủ ra Nghị định số 29/ND-CP về thực hiện dân chủ ở xã.
Đây là những văn bản quan trọng do Đảng và Nhà nước ban hành nhằm tiếp tục

phát huy quyền làm chủ của nhân dân, từng bước đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực,
tham nhũng, chuyên quyền độc đoán, hống hách, xa rời quần chúng, tạo động lực
mạnh mẽ trong nhân dân, góp phần thúc đẩy công cuộc đổi mới xây dựng đất nước
theo định hướng XHCN.
Tuy nhiên trong quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở cấp xã, ngoài những
mặt tích cực đạt được đã bộc lộ những điểm chưa hoàn chỉnh như: Tính dân chủ
hoá, công khai hoá trong việc cung cấp những thông tin có liên quan trực tiếp đến
đời sống hằng ngày của nhân dân ở cơ sở còn hạn chế. Việc thực hiện chế độ lấy ý
kiến nhân dân trước khi ban hành chủ trương chính sách của chính quyền còn mang
tính hình thức, kém hiệu quả, chưa quy định rõ ràng trách nhiệm của chính quyền
trong việc thực hiện Quy chế dân chủ. Còn thiếu các phương thức cụ thể để thực
hiện phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" một nội dung quan
trọng của việc thực hiện quyền dân chủ ở cấp xã.
Trước yêu cầu của giai đoạn phát triển mới của đất nước. Việc triển khai
nghiên cứu đề tài: "Hoàn thiện Quy chế dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay" là
GVHD: Trần Thụy Quốc Thái

2

SVTH: Trương Thanh Tình


Hoàn thiện quy chế dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay

việc làm cần thiết có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn đáp ứng yêu cầu
bức xúc hiện nay là xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của dân, do
dân và vì dân.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quy chế dân chu là một vấn đề lớn đã có nhiều công trình nghiên cứu như:
"Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn"

của Học Viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh do PGS.TS. Dương Xuân Ngọc chủ
biên, Nxb Chính trị quốc gia, năm 2000;
"Thực hiện quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện
nay" của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh do TS. Nguyễn Văn Sáu - GS.
Hồ Văn Thông chủ biên;
"Dân chủ và việc thực hiện QCDC ở cơ sở" do TS. Lương Gia Ban chủ biên,
Nxb Chính trị quốc gia năm 2003;
"Hướng dẫn triển khai quy chế dân chủ cơ sở" của Bộ Nội vụ, Nxb Chính trị
quốc gia, 2001;
"Xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở" của Ban Dân vận Trung
ương.
Đây cũng là thuận lợi để tác giả tham khảo, nhưng cũng là khó khăn khi
nghiên cứu và trình bày luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Mục đích của luận văn là trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về dân
chủ ở cơ sở và đánh giá thực trạng pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở trong
điều kiện hiện nay; luận văn đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật
về thực hiện dân chủ ở cơ sở hiện nay.

3.2. Nhiệm vụ
Từ mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:

GVHD: Trần Thụy Quốc Thái

3

SVTH: Trương Thanh Tình



Hoàn thiện quy chế dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay

- Tìm hiểu, phân tích một số vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài nghiên
cứu: Khái niệm, đặc điểm nền dân chủ, bản chất, vai trò của dân chủ ở cơ sở; khái
niệm, nội dung, vai trò và tiêu chí hoàn thiện Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã.
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về thực hiện dân chủ và thực trạng
thi hành pháp luật thực hiện dân chủ ở cấp xã hiện nay.
- Đối chiếu, liên hệ với những yêu cầu của giai đoạn phát triển mới của đất
nước, trên cơ sở quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta, bước đầu đề xuất
phương hướng và các giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện quy chế về thực hiện dân
chủ ở cấp xã trong điều kiện mới.
4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Pháp luật về thực hiện dân chủ hiện nay có phạm vi điều chỉnh tương đối
rộng bao gồm việc thực hiện dân chủ ở cơ sở, cơ quan hành chính, doanh nghiệp,
trường học… Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn
thiện quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở xã, phường, thị trấn. Trong đó tập trung
phân tích những vấn đề lý luận chung về dân chủ, về pháp luật thực hiện dân chủ ở
cơ sở, về thực trạng thi hành pháp luật thực hiện dân chủ ở cơ sở từ năm 1998 đến
nay (Từ khi Chính phủ ban hành Nghị định 29/NĐ-CP ngày 11/5/1998). Trên cơ sở
đó đề ra giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã
trong điều kiện mới.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng nền dân chủ
XHCN, về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN nói chung và về lý luận xây dựng
pháp luật nói riêng.
- Phương pháp nghiên cứu của luận văn là phương pháp nghiên cứu của chủ
nghĩa duy vật biện chứng với các phương pháp nghiên cứu cụ thể: Lịch sử - cụ thể;
kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khác: Thống kê, so sánh, điều tra xã hội
học.


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần giải quyết một số vấn đề lý luận và thực tiễn hiện nay
đang đặt ra đối với hoạt động thực hiện quyền dân chủ ở cơ sở.

GVHD: Trần Thụy Quốc Thái

4

SVTH: Trương Thanh Tình


Hoàn thiện quy chế dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay

- Luận văn thành công sẽ là tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng
dạy trong các trường pháp lý cũng như nghiện cứu hoàn thiện pháp luật thực hiện
quyền dân chủ ở Việt Nam trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về hoàn thiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
Chương 2: Tình hình triển khai và thực hiên quy chế dân chủ ở cơ sở.
Chương 3: Giải pháp nhằm hoàn thiên quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở.

GVHD: Trần Thụy Quốc Thái

5

SVTH: Trương Thanh Tình



Hoàn thiện quy chế dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOÀN THIỆN QUY CHẾ
DÂN CHỦ Ở XÃ
1.1. Nhận thức chung về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
1.1.1. Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
dân chủ XHCN
1.1.1.1. Dân chủ và quyền dân chủ
Một trong những vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu về lý luận và có ý nghĩa
thực tiễn cấp bách trong việc mở rộng và phát huy quyền dân chủ của công dân đó
chính là việc nghiên cứu một cách có hệ thống, quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
1.1.1.1.1. Dân chủ
*Tiền đề của dân chủ
Dân chủ là khái niệm xuất hiện từ thời cổ đại. Theo tiếng Hy Lạp cổ, dân chủ
là do 2 từ hợp thành Demos (dân chúng) và Cratos (quyền lực hay cai trị). Như vậy,
với nguyên nghĩa của từ, dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân, quyền lực của
nhân dân, dân chủ là sự cai trị của nhân dân. Từ điển Bách khoa Việt Nam định
nghĩa: "Dân chủ, hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội dựa trên việc
thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực, thừa nhận nguyên tắc bình
đẳng và tự do. Dân chủ cũng được vận dụng vào tổ chức và hoạt động của
những tổ chức và thiết chế chính trị nhất định" 1
Dân chủ không chỉ là một hiện tượng lịch sử xã hội, một sản phẩm của sự
vận động chính trị bị chế ước bởi trình độ và trạng thái hiện thực của kinh tế xã hội
mà dân chủ còn là thành tựu của nền văn hoá nhân loại, là thước đo về trình độ giải
phóng con người và xã hội mà loài người đã đạt được trong mỗi thời đại lịch sử.
Mỗi bước tiến của dân chủ và mỗi trình độ phát triển của dân chủ là những nấc
thang khác nhau của tiến bộ xã hội. Phản ánh những kết quả khác nhau theo xu
hướng ngày càng cao hơn và hoàn thiện hơn của tổ chức xã hội, của quản lý Nhà

nước và quản lý xã hội nói chung. Sự phát triển của dân chủ đồng thời là nhân tố
kích thích và cũng là kết quả sự mở rộng và nâng cao tính tích cực chính trị của
quần chúng. Việc quần chúng nhận được nhiều hay ít những khả năng và điều kiện
để tham gia vào các hoạt động của Nhà nước, các công việc quản lý xã hội, các hoạt
động chính trị, điều đó phụ thuộc vào mức độ phát triển thực tế của dân chủ xã hội.
1

Từ điển Bách khoa Việt Nam, 1995, +.I, trang 653.

GVHD: Trần Thụy Quốc Thái

6

SVTH: Trương Thanh Tình


Hoàn thiện quy chế dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay

Của pháp luật dân chủ và tiến bộ xã hội. Với dân chủ, con người chuyển từ thế bị
động, lệ thuộc bởi giai cấp bóc lột, thống trị tới chỗ xác lập vai trò chủ thể, tích cực
trong xã hội mà mình trở thành người chủ. Việc nhân dân lao động giành lấy dân
chủ thông qua đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội để thay thế chế độ xã hội cũ
bằng chế độ xã hội mới tiên tiến hơn, dân chủ hơn có ý nghĩa tích cực về chính trị
và văn hoá.
Để có quan niệm đúng đắn và toàn diện về bản chất của dân chủ XHCN cần
phải khắc phục tính chất phiến diện trước đây thường dẫn tới đồng nhất giản đơn
giữa dân chủ với Nhà nước, với chế độ Nhà nước và từ đó quan niệm rằng sự tiêu
vong của Nhà nước (đến một lúc nào đó trong tiến trình phát triển của lịch sử) cũng
đồng thời là sự tiêu vong của dân chủ. Điều đó đem lại cảm giác rằng, dường như
dân chủ là một vấn đề tạm thời, vấn đề quyền lực của giai cấp thống trị gắn liền với

tổ chức và bộ máy Nhà nước. Cũng do đó, trong quan niệm truyền thống dân chủ
chỉ được xem như một phạm trù lịch sử.
* Nội dung của dân chủ
Dân chủ bao giờ cũng được biểu hiện trong đời sống của nhân dân, là nguyện
vong, là lợi ích cuả nhân dân. Các khái niện “nhân dân ”, “quyền lực”và “dân chủ”
đều gắn liền với nhau, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của hân dân và mang tính
lịch sử. Cùng với sự phát triển của xã hội, của nhà nước và pháp luật, những quan
điểm về nhân dân, quyền lực và dân chủ cũng biến đổi, phát triển theo.
Dân chủ trong đời sống hiện thực là một hiện tượng phức tạp và đa diện,
được biểu hiện khác nhau trong các lĩnh vực của đời sông và thực sự có vô số con
đường phương thức thực hiện. Nó hoàn toàn không chỉ được quy về lĩnh vực sinh
hoạt chính trị của xã hội hay nhà nước, mà còn được phổ biến sang các lĩnh vực
kinh tế, xã hội, văn hóa, khoa học và hệ tư tưởng…
Giá trị của dân chủ còn thể hiện ở chỗ, nó là yếu tố quan trọng làm sáng tỏ ý
chí của quần chúng, là cơ chế hình thành, tích tụ và thực hiện dân chủ một cách
thích hợp. Dân chủ là phương thức tốt nhất để đặt các đại biểu của nhân dân có
phẩm chất chính trị - đạo đức, chuyên môn xứng đáng nhất vào địa vị lãnh đạo Nhà
nước, vào cơ quan lãnh đạo của các tổ chức chính trị - xã hội.
Một nhân tố không kém phần quan trọng cho việc thực hiện dân chủ là nhờ
có nền kinh tế cao mà đạt được sự phát triển tương ứng của các phương tiện truyền
thông đại chúng. Thông tin đại chúng không chỉ phản ánh ý chí, nguyện vọng dân
chủ của nhân dân, mà chính quần chúng nhân dân còn sử dụng các phương tiện
thông tin đại chúng để đấu tranh giành lấy giá trị dân chủ cần thiết cho cuộc sống
GVHD: Trần Thụy Quốc Thái

7

SVTH: Trương Thanh Tình



Hoàn thiện quy chế dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay

của mình. Nhờ các phương tiện này, công dân của nước đó có được sự giám sát
chính trị một cách có hiểu biết.
Có thể nói, quá trình dân chủ hóa luôn đòi hỏi những tiền đề tất yếu của nó.
Với sự tạo lập những tiền đề ấy, khả năng thực hiện dân chủ sẽ diễn ra một cách
thuận lợi và nhanh chóng.

*Phương thức hoạt động dân chủ
Phương thức thực hiện quyền dân chủ là cách thức, phương pháp để đưa các
giá trị dân chủ vào cuộc sống, làm cho nó trở thành hiện thực trực tiếp và phổ biến
trong đời sống cộng đồng và của quản lý xã hội. Vai trò quyết định đối với việc
thực hành dân chủ thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước
thông qua hai hình thức là dân chủ đại diện (dân chủ gián tiếp) và dân chủ trực tiếp.
Thứ nhất: Dân chủ đại diện là hình thức thể hiện ý chí không trực tiếp từ
chủ thể quyền lực mà thông qua đại diện có thẩm quyền do chủ thể bầu ra. Chủ thể
quyền lực (tức nhân dân) vẫn giữ cho mình quyền và chức năng tác động, giám sát,
kiểm tra hoạt động của các cơ quan đại diện. Dân chủ đại diện đã được khẳng định
ngay trong Hiến pháp đầu tiên (Hiến pháp 1946) và tiếp tục khẳng định trong tất cả
các bản Hiến pháp sau này. Điều 6 Hiến pháp 1992 quy định: "Nhân dân sử dụng
quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan
đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra va chịu trách
nhiệm trước nhân dân". Như vậy, hình thức chủ yếu của dân chủ đại diện ở nước ta
là thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Ngoài ra nhân dân còn làm
chủ thông qua các tổ chức chính trị - xã hội, các hội nghề nghiệp của nhân dân được
lập nên theo nguyên tắc tự nguyện.
Tuy nhiên, dân chủ đại diện dù có ý nghĩa quan trọng đến mấy vẫn không thể
khắc phục được những hạn chế của chế độ Nhà nước với tính cách là chủ thể quyền
lực được uỷ quyền nhưng lại trực tiếp thực hiện quyền năng của người uỷ quyền là
nhân dân. Do vậy, trong một phạm vi, mức độ đáng kể nhân dân vẫn bị tách khỏi

quyền lực Nhà nước và không phải lúc nào những uỷ quyền của nhân dân cũng
được thực thi đúng. Vẫn có nguy cơ về căn bệnh tha hoá quyền lực, quan liêu hoá
bộ máy Nhà nước, sự cồng kềnh, kém hiệu quả của các thiết chế quyền lực, sự xuất
hiện một bộ phận cán bộ đặc quyền, đặc lợi trong bộ máy Nhà nước sẽ khó khắc
phục nổi nến thiếu các nổ lực của các lực lượng quần chúng nhân dân. Để khắc
phục tình trạng đó cần phải có sự tham gia tích cực và chủ động của nhân dân với tư
cách là chủ thể duy nhất và tối cao của quyền lực Nhà nước - Đó chính là chế độ
dân chủ trực tiếp.
GVHD: Trần Thụy Quốc Thái

8

SVTH: Trương Thanh Tình


Hoàn thiện quy chế dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay

Thứ hai: Dân chủ trực tiếp là hình thức thể hiện ý chí trực tiếp của chủ thể quyền
lực về những vấn đề cơ bản, chính yếu của một tập thể, một cộng đồng. Cơ quan
quản lý có trách nhiệm ghi nhận ý chí đó và bảo đảm đưa nó vào thực thi trong cuộc
sống.
Dân chủ trực tiếp có vị trí, vai trò và ý nghĩa vô cùng to lớn đối với toàn bộ
đời sống dân chủ của đất nước được thể hiện trên những điểm chính sau đây:
Bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân là phát huy cao độ mọi tiềm năng, trí
tuệ của nhân dân trong quá trình xây dựng Nhà nước và xã hội, giải quyết những
vấn đề lớn từ quốc kế dân sinh đến những việc của đời sống cộng đồng, dân cư..
Dân chủ trực tiếp là hệ thống báo động nhạy cảm nhất, những thông tin phản
hồi nhanh nhất về hiệu lực, hiệu quả của các đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước. Giúp cho Đảng và Nhà nước kiểm nghiệm lại đường lối, chính
sách của mình một cách nhanh nhất, kịp thời sửa chữa, bổ sung, khắc phục bệnh chủ

quan duy ý chí, xa với thực tế, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân.
Dưới góc độ pháp lý, dân chủ trực tiếp được thể hiện ở ba nhóm quyền năng
cơ bản của nhân dân là: Các quyền năng thể hiện, xác lập ý chí trực tiếp của nhân
dân đối với các vấn đề quốc gia, dân tộc (đưa ra các sáng kiến, thỉnh nguyện, trưng
cầu ý dân…); các quyền năng đối với tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước
trong khuôn khổ phạm vi được uỷ quyền theo luật định (quyền lập ra bộ máy nhà
nước; quyền giám sát các hoạt động của bộ máy Nhầ nước; quyền bãi miễn các đại
biểu do nhân dân bầu vào cơ quan đại diện và quyền lực Nhà nước…); Các quyền
năng của nhân dân trực tiếp giải quyết các công việc của cộng đồng mà không cần
có sự can thiệp trực tiếp của công quyền.
Tăng cường và hoàn thiện các chế độ thực hiện dân chủ của nhân dân là việc
làm lâu dài và thường xuyên của Đảng và Nhà nước để bảo đảm mỗi bước phát
triển của dân chủ phải được ghi nhận bởi các quy định của pháp luật có tính chất mở
đường định hướng cho sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Nhưng việc phát huy
và mở rộng dân chủ phải phù hợp với trình độ phát triển kinh tế xã hội, trình độ dân
trí, truyền thống văn hoá, phong tục, tập quán của mỗi quốc gia, dân chủ đi đôi với
kỷ cương, quyền hạn gắn với trách nhiệm, lợi ích đi đôi với nghĩa vụ.
*Nguyên tắc thực hiện dân chủ
Điều 2 Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn số 34/ 2007/PLUBTVQH ban hanh ngày 02/4/2007 có hiệu lực ngày 01/7/207 nói:
Nguyên tắc thực hiện dân chủ ở cơ xã

GVHD: Trần Thụy Quốc Thái

9

SVTH: Trương Thanh Tình


Hoàn thiện quy chế dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay


1. Bảo đảm trật tự, kỷ cương, trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật
2. Bảo đảm quyền của nhân dân dược biết, tham gia ý kiến, quyết định, thực
hiện và giám sát việc thực hiện dân chủ ở cấp xã
3. Bảo đảm lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và
cá nhân

4. Công khai minh bạch trong quá trình thực hiện dân chủ ở cấp xã
5. Bảo đảm sự lãnh đạo của đảng, sự quả lý của nhà nước.
*Bảo đảm pháp lý cho hoạt dộng dân chủ
. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân cấp xã trong việc triển khai Quy
chế thực hiện dân chủ ở xã:
Là một trong những nhân tố cơ bản tạo thành hệ thống chính trị xã hội chủ
nghĩa, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân và một bộ phận quan trọng quá
trình thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nền dân chủ mới, bảo đảm
bản chất của chế độ xã hội. Trong cuộc vận động thực hiện Quy chế dân chủ ở xã,
vai trò quan trọng của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể là tạo sự nhất trí về chính
trị và tinh thần trong các tầng lớp nhân dân, xây dựng môi trường chính trị - xã hội
lành mạnh và tạo điều kiện thuận lợi để động viên người dân tích cực phát huy
quyền làm chủ của mình thông qua các hoạt động.
Nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, xây dựng sự đoàn kết nhất trí
về chính trị trong đoàn viên, hội viên và các tầng lớp nhân dân, chủ động giải quyết
những điểm nóng chính trị - xã hội.
Phối hợp cùng chính quyền quán triệt, tuyên truyền và triển khai Quy chế,
từng bước đưa Quy chế vào cuộc sống.
Cùng cấp uỷ, chính quyền kiểm tra, giám sát, tổng kết việc thực hiện Quy
chế.
1.1.1.1.2. Quyền dân chủ
Quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa là hệ thống các quy phạm pháp luật do Nhà
nước XHCN ban hành và bảo đảm thực hiện quy định các quyền của công dân trong
mối quan hệ với Nhà nước trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội… bảo

đảm cho nhân dân là chủ thể của quyền lực Nhà nước.

GVHD: Trần Thụy Quốc Thái

10

SVTH: Trương Thanh Tình


Hoàn thiện quy chế dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay

Theo tôi quyền dân chủ XHCN hiện nay của nhân dân ta được phân thành
các nhóm sau:
1. Quyền chính trị:
Đây là nhóm quyền quan trọng và trước hết đối với nhân dân ở mỗi quốc gia
nó xác định tư cách hay địa vị của công dân trong xã hội. ở Việt Nam, nhân dân là
chủ thể chân chính và duy nhất của quyền lực xã hội; Nhà nước, pháp luật và các
thiết chế công quyền chỉ là đại diện thừa hành, hay công cụ tiện dụng của nhân dân,
nhằm thực hiện quyền lực ấy một cách có tổ chức và hiệu quả. Quyền chính trị là
các quyền xác định khả năng của công dân vào việc quản lý Nhà nước, quản lý xã
hội nó bao gồm: Quyền có quốc tịch, là quyền được sống trong một nước độc lập,
có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; các quyền bầu cử là quyền được lựa
chọn hay bãi nhiệm những đại biểu đại diện cho mình để thiết lập nên các cơ quan
đại diện (cơ quan quyền lực Nhà nước), hay tự mình ứng cử để tham gia vào các cơ
quan quyền lực Nhà nước. Quyền khiếu nại, tố cáo đối với các hành vi vi phạm
pháp luật, tham nhũng, xâm phạm đến lợi ích công cộng, quyền và lợi ích chính
đáng của công dân; các quyền tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, lập hội, hội họp,
biểu tình.
2. Quyền dân sự:
Quyền dân sự là các quyền tự nhiên, gắn liền với mỗi con người đượck pháp

luật ghi nhận và bảo vệ bao gồm: Các quyền nhân thân (quyền đối với họ, tên, hình
ảnh, quyền đối với quốc tịch, nơi cư trú, quyền được bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, bí
mật đầu tư, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, đi lại…); các quyền sở hữu, thừa kế
và các quyền khác đối với tài sản; quyền tham gia quan hệ pháp luật dân sự…
Quyền dân sự cho phép con người bảo vệ được cá tính là chính mình trong
quan hệ với Nhà nước và người khác. Các quyền dân sự là tiền đề để xây dựng một
chế độ Nhà nước dân chủ.
3. Quyền kinh tế:
Với mục tiêu xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trên cơ sở phát huy nội
lực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức. Tổ
chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể,
sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng.
Các quyền kinh tế gắn liền với việc bảo đảm cho cá nhân tự do sử dụng các
đồ dùng và các yếu tố cơ bản của hoạt động sản xuất - các điều kiện sản xuất và sức
GVHD: Trần Thụy Quốc Thái

11

SVTH: Trương Thanh Tình


Hoàn thiện quy chế dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay

lao động là một trong các điều kiện quan trọng nhất cho sự tồn tại của xã hội công
dân với tư cách là cơ sở xã hội của chế độ dân chủ và cho sự bảo đảm tự do của cá
nhân.
Các quyền kinh tế ngày càng được mở rộng cho cá nhân, đó là việc Nhà
nước tôn trọng và bảo hộ các quyền sở hữu hợp pháp của cá nhân, các cá nhân có

quyền tự do lựa chọn ngành nghề kinh doanh trong cơ chế bình đẳng, công bằng,
công khai giữa các thành phần kinh tế.
4. Các quyền xã hội, văn hoá
Các quyền xã hội, văn hoá và sinh thái bao gồm quyền được bảo đảm có các
điều kiện vật chất, tinh thần và môi trường trong sạch cho sự tự do và cuộc sống
xứng đáng của mỗi người.
Việc thực hiện các quyền này của nhân dân không chỉ bằng pháp luật và sự
bảo vệ của Nhà nước, mà còn đòi hỏi phải tạo ra hàng loạt các phúc lợi xã hội khác.
Nhóm các quyền này quy định nghĩa vụ của nhà nước bảo đảm cho mỗi người
những điều kiện sinh tồn xứng đáng, những phúc lợi và dịch vụ vật chất tối thiểu để
duy trì cuộc sống của con người, phát triển tinh thần trong một môi trường bao
quanh lành mạnh. Khi đó, các quyền xã hội sẽ bao gồm việc bảo đảm cho mỗi
người một mức sống và bảo đảm xã hội xứng đáng (các quyền Bảo hiểm xã hội, nơi
ở, lao động, bảo vệ sức khoẻ…). Các quyền văn hoá có nhiệm vụ bảo đảm sự phát
triển tinh thần của cá nhân (quyền học tập, tự do sáng tạo, tận hưởng các giá trị văn
hoá…); Các quyền sinh thái là quyền có một môi trường bao quanh tốt lành, có
thông tin đáng tin cậy về thực trạng của nó. Nhà nước cần quan tâm đúng mức đến
việc bảo vệ môi trường sinh thái.
Trên đây là những quyền dân chủ cơ bản của cá nhân cần được bảo đảm và
thực hiện trong chế độ Nhà nước dân chủ. Mức độ thực hiện chúng trên thực tế là
thước đo tính dân chủ của mỗi nhà nước.
Mở rộng và thực hiện các quyền dân chủ chính là mục đích mà Nhà nước
XHCN đang cố gắng đạt tới nhằm xây dựng một Nhà nước pháp quyền của dân, do
dân và vì dân.
1.1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh dân chủ phải được thực hiện đồng thời trên ba
mặt gắn bó hữu cơ với nhau: Nâng cao dân trí, thực hiện dân quyền và bảo đảm dân
sinh. Dưới sự lãnh đạo của Người những tư tưởng đó đã dần đi vào cuộc sống thông
qua việc thực hiện những đường lối, chủ trưởng, chính sách của Đảng và Chính
phủ được thể hiện như sau:

GVHD: Trần Thụy Quốc Thái

12

SVTH: Trương Thanh Tình


Hoàn thiện quy chế dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay

1. Nâng cao dân trí:
Chủ trương của Hồ Chí Minh về "diệt giặc dốt", xoá nạn mù chữ là nhất
quán và xuyên suốt trong quá trình thực hành dân chủ, khi bắt đầu cách mạng
XHCN ở miền Bắc Người khẳng định "Dốt thì dại, dại thì hèn. Vì không chịu dại,
chịu hèn cho nên thanh toán nạn mù chữ là một trong những việc cấp bách và quan
trọng của nhân dân các nước dân chủ mới". Người nói: "Thanh toán nạn mù chữ
là bước đầu nâng cao trình độ văn hoá. Trình độ văn hoá của nhân dân nâng cao sẽ
giúp chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ. Nâng cao
trình độ văn hoá của nhân dân cũng là một việc cần thiết để xây dựng nước ta
thành một nước hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh" vì vậy Hồ
Chí Minh cùng với Đảng và Chính phủ luôn quan tâm đến sự nghiệp giáo dục nhân
dân về kiến thức văn hoá, khoa học kỹ thuật và cả về giáo dục chính trị, tư tưởng.
Giáo dục kiến thức văn hoá - khoa học kỹ thuật có tác- dụng tạo ra cơ sở cho
việc thực hiện dân chủ. Trên cơ sở đó mới có thể nâng cao đời sống nhân dân, mặt
khác, giáo dục văn hoá còn có tác dụng nâng cao năng lực làm chủ của nhân dân.
Có trình độ văn hoá còn có tác dụng nâng cao năng lực làm chủ của nhân dân. Mục
tiêu của giáo dục văn hoá là: "Làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ,
biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm".
Giáo dục chính trị, tư tưởng có tác dụng nâng cao ý thức làm chủ của nhân
dân. Muốn làm chủ trong quá trình cách mạng. Thì nhân dân phải được giác ngộ,
tập hợp, đoàn kết thành sức mạnh. Để thực hiện quyền làm chủ nhân dân không

những phải có quyền mà điều quan trọng phải có năng lực làm chủ. Người cho rằng
"Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải
có kiến thức mới để tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà.
2. Thực hiện dân quyền:
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh dân chủ không phải là cái gì cao siêu cả, mà rất
rõ ràng, cụ thể. Người chỉ rõ: "Có việc gì, thì ai cũng được bàn, khi bàn rồi thì bỏ
thăm, ý kiến nào nhiều người theo hơn là được. ấy là dân chủ. Đã bỏ thăm rồi thì
giao cho hội uỷ viên làm, khi ấy thì tất cả hội viên phải theo mệnh lệnh hội ấy. ấy là
tập trung". Tinh thần của các bản Hiến pháp do Hồ Chí Minh xây dựng là: Bảo đảm
được các quyền tự do, dân chủ cho các tầng lớp nhân dân trên cơ sở công nông liên
minh và do giai cấp công nhân lãnh đạo. Nó phải thật sự bảo đảm nam nữ bình
quyền và dân tộc bình đẳng. Chính người đã chỉ ra rằng: "Công dân nước Việt Nam
dân chủ Cộng hoà:
Có quyền làm việc.
GVHD: Trần Thụy Quốc Thái

13

SVTH: Trương Thanh Tình


Hoàn thiện quy chế dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay

Có quyền nghỉ ngơi.
Có quyền học tập.
Có quyền tự do thân thể.
Có quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, lập hội, biểu tình.
Có quyền tự do tín ngưỡng theo hoặc không theo một tôn giáo nào.
Có quyền bầu cử, ứng cử…"
Và các quyền đó phải đi đôi với nghĩa vụ "Tuân theo hiến pháp, pháp luật,

kỷ luật lao động, trật tự công cộng và những quy tắc sinh hoạt xã hội - công dân có
nghĩa vụ tôn trọng tài sản công cộng, đóng thuế theo luật pháp, làm nghĩa vụ quân
sự, bảo vệ Tổ quốc"
Để có thể làm trọn chức năng của dân, do dân, vì dân, ngoài việc xây dựng
và thi hành Hiến pháp và luật, Nhà nước cần phải tạo ra các điều kiện vật chất và
tinh thần giúp nhân dân thực hiện các quyền dân chủ, hướng dẫn nhân dân phát huy
các quyền làm chủ của mình. Người cho rằng, đối với một Nhà nước dân chủ có 3
điều phải chống là "Nạn tham ô, nạn lãng phí, bênh quan liêu" và "Tham ô, lãng
phí, quan liêu là một thứ giặc ở trong lòng". Đồng thời, Hồ Chí Minh cũng chỉ ra
cách chữa bệnh quan liêu: "Theo đúng đường lối nhân dân và 6 điều:
- Đặt lợi ích nhân dân lên trên hết.
- Liên hệ chặt chẽ với nhân dân.
- Việc gì cũng bàn với nhân dân, giải thích cho nhân dân hiểu rõ.
- Có khuyết điểm thì thật thà tự phê bình trước nhân dân và hoan ngênh
nhân dân phê bình mình.
- Sẵn sàng học hỏi nhân dân.
- Tự mình phải làm gương cần, kiện liên chính để nhân dân noi theo"
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là dân chủ của đại đa số nhân dân gắn với công
bằng xã hội, được thực hiện trong thực tế, trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội, với nhiều cấp độ khác nhau, được thể chế hoá bằng pháp luật và được pháp luật
bảo đảm. Dân chủ là một mặt của quá trình hoàn thiện thể chế quản lý xã hội. Đó là
Nhà nước pháp quyền dựa trên một nền dân chủ phát triển. Dân chủ bao gồm cả 2
mặt: Quyền lợi và nghĩa vụ. Nhân dân có quyền lợi làm chủ, thì phải có nghĩa vụ
làm tròn bổn phận công dân.
3. Bảo đảm dân sinh:
GVHD: Trần Thụy Quốc Thái

14

SVTH: Trương Thanh Tình



Hoàn thiện quy chế dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay

Ngay những ngày đầu của chính quyền cách mạng và trong kháng chiến
chống Pháp, Người thường nêu khẩu hiệu "Chống giặc đói" lên hàng đầu. Suốt cuộc
đời Người thường mong muốn và phấn đấu thực hiện để mọi người Việt Nam được
no ấm, đời sống của nhân dân ngày một được nâng cao. Không thể nói đến dân chủ
và thực hành dân chủ khi dân không có cơm ăn, áo mặc. Không thể có dân chủ
trong đói nghèo, lạc hậu và không thể phát triển dân chủ nếu đời sống của nhân dân
không được nâng cao. Hồ Chí Minh cho rằng, điều quan trọng bậc nhất của các kế
hoạch kinh tế là nhằm cải thiện dần đời sống của nhân dân và "Tăng gia sản xuất và
thực hành tiết kiệm là hai việc cần thiết nhất để phát triển chế độ dân chủ nhân dân
tiến lên CNXH . Mặt khác, người nhắc nhở: Chúng ta phải ra sức thực hiện những
cải cách xã hội, để nâng cao đời sống của nhân dân, thực hiện dân chủ thực sự"2.
Hồ Chí Minh đã triển khai tư tưởng này trong thực tế, người luôn quan tâm đến việc
làm sao để tăng gia sản xuất, phát triển kinh tế, cải tiến quản lý, hợp lý hoá sản xuất;
chăm lo giáo dục, y tế, chăm sóc sức khoẻ nhân dân, việc làm cho nhân dân và thực
hiện cải cách xã hội khác nhằm làm cho đời sống của nhân dân ngày một nâng cao,
góp phần thực hiện dân chủ thực sự.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ ngày có Đảng, dưới ánh sáng của chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng HCM cho thấy, nguồn gốc của mọi thắng lợi là sức
mạnh của nhân dân. Thực tiễn ngày càng khẳng định quan điểm khoa học, cách
mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng ta coi dân chủ vừa là mục tiêu vừa là
động lực của cách mạng. Dân chủ là bản chất của chế độ, của Nhà nước ta.
1.2. Quy chế thực hiện dân chủ ở xã - khái niệm, phạm vi điều chỉnh, vai trò
1.2.1. Khái niệm, Quy chế thực hiện dân chủ ở xã
Quyền dân chủ của công dân đã được quy định trong Hiến pháp, luật và các
văn bản dưới luật khác. Để thực hiện quyền dân chủ của công dân đòi hỏi các cơ
quan Nhà nước, tổ chức xã hội, các nhân viên Nhà nước, các cán bộ, công chức và

mọi công dân phải triệt để tuân thủ pháp luật.
Quy chế thực hịên dân chủ ở xã là văn bản quy phạm pháp luật do Nhà nước
ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa chính quyền cơ sở với
công dân trong việc phải thông tin kịp thời và công khai những việc để dân biết;
những việc dân bàn và quyết định trực tiếp; những việc dân tham gia ý kiến trước
khi cơ quan Nhà nước quyết định; những việc dân giám sát kiểm tra và việc xây
dựng cộng đồng dân cư thôn.

2

Từ điển Bách khoa Việt Nam, 1995,Trang 653.

GVHD: Trần Thụy Quốc Thái

15

SVTH: Trương Thanh Tình


Hoàn thiện quy chế dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay

1.2.2. Phạm vi điều chỉnh của Quy chế thực hiện dân chủ ở xã
Quy chế thực hiện dân chủ ở xã chỉ điều chỉnh trong giới hạn xác định hoạt
động của chính quyền cấp xã, phường, thị trấn liên quan đến quyền dân chủ của
công dân.
Hiện nay Quy chế thực hiện dân chủ ở xã ban hành kèm theo nghị định
79/2003/NĐ-CP ngày 7/7/2003 của Chính phủ có phạm vi điều chỉnh gồm:
Thứ nhất: Những việc cần thông báo để nhân dân biết:
Đây là những nội dung rất quan trọng đối với nhân dân nó liên quan đến các
quyền và lợi ích thiết thân của nhân dân trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá,

xã hội.
Chính quyền cấp xã có trách nhiệm phối hợp với uỷ ban mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, các thành viên của MTTQ Việt Nam cùng cấp và trưởng thôn để thông
báo cho nhân dân biết những nội dung này bằng nhiều hình thức.
Thứ hai: Những việc nhân dân bàn và quyết định trực tiếp:
Đây là những nội dung liên quan đến quyền lợi trực tiếp của nhân dân, nhân
dân có quyền quyết định trực tiếp những công việc này, phù hợp với pháp luật.
Chính quyền cấp xã có trách nhiệm xây dựng phương án, chương trình, kế hoạch để
nhân dân xem xét, bàn bạc và quyết định. UBND cấp xã phối hợp với Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam cùng cấp chỉ đạo trưởng thôn và trưởng ban công tác mặt trận tổ
chức thực hiện những vấn đề do nhân dân tự quyết định đã được UBND xã công
nhận.
Thứ ba: Những việc nhân dân bàn, tham gia ý kiến, chính quyền xã quyết
định.
Đây là những công việc thuộc thẩm quyền quyết định của chính quyền cấp
xã hoặc của cơ quan nhà nước cấp trên nhưng có liên quan đến việc phát triển kinh
tế, chính trị, văn hoá, xã hội ở địa phương. Nhân dân được bàn bạc, tham gia ý kiến.
Chính quyền cấp xã tổ chức lấy ý kiến nhân dân công khai để dựa vào đó mà ban
hành quyết định hoặc trình cấp có thẩm quyền quyết định.
Thứ tư: Những việc nhân dân giám sát kiểm tra.
Đây là những nội dung liên quan đến hoạt động quản lý, điều hành của chính
quyền cấp xã, nhân dân có quyền giám sát, kiểm tra đối với các hoạt động ấy bằng
nhiều hình thức khác nhau. Chính quyền cấp xã có trách nhiệm giải quyết và trả lời
những nội dung mà nhân dân quan tâm theo thẩm quyền.
Thứ năm: Xây dựng cộng đồng dân cư thôn:
GVHD: Trần Thụy Quốc Thái

16

SVTH: Trương Thanh Tình



Hoàn thiện quy chế dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay

Nhằm thực hiện dân chủ một cách trực tiếp và rộng rãi để phát huy các hình
thức hoạt động tự quản của cộng đồng dân cư và là nơi tổ chức cho nhân dân thực
hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và nhiệm
vụ cấp trên giao. Thôn xây dựng hương ước, quy ước về công việc nội bộ cộng
đồng dân cư, kế thừa và phát huy thuần phong, mỹ tục của cộng đồng, phù hợp với
quy định của pháp luật hiện hành nhằm bài trừ hủ tục, mê tín dị đoan, tệ nạn xã hội,
giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn giao thông, vệ sinh môi trường, xây dựng nông thôn
mới giàu đẹp, văn minh.
1.2.3. Vai trò của Quy chế thực hiện dân chủ ở xã
1.2.3.1. Vai trò của Quy chế thực hiện dân chủ ở xã với việc hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam
Hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam là tổng thể các quy phạm
pháp luật có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, được quy định thành các chế định pháp
luật, các ngành luật và được thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật do Nhà
nước ban hành theo những trình tự, thủ tục và hình thức nhất định. Đồng thời Quy
chế thực hiện dân chủ đã thể chế hoá các chủ trương lớn của Đảng là: Quyền làm
chủ của nhân dân còn bị vi phạm ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực; tệ quan liêu,
mệnh lệnh cửa quyền, tham nhũng, sách nhiễu, gây phiều hà cho dân vẫn đang phổ
biến và nghiêm trọng mà chúng ta chưa đẩy lùi, ngăn chặn được.Phương châm
"Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" chưa được cụ thể hoá và thể chế hoá
thành luật pháp, chậm đi vào cuộc sống… phải phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, thu hút nhân dân tham gia quản lý nhà nước, tham gia kiểm kê, kiểm soát nhà
nước, khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, mất dân chủ và nạn tham nhũng"3
Trong phạm vi điều chỉnh của mình, Quy chế thực hiện dân chủ ở xã góp
phần nâng cao hiệu quả tác động của các ngành luật khác như: "Luật tổ chức
HĐND - UBND, luật giải quyết khiếu nại, tố cáo; luật bầu cử: Quốc hội, Luật bầu

cử HĐND các cấp". Có thể xem Quy chế thực hiện dân chủ ở xã như một văn bản
"tố tụng" về dân chủ nó đã thúc đẩy các cơ quan Nhà nước, các nhà chức trách thực
hiện nghiêm chỉnh các nghĩa vụ pháp lý để bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của
công dân theo quy định của pháp luật.
Như vậy Quy chế thực hiện dân chủ ở xã đã góp phần hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam "nó" không chỉ là công cụ thể chế hoá một số chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước nhằm phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước mà còn
đóng góp tích cực vào việc nâng cao hiệu quả tác động của các ngành luật khác.
3

Chỉ thị 30/CT-TW Ngày 18/2/1998

GVHD: Trần Thụy Quốc Thái

17

SVTH: Trương Thanh Tình


Hoàn thiện quy chế dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay

1.2.3.2. Vai trò của Quy chế thực hiện dân chủ ở xã trong đời sống xã hội
Quy chế thực hiện dân chủ ở xã ra đời đã có vai trò hết sức quan trọng trong
đời sống xã hội thể hiện trên các lĩnh vực.
* Trong lĩnh vực chính trị:
Dân chủ trong lĩnh vực chính trị, theo Lênin "áp dụng chế độ dân chủ Xô
Viết, tức là chế độ dân chủ vô sản một cách cụ thể nhất… trước hết các cử tri đều
phải là quần chúng cần lao và bị bóc lột… Hai là: Mọi thủ tục và những hạn chế có
tính quan liêu đều bị xoá bỏ, quần chúng tự quy định lấy thể thức và thời hạn bầu
cử, hoàn toàn có quyền tự do bãi miễn những người mà họ bầu ra"4

Nhân dân có nhu cầu ổn định chính trị, an ninh, trật tự ở nơi mình sinh sống
làm điều kiện tiên quyết để an tâm sản xuất, kinh doanh, phát triển kinh tế, đời sống
mọi mặt. Thực tiễn đã chỉ ra rằng, khi dân được cung cấp đầy đủ thông tin, hiểu
đúng đắn và đầy đủ chính sách pháp luật của Nhà nước và các quyền cơ bản của
mình, thì khi đó nhân dân giác ngộ và quyền dân chủ mới được phát huy một cách
lành mạnh và đúng hướng.
Quy chế thực hiện dân chủ ở xã đã cho nhân dân thấy được vai trò làm chủ
thực sự của mình, họ thực sự là chủ thể của quyền lực Nhà nước, là đối tượng kiểm
tra, giám sát hoạt động của Nhà nước. Được tham gia tổ chức và tự giác trong bầu
cử trực tiếp ra các cơ quan Nhà nước của mình (bầu Quốc hội, Hội đồng nhân dân
các cấp).
* Trong lĩnh vực kinh tế - văn hoá - xã hội:
Quy chế thực hiện dân chủ ở xã ra đời phù hợp với ý Đảng, lòng dân, nâng
cao hơn quyền làn chủ trực tiếp của nhân dân, nhân dân được bàn bạc và quyết định
những công việc trong sản xuất, lưu thông phân phối, xây dựng cơ sở hạ tầng kinh
tế - xã hội; nhân dân phấn khởi, tự giác và tích cực xây dựng nếp sống văn minh,
giữ gìn an ninh trật tự xã hội, bài trừ các hủ tục lạc hậu. Thực tế cho thấy trong
những năm qua trên phạm vi cả nước nhân dân đã dốc công, dốc của để xây dựng
các công trình phúc lợi công cộng "Điện, đường, trường, trạm", tham gia các phong
trào đền ơn, đáp nghĩa, quỹ vì người nghèo, hiến tặng đất đai, tài sản cho các công
trình quan trọng của quốc gia. Được quyền làm chủ trên lĩnh vực kinh tế nhân dân
tự giác hơn trong việc thực hiện các nghĩa vụ với Nhà nước, nhất là nghĩa vụ thuế.
Như vậy, nhiều vấn đề kinh tế, văn hoá, xã hội trước đây giải quyết rất khó
khăn, phức tạp, nhưng nhờ Quy chế thực hiện dân chủ mà phát huy quyền làm chủ

4

V.I. Lê nin toàn tập, tập 27, NXB Tiến Bộ năm 1971, Trang 343

GVHD: Trần Thụy Quốc Thái


18

SVTH: Trương Thanh Tình


Hoàn thiện quy chế dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay

của nhân dân, mọi người được biết, được bàn dân chủ, chính quyền các cấp nâng
cao trách nhiệm và công khai hoá nên đã giải quyết các vấn đề kinh tế một cách
thuận lợi, không phát sinh khiếu kiện đông người, kéo dài. Không nảy sinh mâu
thuẫn lớn; nhiều công trình kinh tế, văn hoá, xã hội đòi hỏi sự đóng góp sức dân rất
lớn, nhờ vận dụng phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm", nên đã đem lại
những thành tựu rất lớn cho nền kinh tế, xã hội của đất nước.
* Trong lĩnh vực quản lý Nhà nước:
Quy chế thực hiện dân chủ thực sự là công cụ cho hoạt động quản lý, điều
hành của chính quyền cơ sở. Quy chế đã xác định rõ những nhiệm vụ và phương
thức thực hiện các nhiệm vụ của chính quyền cơ sở một cách khá cụ thể mặt khác
nhân dân cũng xác định được phạm vi, nội dung những nghĩa vụ mà chính quyền
phải thực hiện đối với nhân dân; tránh được những đòi hỏi, yêu sách quá đáng, thiếu
cơ sở gây rối loạn trật tự xã hội cũng như cản trở hoạt động đúng đắn của chính
quyền.
Sự ra đời của Quy chế thực hiện dân chủ ở xã là phù hợp với tình hình lịch
sử của đất nước. Nhân dân rất phấn khởi về "Quy chế" vừa giải quyết được những
bức xúc của nhân dân, phát huy quyền làm chủ, tính sáng tạo của nhân dân, vừa
nâng cao được vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của chính quyền, sự vận động của
mặt trận và các đoàn thể trong phát triển kinh tế xã hội. Niềm tin đối với Đảng được
tăng cường, mối quan hệ gắn bó giữa người lãnh đạo và đông đảo quần chúng được
củng cố đã thúc đẩy sự tích cực, sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng
Nhà nước của dân, do dân và vì dân.

1.3. Các tiêu chí hoàn thiện Quy chế thực hiện dân chủ ở xã
Hoàn thiện Quy chế thực hiện dân chủ ở xã là xây dựng hoàn chỉnh, phù hợp
nâng cao chất lượng, tính khả thi và lâu bền của "Quy chế" trong thực tiễn. tôi
nghiên cứu và định ra các tiêu chí hoàn thiện Quy chế thực hiện dân chủ ở xã trên
cơ sở xem xét những tiêu chí cơ bản của việc hoàn thiện hệ thống pháp luật nói
chung, từ đó định ra những tiêu chí cụ thể cho việc hoàn thiện Quy chế thực hiện
dân chủ ở xã nói riêng.

1.3.1. Những tiêu chí chung
1.3.1.1. Tiêu chí về tính toàn diện

GVHD: Trần Thụy Quốc Thái

19

SVTH: Trương Thanh Tình


Hoàn thiện quy chế dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay

Tính toàn diện là tiêu chí đầu tiên thể hiện mức độ hoàn thiện của một văn
bản luật hoặc của cả một hệ thống pháp luật. Tiêu chí này có ý nghĩa trong việc
"định lượng" một văn bản quy phạm pháp luật cũng như một hệ thống pháp luật..
Tính toàn diện thể hiện ở hai cấp độ:
- Ở cấp độ chung đối với hệ thống pháp luật đòi hỏi hệ thống pháp luật phải
có đủ các ngành luật theo cơ cấu nôi dung lô gíc và thể hiện thống nhất trong hệ
jthống văn bản quy phạm pháp luật tương ứng.
- Ở cấp độ cụ thể đối với mỗi ngành luật, mỗi văn bản quy phạm, pháp luật
phải có đủ các chế định pháp luật, các quy phạm pháp luật.
Quy chế thực hiện dân chủ ở xã là một chế định pháp luật có tính độc lập

tương đối trong hệ thống pháp luật Việt Nam, do vậy về mặt "định lượng" Quy chế
thực hiện dân chủ ở xã phải chứa đựng đầy đủ các quy phạm pháp luật quy định
cách thức, biện pháp thực hiện phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân giám
sát kiểm tra" và các phương thức xây dựng cộng đồng dân cư, nhằm phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, thu hút nhân dân tham gia quản lý Nhà nước, tham gia kiểm
kê, kiểm soát Nhà nước, khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, mất dân chủ và
tham nhũng.
1.3.1.2. Tiêu chí về tính đồng bộ
Tính đồng bộ thể hiện sự thống nhất của pháp luật. Tính đồng bộ được đặt ra
để tránh các hiện tượng trùng lặp, chồng chéo hoặc mâu thuẫn ngay trong các quy
định của ngành luật hoặc giữa các bộ phận của hệ thống pháp luật.
Để tạo ra tính đồng bộ, đòi hỏi phải vừa có quan điểm tổng quát, vừa có quan
điểm cụ thể. Quan điểm tổng quát để xác định tính chất chung của mỗi ngành luật,
mỗi chế định pháp luật; quan điểm cụ thể để dự kiến chính xác các tình huống và
hoàn cảnh cụ thể để đề ra các quy phạm phù hợp.
Hoàn thiện Quy chế thực hiện dân chủ ở xã phải dựa trên tiêu chí về tính
đồng bộ. Trên cơ sở tiêu chí này, kết cấu cũng như các quy định ở mỗi chương,
mục, điều, khoản các Quy chế thực hiện dân chủ ở xã được đảm bảo về tính thống
nhất cũng như tránh trùng lắp, chồng chéo với nhau và với quy định của ngành luật
khác có liên quan.

1.3.1.3. Tiêu chí về tính phù hợp
Tính phù hợp thể hiện sự tương quan giữa trình độ của văn bản pháp luật với
trình độ phát triển của kinh tế - xã hội. Hệ thống pháp luật, ngành luật, văn bản quy
GVHD: Trần Thụy Quốc Thái

20

SVTH: Trương Thanh Tình



Hoàn thiện quy chế dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay

phạm pháp luật phải phản ánh đúng trình độ phát triển của kinh tế - xã hội, chứ
không được cao hơn hoặc thấp hơn trình độ phát triển đó. Tính phù hợp của hệ
thống pháp luật, của ngành luật thể hiện ở nhiều mặt, trong đó đặc biệt chú ý sự phù
hợp của pháp luật với các quy luật khách quan, nhất là các quy luật phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước; phù hợp với đường lối chính sách của Đảng, phù hợp với
văn hoá, đạo đức, phong tục tập quán và các quy phạm xã hội khác.
Tính phù hợp là tiêu chí quan trọng để đánh giá mức độ hoàn thiện của Quy
chế thực hiện dân chủ ở xã trên thực tế. Tiêu chí này đặt ra yêu cầu "Quy chế" phải
được xây dựng trên cơ sở đường lối, quan điểm của Đảng, phù hợp với Hiến pháp
và thống nhất với các văn bản pháp luật khác có liên quan như: Luật tổ chức HĐND
và UBND, luật bầu cử Quốc hội, Luật bầu cử HĐND các cấp; luật giải quyết khiếu
nại tố cáo của công dân… sự phù hợp và thống nhất này không chỉ bảo đảm tính
khả thi của Quy chế thực hiện dân chủ ở xã mà còn bảo đảm tính hiệu quả của các
văn bản pháp luật kể trên, đặc biệt là khắc phục hiện tượng trùng lắp, chồng chéo
giữa các văn bản luật.
1.3.1.4. Tiêu chí về quy tắc kỹ thuật pháp lý
Tiêu chí về các quy tắc kỹ thuật pháp lý là tiêu chí quan trọng trong quá trình
xây dựng pháp luật. Thông thường tiêu chí này được thể hiện ở ba điểm cơ bản sau
đây:
- Thứ nhất: Thể hiện ở những nguyên tắc tối ưu được vạch ra để áp dụng
trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật, chẳng hạn như xác định mục đích
và yêu cầu của văn bản, các quan điểm của Đảng về vấn đề này, sưu tầm, tập hợp
các tài liệu, văn bản pháp luật có liên quan đến văn bản dự định sẽ biên soạn…
- Thứ hai: Thể hiện ở việc xác định chính xác cơ cấu pháp luật.
- Thứ ba: Thể hiện ở cách biểu đạt thông qua ngôn ngữ pháp lý. Yêu cầu của
cách biểu đạt thông qua ngôn ngữ pháp lý là phải bảo đảm tính cô đọng, lôgíc,
chính xác và một nghĩa.

Trên đây là những tiêu chí cơ bản có ý nghĩa chung đối với việc hoàn thiện
pháp luật nói chung và Quy chế thực hiện dân chủ ở xã nói riêng. Bên cạnh những
tiêu chí chung này, vấn đề hoàn thiện Quy chế thực hiện dân chủ ở xã còn phải dựa
trên những tiêu chí riêng và cụ thể của nó dưới đây.
1.3.2. Những tiêu chí riêng của hoàn thiện Quy chế thực hiện dân chủ ở xã
1.3.2.1. Tiêu chí về hình thức

GVHD: Trần Thụy Quốc Thái

21

SVTH: Trương Thanh Tình


Hoàn thiện quy chế dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay

Hình thức của văn bản quy phạm pháp luật là tiêu chí đảm bảo cho văn bản
đó có tính pháp lý, tính khuôn mẫu và dễ áp dụng trong cuộc sống. Trước hết lựa
chọn hình thức văn bản để ban hành là nội dung quan trọng của tiêu chí này. Hình
thức văn bản hay tên gọi của pháp luật thực hiện dân chủ ở xã phải phù hợp với
thẩm quyền ban hành, phạm vi điều chỉnh, nội dung thể hiện.
Pháp luật thực hiện dân chủ ở xã của Nhà nước ta hiện nay được ban hành
dưới dạng Nghị định kèm theo Quy chế như: Nghị định số 29/1989/NĐ-CP ngày
11/5/1998 và Nghị định 79/2003/NĐ-CP ngày 07/7/2003 về việc ban hành kèm theo
Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, nhìn chung hình thức này đã được sử dụng phù
hợp với nội dung văn bản, bảo đảm giá trị pháp lý của văn bản trong giai đoạn lịch
sử hiện nay.
Qua thực tiễn thi hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã trong thời gian qua
cho thấy vẫn còn nhiều địa phương chưa thực sự coi trọng nhiệm vụ triển khai Quy
chế ở địa phương mình, nhiều cán bộ còn đánh giá thấp về tính pháp lý của Quy

chế. Trên thực tế Quy chế thực hiện dân chủ ở xã là một văn bản pháp lý, bảo vệ
quyền làm chủ của nhân dân, phản ánh bản chất của Nhà nước, của chế độ ta. Tuy
nhiên, ở mức độ Quy chế thì chưa tương xứng với tầm vóc của vấn đề. Đã đến lúc
cần phải nâng Quy chế thực hiện dân chủ thành pháp lệnh hoặc bộ luật về thực hiện
quyền dân chủ của nhân dân. Có như vậy tính hiệu lực mới cao, đáp ứng được
những đỏi hỏi của thực tế khách quan và có tính khả thi.
Ngoài ra tiêu chí về hình thức của Quy chế thực hiện dân chủ ở xã còn đòi
hỏi về tính rõ ràng, kết cấu chặt chẽ, lôgíc, các thuật ngữ pháp lý được sử dụng
chính xác, một nghĩa, lời văn trong sáng, ngắn gọn, dễ hiểu, phù hợp với khả năng
nhận thức của quảng đại quần chúng nhân dân.
1.3.2.2. Tiêu chí về nội dung
Đây là tiêu chí quan trọng và cần thiết để xem xét về mức độ hoàn thiện của
Pháp luật nói chung cũng như Pháp luật thực hiện dân chủ ở xã nói riêng. Nội dung
của pháp luật thực hiện dân chủ ở xã là những quy định tạo nền tảng pháp lý cho
việc hiện thực hoá các quyền tự do dân chủ của nhân dân đã được pháp luật quy
định.
Tiêu chí này đặt ra yêu cầu: Nội dung của pháp luật thực hiện dân chủ ở xã
phải phản ánh được nhu cầu khách quan của sự phát triển xã hội, có như vậy sự tác
động của pháp luật thực hiện dân chủ ở xã đối với các quan hệ xã hội thuộc phạm vi
điều chỉnh của nó mới đạt được hiệu quả mong muốn. Nhu cầu khách quan của sự

GVHD: Trần Thụy Quốc Thái

22

SVTH: Trương Thanh Tình


Hoàn thiện quy chế dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay


phát triển xã hội mà các quy định của pháp luật thực hiện dân chủ ở xã phản ánh
được đó là:
+ Quy định quyền của mọi người dân ở cơ sở được thông tin về pháp luật,
các chủ trương, chính sách của Nhà nước, nhất là những vấn đề liên quan trực tiếp
đến đời sống và lợi ích hàng ngày ở cơ sở.
+ Có quy chế và hình thức để nhân dân, cán bộ, công chức ở cơ sở được bàn
bạc và tham gia ý kiến và các chủ trương, chính sách, nhiệm vụ công tác chuyên
môn, công tác cán bộ… của chính quyền; kết quả ý kiến đóng góp phải được xem
xét, cân nhắc khi chính quyền ra quyết định.
+ Hoàn thiện cơ chế để nhân dân ở cơ sở trực tiếp và thông qua Mặt trận, các
đoàn thể, Ban thanh tra nhân dân kiểm tra, giám sát hoạt động của chính quyền; kết
quả thanh tra, kiểm tra, giám sát của nhân dân phải được tiếp thu nghiêm túc.
+ Mở rộng các hình thức tự quản để nhân dân tự bàn bạc và thực hiện trong
khuôn khổ pháp luật những công việc mang tính xã hội hóa, có sự hỗ trợ của chính
quyền.
+ Xác định rõ trách nhiệm và tổ chức tốt việc tiếp dân, giải quyết khiếu nại,
tố cáo và trả lời thắc mắc của nhân dân, nghiêm cấm mọi hành vi trù dập người
khiếu nại, tố cáo.
+ Xác định trách nhiệm của tổ chức chính quyền định kỳ báo cáo công việc
trước dân, phải tự phê bình và tổ chức để nhân dân góp ý kiến, đánh giá, phê bình;
nghiêm túc tiếp thu những ý kiến đóng góp đó.
Trên đây là những vấn đề có tính lý luận về hoàn thiện Quy chế thực hiện
dân chủ ở xã, là cơ sở cho việc đề ra những phương hướng và các giải pháp hoàn
thiện Quy chế thực hiện dân chủ ở xã ở Việt Nam hiện nay.

GVHD: Trần Thụy Quốc Thái

23

SVTH: Trương Thanh Tình



Hoàn thiện quy chế dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay

CHƯƠNG 2
TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI VÀ THỰC HIỆN
QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ
2.1. Thực tiễn công tác dân chủ ở xã
2.1.1. Quá trình hình thành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã
Phát huy quyền làm chủ của nhân dân là vấn đề thuộc bản chất của Nhà
nước, là chủ trương của Đảng, là mục tiêu và động lực của công cuộc đổi mới.
Trong 4 bản Hiến pháp nước ta, trước sau vẫn khẳng định quyền lực Nhà nước là
thuộc về nhân dân. Nhân dân là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực Nhà
nước. Điều này không chỉ được làm sáng tỏ về mặt lý luận mà còn thể hiện ở cách
tổ chức và hoạt động của Nhà nước trên thực tiễn sao cho ý tưởng về một Nhà nước
của dân, do dân, vì dân trở nên hiện thực, hiệu quả.
Nhận thức rõ dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển, nên
trong những năm đổi mới, Đảng ta đã không ngừng nâng cao chất lượng dân chủ
đại diện và bước đầu tìm tòi các hình thức dân chủ trực tiếp. Nhờ đó, công cuộc đổi
mới càng đi vào chiều sâu thì nền dân chủ xã hội càng được mở rộng, từ dân chủ về
kinh tế, chính trị đến dân chủ trên lĩnh vực ý thức, tư tưởng. Trong tiến trình đổi
mới đất nước những năm qua chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ
nhất là dân chủ về kinh tế, quyền tự do làm ăn, kinh doanh, tham gia quản lý Nhà
nước. Bên cạnh đó tình trạng quan liêu, mất dân chủ trong các cơ quan lãnh đạo của
Đảng, chính quyền và đoàn thể, với những biểu hiện của sự xa dân, lộng quyền,
hách dịch, sống xa hoa, lãng phí. Đảng ta đã chỉ rõ: "Bộ máy Đảng, Nhà nước, đoàn
thể chậm được sắp xếp lại, tinh giản và nâng cao chất lượng, còn nhiều biểu hiện
quan liêu, vi phạm nghiêm trọng quyền dân chủ của nhân dân"5. Trên thực tế đã xảy
ra hiện tượng quan liêu, mất dân chủ ở một bộ phận cán bộ, Đảng viên, nhất là
chính quyền địa phương ở nhiều nơi trong cả nước, có nơi rất nghiêm trọng.

Phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" chưa được cụ thể hoá và
thể chế hoá thành pháp luật. Một số cán bộ chính quyền đã lợi dụng kẽ hở trong quá
trình chuyển đổi cơ chế đã lợi dụng việc bán đất, đấu thầu, thực hiện dự án huy
động dân đóng góp quá sức vào xây dựng cơ sở hạ tầng, lập quỹ trái phép, lạm dụng
công quỹ, tham ô, hối lộ, mưu lợi cá nhân, quản lý lỏng lẻo gây thất thoát công quỹ.
Trong khi đó, nhiều đòi hỏi của dân về công bằng, dân chủ, công khai không được
thực hiện, nhân dân hầu như không được tham gia, bàn bạc, thảo luận và quy định
những công việc cụ thể liên quan đến đời sống của dân, vì vậy đã làm dân bất bình,
5

ĐCSVN:Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1996

GVHD: Trần Thụy Quốc Thái

24

SVTH: Trương Thanh Tình


Hoàn thiện quy chế dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay

phản ứng gay gắt. Do đó, mở rộng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa một cách đúng
hướng là cách tốt nhất để khắc phục, hạn chế tình trạng trên. Ngày 18/2/1998 Bộ
chính trị, ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã ra chỉ thị số 30/CT-TW về
xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Chỉ thị nêu rõ: "Quyền làm chủ của
nhân dân còn bị vi phạm ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực; tệ quan liêu, mệnh lệnh,
cửa quyền, tham nhũng, sách nhiễu, gây phiền hà cho dân vẫn đang phổ biến và
nghiêm trọng mà chúng ta chưa đẩy lùi, ngăn chặn được. Phương châm "Dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" chưa được cụ thể hoá và thể chế hoá thành luật
pháp, chậm đi vào cuộc sống"6. Nhằm khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu,

mất dân chủ và nạn tham nhũng, chỉ thị nhấn mạnh: "Khâu quan trọng và cấp bách
trước mắt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở, là nơi trực tiếp thực hiện
mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, là nơi cần thực hiện quyền làm
chủ của nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất.
Muốn vậy, Nhà nước cần ban hành Quy chế dân chủ ở cơ sở có tính pháp lý,
yêu cầu mọi người, mọi tổ chức ở cơ sở đều phải nghiêm chỉnh thực hiện".
Như vậy, Đảng ta đã xác định dân chủ phải bắt đầu từ cơ sở, bởi vì cơ sở là
nơi trực tiếp gắn bó với nhân dân, tổ chức, vận động nhân dân thực hiện mọi chủ
trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; mọi sự đổi mới của hệ
thống chính trị ở cơ sở dù lớn hay nhỏ đều tác động trực tiếp và nhanh chóng đến
quyền và nghĩa vụ của nhân dân.
Thực hiện và thể chế hoá các quan điểm của Đảng, ngày 26/2/1998, Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 45 - 1998/NQ-UBTVQH 10 giao
cho Chính phủ khẩn trương ban hành Quy chế dân chủ ở xã, thị trấn, phường. Quán
triệt tinh thần đó, ngày 11/5/1998, chính phủ đã ban hành Nghị định số
29/1998/NĐ-CP về việc ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã (kèm theo Quy
chế); Để tổ chức đưa Quy chế vào cuộc sống ngày 15/5/1998 Thủ tướng Chính phủ
ra chỉ thị số 22/1998/CT-TTg về việc triển khai thực hiện Quy chế dân chủ ở xã và
Ban tổ chức - Cán bộ Chính phủ (nay là Bộ nội vụ) ban hành Thông tư số
03/1998/TT-TCCP ngày 6/7/1998 hướng dẫn áp dụng "Quy chế thực hiện dân chủ ở
xã" đối với phường và thị trấn.
Thực tiễn quá trình triển khai, nội dung Quy chế đã bộc lộ những điểm chưa
hoàn chỉnh như: Tính dân chủ hoá, công khai hoá trong việc cung cấp những thông
tin có liên quan trực tiếp đến đời sống hàng ngày của nhân dân ở cơ sở cũng như
trong việc lấy ý kiến nhân dân trước khi ban hành chủ trương, chính sách còn hạn
6

Các văn bản của đảng và nhà nước về quy chế dân chủ ở cơ sở, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội năm2004,
trang 9


GVHD: Trần Thụy Quốc Thái

25

SVTH: Trương Thanh Tình


×